Các bài suy niệm Chúa Nhật 3 Mùa Chay – Năm A

10/03/2023

CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY A

Lời Chúa: Xh 17,3-7; Rm 5,1-2.5-8; Ga 4,5-42

1. Cho Tôi xin chút nước uống

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Sau nửa ngày hành trình từ Giuđê về Galilê, Đức Giêsu nghỉ mệt bên một giếng nước ở vùng Samari. Ngài vừa đói vừa khát, giữa cái nắng ban trưa. Các môn đệ vào thành mua thức ăn. Còn lại một mình Đức Giêsu ngồi bên bờ giếng. Chính nơi đây đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Ngài và người phụ nữ Samari vốn bị coi là ô nhơ.

Đức Giêsu bắt đầu gieo hạt để chuẩn bị cho mùa gặt mai sau của các môn đệ.

“Cho tôi chút nước uống.”

Đức Giêsu mở đầu cuộc đối thoại bằng một lời nài xin. Ngài chẳng sợ thú nhận sự thiếu thốn của mình.

Xin nước uống là làm một cuộc cách mạng, là bắc một nhịp cầu qua vực sâu ngăn cách hai dân tộc Samari và Do thái vốn dĩ đã thù ghét và xa lánh nhau từ bốn thế kỷ.

Chẳng ai hiểu nổi một bậc thầy như Đức Giêsu lại nói chuyện và xin nước một phụ nữ Samari.

Đức Giêsu đã cúi mình phá bỏ những hàng rào để xây dựng một cuộc đối thoại đích thực và bình đẳng.

“Cho tôi chút nước uống.”

Ngài là người xin nước trước khi là người cho…

Chúng ta cũng có nhiều điều phải xin nơi chính những người cần chúng ta giúp đỡ.

Đức Giêsu cho thấy Ngài có một thứ nước lạ lùng, uống vào không còn khát nữa. Người phụ nữ vội vã xin Ngài thứ nước kỳ diệu đó. Chị đâu ngờ chính mình đã bắt đầu được nếm rồi.

Nước đó chính là Lời của Đức Giêsu, Lời vén mở dần dần con người thâm sâu của Ngài.

Đức Giêsu cho thấy Ngài biết rõ gia cảnh của chị.

Cái biết của Ngài không nhằm soi mói, nhưng để cảm thông.

Cái biết của Ngài về những điều riêng tư thầm kín đã khiến chị coi Ngài là một ngôn sứ đáng tin.

Từ đó, chính chị gợi lên vấn đề tôn giáo, một vấn đề khiến chị rất bận tâm;

Chính chị nói lên niềm mong đợi của mình về Đấng Mêsia, Đấng sẽ đến dạy dỗ mọi sự (Ga 4,25); rồi cũng chính chị đã bỏ vò nước lại mà hân hoan chạy đi giới thiệu Đức Giêsu cho đồng bào.

Chị đã tìm thấy thứ nước tuyệt diệu nơi Đức Giêsu.

Ngài từ từ tỏ mình cho chị: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.”

Không thấy nói đến chuyện Đức Giêsu ăn hay uống.

“Lương thực của Thầy là thi hành ý Đấng đã sai Thầy.”

Đức Giêsu chỉ đòi một điều, đó là nuôi dưỡng nhân loại.

Ngài chỉ khát một điều, đó là ban nguồn nước sự sống.

Chúng ta có dám chia sẻ cơn đói khát của Ngài không? 

Gợi Ý Chia Sẻ

– Khi chiêm ngắm Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng trên đây, bạn thấy đâu là những thái độ cần thiết mà người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần có?

– Con người đói khát cơm gạo và nước uống tinh khiết. Theo ý bạn, giới trẻ hôm nay đói khát điều gì hơn cả (tình bạn, tình yêu, lòng tin, niềm hy vọng, ý nghĩa cho cuộc sống, sự trung thực…)? Kitô giáo có thể giúp gì cho giới trẻ? 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.

Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.

Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.

Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.

Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.

Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.

Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.

Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-tinh).

 

2. Nhịp cầu thiêng liêng

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt) 

Từ khi cầu Mỹ Thuận được đưa vào sử dụng, con đường về miền Tây như ngắn lại, đôi bờ sông Tiền gần gũi nhau hơn. Đời sống thần linh và đời sống phàm trần cũng như hai bờ sông cách xa vời vợi. Cần có những nhịp cầu nối liền dòng sông thiêng liêng giúp con người đi về gặp gỡ Thiên Chúa.

Hôm nay, khi mở đầu câu chuyện với người phụ nữ Samaria, Đức Giêsu đã bắc những nhịp cầu nối liền dòng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Người là nhịp cầu xoá đi biên giới ngăn cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Người chính là nhịp cầu dẫn vào đời sống thần linh.

Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng nước. Người phụ nữ nhìn Đức Giêsu bằng ánh mắt khinh miệt. Dưới mắt chị, đó chỉ là một gã Do Thái bẩn thỉu. Còn tệ hơn thế, anh chàng Do Thái này nghèo mạt rệp, đang đói khát, mệt mỏi rã rời, chỉ chờ chực xin ăn, xin uống. Chị hợm mình, vì chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với người Sêmít, có nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có nước, nơi ấy có sự sống. Vì nhờ có nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có lương thực, con người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức trở nên giàu có.

Người phụ nữ có giếng nước, có cả bình múc nước. Chị còn có gia đình. Chị còn có đền thờ vững chắc xây dựng trên núi Garidim, trách nào chị chẳng hợm mình.

Nhưng Đức Giêsu đã phá tan sự an thân giả tạo của chị. Người cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là phù du, vì giếng nước ấy không cho nước hằng sống. Người cho chị thấy hạnh phúc gia đình mà chị đang có chỉ là hư ảo, vì hạnh phúc ấy xây dựng trên chỉ một mối duyên hờ. Người cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là ngụy tín, vì đền thờ chỉ là gạch đá vô hồn, không có Chúa ngự bên trong.

Trong phút chốc, chị trở nên thật nghèo nàn. Trước kia chị tưởng mình có tất cả. Nay chị thấy mình trắng tay. Trước kia chị tưởng mình giàu có. Nay chị nhận thức rõ mình thật nghèo nàn. Bóc đi tất cả những lớp vỏ phù du bọt bèo, chị thấy mình trơ trụi, khốn cùng. Nhưng từ đáy vực khốn cùng ấy một niềm tin nhen nhúm, một mạch suối trào dâng.

Chị chợt tỉnh ngộ. Những thứ mà trước kia chị tưởng là thành lũy che chở cuộc đời, hoá ra chỉ là những tảng đá ngăn chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi, mạch suối dào dạt trào tuôn.

Những thứ mà trước kia chị tưởng là nơi nương tựa êm ấm, hoá ra chỉ là tổ kén giam kín đời sâu. Trút bỏ được lớp vỏ xù xì cũ kỹ, sâu nay hoá bướm đẹp lộng lẫy, tự do bay tung tăng khắp chốn.

Thì ra, của cải, dục vọng, tôn giáo vụ hình thức là những tấm màn che mắt, không cho chị nhận ra Đấng Cứu Thế. Ta hãy trở lại phút đầu tiên, khi Đức Giêsu ngỏ lời xin nước. Lúc đó, bị các tấm màn che mắt, chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái xấu xa, đói rách: “Ông là Do Thái mà lại xin nước tôi ư? “. Nhưng Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén, phá tan màn mây mù che mắt chị. Nhát gươm thứ nhất vung lên, một mảnh vảy mắt rơi xuống. Chị nhìn ra người đối diện “cao cả hơn tổ phụ Giacóp”. Nhát gươm thứ hai vung lên, một mảnh vảy nữa rơi xuống. Chị nhận ra Người là “một tiên tri”. Một nhát nữa vung lên, mảnh vảy cuối cùng rơi xuống. Chị nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và chị tin vào Người.

Niềm tin trào dâng. Hạnh phúc trào dâng. Chị quên cả múc nước, quên cả bình, chạy về làng báo tin vui.

Chị để quên chiếc bình, vì chiếc bình từ nay trở nên vô dụng. Cùng với chiếc bình, chị bỏ lại cả giếng nước, cả người chồng hờ, cả ngôi đền thờ trống rỗng.

Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén chẻ đôi đời chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng, kho tàng của trần gian. Mảnh đời mới ngụp lặn trong dòng suối đức tin, kho tàng thiên quốc.

Lời Chúa là ngọn đèn soi đường. Nên chị bước đi những bước lẹ làng, vững chắc hướng về sự sống mới.

Lời Chúa là chiếc cầu đưa chị vào đời sống thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu chiếc bình múc nước, vì bên kia cầu chị đã có mạch nước trường sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ, vì bên kia cầu chị đã găp được tình yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu ngôi đền thờ trống rỗng, vì bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý. Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao với những đường bay rất đẹp.

Về đại bàng, Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện rất sâu sắc. Một người nông dân vào rừng, lượm được một trứng đại bàng. Anh đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau đại bàng nở ra cùng lũ gà con. Nó cứ tưởng mình là gà. Suốt ngày theo gà mẹ bới đất mổ sâu. Nó cứ sống kiếp gà như thế cho đến lúc già. Một hôm nó thấy trên trời xanh một con chim lớn khủng khiếp, cánh giang rộng như che kín cả bầu trời. Con chim bay thật cao và có những đường lượn thật là đẹp đẽ. Đại bàng ta kinh khiếp hỏi bác gà trống: “con gì mà khủng khiếp quá nhỉ”. “Đó là đại bàng. Đại bàng thuộc về trời cao. Chúng ta thuộc về đất thấp. Chúng ta chỉ là gà”. Đại bàng cứ sống kiếp gà như thế cho đến chết.

Người phụ nữ là cánh đại bàng. Chị đã trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút lên cao. Còn ta vẫn chỉ là loài gà. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những ngụy tín, những ảo tưởng, những thứ đạo đức hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết chính mình. Và vì thế ta không bao giờ gặp được Chúa.

Xin lời Chúa như lưỡi gươm tách bạch trắng đen, để ta dứt lìa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả tạo, thói đạo đức hình thức. Xin lời Chúa tháo đi những tảng đá trì trệ, để dòng suối tin yêu khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta. Và để tình yêu bừng nở đem cho ta hạnh phúc chân thật. 

GỢI Ý CHIA SẺ

1. Đức Giêsu đã thành công trong việc đưa người phụ nữ Samaria về nhận biết chân lý. Ta có thể học hỏi được gì ở nơi Người để thành công trong việc truyền giáo?

2. Đang thoả mãn với vật chất, người phụ nữ Samaria chợt thấy thiếu thốn về mặt tâm linh. Đây là một cuộc hoán cải quan trọng, là một ơn Chúa ban. Bạn đã bao giờ được ơn sám hối để thấy khao khát đời sống tâm linh chưa?

3. Đã bao giờ bạn cảm thấy Đức Giêsu là nguồn suối trong lành, là nguồn mạch hạnh phúc của bạn?

 

3. Khát vọng chân lý

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Con người mọi nơi mọi thời vẫn khao khát đi tìm Chân lý. Chân lý quan trọng đối với đời sống thiêng liêng, như nước cần cho sự sống hằng ngày. Trong cuộc tìm kiếm này, có những khi người ta lầm lạc, chỉ nhìn thấy Chân lý qua những bóng hình mờ nhạt, thậm chí là ảo ảnh hão huyền.

Cuộc tìm kiếm Chân lý của nhân loại đã được phác họa trong thời xuất hành. Dân Do Thái trong hành trình sa mạc đói khát khổ sở suốt 40 năm. Hành trình này vừa giải thoát họ khỏi ách nô lệ, vừa dẫn đưa họ về miền đất mà Thiên Chúa đã hứa cho tổ tiên. Việc thiếu nước dẫn tới sự kiện dân nổi loạn chống lại ông Môisê. Nhờ quyền năng của Chúa, ông Môisê đã lấy cây gập đập vào tảng đá và nước từ đó chảy ra (Bài đọc I). Bài đọc Cựu ước trong thánh lễ hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: kiếm tìm Chân lý là một tiến trình lâu dài, đòi hỏi phải kiên nhẫn và vâng theo lệnh của Thiên Chúa.

Câu chuyện không chỉ nhắm tới nước cho dân khỏi khát, mà còn là giáo huấn về ân sủng sẽ được ban sau này qua Đức Giêsu Kitô, Đấng được tôn vinh là Đá. Chúa Giêsu đã đến trần gian để chỉ cho nhân loại con đường đạt tới Chân lý. Người đã tuyên bố: “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống”.

Bài Tin Mừng là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samaria. Có rất nhiều chi tiết phong phú trong đoạn văn này. Đây là một cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và một con người; giữa một người Do Thái và một người Samaria; giữa một vị Ngôn sứ và một người đang khao khát tìm Chân lý.

Người phụ nữ Samaria là đại diện cho cả nhân loại đang tìm kiếm Chúa. Chị đã có năm đời chồng, và người đang chung sống hiện tại không phải là chồng chị. Chi tiết này muốn diễn tả, con người đi tìm kiếm Chúa, nhưng có những lúc lầm tưởng về Ngài. Họ tìm kiếm Ngài nơi lạc thú và nơi những ảo ảnh thế gian. Vì thế mà họ không cảm thấy no đầy, giống như một người phụ nữ đã năm đời chồng mà không thấy hạnh phúc. Chị vẫn tiếp tục đi tìm kiếm. Khi gặp gỡ Chúa Giêsu, người phụ nữ dần dần hiểu ra Ngài là vị Ngôn sứ, là Đấng có thể đem cho bản thân chị sự bình an, niềm vui và ơn cứu độ. Có nhà chú giải Kinh Thánh nghiên cứu văn hóa và tín ngưỡng của xứ Samaria và cho biết người xứ này thờ 5 vị thần. Có thể tác giả Gioan muốn nói tới việc thờ các ngẫu thần không đem cho con người sự giải thoát và không lấp đầy những khát vọng siêu nhiên của họ. Đức Giêsu đến trần gian để giải phóng con người khỏi những ngẫu thần, hướng tâm hồn họ về Thiên Chúa là Đấng mọi người phải yêu mến và tôn thờ. Sự tôn thờ đích thực không còn phụ thuộc vào không gian, nơi chốn, tức là phải đến chỗ này chỗ nọ (cụ thể là ở Giêrusalem hay đồi Garizim), nhưng bất cứ ai, bất cứ nơi nào, khi họ thực hiện việc tôn thờ “trong tinh thần và Chân lý”, thì đó là việc tôn thờ đẹp lòng Chúa và lời cầu nguyện của họ sẽ được Ngài chấp nhận.

Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc đối thoại kiên nhẫn, dần dần từng bước. Chúa Giêsu đã chủ động phá tan mọi rào cản: đó là sự giao tiếp giữa người Do Thái và dân ngoại; Người nam và người nữ; Không gian là bờ giếng lãng mạn và thời gian là buổi trưa vắng vẻ. Điều này cho thấy, nếu muốn loan báo Chân lý, cần phải vượt qua mọi thành kiến, khiêm tốn chủ động đối thoại trong sự tôn trọng lẫn nhau. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không một lời phê phán cuộc sống cá nhân của chị, cũng như cách thức thờ phượng trên núi Garizim của người Samaria.

Chúa Giêsu đã khởi đi từ nước thế gian tới nước hằng sống. Nước này là ân huệ Chúa ban nơi Đức Giêsu và là giáo huấn của Người. Giáo huấn đem lại cho con người niềm vui siêu nhiên và sự bình an trong tâm hồn. Nhờ nước hằng sống, con người không còn đi tìm kiếm một thần linh nào khác. Họ được gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng họ tôn thờ, không phải ở đây hay ở kia, nhưng trong tinh thần và chân lý. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Nhờ Đức Kitô Chúa chúng ta, con người trở nên công chính và được bình an với Thiên Chúa” (Bài đọc II)

Cũng như dân Do Thái trong hành trình sa mạc cần có nước để tồn tại, trong cuộc lữ hành thiêng liêng, chúng ta cũng cần có nước nước hằng sống để lớn lên mỗi ngày. Mùa Chay giúp ta sống tinh thần sa mạc, phác họa 40 năm dân riêng trên đường về Đất hứa, 40 ngày Chúa Giêsu cầu nguyện trong hoang địa. Mùa Chay giúp ta định hướng cuộc đời, để tìm kiếm Chân lý, đón nhận dòng nước ân sủng Thiên Chúa ban qua Đức Giêsu. Một cách cụ thể, chúng ta đón nhận nước hằng sống qua các bí tích, nhất là bí tích Hòa giải và bí tích Thánh Thể. Nhờ hai bí tích này, chúng ta được đổi mới và được nuôi dưỡng bằng sức sống siêu nhiên.

Người phụ nữ Samaria sau khi gặp gỡ Chúa đã bỏ lại vò nước bên bờ giếng. Trước đó, mục đích của chị là đến giếng kín nước. Chị chạy vào thành, giới thiệu Chúa với những người trong thành. Chi tiết này gợi ý cho chúng ta, một khi sống tinh thần của Mùa Chay, chúng ta cũng có bổn phận đưa nhiều người khác đến với Chúa, giúp họ gặp gỡ Ngài và cùng với họ đón nhận nước trường sinh. Việc gặp gỡ Chúa phải dẫn chúng ta giao hòa với anh chị em xung quanh, mang cho họ niềm vui và an bình. Câu chuyện kết thúc với những hình ảnh tốt đẹp: những người dân trong thành Samaria (họ là những người dân ngoại!) đều tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ trần gian. Không còn nghi kỵ do mối thù truyền kiếp, không còn thành kiến mặc cảm về dòng dõi sắc tộc. Tất cả đều là con cái của Thiên Chúa. Câu chuyện mở ra một chân trời mới. Đó là viễn cảnh tương lai, hình ảnh của Nước Trời nơi trần gian.

 

4. Đức Giêsu là Đấng trung hòa – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)

Đức Giêsu mỏi mệt vì đi bộ dưới ánh nắng hè oi bức gần ba chục cây số, từ bờ sông Gióc đan tới giếng Gia cóp. Người còn mỏi mệt hơn dưới những hận thù của các dân, các nước, cụ thể là sự hận thù giữa dân Do thái và Samari: “Trước khi lập quốc, hai dân là một quốc gia, một tôn giáo, một dòng giống Giacóp. Họ chia rẽ nhau từ năm 935 lúc Salômôn tạ thế. Do thái tách thành một nước riêng, Samari thành một nước hận thù. Từ chia rẽ chính trị đến chia rẽ tôn giáo” (Văn Qui: CN. năm A tr. 60). Hai dân đã trở thành thù địch nhau ghê gớm.

Đức Giêsu đến Samari, ngồi trên bờ giếng Gia cóp, để qui tụ Do thái và Samari về xum họp với nhau dưới mái nhà Thiên Chúa là Cha chung của hai dân tộc. Người đã mở đầu cuộc đối thoại hòa giải bằng một cử chỉ thật khiêm tốn trước mặt một người phụ nữ nghèo hèn tội lỗi nhất, đại diện cho dân Samari: “Chị cho tôi xin chút nước uống!”, như một lời xin lỗi, một lời nài van tình người xóa bỏ hận thù để hòa giải, thương yêu và tương trợ nhau.

Đức Giêsu xin chút nước giải khát tạm thời, để ban cho chị mạch nước trường sinh. Người xin chút vất vả múc nước, Người ban cho chị nguồn vui hạnh phúc Tin mừng bất tận. Người xin chút tấm lòng cởi mở thưa đáp, Người cho chị tấm lòng bao dung tha thứ vô biên. Người xin chút niềm tin hẹp hòi địa phương của chị, Người ban nguồn chân lí cho muôn dân biết tôn thờ Thiên Chúa là Cha chung mọi người. Người xin một chỗ ngồi nhỏ bên bờ giếng, Người ban cho Samari nước Trời vinh quang. Họ đã vui mừng thưa: “Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng Cứu Tinh trần gian.

Đức Giêsu đến trần gian như đến với Samari để qui tụ muôn dân xum họp nhau lại dưới mái nhà Thiên Chúa là Cha chung loài người. Người đã bắt đầu cuộc hòa giải ngay từ giây phút sinh ra nơi thấp hèn nhất là hang bò lừa để đem lại ơn bình an cần thiết nhất xuống cho nhân loại. Người đã kéo dài cuộc hòa giải suốt 30 năm cho tới bàn hận thù ghê gớm nhất trên đỉnh núi Sọ để xin ơn tha thứ cho mọi người: “Lạy Cha xin tha cho họ vì họ lầm chẳng biết”. Họ lầm chẳng biết Thiên Chúa, nên họ cũng lầm chẳng biết nhau. Đức Giêsu đã thương yêu họ để họ biết thương yêu nhau trong tình thương chí thiện, chí mỹ của Thiên Chúa.

Cuộc hành trình hòa giải của Đức Giêsu phải được con cái Người nối tiếp để phá đổ những bức tường hận thù ngăn cách loài người với Thiên Chúa và khai mở cho mọi dân tộc, mọi gia đình, mọi cá nhân một con đường mới, con đường khiêm tốn, đối thoại hiệp thông chan hòa ơn phúc bình an và thương mến nhau.

Lạy Chúa, cuộc hành trình gian khổ của Chúa đến Samari để thực hiện hiệp nhất giữa hai dân tộc hận thù, Chúa còn bỏ trời cao vinh sáng xuống trần gian thấp hèn đen tối, để nối kết loài người với Thiên Chúa. Xin cho con được phúc tiếp tục cuộc hành trình cao cả đó, cho con biết hiệp nhất với mọi người trong khiêm tốn, bình an và chân lý để tin mến tôn thờ Thiên Chúa trọn đời con. Amen.

 

5. Bên bờ giếng Giacóp

Hôm đó, Chúa Giêsu rời bỏ xứ Giuđêa, bởi vì sự thành công của Người tại đây đã làm cho bọn biệt phái bực bội và tức tối. Đồng thời chính Người cũng không muốn đi vào cuộc tranh chấp mà họ đã rắp tâm gài bẫy cho Người. Bởi đó Người đi lên Galilêa, băng qua miền Samaria. Và cũng chính tại Samaria, đã xảy ra một cuộc gặp gỡ, khởi đầu của việc rao giảng cho dân ngoại trên toàn thế giới.

Mệt mỏi vì đường xa, Chúa Giêsu đã ngồi nghỉ ở bờ giếng Giacóp, gần núi Garisim. Đã từ 400 năm qua, vì kình địch với người Do Thái, dân Samaria đã biến ngọn núi này trở thành một ngọn núi thánh để cạnh tranh với Giêrusalem. Thế rồi một người phụ nữ đến kín nước và Chúa Giêsu đã bắt chuyện với nàng. Trong cuộc đối thoại ấy, Chúa Giêsu muốn mượn hình ảnh nước tự nhiên trong lòng giếng để tỏ lộ những chân lý siêu nhiên và trao ban cho chúng ta một thứ nước làm phát sinh sự sống vĩnh cửu, đó là tình thương và ơn sủng của Người, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, chính Người là thứ nước ban sự sống vĩnh cửu ấy.

Câu chuyện trên đây vốn được coi như một điển hình về khoa sư phạm tuyệt vời của Chúa đối với con người. Thực vậy, Chúa thâm nhập vào tâm trí chúng ta, để rồi sẽ làm nổ tung các giới hạn của nó, bắt nó mở rộng cửa đón nhận những chân lý cao cả hơn xuất phát từ Thiên Chúa, chứ không phải từ con người.

Trước hết, Chúa Giêsu gợi óc tò mò tìm hiểu những người phụ nữ. Muốn thế, Người đã đặt mình vào mức độ bình thường của đời sống hằng ngày. Từ hành động kín nước cua người phụ nữ, Người làm cho nàng thấy được rằng: không phải chỉ có thứ nước tự nhiên và những thực tại vật chất mới là quan trọng cho đời sống. Do đó, phản ứng đầu tiên của người phụ nữ đó là xin Thầy ban cho tôi thứ nước ấy.

Rồi Chúa đã làm cho nàng thắc mắc hoàn toàn khi thấy rằng Người nhìn thấy tận đáy lòng nàng: Chị hãy về gọi chồng chị lại đây. Lời đòi hỏi này đã đẩy người phụ nữ vào một hoàn cảnh nan giải, bởi đó nàng đã chuyển câu chuyện sang một hướng khác. Nàng hỏi Người về việc thờ phượng tại Giêrusalem, thì Chúa đã xác quyết phải thờ phượng trong tinh thần và trong chân lý. Nàng đề cập tới việc Đấng Cứu Thế sẽ đến giải thoát. Dựa vào đó Chúa Giêsu đã tự mạc khải mình ra: Đấng ấy chính là Ta, người đang nói với chị đây. Sau khi đã tin, người phụ nữ đã đi kể lại những điều đã xảy ra và kêu mọi người đến cùng Chúa.

Với chúng ta cũng thế, Chúa thường dùng những cái cụ thể để giới thiệu với chúng ta những thực tại siêu nhiên. Người hiện diện thật gần gũi trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có nhận biết Người hay không, có chấp nhận rằng không phải chỉ có của cải vật chất mới quan trọng, không phải chỉ có nước tự nhiên nuôi sống phần xác, mà hơn thế nữa, còn có một thứ nước siêu nhiên làm phát sinh sự sống vĩnh cửu.

 

6. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Bài Tin mừng Chúa Nhật hôm nay là cuộc trò chuyện giữa Đức Giêsu với người đàn bà xứ Samaria được thánh sử Gioan tường thuật lại.

Câu chuyện xảy ra trong bối cảnh Đức Giêsu tới thành Sykar thuộc xứ Samaria. Sau một quảng đường mệt nhọc, Đức Giêsu dừng chân nghỉ tại giếng Gia-cóp. Có lẽ Ngài rất khát nước, vì đó là giờ thứ sáu. Nhưng làm sao để có nước uống, vì giếng thì sâu, Ngài lại không có dụng cụ để múc nước. May mắn thay, lúc đó có một người đàn bà xứ Samaria tới lấy nước. Đức Giêsu nói với người đàn bà: “Xin bà cho tôi uống nước” (Ga 4,7). Nghe vậy, người đàn bà Samaria ngạc nhiên, vì từ lâu người Do thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Thậm chí họ là kẻ thù của nhau. Chính vì thế, người đàn bà mới trả lời với Đức Giêsu rằng: “Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?” (Ga 4,9).

Thực ra, việc xin nước uống chỉ là cái cớ để Đức Giêsu bắt chuyện với người đàn bà. Mục đích của Đức Giêsu không phải là xin nước, nhưng Ngài muốn mạc khải cho bà biết những điều quan trọng về Ngài. Vì thế, sau khi nghe người đàn bà thắc mắc, Đức Giêsu mới bắt đầu vào nội dung chính của câu chuyện, Ngài nói với người đàn bà rằng: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước uống với, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10). Nghe những lời Đức Giêsu vừa nói, người đàn bà càng thắc mắc nhiều hơn. Đó cũng chính là sự chờ đợi của Đức Giêsu. Vì thế, Ngài mạc khải tiếp: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”(Ga 4,4,14). Giờ thì không phải Đức Giêsu xin chị uống nước mà chính chị mới là người xin Đức Giêsu uống nước. Chị nói: “Thưa Ngài, xin cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”(Ga 4,15). Như vậy, Đức Giêsu đã mạc khải cho chị biết, chính Ngài là Đấng Kitô. Cho nên không phải ai khác, mà chính Ngài là người ban cho chị Nước Hằng Sống. Rồi Ngài còn mạc khải cho chị về việc tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Ngài nói: “Đã đến giờ và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý. Đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn” (Ga 4, 23).

Câu chuyện Tin mừng đến đây cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã đáp ứng niềm khát vọng sâu xa của người đàn bà. Bà đã biết về Đức Giêsu và tin nhận Ngài là Đấng Mêsia. Còn chúng ta: Đâu là niềm khát vọng của chúng ta? Chúng ta đã thực hiện sứ mạng đem “Nước” cho những người khác như thế nào?

  1. Đâu là niềm khát vọng của chúng ta?

Trước hết, mỗi chúng ta cũng có những khát vọng thuộc lãnh vực tự nhiên: Khát nước, khát cơm ăn áo mặc, khát tình cảm, khát chân lý, khát tự do, khát yêu thương, khát công bằng, khát hạnh phúc… Nhưng những khát vọng này của chúng ta không bao giờ được thỏa mãn một cách tuyệt đối. Vì: uống nước rồi vẫn khát, ăn rồi vẫn đói; tình cảm không bao giờ đong đầy. Ngoài ra, với tâm lý “được voi đòi tiên” của con người thì sự thỏa mãn càng không bao giờ đủ. Chính người đàn bà xứ Samaria hằng ngày vẫn đến giếng Giacóp lấy nước. Bà đã có 5 đời chồng rồi, nhưng hiện vẫn sống với người chồng thứ 6. Hơn nữa, con người vẫn mong muốn những cái tuyệt đối, mà ở trần gian này không có cái gì là tuyệt đối: Tình yêu, công lý, tự do, hạnh phúc…chỉ là tương đối mà thôi.

Thứ đến, mỗi chúng ta cũng có những khát vọng thuộc lãnh vực siêu nhiên như: Khát đức tin, khát Chúa, khát Nước hằng sống, khát hạnh phúc Thiên đàng…Sự khát khao thuộc lãnh vực siêu nhiên này chúng ta chỉ được thỏa mãn nơi Chúa. Vì, “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Chính Đức Giêsu cũng đã nói với người đàn bà: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4, 13-14).

Chính vì vậy, Mùa chay, Giáo hội kêu mời chúng ta khỏa lấp lòng khao khát sự sống siêu nhiên bằng việc gặp gỡ Đức Giêsu: qua Lời của Ngài, qua các Bí tích, nhất là Bí tích Giao hòa và Bí tích Thánh Thể. Chúng ta cũng có thể khỏa lấp lòng khao khát sự sống siêu nhiên bằng đời sống cầu nguyện và sự chia sẻ cơm áo cho tha nhân.

  1. Chúng ta có sứ mạng đem “Nước Hằng Sống” cho những người khác?

Sau khi người đàn bà được Đức Giêsu “cho uống nước hằng sống,” bà đã chạy về thành và kêu gọi mọi người “Mau hãy đến xem, có một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?” (Ga 4,29). Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài. Nhiều người tin vào Đức Giêsu do lời chứng của người đàn bà. Họ mời Đức Giêsu ở lại với họ hai ngày. Sau đó, họ nói rằng: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế” (Ga 4,42).

Sứ vụ của người đàn bà cũng là sứ vụ của mỗi người chúng ta. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nói cho các môn đệ biết về công việc của Ngài: “Lương Thực của Thầy là làm theo ý Ðấng đã sai Thầy và chu toàn công việc của Ngài”(Ga 4,34). Công việc của Đức Giêsu là loan báo Tin mừng. Đó cũng là công việc của các Tông đồ và là công việc của mỗi người chúng ta. Công việc đó luôn có tính cấp bách. Chính Đức Giêsu đã cho biết: “Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt. Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ” (Ga 4,35-38).

Để loan báo Tin mừng có hiệu quả, chúng ta cần phải luôn chủ động, đi bước trước để đến với tha nhân. Đức Giêsu đã luôn làm như thế. Ngài đã đi bước trước qua việc bắt đầu câu chuyện bằng việc xin nước người phụ nữ. Rồi sau đó, Ngài đã mời gọi người phụ nữ uống Nước Hằng Sống. Ngài đi bước trước đến bàn thu thuế và mời gọi ông Lêvi đi theo Ngài. Ngài đi bước trước để đến với ông Giakêu khi ông đang ở trên cây sung để cho ông biết “hôm nay tôi đến trọ nơi nhà ông.” Ngài đi bước trước đến đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi để mời gọi họ bỏ quá khứ tội lỗi để trở về với Ngài…

Chúng ta cũng phải noi gương Đức Giêsu, đi bước trước đến với những người cần đến chúng ta. Đặc biệt là những người đang gặp khó khăn trong đời sống đức tin. Những người gặp khó khăn trong đời sống gia đình. Những người bỏ Chúa và Giáo hội lâu năm. Những người đang bất hòa với chúng ta. Thậm chí là những người đang hằn thù, ghen ghét chúng ta. Chúng ta cần đi bước trước để bắt chuyện với họ, giúp họ nhận ra con người thật của mình, cần đến Chúa để họ trở về với Chúa và Giáo hội.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết từ bỏ tội lỗi, trở về với Chúa. Xin cho chúng con luôn biết khỏa lấp những khát khao trong cuộc sống bằng chính Chúa. Từ đó, chúng con trở thành những sứ giả đem Chúa đến với anh chị em và đem anh chị em trở về với Chúa. Amen.

 

7. Đức Yêsu- Biểu tượng tình yêu

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Lời Chúa cho thấy Đức Yêsu là người trọn vẹn, Ngài chịu đói chịu khát như tất cả mọi người; tuy vậy, Ngài mặc khải Chúa Cha và Thánh Thần, Ngài là tình yêu Thiên Chúa đối với con người.

  1. Đức Yêsu chia sẻ thân phận con người

Trên đường từ Yuđêa về Galilê, Đức Yêsu phải băng qua Samaria. Đoạn đường dài, trời nóng bức, đói và khát. Các môn đệ vào làng mua thức ăn, Đức Yêsu mệt mỏi ngồi phệt xuống cạnh giếng. Khát mà không có nước uống, vì không có gầu múc nước.

Chợt có một phụ nữ tới múc nước. Đức Yêsu đã ngỏ lời xin chị cho nước uống. Chị phụ nữ ngạc nhiên, vì luật không cho người Do Thái được tiếp xúc giao dịch với người ngoại, mà người ngoại đối với người Do Thái bao gồm cả người Samaria. Chắc hẳn không phải Đức Yêsu khát quá nên không giữ luật, nhưng vì một lý do khác mà chúng ta có thể nhận ra ngay trong đoạn Tin Mừng!

Kitô hữu thường nhìn Đức Yêsu như Thiên Chúa làm người, đôi khi quá chú trọng đến tính Thiên Chúa mà coi nhẹ tính người của Đức Yêsu. Thực sự, Đức Yêsu giống chúng ta mọi đàng (Dt.2, 17; 4, 15). Chỉ có một điều khác: chúng ta phạm tội, còn Ngài không. Là người, có lúc chúng ta đói, khát, mệt mỏi, thì Đức Yêsu cũng vậy. Ngài cũng đói, khát, mệt mỏi như chúng ta. Ngài đói đến nỗi có lúc muốn có một trái vả để ăn cho đỡ đói (Mt.21, 18-19). Ngài bị cám dỗ (Mt.4, 1-11), bị cám dỗ cả về lòng tin tưởng trông cậy nơi Thiên Chúa nữa (Mc.15, 34); có điều, tuy bị cám dỗ khủng khiếp, khi ở hoang địa và cả trên thập giá, Đức Yêsu vẫn chiến thắng (Lc.23, 46). Ngài vẫn yêu, cho dù không được yêu. Trên thập giá, Đức Yêsu đã hứa cho anh trộm được ở với Ngài ngay khi Ngài lên Nước của Ngài. Ngài cũng xin Cha tha cho những người thù ghét và giết Ngài. Dù giống chúng ta mọi đàng, nhưng Ngài không chỉ không sa ngã phạm tội, mà Ngài còn luôn yêu trong mọi hoàn cảnh, trong mọi nơi mọi lúc.

  1. Thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật

Đã có thời gian, người ta tưởng rằng để thờ phượng Thiên Chúa, phải thờ phượng Ngài tại một nơi nào đó. Người Do Thái thì cho rằng phải thờ Chúa tại Yêrusalem, người Samaria thì bảo phải thờ phượng Thiên Chúa trên “núi này”. Những người đơn sơ như chị phụ nữ này, chẳng biết ai đúng ai sai, cứ làm như cha ông dạy. Và dĩ nhiên, cả người Do Thái lẫn người Samaria đều gặp được Thiên Chúa mà họ tìm kiếm, dù họ thờ phượng Ngài ở đền thờ Yêrusalem hay trên “núi này”.

Bây giờ, Đức Yêsu là Đấng Massiah, Ngài mặc khải cho con người biết phải thờ phượng Thiên Chúa ở đâu và như thế nào. Con người có thể thờ phượng Thiên Chúa ở bất cứ đâu, miễn là phải thờ phượng Ngài trong Thần Khí và sự thật. Nếu thờ phượng Thiên Chúa mà không từ bỏ lòng hận thù, không từ bỏ bất công với người nghèo, nếu vẫn nuôi lòng gian ác, thì cho dù thờ phượng Ngài ở đền thờ Yêrusalem, cũng không đẹp lòng Ngài và cũng không được Ngài chấp nhận.

Thiên Chúa là Thần Khí. Ngài là Cha tất cả mọi loài. Ngài yêu thương tất cả mọi người cho dù thuộc bất cứ dân tộc nào, sắc dân nào, vì tất cả đều là con dân Ngài. Hãy phó thác cuộc đời cho Ngài, vì Ngài là Thiên Chúa yêu thương. Thánh Thần Thiên Chúa vẫn luôn hoạt động trong lòng con người, để dẫn con người trở về với Thiên Chúa, để giúp con người sống cho đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi nơi mọi lúc.

  1. Thánh Thần như mạch nước vọt lên trong lòng người

Trong Cựu Ước, Thần Khí mang lại sự sống. Chẳng hạn như trong thị kiến thung lũng đầy xương khô, Thần Khí mà Thiên Chúa thổi vào mang lại sự sống cho những bộ xương khô (Ed.37,1-14). Nước từ tảng đá vọt ra nuôi sống dân Do Thái trong hoang địa, cũng là biểu tượng Thánh Thần từ Thiên Chúa, thánh hoá và làm sống con người.

“Ai uống nước này hãy còn khát, nhưng ai uống nước Ta ban sẽ không còn khát nữa, vì nước Ta ban sẽ trở thành mạch nước muôn đời”. Thánh Thần ngự nơi mỗi người, như mạch nước nơi lòng con người, làm dịu mát lòng người, làm con người khao khát Thiên Chúa, tẩy rửa tội lỗi, thánh hoá con người, mang lại sự sống cho con người. Với Đức Yêsu, Thánh Thần được mặc khải như Đấng Bầu Chữa, như Đấng dẫn con người vào tất cả sự thật, như Đấng làm chứng cho Đức Yêsu qua các tông đồ và các Kitô hữu, như Đấng thánh hoá.

Đức Yêsu là người mẫu cho Kitô hữu và cho tất cả con người, để con người theo gương Ngài sống trong trần gian trong hoàn cảnh cụ thể của mình. Cũng qua Đức Yêsu, Thánh Thần vĩnh viễn ở với con người, tác động và thánh hoá con người, làm con người thuộc về Thiên Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Thiên Chúa là Thiên Chúa tình yêu. Cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều yêu thương con người, và luôn tác động làm con người sống. Chúng ta được mời gọi để cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu độ chính mình và tha nhân.

 Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Đức Yêsu có là người gần gũi với bạn không? Bạn thấy Ngài gần bạn lúc nào nhất?

2. Bạn có thường ý thức Thánh Thần luôn ngự trong tâm hồn bạn không?

3. Người “tội lỗi” có thể là dịp để người khác gặp gỡ Thiên Chúa không? Tại sao? Chẳng hạn trường hợp chị phụ nữ.

 

8. Nét đẹp của Đức Yêsu

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

  1. Mệt mỏi vì đường xá, Đức Yêsu ngồi phệt xuống cạnh giếng

Hình ảnh Đức Yêsu mệt mỏi ngồi bên cạnh giếng, cho ta thấy Đức Yêsu gần gũi chúng ta biết dường nào! Ngài cũng đói, khát, mệt mỏi như chúng ta! Thiên Chúa không xa chúng ta, Ngài gần gũi với chúng ta.

Kể từ khi Thiên Chúa nhập thể, Ngài đã biết mệt, biết đói biết khát! Nét đẹp của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Yêsu- Thiên Chúa nhập thể.

  1. Yêu mến và kính trọng con người

Điều làm một người trở nên đẹp, là yêu mến và kính trọng con người.

a) Nét đẹp của phụ nữ nhân ngày quốc tế phụ nữ

Nét đẹp của phụ nữ không chỉ là những “đường cong” như người ta thường hay nói. Chị phụ nữ đã tế nhị bỏ vò nước lại cho Đức Yêsu và các môn đệ; nếu không có vò nước này, làm sao Đức Yêsu và các tông đồ có nước uống trong lúc đói khát này!

Sau một thời gian nói chuyện với Đức Yêsu, chị phụ nữ đã dám nhận sự thật “tôi không có chồng”, vì người chị đang sống với không phải là chồng chị!

Chị phụ nữ “mà nhiều người không tôn trọng vì đã năm đời chồng” này, đã được biến đổi. Chị đã dám loan báo cho dân làng biết điều chị ta xác tín: “Ngài không phải là đức Kitô sao?”.

Phụ nữ đẹp! Điều này cũng được thấy nơi một số chị phụ nữ vẫn hay đi theo Đức Yêsu trên con đường Ngài rao giảng, và các chị thường hay giúp đỡ Ngài.

Phụ nữ vẫn là người hiền dịu, kiên nhẫn, thông cảm, mềm mỏng với người khác. Điều này chúng ta thấy rõ nơi mẹ mình, nơi em gái mình, nếu không muốn kể đến người yêu thương mình đặc biệt. Có ai trong đời mà chẳng cảm thấy “lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào”? Có ai không thấy mẹ mình yêu thương mình, nhất là những khi mình đi xa về, mẹ lo ăn lo uống, ngay cả dọn cơm và rửa chén cho mình, dù rằng với tuổi mình, những chuyện đó phải do mình đảm trách. Dường như với người con, mẹ là người đẹp nhất.

Còn một phụ nữ đẹp tuyệt vời, đó là Đức Mẹ! Mẹ luôn xin vâng trước mọi đòi hỏi của thánh ý Chú, và mẹ luôn yêu thương giúp đỡ mọi người.

b) Nét đẹp của Đức Yêsu trong cách Ngài đối xử với con người

Đức Yêsu tôn trọng, yêu thương con người. Đặc biệt trong bài tin mừng Ga.4, 1-42, Ngài tìm cách gợi chuyện với chị phụ nữ bên bờ giếng Giacóp. Ngài không bị nô lệ bởi “truyền thống không giao du đối xử với người Samari”.

Lúc khởi đầu, “chị phụ nữ năm đời chồng rồi mà người đang sống với chị không là chồng chị” phản ứng rất cứng rắn với Đức Yêsu: “ông là người Dothái mà lại xin tôi là người Samari nước uống?!”; Đức Yêsu vẫn chấp nhận và vượt qua, để tiếp tục nói chuyện với chị!

Dần dần chị phụ nữ cởi mở lòng hơn khi nhận mình không có chồng! Và Đức Yêsu đã mặc khải cho chị: “Đã đến giờ, con người thờ phượng Thiên Chúa không phải ở trên núi này, cũng chẳng phải tại Yêrusalem; … đã đến giờ, và chính là lúc này đây, ai thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật” (Ga.4, 21-23). Hơn nữa, Đức Yêsu còn mặc khải Ngài là Đấng Kitô, điều mà Ngài cũng đã mặc khải cho Phêrô và các tông đồ.Đức Yêsu đã mặc khải cho chị như Đức Yêsu đã từng mặc khải cho những người thân tín nhất!

Đức Yêsu đã đối xử rất đẹp đối với con người, và cụ thể hôm nay, chúng ta thấy Ngài đối xử rất đẹp đối với chị phụ nữ.

  1. Của ăn của Thày là làm theo ý Đấng đã sai thầy

Đức Yêsu luôn luôn làm theo ý Cha. Ý Cha trở thành lương thực của Ngài!

Đói khát và mỏi mệt vì đường xa, nhưng Đức Yêsu như tỉnh dậy khi chị phụ nữ “ông là người Dothái mà lại xin tôi -một người Samari- nước uống?!” Chị phụ nữ này đã bị thành kiến này trói buộc, và Đức Yêsu đã nhận ra mời kêu gọi giúp chị phụ nữ nhận ra sự thật “không phải tại Yêrusalem hay trên núi này người ta phải thờ phượng Thiên Chúa”! Đức Yêsu đã tìm mọi cách để nói chuyện, giúp chị mở lòng đón nhận Tin Mừng, và giải phóng chị ta khỏi nô lệ một quan điểm sai lầm.

“Thày có một thức ăn mới mà anh em không biết” (Ga.4, 32)! Chính khi thực hiện ý Chúa, Đức Yêsu như có một khí lực mới.

Thực hiện Ý Cha! Không phải dễ dàng đối với con người! Chấp nhận cái đói cái khát, chấp nhận những gì trái ý trong đời mình: “Lạy Cha, nếu có thể được xin cho con khỏi uống chén này, nhưng đừng theo ý con mà là ý Cha”. Đức Yêsu đã chiến đấu đến nỗi đổ máu (Dt.12, 4), để thực hiện ý Cha.

  1. Làm sao để được đẹp như Đức Yêsu

Trở về với Thiên Chúa! Ăn năn sám hối lỗi lầm của mình và bắt đầu lại cuộc đời. Hiện tại là lúc quan trọng nhất. Nếu tôi trở lại với Thiên Chúa từ bây giờ, tôi có thể trở thành người đẹp tuyệt vời.

Hãy tập yêu. Nếu chúng ta yêu thương, chúng ta sẽ được yêu thương! Hãy yêu thực sự, và muốn làm gì thì làm.

Được yêu thì hạnh phúc biết bao. Nhưng, yêu thì hạnh phúc hơn là được yêu!

Chúc bạn mỗi ngày mỗi đẹp như Đức Yêsu, người đẹp tuyệt vời.

 

9. Nước Hằng Sống

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Nước, tuy dù hiếm ở vùng Cận Đông, vẫn là một thực tại tự nhiên. Trình thuật ở Xh.17, 3-7 giúp nhận ra nước cũng là hồng ân Thiên Chúa ban mà người ta lâu nay cứ tưởng nó “tự nhiên” không cần Thiên Chúa. Sự khan hiếm nước, giúp người ta nhận ra sự thật “tình yêu của Thiên Chúa” bao phủ con người, mà nếu chúng ta biết nhìn, chúng ta có thể bắt gặp trong từng nhu cầu của con người. Con người, tự thuở nào, vẫn là một hiện hữu đòi hỏi và hay “nổi loạn” với Thiên Chúa. Bao hồng ân Thiên Chúa làm cho người Do Thái để dẫn họ ra khỏi Ai cập, nhưng họ vẫn cứng lòng không thần phục Thiên Chúa. Biến cố thiếu nước, giúp người ta biết mình hơn! Cũng chính biến cố này, mời gọi con người hãy trở nên dễ dạy hơn với Thiên Chúa: “Hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, các ngươi đừng cứng lòng nữa” (Tv. 94, 8).

Nước, làm người ta đã khát; nước, làm mát lòng người; nước, thanh tẩy dơ uế! Nước, hôm nay là biểu tượng của Thánh Thần. Nước hằng sống mà Đức Yêsu ban tặng, sẽ trở thành mạch nước vọt lên ban sự sống đời đời (Ga.4, 14). Nước Thần Khí mà Đức Yêsu ban tặng, sẽ giúp con người thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật. Đức Yêsu xin nước, để rồi qua đó Ngài gợi ý, để người ta xin Ngài Nước Hằng Sống- nước làm người ta không còn khát nữa! Nước Thánh Thần, sẽ làm người ta đã khát (Ga.4, 14; 7, 37-38), và cũng sẽ làm con người luôn khao khát Thiên Chúa.

Đức Yêsu là một hình ảnh tuyệt vời. Ngài mời gọi chúng ta nên giống Ngài. Cho dù mệt mỏi ngồi “phệt” bên cạnh bờ giếng, Ngài vẫn bắt chuyện để nói về Thiên Chúa và để mặc khải ban ơn cứu độ, Ngài vẫn tìm được điều tốt để khen nơi chị phụ nữ đã năm đời chồng và người chị ta đang sống với lại không là chồng chị, Ngài vẫn hăng say nói về Thiên Chúa và mặc khải cho chị phụ nữ Samaria. Đức Yêsu luôn tìm ý Thiên Chúa và thực hiện ý Thiên Chúa đến quên ăn, hơn nữa: “của ăn của Thầy là làm theo ý Đấng đã sai Thầy” (Ga. 4, 34). Ý Thiên Chúa đối với Đức Yêsu, trở thành của ăn. Khi làm theo ý Thiên Chúa, Đức Yêsu như thể có thêm sức lực, như được bổ dưỡng bởi một lương thực nào đó.

Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Đức Yêsu và Thánh Thần. Thiên Chúa đã yêu chúng ta, ngay khi chúng ta còn là tội nhân (Rm.5, 8). Đức Yêsu và Thánh Thần là bằng chứng rõ ràng về tình yêu tuyệt vời này. Thánh Thần giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa, giúp chúng ta hiểu biết về Thiên Chúa, hiểu biết về Đức Yêsu hơn.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe và để Thánh Thần thực hiện những gì Ngài muốn cho chúng ta, xin cho chúng ta được biến đổi, cho chúng ta được trở về với Thiên Chúa và trở về với anh em.

 

10. Thiên Chúa ở đâu?

Phải thờ phượng Thiên Chúa ở Sichem hay ở Giêrusalem?

Chúa Giêsu đã đưa ra một lời giải đáp. Ngài khẳng định rằng Thiên Chúa không bao giờ bị khoanh vùng, Ngài cũng không bao giờ là Chúa riêng của một người hay một dân tộc nào, bởi vì Ngài là Cha chung của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Không một người nào, không một dân tộc nào và không một tôn giáo nào được độc quyền chiếm giữ Ngài cho riêng mình, hay nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ hiện diện trên đất nước của mình hay trong đền thờ của mình.

Không. Chúa Giêsu đã khẳng định với người thiếu phụ Samaria: Đã đến giờ ác ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng sẽ thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật.

Thiên Chúa là thần khí, mà thần khí thì vô hình nên ở đâu cũng có. Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi: Trời là ngai toà của Ngài còn đất là bệ chân của Ngài. Ngài không cần nhà để ở và hơn nữa, không một nơi nào dù nguy nga tráng lệ đến đâu chăng nữa xứng đáng với Ngài. Trái lại Ngài có thể hiện diện ở bất kỳ nơi nào, nhất là qua mầu nhiệm nhập thể, Ngài có thể hiện diện trong chuồng bò tại Bêlem, tạm trú bên Ai Cập, vất vả tại xưởng thợ Nadarét, để rồi sau đó rảo bước khắp nơi trên mọi nẻo đường Palestine, đến với mọi người Do Thái, Hy Lạp, cũng như Rôma. Kẻ có đạo cũng như người ngoại đạo, người đạo đức cũng như kẻ tội lỗi.

Thiên Chúa là thần khí nên Ngài tự do tuyệt đối, không ai có thể giam hãm Ngài được. Thánh Phaolô khi đến Athen, đã gián tiếp nói cho dân Hy Lạp biết rằng họ cũng thờ phượng một Thiên Chúa như thánh nhân, tuy họ không biết Thiên Chúa ấy là Đấng nào và thánh nhân còn nhìn nhận rằng họ cũng thuộc dòng giống của Thiên Chúa, bởi vì chính nhờ nơi Thiên Chúa mà tất cả chúng ta được sống và hiện diện.

Một khi đã xác tín Thiên Chúa là Cha chung của mọi người, chúng ta không được nhân danh Ngài mà gây chia rẽ và hận thù, trái lại phải nhân danh Ngài mà yêu thương đoàn kết với nhau. Thực vậy đối với Chúa Giêsu thì cách thế diễn tả lòng kính mến Thiên Chúa một cách sâu xa và trọn vẹn nhất, đó là yêu thương anh em của mình. Cách thế phụng thờ Thiên Chúa đúng theo ý Ngài muốn, đó chính là phục vụ anh em. Bởi vì yêu mến Chúa thì phải tuân giữ điều răn của Ngài, mà điều răn Ngài truyền dạy đó là chúng ta phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.

Bởi vậy, không phải khi chúng ta xây dựng những ngôi thánh đường hay những gian cung thánh nguy nga tráng lệ là chúng ta có thể làm cho mọi người nhận ra chúng ta là những kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực, nhất là khi chúng ta dùng những đồng tiền bất chính để xây dựng nhà thờ. Trái lại chỉ có tình yêu thương anh em bằng tinh thần phục vụ, nhất là đối với những người khổ đau và nghèo túng, mới là cách thế chứng minh rằng Thiên Chúa hiện diện ở khắp nơi, và nhất là ở những nơi nào con người biết yêu thương và phục vụ lẫn nhau.

 

11. Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Bước vào Chúa nhật III Mùa Chay, chúng ta nghe lại cuộc đối thoại nổi tiếng của Ðức Giêsu với người thiếu phụ Samaria, được tường thuật bởi Thánh Sử Gioan. Người thiếu phụ hằng ngày đi lấy nước từ một giếng nước cổ xưa, có từ thời của tổ phụ Giacóp. Và ngày hôm ấy, chị gặp Ðức Giêsu đang ngồi trên bờ giếng, mệt mỏi sau một chặng hành trình đường xa (x. Ga 4,5-42). Chúa Giêsu chính là Nước Hằng Sống, Người đến làm cho con người khỏi khát nước Thánh Thần. 

Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống

Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Các Giáo phụ đã sớm nhận ra nới « nước hằng sống » biểu tưởng của phép Rửa tội, mà Đức Kitô là chính Nguồn Nước ấy (9). Chúa Giêsu xin người đàn bà xứ Samaria nước uống, không phải lý do khát về thể lý cho bằng khát đức tin,khát sự sống đời đời, khát một linh hồn khô héo. Đấng Cứu Thế giả vờ khát nước đến xin người đàn bà nước để trao ban thứ nước ân sủng khỏi khát đời đời. Đó chính là nguồn nước mà Tin Mừng nói tới khi Người xin nước của người đàn bà xứ Samaria… Thực ra, nguồn nước ấy không bao giờ cạn, Đấng là Nước Hằng Sống không thể uống nước bị ô nhiễm ở vùng đất này. Câu hỏi được đặt ra: 

Phải chăng Đức Kitô khát nước?

Thưa, Người khát, nhưng không khát nước trên mặt đất này, hay khát thức uống của con người, mà khát các linh hồn, khát sự cứu chuộc nhân loại. Thánh Ephrem viết: “Khi khát nước, Chúa chúng ta đã ngó đầu vào miệng giếng; Ngài xin người đàn bà nước uống. Từ giếng nước, Ngài đã câu được một tâm hồn. Nhưng tâm hồn ấy đã lại câu tiếp được cả dân trong thành” (Thánh Thi Giáng sinh số 4, 43-44).

Tại sao Chúa Giêsu lại xin người đàn bà xứ Samaria nước uống khi bà đến kín đầy vò nước, không những thế, Người còn khẳng định mình có thể trao ban mạch nước dồi dào hơn từ giếng thiêng liêng nếu ai đến xin Người?

Thưa, vì dân Samaria thờ ngẫu tượng, tâm trí họ hướng về địa giới, nên Chúa khát đức tin không chỉ của người đàn này mà cả và nhân loại. Chúa Giêsu nói: “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: ‘xin cho toi uống nước’, thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống (…) Tất cả những ai uống nước này sẽ còn khát: nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa ; vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời” (Ga 4, 10-14). Đúng như lời Kinh Tiền Tụng thánh lễ hôm nay diễn tả : “Lạy Chúa là Cha chí thánh… Khi người phụ nữ xứ Samari cho nước uống, Người đã ban cho bà đức tin. Vì Người tha thiết ước mong bà tin vững mạnh, nên đã đốt lên trong lòng bà ngọn lửa yêu mến Chúa…” 

Hình ảnh người tân tòng

Người đàn bà xứ Samaria là hình ảnh của người tân tòng, còn đang chịu sự ràng buộc của ma quỷ, năm đời chồng bà đã từ bỏ, người đàn ông thứ sáu đang sống với bà là tượng trưng. Giếng nước Giacóp thể hiện tiệc cưới của tâm hồn bà cử hành với Thiên Chúa đã được thanh tẩy bằng nước Rửa tội. Theo M. Dulaey thì: “Giữa thế kỷ thứ III, Origène giải thích rằng, giếng nước này là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với dân Người và hiệp nhất tâm hồn với Thiên Chúa.” Từ nay, bà tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người và đi loan báo Đức Kitô cho dân làng bà, kết quả là: “Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng: Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39). Theo Origène “Vị Hôn Phu đích thực là Chúa Kitô (Ga 13, 181). Một khi người đàn bà này tìm thấy Ngài, bà liền chạy về loan báo cho dân làng biết; người đàn bà này là hình ảnh của người kitô hữu tuyên xưng đức tin của mình.” 

Nguồn suối cứu độ là chính Đức Kitô

Đức Kitô, Đấng ngồi nghỉ trên miệng giếng chính là nguồn nước, từ cạnh sườn bên phải Ngài, tuôn trào suối nước trường sinh; một phụ nữ có sáu đời chồng đã được tẩy sạch bằng dòng nước hằng sống ấy. Thật ngưỡng mộ biết bao: một người phụ nữ nhẹ nhàng đến giếng Samaria kín nước, bà múc nước từ giếng Giêsu! Tìm được nước, bà ra đi với sự tiết hạnh. Ngay lập tức bà xưng thú các lỗi mà Đức Giêsu ám chỉ, bà nhận ra Đức Mêssia và loan báo Đấng Cứu Thế. Bà để vò nước xuống, mang ơn sủng vào thành ; vai nhẹ bớt tội lỗi, nhưng tràn đầy sự thánh thiện… Đúng là ai đến trong tội lỗi sẽ trở về với sứ mạng tiên tri.

Nước hằng sống này đối với chúng ta là nguồn suối dâng trào sự sống đời đời. Nước này không phải là nước hòa với Máu Chúa Kitô, đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên cây Thánh giá đó sao? Đây không phải là các bí tích của Giáo hội mà Phép rửa trình bầy mầu nhiệm của nước ấy, để ám chỉ rằng nước đó phát sinh từ cái chết cứu độ của Đấng Cứu Thế đó hay sao? Trong mọi trường hợp, các Giáo phụ thấy nước tuôn chảy từ tảng đá do Môisen đập ra (Xh 17, 3-7) là hình ảnh tiên trưng của nước chẩy ra từ cạnh sườn Đấng Cứu Thế bị đóng đinh.

Mỗi người chúng ta đều có thể nhìn thấy chính mình nơi hình ảnh của người thiếu phụ Samari: Ðức Giêsu chờ đợi chúng ta, nhất là trong thời điểm của Mùa Chay, để đối thoại với chúng ta, nói với con tim của chúng ta. Người thiếu phụ Samari gặp được Chúa, bà xin Chúa, “Xin cho tôi nước ấy để tôi chẳng còn khát” (Mt 4, 15). Chúa đã cho bà, nhưng nước ấy, vò của bà không thể chứa được, bà phải để vò nước lại, đi loan báo cho dân làng, những người vẫn khước từ bà vì cái vò cũ (đời sống tội lỗi) nay bỏ vò đi họ liền đón nhận lời bà loan báo.

Phần chúng ta, để tiếp tục hành trình trong Mùa Chay Thánh, chúng ta cũng phải bỏ lại vò thói quen tội lỗi, chúng ta mới kín múc từ giếng Giêsu, Nước Hằng Sống, đựng vào trong tâm hồn trong sạch (vò đã được hoán cải), có thế, chúng ta mới kính múc được ân sủng của Thiên Chúa toàn năng. Như người đàn bà xứ Samria, chúng ta được mời gọi làm chứng cho người thời nay về niềm vui gặp gỡ Chúa, một cuộc gặp gỡ linh thiêng và cứu chuộc.

Lạy Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, xin giúp chúng con biết tận dụng cơ hội gặp gỡ này, là nơi chúng con có thể kín múc nguồn hạnh phúc đích thực cho cuộc đời chúng con. Amen.

 

12. Bên bờ giếng Giacob

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta cùng nhau chia sẻ hai ý tưởng:

Ý tưởng thứ nhất đó là nước

Mỗi khi đi làm thuỷ lợi giữa đồng không mông quạnh với cái nắng như thiêu như đốt, chúng ta mới thấy quý những giọt nước hiếm hoi.

Dân Do Thái trong Cựu Ước cũng đã trải qua kinh nghiệm ấy. Khi băng qua sa mạc cát nóng để trở về miền đất Hứa, họ đã hiểu được nước gắn liền với sự sống của họ như thế nào. Đồng thời qua dòng nước vọt lên từ tảng đá Horeb dưới cây gậy của Maisen, Chúa đã chứng tỏ Ngài là Đấng đem lại sự sống cho họ.

Với Chúa Giêsu thì khác, từ thứ nước bình thường dưới lòng giếng, Ngài đã giới thiệu với người phụ nữ Samaria một thứ nước đem lại sự sống vĩnh cửu. Thực vậy, đã từ lâu người Do Thái và người Samaria coi nhau như những kẻ thù truyền kiếp. Dưới mắt dân Do Thái thì người Samaria bị coi như một thứ ngoại đạo và uế tạp cần phải xa tránh, thế mà qua đoạn Tin Mừng vừa nghe Chúa Giêsu đã vượt qua ranh giới thù hận như một dòng nước tràn bờ đem lại sự xanh tươi cho những mảnh đất khô cằn. Ngài đã xin người phụ nữ Samaria chút nước uống. Hành động của Ngài đã gây nên sửng sốt và từ sự sửng sốt ấy, Ngài đã làm trổi dậy một sự sống mới.

Chúa Giêsu đã chứng tỏ sứ mạng của mình là được sai đến với những con chiên lạc. Cuộc đối thoại của Chúa Giêsu đã giúp người phụ nữ nhận ra tình trạng bất chính của mình, để rồi cuối cùng nàng đã xác tín Ngài chính là Đấng cứu thế. Chúa Giêsu đã khởi đầu bằng cách xin nàng cho Người uống nước, nhưng rồi cuối cùng chính nàng lại là người được lãnh nhận nước ban sự sống.

Ý tưởng thứ hai đó là nơi thờ phượng Chúa.

Người Samaria có đền thờ của mình tại núi Sichem. Trong khi đó người Do Thái lại khẳng định đền thờ của họ tại Giêrusalem mới là nơi thờ phượng Thiên Chúa đích thật, bởi vì đó mới chính là nơi Thiên Chúa ngự trị giữa dân Ngài. Vậy ai đúng. Người Samaria hay người Do Thái? Cuộc tranh luận có lẽ đã kéo dài nhiều tháng và nhiều năm, nhưng vẫn không có kết luận. Họ không phải chỉ tranh luận suông, mà hơn thế nữa, người Do Thái còn khích bác dân Samaria là đã theo đuổi một thứ tôn giáo lai căng. Còn người Samaria thì có lần đã chơi khăm bằng cách rắc xương người chết vào nơi thờ kính của dân Do Thái, để làm cho nơi đó ra uế tạp, không còn thích hợp cho công việc tế tự.

Người phụ nữ Samari hẳn muốn nhờ Chúa Giêsu đứng ra làm trọng tài giải quyết vì nàng nhìn nhận Ngài là người của Thiên Chúa, đã biết được những chuyện thầm kín của đời nàng. Thế nhưng, Chúa Giêsu đã nhân dịp này, mạc khải cho nàng biết phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý, bằng cách nhận biết Thiên Chúa là Cha. Chính sự thờ phượng Thiên Chúa là Cha và việc đặt mình vào trong mối quan hệ cha con với Thiên Chúa mới là việc thờ phượng mà Thiên Chúa hằng mong mỏi.

Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã thực sự yêu mến Chúa bằng tất cả trái tim và tâm hồn của mình, hay chúng ta đang còn mải mê chạy theo những nghi thức và những biểu dương bên ngoài?

 

13. Cơn Khát – An Phong

Chúa Giêsu đi đường mỏi mệt nên ngồi xuống trên bờ giếng”; và Ngài nói với người phụ nữ Samari “Chị cho tôi xin chút nước uống”. Chúa Giêsu xuống trần gian để chia sẻ kiếp sống của con người; Ngài cũng là một con người cụ thể, có những khó khăn của cuộc sống, có những vấn đề phải lo toan, có những vất vả đắng cay của một kiếp người như tất cả chúng ta. Chúa Giêsu cũng trải qua sự mỏi mệt và cơn khát của cuộc sống con người. Đừng ai nói rằng chỉ một mình tôi khổ nhất, chỉ một mình tôi bất hạnh nhất, cuộc đời của tôi khốn nạn nhất; vì đã có một Vị Thiên Chúa làm người và Ngài cũng “mỏi mệt”, cũng “khát” như tất cả chúng ta.

Tuy nhiên, dân Israen đã khát và đã kêu than trách móc; người thiếu phụ Samari đã khát và mong chờ Chúa Giêsu cho mình một thứ nước uống vật chất, bà được “hết khát và khỏi đến đây lấy nước”. Còn Chúa Giêsu, được chia sẻ cơn khát của con người, Ngài lại càng ước mong ban tặng một thứ Nước Trường Sinh có thể giúp nhân loại khỏi khát. Nước đó chính là bản thân Chúa Giêsu, là ơn Cứu độ của Chúa Giêsu, là Đấng có thể giải quyết “cơn khát” sâu xa giằng xé con người: “Đấng ấy chính là Ta, Người đang nói với chị đây.”

Cơn khát trong sa mạc cuộc đời vẫn luôn là “Maxa” và “Mêriba”, nghĩa là vẫn là nơi “thử thách” và “gây chuyện”. Nếu chúng ta cứ kêu than và trách móc; nếu chúng ta cứ tưởng có thể “giải khát” bằng những thứ “nước tiền tài”, “nước cơm bánh”, “nước danh vọng”, thì chúng ta đang tiếp tục cuộc thách thức Chúa như người Israen xưa.

Ngược lại, nếu chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng duy nhất có thể ban “Nước” để “ai uống Nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”, thì chúng ta cũng sẽ được cứu độ như người Samari; và được vui mừng như “Dân Samari xin Người ở lại với họ”… “vì chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Vị Cứu tinh của trần gian.”

Con mang vác nặng quá rồi, Chúa ơi!

Con chịu đựng không nổi nữa!

Con đường con đi, chưa dài lắm

Nhưng quá khứ đã đủ chất chồng;

Con đã sống bao biến cố tang thương.

Và nhiều lúc con xây xẩm mặt mày.

Con mang vác nặng quá rồi, Chúa ơi!

Con chịu đựng không nổi nữa!

Nhưng hôm nay… Lạy Chúa!

Có phải con mơ không?

Con tin mình đã tìm thấy

Điều mà từ lâu Chúa chờ đợi nơi con.

Con tình cờ đọc được

câu Thánh vịnh in nơi tấm hình:

“Hãy vứt bỏ những lo lắng trong Chúa

và chính Ngài sẽ nâng đỡ con luôn.”

Và con tin rằng, qua lời kinh đó,

Chúa đang thực sự nói với con.

(Michel Quoist)

 

14. Thiên Chúa lấp đầy khát vọng của con người

(Suy niệm của Lm. Inhaxiô Trần Ngà)

Không gì trên đời lấp đầy khát vọng của con người.

Con người có nhiều khao khát: khát tiền, khát quyền lực, khát danh vọng, khát hạnh phúc…

Nhưng không gì trên đời có thể lấp đầy những khát vọng đó.

Chưa có tiền thì khao khát có được ít tiền. Có tiền rồi thì muốn có nhiều hơn và cứ thế mãi không dừng.

Chưa có quyền thì khao khát cho có, có rồi thì khát được nhiều quyền hơn… không bao giờ no thoả.

Vì thế, ông Arthur Schopenhauer (1788-1860), một triết gia người Đức cho rằng: “Những lạc thú mà thế gian cống hiến cho con người cũng chỉ như nắm cơm bố thí cho người hành khất, chỉ làm dịu cơn đói hôm nay, rồi ngày mai lại đói.”    

Cha Anthony de Mello cũng nhận định tương tự: “Việc thoả mãn dục vọng không giải thoát chúng ta khỏi dục vọng, nhưng tạo thêm một dục vọng khác còn mãnh liệt hơn để rồi cái vòng lẩn quẩn: khát khao – thoả mãn, thoả mãn – khát khao…  cứ tiếp diễn mãi không cùng”, càng về sau lại càng tăng “đô” hơn. Và cứ thế, người ta phải chịu dày vò, thiêu đốt vì ngọn lửa khao khát trong lòng mình.

Người phụ nữ xứ Sa-ma-ri trong Tin mừng hôm nay (Ga 4, 5-42) cũng đã từng trải qua cơn khát tương tự. Chị đã mưu tìm hạnh phúc qua năm đời chồng rồi nhưng lại phải lần lượt chia tay với cả năm, để mưu tìm hạnh phúc với người thứ sáu. Rốt cuộc chẳng ai trong họ có thể đem lại cho chị hạnh phúc thực sự trong cuộc đời. Chị đi tìm hạnh phúc cũng y như đi lấy nước. Ngày nào cũng phải lặn lội tìm đến giếng nước xa, múc cho đầy vò rồi ngày hôm sau lại khát và tiếp tục đội vò đi tiếp…

Chính vì thế nên Chúa Giê-su khẳng định với người phụ nữ Sa-ma-ri: “Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại.” Với những lời này, Chúa Giê-su muốn cho ta biết không gì trên đời có thể đáp ứng khát vọng của con người.

Chỉ có Thiên Chúa  mới lấp đầy khát vọng con người

Xưa kia, tâm hồn của Augustinô cũng bị giày vò bởi nhiều khao khát, nhưng không gì trên thế gian có thể lấp đầy con tim khao khát của ngài. Mãi đến tuổi 33, nhờ ơn soi sáng của Thiên Chúa và lời nguyện cầu liên lỉ của người mẹ thánh thiện là Mô-ni-ca, Augustinô mới khám phá Thiên Chúa là Nguồn Suối đáp ứng khát vọng của ngài và làm cho tâm hồn ngài dạt dào niềm vui. Bấy giờ lòng đầy hoan lạc, Augustinô thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, vì thế hồn con mãi thổn thức khôn nguôi, cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài.”

Chỉ trong Thiên Chúa, khát vọng của Augustinô mới được lấp đầy. Quả đúng như Lời Chúa Giê-su nói: “Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại, còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Gioan 4, 13-14)

Lạy Chúa Giê-su,

Còn rất nhiều người đang khát Chúa mà vẫn chưa tìm thấy Chúa là Nguồn Nước mang lại hoan lạc và bình an cho tâm hồn. Xin cho họ được nhận biết Chúa chính là Nguồn Suối mà họ hằng khát khao.

Xin cho chúng con, như người phụ nữ Sa-ma-ri xưa, một khi đã tìm được Chúa là Nguồn Nước trường sinh, thì cũng mau mắn giới thiệu cho mọi người đến gặp Chúa, để họ cũng được đón nhận Chúa là Mạch Suối mang lại sự sống đời đời.

 

15.             Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà

Chỉ có Chúa mới lấp đầy được trái tim khao khát của con người.

(Trích ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)

Có đi cả ngày trời trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân là cát nung như đoàn dân Do-Thái ngày xưa trong hoang địa mới cảm nhận được cái khát hành hạ người ta như thế nào và nhu cầu được uống cho đã cơn khát mới bức xúc làm sao. Thế nên khi bị cơn khát dày vò, họ đổ lỗi cho Mô-sê đã đưa họ vào nơi hoang địa khô cháy và đòi đem vị lãnh tụ nầy ra mà ném đá. (Bài đọc I, sách Xuất Hành 17, 3-7)

Thế nhưng ngoài cơn khát tự nhiên là khát nước, con người luôn có những khao khát mà không có gì trên thế gian có thể làm cho họ được no thoả. Người ta gọi đây là khát vọng vô biên. Đây là cơn khát về mặt tâm linh nên chẳng có thứ nước nào trên đời có thể làm dịu bớt.

Người phụ nữ xứ Samari trong Tin Mừng hôm nay (Ga 4,4-42) cũng đã từng trải qua cơn khát tương tự. Chị đã mưu tìm hạnh phúc qua năm đời chồng rồi nhưng lại phải chia tay để tìm hạnh phúc với người thứ sáu; mà cũng chẳng ai trong họ có thể đem lại cho chị hạnh phúc thực sự trong cuộc đời. Chị đi tìm hạnh phúc cũng y như đi múc nước. Ngày nào cũng phải lặn lội tìm đến giếng nước xa, múc cho đầy vò rồi ngày hôm sau lại khát và tiếp tục đội vò đi tiếp.

Chính vì thế mà Chúa Giêsu khẳng định với người phụ nữ Samari: “Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại”. Ngài muốn nói không gì trên đời có thể đáp ứng khát vọng của con người.

Triết gia người Đức, ông Schopennauer khám phá: “những lạc thú mà thế gian cống hiến cho con người cũng chỉ như nắm cơm bố thí cho người hành khất, chỉ làm dịu cơn đói hôm nay, rồi ngày mai lại đói.”

Cha Anthony de Mello cũng nhận định tương tự: “Việc thoả mãn dục vọng không giải thoát chúng ta khỏi dục vọng, nhưng tạo thêm một dục vọng khác còn mãnh liệt hơn để rồi cái vòng lẩn quẩn: khát khao – thoả mãn, thoả mãn – khát khao… cứ tiếp diễn mãi không cùng”… lại càng ngày càng tăng “đô” hơn. Và cứ thế, người ta phải chịu dày vò, thiêu đốt vì sự ngọn lửa khao khát trong lòng mình.

***

Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho người phụ nữ Samari cũng như cho chúng ta một Nguồn Suối mang lại hạnh phúc: “Ai uống nước nầy sẽ lại khát, còn ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4,13-14)

***

Augustinô là người mải mê tìm kiếm lạc thú trần gian suốt nhiều năm trường nhưng không gì trên thế gian có thể lấp đầy trái tim khao khát của ngài, mãi đến tuổi 33, nhờ ơn soi sáng và lời nguyện cầu liên lỉ của người mẹ thánh thiện là Mônica, Augustinô mới tìm được Thiên Chúa là Đấng đem lại cho ngài niềm hoan lạc vô biên. Bấy giờ lòng đầy hoan hỉ, Augustinô thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, vì thế hồn con mãi thổn thức khôn nguôi, cho đến khi được nghỉ yên trong tay Ngài”.

Chỉ trong Thiên Chúa, khát vọng của Augustinô mới được lấp đầy. Quả đúng như Lời Chúa Giêsu nói: “Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại, còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4,13-14)

***

Lạy Chúa Giêsu, chúng con sung sướng được đón nhận Chúa là Mạch Suối thiêng liêng làm tươi mát đời chúng con. Chúng con như những lùm cây trồng bên suối nước. Chúng con được xanh tốt là nhờ giáo huấn của Chúa đem lại sức sống thiêng liêng cho chúng con. Chúng con thật sự hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Chúng con cảm thấy bình an và hoan lạc vì Chúa đã lấp đầy trái tim khao khát của chúng con.

Nhưng chúng con biết rằng còn rất nhiều người đang khát Chúa mà vẫn chưa tìm thấy Chúa. Xin thương đến với họ như xưa Chúa đã đến với người phụ nữ Samari.

Xin cho chúng con, như người phụ nữ Samari xưa, sau khi nhận được Mạch Suối Chúa ban, thì cũng giới thiệu cho cả thành ra gặp Chúa, để họ cũng được no thoả nơi Chúa là Mạch Suối mang lại sự sống đời đời. Amen.

 

16.             Sản xuất tại gia – Lm Vũ Đình Tường

Con người dù lớn hay nhỏ, dù già hay trẻ đều cần có thực phẩm và nước uống để nuôi thân. Thức ăn, nước uống trở thành nhu cầu không thể thiếu. Ăn uống không chưa đủ mà còn cần tình yêu để sống thảnh thơi, hạnh phúc. Chỉ có người thành tâm yêu ta mới có thể trao tặng tình yêu chân chính. Ngoài ra những tình yêu khác đều là lợi nhuận. Bản chất của lợi nhuận là thương mại vì thế có tình trạng buôn bán tình yêu.

Câu người ta thường nói ‘bác ái bắt đầu tại gia đình’ câu này ám chỉ gia đình là nơi thực hành đức ái. Như thế bác ái không phải tự nhiên mà có mà là phải học hỏi và thực hành. Gia đình là trường đầu tiên và là trường tốt nhất dậy sống và thực hành đức ái. Như thế bác ái sản xuất tại gia. Gia đình thiếu thực hành đức ái là hoả lò và những ai lớn lên trong hoả lò đều, nếu làm nhỏ trở thành tội phạm xã hội; nếu làm lớn trở thành tội đồ dân tộc bởi hành động của họ thiếu yêu thương, vắng tha thứ. Lịch sử thế giới ghi nhận nhiều tội đồ dân tộc xuất thân từ gia đình thiếu đức ái. Lớn lên trong hoàn cảnh con người đối xử dã man với nhau nên về sau thành thân họ cũng hành xử vô cùng độc ác với đồng chủng và đồng loại.

Vui lòng, hăng say làm việc vặt trong nhà là thực thi Đức ái. Dù là việc cỏn con nhưng hiệu quả của chúng lại rất lớn bởi vì những việc cỏn con kia thể hiện tình yêu qua hành động. Người ta không thể nhìn thấy tình yêu nhưng qua hành động yêu thương làm rung động con tim người khác. Khi một thành viên trong gia đình cố gắng sống tinh thần bác ái người đó vừa làm giầu cho chính mình vừa mang lại nguồn vui cho gia đình và hạnh phúc thay những bạn nào được trở thành bạn những người giầu tinh thần bác ái.

Chu toàn bổn phận chưa hẳn là thực thi bác ái nhưng sống thực thi bác ái lại hoàn thành tốt đẹp hơn những gì bổn phận đòi hỏi bởi làm với tâm tình yêu mến. Việc làm với tâm tình yêu mến giúp kẻ đau khổ được ủi an, người sầu muộn cảm thấy an ủi, kẻ cô đơn tìm được chỗ dựa và kẻ tuyệt vọng sống hy vọng. Người thực thi bác ái thường nhìn thấy tình người quan trọng và không để cho lỗi lầm nếu có, dị biệt mầu da, chủng tộc và khác biệt về chính kiến ngăn trở việc thực thi đức ái.

Đức Kitô thực hiện những điều này tại bờ giếng bên làng cho người phụ nữ thành Samarita ra đó múc nước. Chính Ngài tiến đến bắt đầu câu chuyện, xin chị cho nước uống. Từ nước giếng dẫn chị đến nước trường sinh. Đức Kitô gây ngạc nhiên cho chị phụ nữ và các tông đồ vì Ngài đàm thoại với người xứ Samarita, phạm vào luật cấm kị thời đó.

Đức Kitô xin chị nước uống bởi đi đường dài, trời nắng, Ngài khát. Ngày nay Ngài còn khát không phải nước giếng mà khát khao cho mọi người đến cùng Ngài. Ngài đã lập lại điều này trên thập tự. Ta khát. Khát khao đến với các tâm hồn từ chối đón nhận Ngài. Kẻ từ chối đón nhận Ngài thường hận Ngài vì lời Ngài mời họ tin theo chạm tự ái. Họ muốn lãnh đạo đâu muốn tin theo. Đức Kitô khát khao đến thăm nhà những Kitô hữu. Ngài khát khao đến trọ đêm nhà bạn. Ngài sinh nơi đồng vắng mùa đông nên Ngài ước ao được đón vào nhà mà không bị xua đuổi. Ngài khát khao nghe tiếng bạn nói, tiếng bạn cười, hơi thở ngập ngừng của người già cả, tiếng ngáy ngủ ngon của người suốt ngày vất vả lao nhọc, tiếng thở dài của kẻ có điều phiền muộn. Đức Kitô khát khao ban cho bạn nước trường sinh. Những ai chân thành đón nhận Ngài đều nhận được nước trường sinh không bao giờ cạn vì nước đó như lời Ngài nói sẽ trở thành suối nước trong từ tâm hồn, dẫn bạn đến suối nước trường sinh.

Chị phụ nữ thành Samarita đã cho Đức Kitô nước giếng, Ngài cám ơn cho lại nước trường sinh, thoả mãn lòng chị ước mơ.

 

17.             Nước – Lm. Vũ Đình Tường

Chúng ta nghe nói nhiều về nước nhưng ít ai có thể tưởng tượng được mức tàn phá khủng khiếp và tốc độ di chuyển thần tốc của nước. Nước di chuyển không trừ nơi nào, trên sông biển, trên cạn và cả trên không trung. Hạt sương nho nhỏ không đáng kể, cơn mưa rào không đáng sợ. Mưa tầm tã nhiều ngày quả là khủng khiếp. Hình ảnh sống động trên truyền hình của trận lũ lụt tại Úc châu và cơn động đất, tiếp theo là bão sóng thần tại Nhật mới đây gây kinh hoàng cho những ai nhìn thấy cảnh chết chóc, điêu tàn đang diễn ra trước mắt.

Không bỏ sót gì. Đi đến đâu nước kéo sập làng mạc, dinh thự, cột điện đến đó. Trong chớp nhoáng nước tràn sâu lục địa, vượt qua đại lộ, hất tung đoàn xe đang chạy, chiếc vất chơi vơi trên mái nhà, chiếc đắm chìm mất hút trong làn nước, chiếc xoáy tròn theo dòng thác lũ. Nước nhổ neo, vỗ nát con tầu đánh cá thành vạn mảnh trong nháy mắt. Trước sức mạnh vũ bão đó con người chỉ còn một chọn lựa duy nhất là chạy. May thì thoát, ngược lại là nạn nhân.

Biến cố lũ lụt vừa qua ít nhiều, giúp ta hình dung khung cảnh câu chuyện ghi trong sách Xuất Hành chương 14 ghi lại trong Cựu ước. Chúa sai Môise dùng cây gậy rẽ nước dẫn dân Ngài vượt Biển Đỏ ráo chân. Điều này cho biết Thiên Chúa làm chủ tất cả, từ biển khơi đến sông ngòi và ngay cả đường đi, chốn ở của nước. Nếu không, làm sao tổ phụ Môisen biết hòn đá nào có nước để gõ. Giữa samạc Zin khô cằn cát nóng bỏng. Thiên Chúa phán bảo ông gõ đá ra nước cho thấy Ngài là chủ tể muôn loài (Xh17). Làm chủ trời cao, đất liền, sa mạc, biển khơi, sông ngòi, và mọi sinh vật từ lòng biển đến lòng đất.

Nước trường sinh

Điều chắc chắn không phải nước nào cũng mang lại sự sống. Nước lụt và sóng thần tràn ngập nhưng dân chúng vùng đó lại thiếu nước uống. Vì nước bị nhiễm độc, uống vào làm mất sự sống. Thủy thủ trên biển cả bao la, bát ngát, luôn phải tiết kiệm nước vì sợ thiếu. Nghe có vẻ nghịch lí nhưng trật tự thiên nhiên Chúa tạo dựng như vậy. Đảo lộn trật tự này sẽ lãnh hậu quả tang thương.

Nước ngọt mang lại sự sống cho tôm cá, ngư sản nước ngọt. Nước mặn cho nước mặn, nước lợ cho nước lợ. Nước nào cho loại sinh vật tuỳ loại đó nếu trái với thiên nhiên sự sống bị thiệt thòi. Vì thế nước trần gian mang lại sự sống nơi trần gian. Nước thiên đàng mang lại sự sống thiên đàng.

Sức nước đi đến đâu tàn phá, quyét sạch mặt đất đến đó. Còn lại là tàn tích của đổ vỡ, điêu tàn và mặt đất nhẵn lớp phù sa. Nước trường sinh có sức mạnh tẩy rửa đời sống bên trong, đời sống nội tâm. Xoá bỏ quá khứ cuộc đời. Đào tận căn mọi gốc rễ tội lỗi của tâm hồn thống hối, ăn năn. Nước trường sinh tẩy xoá mọi tì ố, vết dơ, đố kị, thù hằn. Nước trường sinh quyét sạch tội đời bằng cách tẩy thói hư, rửa tật xấu, xoá ích kỉ, gột kiêu căng. Nước trường sinh làm mềm tâm hồn cứng cỏi, dịu cơn giận, giảm cơn đau. Nước trường sinh sưởi ấm con tim nguội lạnh, san bằng bất công, tiêu diệt áp bức, càn trước, quét sau, dọn sạch tâm hồn cho hạt giống thứ tha nảy mầm, cho tình người nở hoa. Thắt chặt tình thân ái, cảm thông, tình anh em, mở đường dẫn đến ăn năn, thống hối để nhận ơn thứ tha, giao hoà cùng Thiên Chúa và tha nhân.

Nước trường sinh không đến từ giòng sông, không gây nên bởi bão táp, biển khơi lộng gió hay va chạm dưới lòng đất sâu. Nước trường sinh thức tỉnh bởi sóng lòng, rung nhịp con tim, mời lương tâm lên tiếng thúc dục, giúp óc tỉnh ngủ nhận ra lỗi lầm. Tất cả do sức mạnh Lời Chúa vì lời Chúa là đèn soi, chiếu dọi tâm hồn.

Bên bờ giếng

Bên bờ giếng Đức Kitô đối thoại với người phụ nữ thành Samarita. Ngài hỏi xin chị nước uống. Chị thắc mắc ông không phải dân làng sao lại đến đây xin nước. Gây cho chị ngạc nhiên hơn nữa, Đức Kitô, người hỏi xin nước, giờ hứa ban nước cho ai thành tâm xin. Chị phụ nữ thành Samarita tự hỏi gầu không có làm sao có thể lấy nước từ giếng sâu. Thắc mắc bình thường kia là dịp tốt để Đức Kitô giải thích về nước trường sinh. Ngài hứa ban, không phải nước thường, nước giếng, nước sông, nước rạch vì thế không cần gầu để kín, múc. Loại nước đó uống rồi lại khát, cần uống tiếp. Nước đặc biệt mà Đức Kitô ban là nước trường sinh, không cần gầu để múc, kéo.

Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời. Gn 4,14

Làm sao để có được nước trường sinh.

Đổi tấm lòng

Đức Kitô cho biết nước Ngài ban sẽ thành mạch nước từ tấm lòng vọt lên mang lại sự sống. Như thế muốn nhận lãnh nước trường sinh chỉ có một cách duy nhất là nhìn đến tấm lòng, tìm ra nguồn nước hằng sống. Nguồn nước đó bị bụi đời che khuất, tội đời ngăn cản, thói đời lấp lối và tình đời làm bế tắc ống dẫn nước.

Tìm được nguyên nhân gây bệnh việc chữa trị xem ra có nhiều hy vọng hơn. Phủi sạch bụi đời sẽ tìm thấy nguồn nước. Từ giã tội đời nguồn nước được thông. Đổi đời để có cuộc đời mới. Nối kết tình người sẽ có nguồn sống mới. Dâng hiến cuộc đời sẽ nhận được đời mới. Giã từ lối sống trác táng để nhận lại cuộc sống mới tôn thờ Thiên Chúa.

Thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật c.24

Chúng ta cầu xin biết đổi đời thường lấy đời sống trường sinh. Dâng hiến đời sống trần gian lấy đời sống thiên quốc.

 

18.             Cơn khát đam mê – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Người ta kể rằng: có một người thợ đào vàng chết và lên thiên đàng. Ngay ở cổng thiên đàng, thánh Phê rô hỏi:

– Ở trần gian con làm nghề gì?

– Anh ta thưa: Con làm nghề đào vàng.

– Thánh Phê rô nói: Trên thiên đàng đã có quá nhiều thợ đào vàng rồi.

– Anh ta đáp: Thưa ngài, xin cứ cho con vô, để con cai trị bọn nó, kẻo chúng tham lam mà gây náo loạn thiên cung, làm sao dẹp loạn.

– Nhờ dẻo miệng anh ta cũng được thánh Phê rô cho vào thiên đàng. Anh ta đảo một vòng thiên đàng thì quả thật có rất nhiều tay thợ đào vàng đang ở thiên đàng. Anh ta liền rỉ tai rằng: ở hoả ngục vừa phát hiện ra một mỏ vàng mới. Các anh mau xuống đó mà đào. Thế là một thoáng qua đi, các tay đào vàng đã bỏ thiên đàng, vác cuốc, vác xẻng nhảy bổ xuống hoả ngục tìm vàng. Nhìn quanh nhìn quẩn chỉ còn lại một mình, anh cũng cảm thấy đứng ngồi không yên. Anh liền xin phép thánh Phê rô cho anh xuống tham quan một vòng hoả ngục xem sao. Thánh Phê rô mới bảo anh: đừng có mà ảo tưởng. Chẳng có mỏ vàng nào ở hoả ngục đâu! Chỉ có sự chết mà thôi! Nhưng anh ta nói: thưa ngài, chính con là người phao tin đồn đó, nhưng biết đâu ở đó lại có vàng thật thì sao? Vì bọn kia đã ra đi mãi mà chẳng thấy đứa nào quay trở lại. Chắc là có vàng thật! Nói xong, anh liền nhảy luôn xuống hoả ngục. Thế là cả đống, cả chùm ở dưới hoả ngục. Lòng tham của con người thật khôn cùng, sẵn sàng hy sinh cả hạnh phúc đời đời để thoả mãn cái khát vọng thấp hèn trần gian mau qua.

Có thể nói, đói khát vàng bạc, giầu sang chỉ là một trong muôn vàn cơn đói khát đang hành hạ và giết chết hàng vạn người. Có biết bao cơn khát của đam mê lầm lạc, của thú vui xác thịt, của tiền tài danh vọng đã đẩy bao người vào hố sâu của vực thẳm. Càng ngụp lặn trong vực thẳm, càng làm cho họ trở nên điên rồ đánh mất nhân cách, đánh mất tính người. Họ đã lầm. Vì tất cả những thứ đó không bao giờ làm thoả mãn cơn khát trong lòng họ. Vì được voi đòi tiên. Vì lòng tham vô đáy. Họ chỉ bắt được bóng chứ không bắt được mồi. Giếng sâu của lòng tham chỉ làm cho con người thất vọng, chán chường. Con người vẫn khao khát một điều gì đó vượt lên những ảo ảnh trần gian.

Người thiếu phụ bên bờ giếng Giacob hôm nay cũng thế. Mỗi ngày, chị phải ra giếng kín nước. Nhưng uống nước này là tự đầy đoạ mình. Dù chưa nhận ra, nhưng chị vẫn thao thức và bị dày vò vì một cơn khát nào đó mà những mối tình trần tục đã không giải khát nổi, đã không làm dịu đi sự thèm khát chút nào, càng đi sâu vào biển tình, chị càng thấy thiếu thốn.

Thánh Gioan đã nói “vì chị đã có 5 đời chồng”. Nói 5 đời chồng không có nghĩa là một mình thiếu phụ đã đi lập gia đình năm đời chồng liên tiếp. Nhưng có lẽ là 5 mối tình bất chính. Và cả người thứ sáu cũng không thực sự là chồng. Như vậy, chị đã quan hệ bất chính một lúc với sáu người đàn ông nhưng không ai thực sự là chồng của chị. Chị là một phụ nữ trắc nết, bị xóm ngõ khinh miệt, loại trừ, chị phải đi kín nước vào giữa trưa hè nắng thay vì ban sáng hay chiều hôm như bao phụ nữ khác. Chị đi vào giờ này là để tránh gặp hàng xóm láng giềng. Nhưng không ngờ chị lại gặp Chúa Giê su. Lần gặp này đã thay đổi vận mạng cuộc đời của chị. Chúa Giê su đã mở lối thoát cho chị thật nhẹ nhàng, khi Chúa nói: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị cho tôi xin nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống. Ai uống nước này sẽ không còn khát nữa”.

Chúa Giê su đã dẫn dắt chị đi từ ý niệm cụ thể vật chất đến siêu nhiên. Từ việc chính Chúa khát nước giữa trưa hè nắng đổ lửa đến một sự khát bỏng của tâm hồn khô cạn ơn thánh. Người thiếu phụ này hằng khao khát hạnh phúc và chị đã tìm sự thoả mãn trong lạc thú với nhiều người đàn ông một lúc, thế nhưng vẫn không thoả mãn cơn khát trong lòng chị.

Cuộc đời của thiếu phụ này là một thất bại dài đầy nghiệt ngã thất vọng. Cho đến khi gặp được Đấng Ky tô, chị ta mới nhận ra. “Còn ai uống nước tôi ban sẽ không bao giờ khát nữa”. Nước Chúa ban là nước trường sinh. Nước này không có cặn bã của tham lam bất chính, của dục vọng đen tối, của đam mê lầm lạc. Nguồn nước ân thánh tinh khiết có khả năng chữa lành các thương tích của tâm hồn và làm hồi sinh những tâm hồn đang chết trong đam mê tội lỗi. Người ta nói trong thất bại thường có sự may mắn. Chị là người may mắn đầu tiên được lãnh nhận nguồn nước ân thánh đó. Thế là tâm hồn chị được tha thứ, được rửa sạch và đã khát, chị chẳng cần đến giếng Giacob và nước nữa, chị thoăn thoắt chạy vào thành báo tin cho dân làng biết có thứ nước hằng sống, nước trường sinh mà mọi người đang khao khát, đó là Đấng Ky tô là Thiên Chúa cứu độ, là Đấng Messia họ đang mong đợi. Vì chính Đấng ấy đã nói với chị: “Chính tôi là Đấng đang nói với chị đây”.

Hôm nay Chúa viếng thăm người thiếu phụ Samaria và bà đã được tỉnh ngộ. Bà đã làm lại cuộc đời. Hằng ngày Chúa cũng đến thăm chúng ta qua thánh lễ, qua Lời Chúa và các bí tích, nhưng liệu chúng ta đã tìm được nguồn suối ân sủng của Ngài hay ta vẫn còn loay hoay ngụp lặn trong những ảo ảnh trần gian?

Mùa chay mời gọi chúng ta hãy tự kiểm điểm lại đời sống của mình: tôi đang khao khát những gì? Tôi đã tim được chúng chưa? Tôi thường tìm thoả mãn về những điều gì? Điều đó có giúp ta nên thánh hay đang huỷ hoại mình trong những cơn đói khát bất chính?

Lời Chúa vẫn mời gọi chúng ta: “ai uống nước này sẽ không còn khát nữa”, chúng ta có tin và sống như thế hay không? Hay chúng ta vẫn đói khát của cải danh vọng, quyền thế để khi không được, chúng ta lại trách Chúa như dân Do Thái hồi ở Masa trong sa mạc năm xưa?

 

19.             Giòng nước hằng sống – Cố Lm. Hồng Phúc

Dưới ngòi bút linh động của Gioan, bài Phúc Âm hôm nay mô tả cuộc gặp gỡ của Chúa bên bờ giếng Giacóp với thiếu phụ Samaria. “Khi ấy, Ngài tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria… ở đó có giếng của Giacóp, Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghĩ trên miệng giếng” giữa trưa hè. Chắc là Chúa ngồi sát mặt đất, lưng tựa vào bờ thành giếng. Ngài ngồi đó mệt mỏi, sau một khoảng đường dài qua xứ Samaria.

Ngài ngồi đó để chờ đợi. Ngài biết muốn gặp gỡ đàn ông thì ra phố chợ, muốn gặp gỡ đàn bà thì ra bờ giếng. Ngài ngồi đó để đón chờ chúng ta, vừa mệt vừa đói. Trời đã về trưa, nắng, nóng. Ngài ngồi đó để chờ một người đàn bà mà cuộc đời có nhiều sóng gió, đang ỏn ẻn đầu đội vò, tay xách gầu đi ra.

Cuộc gặp gỡ tương tợ như những lần gặp gỡ do Thánh Kinh kể lại giữa Giacóp và Rachel (Stk 29), giữa Moisê và các con gái của Rơuel-Yêthrô (Xh 2. 15-22) bên một suối nước. Chúa nói: “Xin bà cho tôi uống nước”. Ngài khát. Nhưng khát gì?

Lời nói của Chúa hàm chỉ hai ý nghĩa. Ngài khát sau những giờ cuốc bộ dưới nắng hè, nhưng Ngài khát khao cứu các linh hồn đang cần một thứ nước thiêng liêng cao trọng hơn.

Cuộc đối thoại giữa Chúa và người đàn bà kênh kiệu bắt đầu. Từ bối cảnh một giếng nước sâu đến thảm trạng một tâm hồn ngụp lặn trong tội lỗi, Chúa Giêsu đã khơi lên một giếng nước hằng sống “mà ai uống thì không bao giờ còn khát nữa”.

Mỗi ngày, thiếu phụ Samaria phải ra giếng kín nước. Nhưng càng uống lại càng khát cũng như càng đi sâu vào biển tình càng thấy thiếu thốn. Đời của bà là một chuỗi thất bại. Chúa đưa bà đến chỗ phải thú nhận. Tuy nhiên bà vẫn còn tin cậy và tìm kiếm, vẫn mong chờ Đấng Messia đến, “Ngài sẽ loan báo hết mọi sự”.

Và giòng nước đã vọt lên: “Hỡi bà, Đấng ấy chính là Ta, Người đang nói với bà đây”. Thiếu phụ đã cầu được ước thấy, được rửa sạch. Giòng nước Ngài ban “trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời”.

Thiếu phụ Samaria không còn nghĩ đến giếng, đến vòi, vội chạy về thành báo tin cho mọi người biết để họ cùng nhìn nhận Ngài là Đấng Cứu Thế.

Gioan qua từng giai đoạn đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Chúa Giêsu. Ngài là một người tha hương mỏi mệt, một người Do thái bị khinh chê, một nhà tiên tri đọc được trong tâm hồn, là Đấng Messia đến để dạy cách thờ phượng trong tinh thần và chân lý, là Đấng Cứu chuộc của nhân loại. Đó là tóm lược bài Phúc Âm của Chúa ngày hôm nay.

Suy niệm bài Phúc Âm này, một số chị em ở Bỉ đã lập ra Tu hội “Eau Vive” (Nước Hằng Sống). Ngoài việc cầu nguyện trước Thánh Thể, chị em còn mở quán ăn phục vụ khách hàng. Các cô chiêu đãi là những cô thuộc nhiều quốc tịch mà câu châm ngôn là phục vụ Chúa Giêsu trong các thực khách. Mỗi buổi tối lúc 9 giờ, chị em có giờ cầu nguyện, chia sẻ Phúc Âm. Thực khách được mời tham dự, ai không tham gia thì cứ tự nhiên. Thế rồi các chị em cùng một số ít thực khách sắp ghế vòng quanh lại, bắt đầu cầu nguyện. Quán ăn đã trở nên Nhà Cầu Nguyện, vì có Chúa hiện diện như ngày xưa… bên bờ giếng Giacóp.

 

20.             Nguồn nước diệu kỳ (Ga 4,5-42) – Thiên Phúc

(Trích “Như Thầy Đã Yêu”)

Có một người Ả Rập nghèo nọ phải băng qua giữa sa mạc trong cơn đói khát và mệt lả. Tình cờ, người đó bắt gặp một dòng suối. Với tất cả tấm lòng biết ơn ông ta uốn từng ngụm nước và cảm thấy ngọt ngào khôn tả. Ông múc nước đổ vào bầu da cho đầy và tiếp tục cuộc hành trình.

Sau nhiều ngày vất vả, ông đã đến thủ đô Baghdad. Tìm đủ cách để được tiếp kiến quan đầu tỉnh, ông dâng kính cho quan tặng vật là chính bầu nước. Quan đầu tỉnh đón nhận món quà một cách vui vẻ. Cho nước vào trong ly, ông uống cạn và cám ơn người Ả Rập, đồng thời tưởng thưởng ông một cách quảng đại.

Những người hầu cận cứ nghĩ thầm rằng đây là một thứ nước kỳ diệu nên ai cũng mong được nếm thử. Nhưng quan đầu tỉnh nhất mực từ chối… Chờ cho người Ả Rập đi khuất, quan mới giải thích về cử chỉ của mình. Nước để lâu trong bầu da đã trở nên bẩn và hôi thối. Quan nghĩ rằng nếu tất cả mọi người đều uống nước đó và đều tỏ thái độ khó chịu trước mặt người Ả Rập, ông ta hẳn sẽ bị tổn thương.

***

Người Ả Rập cứ tưởng mình trao tặng cho quan đầu tỉnh món quà diệu kỳ. Hóa ra là chính quan đầu tỉnh mới là người tặng cho anh món quà vô giá, với một phong cách trao ban hết sức tế nhị và thấm đậm tình người.

Người phụ nữ Samari cứ tưởng mình làm ơn cho Đức Giêsu khi cho Người uống nước từ giếng Giacóp. Hóa ra Người mới chính là vị ân nhân sẽ ban cho bà một thứ nước diệu kỳ, uống vào “sẽ không bao giờ khát nữa”.

Nước ấy chính là Nước hằng sống, nước đó chính là Lời Đức Giêsu, Lời bày tỏ con người kín nhiệm của Người, là Đấng Mesia sẽ đến. Để cuối cùng, Người dã tự tỏ mình ra không phải cho người Do Thái đồng hương, cũng không phải cho các môn đệ thân yêu, mà là cho chính chị, người phụ nữ ngoại giáo Samari: “Đấng ấy chính là tôi, Người đang nói với chị đây” (Ga 4,26). Niềm vui vỡ òa trong tim, chị vội vã đi loan báo cho dân làng, để họ cũng được uống thứ nước tuyệt diệu của Đức Giêsu, Nước hằng sống, nước uống vào sẽ không còn khát nữa.

“Đấng ấy” chính là Mêsia, vị cứu tinh của nhân loại. Chỉ những ai tin vào Người, mới đáng lãnh nhận ơn cứu độ.

“Đấng ấy” chính là Nước hằng sống. Chỉ những ai thật lòng khao khát mới được ban cho thỏa thuê dư dầy.

“Đấng ấy” chính là Lời hằng sống. Chỉ những ai đón nhận Lời và thực thi trong cuộc sống, mới được sống đời đời.

Cuối cùng, Đức Giêsu không ăn cũng chẳng uống. Vì Người dùng một thứ lương thực mà chính các Tông đồ cũng không hề biết. Thánh Gioan đã không để chúng ta phải chờ đợi lâu. Vâng, lương thực của Người chính là “đồng lúa đã chín vàng đang chờ gặt hái” (c.35), là “nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Người” (c.39). Cơn đói của Người là mong cho mọi người nhận biết và yêu mến Cha, cơn khát của Người là ước cho muôn người được no thoả “nước uống vào sẽ không còn khát nữa”.

Chúng ta sẽ làm thỏa cơn đói của Đức Giêsu, khi chúng ta làm theo người phụ nữ Samari mau mắn đi loan báo cho dân làng biết Người chính là Đấng Mêsia.

Chúng ta sẽ làm thoả cơn khát của Đức Giêsu, khi chúng ta cùng với dân làng Samari tin Người là “Đấng cứu độ trần gian” (c.42).

***

Lạy Chúa, xin khơi dậy nơi chúng con nỗi khao khát hướng về Chúa, nỗi khao khát được Chúa cứu độ và yêu thương. Amen.

 

21.             Nước Hằng Sống – Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng

Có một câu chuyện mang tên “Lòng cảm thông”, có nội dung như sau:

Có một goá phụ giàu có nọ phụng dưỡng một tu sĩ trong 20 năm liền.

Bà xây cho vị tu sĩ này một tịnh xá ngay trong khu vườn vắng vẻ thanh tịnh của bà. Bà cung cấp cho ông đủ mọi thứ trong thời gian ông tu niệm. Bà rất đỗi sung sướng khi nhận thấy những tiến bộ của ông trong bước đường thiêng liêng, nhưng bà vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng. Để xem 20 năm hy sinh của bà có hoài công hay không, người đàn bà này quyết chí thử lòng kẻ tu trì.

Một hôm, bà cho tìm một cô gái trẻ đẹp, trả tiền cho cô và sai cô đến cám dỗ vị tu sĩ. Nửa đêm, trong lúc vị tu sĩ này đang ngồi thiền, cô gái xông cửa bước vào tịnh xá và dùng đủ mọi lời lẽ, cử chỉ để quyến rũ ông, nhưng vị tu sĩ vẫn một mực chìm đắm trong việc tụng niệm. Đến một lúc không còn chịu đựng được nổi sự tấn công của cô gái nữa, vị tu sĩ bèn quơ cái chổi đánh túi bụi vào người cô gái và tống cô ra ngoài.

Cô gái đến gặp người đàn bà và kể lại diễn tiến câu chuyện.

Người đàn bà hài lòng về sự thánh thiện của vị tu sĩ này ư? – Không! Nghe cô gái tường thuật xong, người đàn bà liền nổi giận thốt lên:

Hắn ta không biểu lộ một sự thông cảm nào với con, hắn ta không nói được một lời để khuyên bảo dạy dỗ con, 20 năm tu niệm ăn chay của hắn qủa là vô ích. Bởi vì hắn chưa đạt được điều thiết yếu trong cuộc sống, đó là lòng cảm thông.

 

Tìm đến con người

Thiên Chúa luôn đi bước trước để đến với con người. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. (Ga.1,14).

Chúa Giêsu đã đi con đường băng ngang miền Samari, và Ngài đã mở đầu câu chuyện với một phụ nữ Samari bằng việc “xin nước uống”.

Thật ra, để có nước uống, Chúa Giêsu có cần phải “xin” người phụ nữ này không, khi mà người Samari và người Do-Thái xem nhau như kẻ thù? “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Samari. (Ga 4,9) – Chắc hẳn là không! Chúa Giêsu đang đi với các môn đệ. Chắc các ông sẽ có cách lo liệu cho thầy mình qua cơn khát. Nên, việc Chúa Giêsu xin nước là để mở đầu câu chuyện trong “hòa bình”. Ngài đóng vai một người đang cần “sự giúp đỡ”, và người giúp đỡ sẽ dễ dàng đặt câu hỏi đối với người xin mình, vì họ cảm thấy mình quan trọng.

Cuộc đối thoại trong Tin Mửng hôm nay là sự trao đổi bằng những ngôn ngữ thật đẹp, thẳng thắn và chân thành, không có khoảng cách thận trọng e dè giữa đôi bên.

 

Tôn trọng con người

Thiên Chúa luôn yêu thương và tôn trọng con người, vì con người là con Thiên Chúa. “Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv.8,5).

Thái độ “xin” là một thái độ “khiêm nhượng” và “tôn trọng” người mình xin. Trong tình yêu, luôn có sự kính trọng! Thái độ “lắng nghe” Chúa Giêsu nói của người phụ nữ Samari cho thấy ranh giới “nghi kỵ, thù hận” đã được tháo bỏ trong tâm hồn chị ấy. Ngay những lời nói sơ giao, người phụ nữ Samari đã thấy Chúa Giêsu, người đàn ông Do Thái này, là người “có thể đối thoại được”. Và điều ấy, cũng chính là sự mở đầu của niềm tin. – Không ai thèm nói chuyện với một người mà người ta hoàn toàn không thể tin tưởng!

Thái độ “phá bỏ cái giới hạn hẹp hòi” đã phân chia hai dân tộc anh em là người Samari và Do Thái đã tạo ra ngay trong lòng người phụ nữ “câu hỏi” đầu tiên:“người này là ai?”, vì sao là một người Do Thái lại có thể giao thiệp tự nhiên với một người Samari?

Diễn tiến câu chuyện, Chúa Giêsu đã tạo cho người phụ nữ Samari phải liên tiếp tự đặt câu hỏi về Ngài. Ta có thể suy ra những ý nghĩ trong lòng người phụ nữ này, tỷ như: Người này là ai mà biết tất cả những việc mình làm như thế? Người này là ai mà trả lời trôi chảy mọi điều mình thắc mắc như thế? Để rồi, người phụ nữ ấy đi dần đến nhận ra Ngài là một Ngôn sứ. Cuối cùng là Đức Kitô.

Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga.4,28-29).

 

Cứu chuộc con người.

Diễn tiến sự thay đổi trong lòng người phụ nữ Samari luôn là câu hỏi: “Người này là ai?”. Và trên bước đường rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng luôn muốn con người tự tìm ra câu hỏi ấy cho chính mình. Bởi vì Niềm Tin phải là sự “nhận biết” Đấng Cứu Thế.

Chúa Giêsu hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?”. Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ. Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Si-mon thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (Mt.16,13-16).

Nhận biết Con Người là ai? Giêsu Nagiarét là ai? Con người mới có thể đi tới Đức Tin. Tin vào Đức Kitô, con người mới nhận được “Nước Hằng Sống”, thứ nước đáp ứng đầy đủ mọi “cơn khát chính đáng” của con người, Những “khát vọng” mà cuộc đời không thể thỏa mãn được.

Chỉ có Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc con người, mới đem lại màu xanh sức sống cho những tâm hồn cằn cỗi kiếp nhân sinh.

Tất cả đều đến từ Tình Thương. Và Tình Thương luôn là điều cấp bách, vì con người quá thiếu.

Sẽ chẳng có câu chuyện Tin Mừng tuyệt đẹp hôm nay nếu Chúa Giêsu cũng tẩy chay người Samari, và lánh xa người phụ nữ Samari tội lỗi này, như thái độ tống khứ cô gái bằng vũ lực ra khỏi phòng của vị tu sĩ trong câu chuyện “lòng cảm thông” kể trên.

Hắn ta không biểu lộ một sự thông cảm nào với con, hắn ta không nói được một lời để khuyên bảo dạy dỗ con, 20 năm tu niệm ăn chay của hắn qủa là vô ích. Bởi vì hắn chưa đạt được điều thiết yếu trong cuộc sống, đó là lòng cảm thông.

Tràn ngập trong cuộc sống con người là những nỗi lòng âm thầm đau khổ, là những bon chen trong hạnh phúc phù phiếm, là khắc khoải lo toan, là những cơn khát triền miên mà con người cố gắng tìm cách thỏa mãn với những niềm vui hụt hẫng chóng qua.

Trong điều kiện sống của người Samari, xứ sở cao nguyên và sa mạc, có được “giếng nước” là xem như có tất cả. Nguồn nước là nguồn sống. Mạch nước là mạch sống. Nên “giếng nước” rất quan trọng, đó là sự sống còn của họ.

Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.”(Ga.4,11-12).

Nhưng sự vui mừng của người phụ nữ Samari thật rất cảm động, ta có thể hình dung sự vui mừng của chị ấy khi bỏ tất cả những gì đang có để reo mừng và chạy vào thành để loan báo Tin Mừng mà chị vừa nhận được.

Sự vui mừng của người phụ nữ Samari cho thấy cuộc sống của chị tuy đã có rất nhiều nhưng còn đó cơn khát vô tận. “Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” (Ga.4,15).

Không có một lời khiển trách nào đối với một người phụ nữ mà sáu người đàn ông bước qua cuộc đời chị không ai là chồng cả! Nhưng ở đây, niềm vui của chị khi đón nhận Lời Hằng Sống cũng chính là Sám Hối. Chị bỏ lại tất cả mọi thứ bên bờ giếng, cũng như bỏ lại quá khứ tội lỗi của cuộc đời mình, và đã đóng vai người đi loan báo Tin Mừng với niềm vui khôn tả!

Không có sự ngượng ngập hay hổ thẹn khi nhắc đến quá khứ đời mình, “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm”. (Ga.4,29), vì chị không để tâm gì đến nó nữa, mà trong tâm trí chị giờ đây chỉ nhớ đến một điều là loan tin về Đấng Cứu Thế. “Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga.4,29).

 

Truyền giáo

Thế giới vẫn còn đây cơn khát vô tận, dù sự khôn ngoan của con người đã lên đến đỉnh cao và cuộc sống con người đang rất giàu có.

Chỉ cần dành vài phút giây để nhìn vào thế giới hôm nay, để thấy đây đó bao cảnh thiên tai, chiến tranh, mất mát, đau thương. Để hiểu giá trị cát bụi, phù vân. Để nghe cơn khát bất tận của con người. Để chọn đâu là những chân giá trị. Để đi đúng con đường của sự sống đích thực.

Con đường Giêsu. “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14,6)

Có thể nhận ra trong Tin Mừng hôm nay bài học tuyệt đẹp về truyền giáo:

Truyền giáo là yêu thương. “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.”

Truyền giáo là sứ mệnh. “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. (Ga.4,34).

Truyền giáo là cấp bách. “Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!” (Ga.4,35).

Truyền giáo là hạnh phúc.“Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng.” (Ga.4,36).

Lạy Chúa,

Xin cho con một con tim giàu lòng nhân ái,

để con biết bước theo Chúa,

với một tấm lòng dạt dào yêu thương. Amen.

 

22.             Nước Hằng Sống – Lm. GB. Trần Văn Hào

Nước Sự Sống.

Nước là nhu cầu thiết yếu để duy trì sự sống cho con người. Người ta có thể tuyệt thực và nhịn ăn trong nhiều ngày, nhưng khi cơ thể thiếu nước chỉ trong một thời gian ngắn, sức khoẻ của chúng ta sẽ suy kiệt dần và tính mạng bị đe dọa. Khi mang thân phận con người, Chúa Giêsu cũng đã từng kinh qua cái đói và những cơn khát. Ngài cần bánh để ăn và cũng cần nước để uống. Câu chuyện về Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp hôm nay là một khải thị sâu xa cho chúng ta về chân dung cứu thế của Đức Giêsu. Ngài chính là ‘Mạch Nước của Sự Sống’. “Ai uống nước này sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước trào lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Đây là chủ đề mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay quy chiếu vào.

Mảnh đời bầm dập nơi người thiếu phụ.

Câu chuyện khá dài được Thánh Gioan thuật lại trong chương 4 với nhiều chi tiết hàm ngậm những tư tưởng thần học rất sâu xa. Chúa Giêsu đang khát, một cái khát thể lý bình thường giống như mọi người, và Ngài xin nước để uống. Người thiếu phụ Samari cũng đang khát và chị đến giếng để múc nước. Nhưng nơi chị còn có một niềm khát khao sâu xa hơn, phát xuất từ mảnh đời nghiệt ngả chị đang trải qua. Chị đã có 5 đời chồng, nhưng chẳng ông nào ra ông nào, và hiện nay chị đang sống với một người đàn ông khác không phải chồng của mình. Xã hội thời đó chỉ xem phụ nữ như vật sở hữu của đàn ông để họ có con nối dõi. Phẩm giá của người phụ nữ hoàn toàn bị coi rẻ. Là con người cũng như bao người khác, chị cũng khát khao được làm người tử tế, được làm mẹ, làm vợ trong một mái ấm gia đình bình thường, nhưng hạnh phúc dường như đã vượt quá tầm tay của chị. Chúa Giêsu thấu tỏ tất cả. Ngài nhận ra cơn khát ẩn sâu nơi tâm hồn người thiếu phụ, và từ từ vén mở cho chị biết về Ngài, là chính ‘Mạch Nước Trường Sinh’. Trong nguồn nước ấy, mọi nỗi khát khao của kiếp người sẽ được hóa giải.

Vào tháng 11 năm 2004, nhân kỷ niệm 10 năm ban hành Tông huấn ‘Đời sống Thánh hiến’ (Vita Consecrata), Giáo hội tổ chức Đại hội tu sỹ ở Rôma trong 5 ngày. Cuộc họp qui tụ gần 900 đại biểu đến từ các nơi, gồm các Bề Trên thượng cấp của các dòng tu cùng các chuyên gia thần học và Thánh kinh, để thảo luận về đời sống thánh hiến. Đại hội đã chọn chủ đề ‘Đam mê Thiên Chúa và đam mê con người’ (Passion for Christ, passion for human) để các thành viên suy tư. Hiển thị chủ đề này là 2 biểu tượng về 2 người Samari: Người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp (Ga chương 4) và người Samaritanô nhân hậu (Lc 10,25-37). Câu chuyện về người phụ nữ trong bài Tin mừng hôm nay đã được kể lại, được hội nghị nghiền ngẫm và đào sâu để làm khung quy chiếu cho các tham dự viên, đặc biệt cho những ai sống đời thánh hiến. Người thiếu phụ Samari vốn chỉ là một phụ nữ ngoại giáo bình thường, chưa hề biết Đức Giêsu là ai và luôn bị người Do Thái xem như thù nghịch. Nhưng chị đã biết trải lòng mình ra để ngày càng đi sâu vào mối thân tình với Chúa Giêsu. Cuối cùng chị đã khám phá ra Ngài: Đức Kitô, Đấng Messia, là ‘Nguồn Nước Sự Sống’.

Sau khi được Đức Giêsu thấm nhập và biến đổi, người thiếu phụ đã bỏ vò nước lại bên bờ giếng và chạy vội về làng để ‘công bố Tin mừng’ cho đồng hương của chị. Chị đã gác lại cơn khát của thân xác, vì đã được thỏa mãn cơn khát thâm sâu trong tâm hồn. Người thiếu phụ vội vã đi truyền tải thứ nước trường sinh ấy cho những người cũng đang khát cháy giống như chị. Đây là mô hình về đức tin và về sứ vụ chia sẻ đức tin, giúp chúng ta học hỏi để noi theo.

Những mảnh đời bất hạnh nơi phận người.

Con người chúng ta được sinh ra trong tiếng khóc chào đời của chính mình và chết đi trong tiếng khóc tiễn đưa của những người thân quen. Cuộc sống con người mãi luôn là một ẩn số với bao khổ đau. Đức Phật đã dạy các môn sinh rằng, đời là bể khổ, và ai ai cũng có thể nhận ra điều này. Phật giáo tìm cách giải mã đau khổ bằng liệu pháp diệt dục. Một vài tôn giáo khác lại chủ trương né tránh. Ông tổ của triết học vô thần Marxism thì lại lý tưởng hóa bằng cách mơ tưởng đến một thiên đàng trần gian nơi không còn người bóc lột người, tất cả được no cơm ấm áo… Nhưng tất cả chỉ là những lý thuyết không tưởng. Chỉ duy nhất Đức Giêsu mới đem lại cho chúng ta chìa khóa giải quyết tận căn mầu nhiệm đau khổ bằng chính cái chết của Ngài trên Thập giá. Từ Thập gía, Chúa đưa dẫn con người đến vinh quang (per crucem ad lucem). Từ cái chết ô nhục, Ngài khai mở cho chúng ta sự sống trường cửu. Thập giá của Đức Giêsu là mạch nước vọt trào ơn cứu độ, hóa giải những cơn khát thâm sâu nhất nơi phận người. Điều đó Đức Giêsu đã nói với người thiếu phụ Samari mà hôm nay chúng ta được nghe Giáo hội đọc lại.

Ông Tổng thống Mitterand là nhà lãnh đạo của nước Pháp trong 14 năm và được dân Pháp quý mến, xem ông như một thần tượng. Trong những năm tháng cuối đời, ông có dịp nhìn lại cuộc đời đã qua và viết lại những dòng nhật ký đáng để chúng ta suy nghĩ. Trang nhật ký có tựa đề ‘Tôi đang chuẩn bị cái chết’. Ông viết: “Lúc nhỏ, tôi được dạy phải đọc kinh, nhưng thay vì đọc kinh tôi lại thích thinh lặng và suy niệm. Tôi suy niệm về tôi, về Thiên Chúa, và về ý nghĩa cuộc đời. Lắm khi tôi tự hỏi không biết tôi có tin Thiên Chúa hay không, nhưng từ trong thâm tâm, tôi luôn bị thúc đẩy phải tin Ngài. Nếu không tin, cuộc sống của tôi sẽ trở nên vô nghĩa và hoàn toàn trống rỗng.”

Ông viết tiếp: “Ai mà không cảm thấy khao khát muốn vươn tới hạnh phúc và muốn được sống mãi. Một lúc nào đó, bạn sẽ cảm thấy lẻ loi và bị mất hút trong thế giới vĩnh hằng. Pascal đã nói chính xác rằng sẽ đến lúc thân xác mong manh của bạn bị ngã đổ. Bạn sẽ chết, sẽ không còn hiện hữu nơi trần thế này nữa. Nhưng từ trong thâm sâu, bạn vẫn có ước muốn được trường tồn, được sống và được sống mãi. Niềm khao khát đó, không một thứ gì ở trần gian này có thể lấp đầy.”

Đó cũng là niềm khao khát của người thiếu phụ Samaria năm xưa và cũng là của mỗi người chúng ta ngày hôm nay. Ngày xưa, dân Do Thái đi trong sa mạc Sinai cũng khát (bài đọc 1), nhưng cái khát đó chỉ là hình bóng. Khát khao tình yêu và hạnh phúc là những ẩn số triền miên nơi kiếp người, và đáp án của ẩn số đó đã được Chúa Giêsu khải thị trong bài Tin mừng hôm nay.

Kết luận

Ngày xưa, có một đạo sĩ dạy cho các môn sinh bí quyết để tìm tới hạnh phúc. Ông giảng dạy rất uyên bác. Một thanh niên bặm trợn đến gặp ông và thách đố: “Thưa Thầy, Thầy giảng dạy rất thâm thúy, nhưng tôi chỉ xin hỏi Thầy một câu thôi. Trong tay tôi là một con chim, đố thầy biết đó là con chim sống hay con chim chết?” Câu hỏi ma mãnh của chàng trai nhằm gài bẫy vị đạo sỹ vì trong tay anh ta, con chim đang còn sống sẽ bị anh ta bóp chết, nếu vị đạo sỹ trả lời rằng đó là con chim sống. Nhìn nét mặt quỷ quyệt của người thanh niên trẻ, vị đạo sĩ nói thẳng vào mặt anh ta: “Con chim này sống hay chết là do anh.” Ông nói tiếp: “Cũng vậy, hạnh phúc có đến được với chúng ta hay không còn tùy thuộc vào sự lựa chọn tự do của mỗi người.

Trong mùa chay, Giáo hội mời gọi chúng ta sám hối để trở với Chúa và với nhau. Chúng ta hãy hướng về Thập giá Đức Giêsu, kín múc cho mình nguồn nước sự sống để tâm hồn chúng ta luôn được an bình và vươn đạt tới hạnh phúc trường cửu.

 

23.             Chúa Giêsu – Nguồn Nước Hằng Sống

Một trong những nhu cầu cần thiết và quan trọng cho sự sống của mọi sinh vật trên mặt đất này là nước. Những người nông dân nào có nhiều kinh nghiệm chắc hẳn sẽ thuộc nằm lòng câu tục ngữ: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Để cây trái có thể sống và phát triển xanh tốt người dân phải siêng năng cung cấp đủ nuớc cho chúng. Có lẽ hình ảnh người dân trên tay cầm thùng, gàu hay ống nước là một trong những hình ảnh đẹp nhất ở vùng nông thôn. Cũng vậy một trong những nỗi khổ nhất của con người là mỗi khi thiếu nước sinh hoạt. Trong cái nhìn đó Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết có một nguồn nước cần thiết và quan trọng hơn. Đó là Nước Hằng Sống do Chúa Giêsu mang đến.

Bài đọc 1 cho thấy dân Do thái trong sa mạc đã kêu trách ông Môisen vì họ đang khát nước. Ông cầu cứu với Chúa. Người kêu ông cầm gậy đập vào tảng đá tức thì nước từ tảng đá ấy chảy ra cho dân uống (Xh 17, 3 – 7). Nhờ có n ước đó mà dân Do thái được sống. Sang bài Tin mừng Chúa Giêsu đã gặp một phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp. Sau khi trao đổi với chị về nước uống hiện tại, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chị: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. (Ga 4, 13 -14). Nghe lời ấy chị ta vội vàng xin Chúa Giêsu: “Th ưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga 4, 15b). Chắc chắn đây cũng là ao ước của mỗi người chúng ta.

Ai trong chúng ta cũng muốn được sống. Sống thì phải dồi dào, phải sung túc chứ không èo ọt hay suy dinh dưỡng. Nước là yếu tố cần thiết và quan trọng để duy trì và phát triển sự sống. Đối với sự sống tạm bợ nay còn mai mất còn cần đến nước, huống chi là với sự sống đời đời. Người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp đã được Chúa Giêsu ban cho nguồn nước hằng sống. Chị đã biết đón nhận với tất cả niềm tin của mình vào Chúa Giêsu.

Mùa Chay là mùa mà chúng ta được kêu gọi để nhìn lại chính mình trước Chúa. Nhìn lại để thấy mình mỏng dòn và yếu đuối như thế nào. Càng thấy mình yếu đuối bao nhiêu thì chúng ta mới thấy mình cần Chúa bấy nhiêu. Một cây héo lá mới cần nước, một người cảm thấy khát nước thật sự mới thấy mình cần phải uống nước.

Tác giả Thánh vịnh 42 đã thưa lên cùng Chúa:

“Như nai rừng mong mỏi

Tìm về suối nước trong

Hồn con cũng trông mông

Tìm đến Ngài, lạy Chúa “.

Xin Chúa Giêsu cho mỗi người chúng ta biết tin vào Người, biết khao khát sự sống từ nơi Người mang đến. Để rồi chúng ta biết siêng năng đến và gắn bó với Người nhiều hơn.

 

24.             Mạch nước sự sống

Ai trong chúng ta cũng biết: Nước cần thiết cho sự sống và nước là nguồn phát sinh sự sống. Các nhà khoa học đang hy vọng tìm thấy dấu vết của nước trên sao Hỏa, và khi đã tìm ra được nước, thì hy vọng người ta sẽ tìm ra sự sống trên đó. Lịch sử cũng cho thấy các nền văn minh trên thế giới đếu bắt nguồn từ những dòng sông như: Văn minh sông Nil, văn minh Lưỡng Hà, văn minh sông Hằng, ở Việt Nam có nền văn minh sông Hồng, sông Đồng Nai. Gần đây nhiều cuộc tranh chấp giữa các quốc gia cũng có liên quan đến việc tranh chấp nguồn nước như vùng sông Giođan, các nước vùng sông Mêkông. Đối với con người, 90% trong cơ thể là nước, vì thế người ta có thể nhịn ăn nhiều ngày, nhưng không thể nhịn khát lâu ngày được.

Thưa quý OBACE, nước quan trọng và cần thiết cho cuộc sống, cho vũ trụ như thế, nên hôm nay Lời Chúa cũng đề cập đến hình ảnh nguồn nước, nhưng không chỉ đơn thuần là nước tự nhiên, mà là nước đem lại sự sống đời đời.

Dân Israel đã trải qua kinh nghiệm thế nào là thiếu nước uống, khi họ hành trình trên sa mạc. Cái nắng và gió của sa mạc làm cho cơ thể mất nước mau chóng, nếu không có nước bổ sung kịp thời thì chắc chắn sẽ chết. Thế nhưng vấn đề trong câu chuyện Xuất Hành cho thấy, sở dĩ dân Do Thái muốn nổi loạn là vì họ quá khát, mà không phải chỉ một vài người mà cả một đoàn dân đông đúc cùng với súc vật, vì thế họ như nhìn thấy cái chết chắc chắn trước mắt. Cũng chính vì lý do này mà họ nổi loạn phản đối ông Môsê: Tại sao ông dẫn chúng tôi vào trong sa mạc để chúng tôi chết khát thế này? Những lời kêu trách như thế thể hiện sự mất kiên nhẫn và thiếu lòng tin ở nơi họ, mặc dù từ khi đưa dân ra khỏi Ai cập, Thiên Chúa đã làm biết bao phép lạ để bảo vệ họ, vậy mà họ vẫn nghi ngờ không tin vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.

Một lần nữa để chiều lòng họ, và để cho họ thấy rằng Thiên Chúa luôn hiện diện bên họ, nghe tiếng họ kêu cầu và có thể biến những cái không thể thành có thể, Ngài không làm cho mạch nước phát xuất từ lòng đất, nhưng Ngài lại truyền cho Môsê dùng gậy đập lên tảng đá, và nước từ tảng đá chảy ra cho dân và súc vật uống thỏa thuê. Một tảng đá tưởng như khô cằn, mà lại trở thành mạch nước!

Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến một mạch nước khác, mạch nước này phát xuất từ trong tâm hồn những người tin và đón nhận Ngài. Câu chuyện xảy ra tại bờ giếng Giacóp khi Chúa Giêsu gặp người phụ nữ xứ Samaria. Ngài khởi đầu câu chuyện bằng lời xin: “Chị cho tôi một miếng nước uống!” Với sự mở đầu này, Chúa Giêsu đã phá vỡ bức tường nghi kỵ ngăn cách mà người Do Thái đã dựng lên giữa họ và người Samaria, khiến cho người phụ nữ kia không khỏi ngạc nhiên: “Ông là người Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria nước uống?”. Từ việc là một người xin nước uống, qua câu chuyện, Chúa Giêsu đã chỉ cho chị thấy Ngài là Đấng sẽ ban một thứ nước hằng sống. Tuy nhiên người phụ nữ đã không dễ dàng hiểu được ý nghĩa của lời Chúa Giêsu nói, chị ta vẫn chỉ nghĩ đến dòng nước dưới giếng, và chị tự hào vì cái giếng này đã cung cấp nước cho tổ phụ Giacóp, cho con cháu, súc vật và còn cho đến lúc này. Nhưng Chúa Giêsu đã mạc khải rõ hơn: “Ai uống nước giếng này thì vẫn còn khát, còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ còn khát nữa, vì nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời”. Người phụ nữ liền xin: “Xin cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát”. Đến đây, thánh Gioan đã chỉ cho thấy Đức Giêsu, lúc đầu, Ngài là người xin nước uống, và bây giờ thì người phụ nữ lại là người xin nước từ nơi Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu lại là người ban nước ấy.

Chúa Giêsu đã đưa người phụ nữ Samari đi một bước xa hơn khi Ngài đụng chạm đến cái khát khao từ trong lòng của chị, khi Ngài nói với chị: “Chị đi gọi chồng chị rồi trở lại đây”. Chị ta đã phải thú nhận: “Tôi không có chồng”. Chúa Giêsu chỉ cho chị biết chị đã có năm đời chồng, nhưng vẫn không thỏa mãn, và hiện nay chị đang chung sống với một người đàn ông khác không phải là chồng chị. Cái khát khao tìm kiếm thỏa mãn xác thịt và dục vọng sẽ chẳng bao giờ được lấp đầy, và nó còn phản ánh một lối sống tự do buông thả của con người nơi người phụ nữ này. Nguyên nhân sâu xa của lối sống buông thả này, đó là vì họ không còn đặt Thiên Chúa làm trọng tâm của cuộc đời, và không đón nhận được sức sống mới từ Thiên Chúa. Cái khao khát thèm muốn của người phụ nữ này thể hiện cái khao khát thèm muốn của cả dân tộc Samari khi họ chối từ việc thờ phượng Thiên Chúa để thờ cúng các thần minh của dân ngoại, họ “ngoại tình’ trong đời sống đức tin phá bỏ giao ước với Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã giúp người Samaria này điều chỉnh lại suy nghĩ và cách thức thờ phượng Thiên Chúa sao cho phù hợp ý Chúa khi Ngài nói với chị: “Đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa Cha trên núi này hay tại Giêrusalem… nhưng những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự thật”. Như thế, Chúa Giêsu muốn hướng con người đến sự thờ phượng đích thực là một sự thờ phượng phát xuất từ một tâm hồn chân thành nhìn nhận Thiên Chúa là Cha, là Chúa của mình, là Đấng quyền năng, và hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa, đón nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ. Khi có Thiên Chúa và Thánh Thần của Ngài trong tâm hồn, khi để cho Thánh Thần hướng dẫn, thì Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm cho sức sống thần linh của Thiên Chúa tuôn chảy trong tâm hồn và nuôi sống cuộc đời chúng ta. Đó chính là mạch nước mà Chúa Giêsu nói đến hôm nay.

Sức sống thần linh của Thiên Chúa sẽ trở thành nguồn mạch sự sống cho những ai để Chúa hiện diện trong tâm hồn mình. Thánh Phaolô đã giải thích điều này trong thư Rôma: “Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa… Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần của Người”. Chính tình yêu này làm phát sinh sự sống mới trong tâm hồn mỗi tín hữu.

Thưa quý OBACE, ngày hôm nay người ta cũng cảnh báo nhiều về việc ô nhiễm nguồn nước, thế giới có hàng tỷ người không có nước sạch để uống, mà họ phải sử dụng nguồn nước ô nhiễm và chứa nhiều chất thải độc hại. Cũng vậy, có thể đời sống của nhiều người, nhiều gia đình, của môi trường xung quanh chúng ta đang bị ô nhiễm trong đời sống thiêng liêng, ô nhiễm tâm hồn. Nhiều cha mẹ đã để cho nhiều nguồn nước độc hại đang chảy vào gia đình mình, đó có thể là phim ảnh, sách báo xấu đang đầu độc và hủy hoại tâm hồn con cái chúng ta, mà cha mẹ là người đã mất kiểm soát. Các máy vi tính, internet được nối kết vào từng phòng của gia đình, mà cha mẹ không biết rằng, hằng ngày, hàng đêm phim ảnh xấu xa đang chảy vào trong từng phòng của gia đình, đang ngấm vào tâm hồn con cái chúng ta.

Đáng lẽ, các thành viên trong gia đình phải được uống những dòng nước yêu thương, sự nhân ái hiền hòa từ nơi cha mẹ, thì ngược lại nguồn nước ô nhiễm còn là chính gương xấu nơi cha mẹ và người lớn trong đời sống cũng như trong làm ăn buôn bán, cách cư xử gian ác, thiếu bác ái, sự tranh chấp kèn cựa, sự giận ghét thù oán, nó đang là những chất độc hại từng ngày gây ô nhiễm bầu khí của gia đình và đang ngấm vào con cái chúng ta.

Lối sống ích kỷ, hưởng thụ, hẹp hòi nhỏ nhen, lối sống ăn chơi buông thả, đang chứng tỏ rằng giới trẻ ngày nay không khác gì người phụ nữ Samaria ngày xưa, họ đang khát khao tìm kiếm để thỏa mãn bản năng, họ đang uống phải dòng nước độc hại ô nhiễm là lối sống chạy theo vật chất, hưởng thụ, thực dụng, vô cảm từ môi trường xã hội, khiến cho nhiều người trẻ mất đi sức sống trẻ, mất đi ý thức phục vụ và cống hiến, đánh mất phẩm giá của một con người và phẩm giá là một người Công giáo.

Với sức riêng của mình, chúng ta không thể ngăn chặn được dòng chảy xấu xa độc hại ấy, nhưng nếu mỗi người biết cùng nhau đồng loạt ý thức và ra tay, chúng ta sẽ làm giảm bớt những chất độc như vừa nêu đang ngấm vào trong từng người từng gia đình. Mỗi người mỗi gia đình hãy sử dụng một hệ thống lọc đặc biệt là Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài, có sức khử trùng cực mạnh để ngăn chặn dòng nước ô nhiễm đang đe dọa các tâm hồn. Hãy đến với Bí tích Giải Tội tham dự Thánh Lễ, rước lễ thường xuyên, đó là hệ thống lưới lọc có khả năng loại trừ các chất độc hại là tội lỗi là thói xấu trong tâm hồn và còn tưới gội tẩy rửa tâm hồn chúng ta bằng nguồn nước sạch là tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa.

Xin Đức Giêsu ban cho chúng ta nước sự sống của Ngài, để chúng ta không còn khát khao tìm kiếm những điều thấp hèn trong thế giới ngày nay nữa, và xin nguồn nước hằng sống của Đức Giêsu làm phát sinh tình yêu trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Amen.

 

25.             Gặp gỡ Chúa Giêsu

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Tin mừng Ga 4: 5-42: Bài Tin Mừng kể lại một cuộc gặp gỡ nhìn qua rất bình thường giữa một khách bộ hành khát nước và một phụ nữ đi múc nước…

“Niềm Vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu, những người để cho mình được Người cứu độ và giải thoát khỏi tội lỗi, sầu khổ, trống rỗng nội tâm và cô lập” (Tông Huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, số 1).

Trong cuộc sống hàng ngày, ai ai cũng có những cuộc gặp gỡ khác nhau. Có những lần gặp gỡ như gió thoảng mây trôi…thoáng qua không để lại dấu ấn nào. Và cũng có những lần gặp gỡ đã làm thay đổi cả một đời người.

Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari bên giếng nước Giacop. Nhân việc xin nước uống, Chúa đã hứa ban nước trường sinh cho chị.

  1. “Cho tôi xin nước uống.” (Ga 4,7).

Bài Tin Mừng kể lại một cuộc gặp gỡ nhìn qua rất bình thường giữa một khách bộ hành khát nước và một phụ nữ đi múc nước. Người phụ nữ Samaria mỗi ngày ra giếng kín nước. Tổ phụ Giacop đã phát hiện ra giếng nước, nơi mà sau này người ta đặt tên là giếng Giacóp, như một tài sản quý giá cho con cháu ông đến đây lấy nước để uống và sinh hoạt. Giếng Giacóp sâu 39m nên việc múc nước cho người và gia súc uống rất khó nhọc. Tại Palestina, một đất nước khô khan, cằn cỗi thì nước cũng quý hóa như lúa, như gạo, nước là nguồn sống cơ bản của con người. Dân Israel ngày xưa đi trong sa mạc, không có nước uống, đã cảm thấy cái nguy sắp phải chết, nên kêu trách ông Môsê, bài đọc 1 kể lời trách móc đó: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải là để chúng tôi, con cái chúng tôi và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?”.

Thế nhưng, cuộc gặp gỡ bên bờ giếng Giacóp thật lạ lùng. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt mỏi, Chúa Giêsu khát nước, đến giếng nước và gặp người kín nước. Giếng nước có liên hệ tới vài câu chuyện trong Cựu ước. Ở miền Cận Đông thời xưa, giếng nước là nơi tốt nhất để gặp gỡ. Sách Sáng Thế cho hai ví dụ xảy ra ở giếng nước đều đánh dấu một biến cố quan trọng trong lịch sử dân Israel: người lão bộc của ông Abraham gặp cô Rêbêca vào trao nhẫn cưới, hỏi vợ cho Isaac (St 24,10-27); Ông Giacóp và cô Rakhen gặp nhau tại giếng nước và nên duyên vợ chồng (St 29,1-14).

Chúa Giêsu mở đầu cuộc đối thoại bằng một lời nài xin. Xin nước uống là tạo dịp gặp gỡ, là bắc một nhịp cầu qua vực sâu ngăn cách hai dân tộc Samaria và Do thái vốn dĩ đã thù ghét và xa lánh nhau từ ngàn xưa. Chẳng ai hiểu nổi một bậc thầy như Chúa Giêsu lại nói chuyện và xin nước một phụ nữ Samaria. Chúa Giêsu đã phá bỏ những hàng rào ngăn cách để xây dựng một cuộc đối thoại đích thực và bình đẳng.

Khát nước và xin nước uống là một điều tự nhiên bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước uống mà chỉ là dịp để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Chúa muốn nói cho người phụ nữ biết: chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị biết: Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”.

Từ việc xin nước uống, Chúa Giêsu đã cho người phụ nữ Samaria biết Ngài là Đấng Cứu Thế khao khát nhân loại “Ngài là người đến tìm chúng ta trước. Ngài xin ta cho Ngài nước uống, vì Thiên Chúa khao khát chúng ta” (GLCG # 2560).

  1. “Nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).

Những cuộc gặp gỡ đối thoại với Nicôđêmô, Matta và Maria, Lêvi, Giakêu… Chúa Giêsu đều giúp họ thay đổi cuộc đời.

Bài tường thuật cho thấy một quá trình thay đổi nhận thức của người phụ nữ về Chúa Giêsu. Trước hết chị ta nhận thấy Ngài là một khách bộ hành lạ mặt, một người Do Thái (câu 9). Nhưng khi Chúa Giêsu tỏ ra thấu hiểu cuộc đời riêng tư của chị, thì chị nhận ra đó là một vị Ngôn Sứ (câu 19). Cuối câu chuyện, chị được biết thêm Ngài là Đấng Kitô (c.25–26). Sau đó dân làng Samaria tuyên xưng “Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (c.42). Người phụ nữ Samaria cũng thay đổi trong ngôn ngữ khi nói chuyện với Chúa. Lúc đầu chị gọi Chúa Giêsu là Ông, kế đó là Thưa Ngài, rồi từ việc nhận thức Ngài là một tiên tri đến Đấng Thiên Sai.

Khi đã khám phá được con người của Chúa Giêsu, người phụ nữ Samaria cũng khám phá ra được thứ nước mà Ngài muốn ban tặng. Lúc đầu, khi nghe nói đến nước, người phụ nữ nghĩ tới thứ nước trong giếng Giacóp. Nhưng rồi, từ thứ nước bên ngoài ấy, Chúa Giêsu đã dẫn người phụ nữ đi tìm thứ nước nằm ngay trong lòng con người, thứ nước đem lại sự sống đời đời. Thứ nước ấy chính là Thần khí và Sự thật.

Giống như Philipphê khi đã gặp được Chúa Giêsu liền đi tìm Nathanaen để loan báo Tin Mừng; bà Maria Mađalêna đã vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo là đã gặp thấy Chúa; người phụ nữ Samaria không còn quan tâm đến giếng nước và vò nước nữa, chị chạy một mạch về làng, thông báo về nước hằng sống vừa khám phá: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”. Mọi người tin lời chị, họ đến gặp Chúa Giêsu và họ cũng tin Ngài. Sau khi gặp Chúa, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Ngài giữa những người Samaria trong làng. Chị đã dẫn đưa bà con trong làng đến gặp Đức Kitô, nguồn nước hằng sống. Dân làng sau khi gặp Chúa, đã xin Ngài ở lại với họ, và hân hoan tuyên xưng rằng: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.

Giếng nước Giacóp là nơi gặp gỡ kỳ diệu làm biến đổi dân chúng cả làng Samaria. Giếng nước đã là nguồn gợi hứng cho một phương pháp truyền giáo rất hiệu quả. Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII dùng hình ảnh xứ đạo với giếng nước đầu làng, từ nơi ấy mọi người có thể giải khát, tìm được sự tươi mát của Tin Mừng.

Sứ điệp Thượng Hội đồng Giám mục thế giới tháng 10 năm 2012, có đề nghị mô hình giếng nước đầu làng. Các nghị phụ đã liên hệ hình ảnh Chúa Giêsu bên bờ giếng Giacóp để nói về trách nhiệm của Giáo Hội hôm nay trước một thế giới đang khát khao chân lý. Giáo Hội có sứ mạng hướng dẫn và giới thiệu Chúa Giêsu là nguồn nước hằng sống. Chỉ có Ngài mới có thể lấp đầy cơn khát của nhân loại.“Như Chúa Giêsu bên giếng nước Xykha, Giáo Hội cũng cảm thấy phải ngồi cạnh những người nam nữ thời nay, để làm cho Chúa hiện diện trong cuộc sống của họ, nhờ đó họ có thể gặp Chúa, vì chỉ mình Ngài mới là nước ban sự sống vĩnh cửu đích thực” (số 1). Trong thánh lễ ngày 18-5-2003, tại Đại chủng viện thánh Giuse Sài gòn, Đức Hồng Y GB Phạm Minh Mẫn ban huấn từ cho các vị đang phục vụ trong các Hội đồng mục vụ Giáo xứ toàn Giáo phận, ngài mong muốn giáo xứ cũng phải trở nên như một giếng nước đầu làng.

  1. “Thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga 4,23).

Trong bài đọc II, thánh Phaolô so sánh ơn Chúa Thánh Thần với một thứ nước kỳ diệu mà Thiên Chúa đổ vào lòng các tín hữu. Đó là Thánh Thần tình yêu. Thánh nhân viết: “trông đợi như thế (nghĩa là trông đợi hưởng vinh quang với Chúa), ta sẽ không thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho ta”.

Nước Hằng Sống mà Chúa Giêsu ban tặng chính là Thánh Thần tình yêu. Từ nay nhân loại thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật. Để giải thích điều này, Chúa Giêsu nói: “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”. Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để gặp Ngài, con người cũng phải dùng thần khí của mình tức tâm hồn mình để gặp Ngài. Vì chỉ có thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như vậy nghĩa là phải gặp Ngài trong chính tâm hồn mình. Thật vậy, nơi dễ gặp gỡ Thiên Chúa nhất, chính là cung lòng của mỗi người chúng ta. Không gì linh thánh bằng con người, hay tâm hồn con người, vì “con người là hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6; Kn 2,23). Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng cung lòng con người: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,17; 6,19). Có gặp được Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình, thì mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong Thánh Thể, trong nhà thờ, trong tha nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình mà mình không gặp được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên ngoài. Thánh Augustinô đã từng than thở: “Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp được Chúa của lòng con”. Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài trong sự thật. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, người gian dối, không thành thật thì không thể gặp được Ngài.

Lời mạc khải của Chúa Giêsu bên giếng Giacóp mời gọi chúng ta hãy tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi. Thờ phượng “trong thần khí” là thờ phượng theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; thờ phượng “trong sự thật” là thờ phượng với tâm tình kết hợp với Chúa Giêsu, Đấng là Đường là Sự Thật và là Sự Sống. Thờ phượng Chúa Cha, dưới tác động của Chúa Thánh Thần và được nuôi dưỡng bằng mọi chân lý đến từ Chúa Giêsu. Khi tụ họp với nhau hay khi làm việc thờ phượng cách riêng rẽ, chúng ta đều được Thánh Thần trợ giúp để có thể cầu nguyện, ngợi khen, thờ phượng, cảm tạ, tuyên xưng Chúa Kitô và Thiên Chúa.(x. Ep 5,18-20; 6,18; Rm 8,26-27; Cl 3,16-17).

Hãy tin vào Chúa Giêsu để lãnh nhận nước hằng sống, hầu mang lại sự sống đời đời là chính là Thánh Thần tình yêu của Thiên Chúa. Tin là gặp gỡ Chúa Giêsu như người phụ nữ Samaria và những người đồng hương của chị đã gặp và đã khám phá ra nguồn nước trường sinh. Niềm tin vào Chúa Giêsu là điều kiện cần thiết để được ơn cứu độ, và niềm tin ấy là hoa quả của Thánh Thần (x. Ga 5,22; 1Cor 1,9). Con người có niềm tin viên mãn cũng là con người đầy Thánh Thần (Cv 6,5; 11,24). Sứ vụ của Thánh Thần là củng cố, làm cho niềm tin phát triển và trở nên viên mãn. Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô là Con Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết khao khát, tìm kiếm và sống các mầu nhiệm đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

 

26.             Xin nước uống là tạo dịp gặp gỡ

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Sứ điệp Mùa Chay năm 2011 có đoạn tóm tắt ba ý tưởng của bài Tin Mừng Chúa Nhật III Mùa Chay như sau: “Chị cho tôi xin nước uống” (Ga 4,7). Lời thỉnh cầu này của Chúa Giêsu với người phụ nữ Samaria, được tường thuật lại cho chúng ta trong phụng vụ của Chúa Nhật thứ ba, diễn tả tình yêu tha thiết của Thiên Chúa đối với mọi người và muốn khơi lên trong tâm hồn chúng ta ước muốn trao ban “nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (câu 14). Đó là ân huệ Chúa Thánh Thần, Đấng biến các kitô hữu thành “những người thờ phượng đích thực”, có khả năng cầu xin Chúa Cha “trong tinh thần và chân lý” (câu 23). Chỉ duy nước này mới có thể làm đỡ cơn khát sự thiện, sự thật và vẻ đẹp của chúng ta! Chỉ nước này, được ban cho chúng ta qua Chúa Con, mới có thể tưới mát những sa mạc của tâm hồn lo lắng và không được thỏa mãn “bao lâu nó không nghỉ yên bên Chúa”, theo kiểu nói danh tiếng của thánh Augustinô. (số 2).

  1. “Cho tôi xin nước uống.” (Ga 4,7).

Bài Tin Mừng kể lại một cuộc gặp gỡ nhìn qua rất bình thường giữa một khách bộ hành khát nước và một phụ nữ đi múc nước. Người phụ nữ Samaria mỗi ngày ra giếng kín nước. Giếng Giacóp sâu 39m nên việc múc nước cho người và gia súc uống rất khó nhọc. Tại Palestina, một đất nước khô khan, cằn cỗi thì nước cũng quý hóa như lúa, như gạo, nước là nguồn sống cơ bản của con người. Dân Israel ngày xưa đi trong sa mạc, không có nước uống, đã cảm thấy cái nguy sắp phải chết, nên đã kêu trách ông Môsê, bài đọc 1 kể lời trách móc đó: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải là để chúng tôi, con cái chúng tôi và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?”.

Thế nhưng, cuộc gặp gỡ bên bờ giếng Giacóp thật lạ lùng. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt mỏi, Chúa Giêsu khát nước, đến giếng nước và gặp người kín nước. Giếng nước có liên hệ tới vài câu chuyện trong Cựu ước. Ở miền Cận Đông thời xưa, giếng nước là nơi tốt nhất để gặp gỡ. Sách Sáng Thế cho hai ví dụ xảy ra ở giếng nước đều đánh dấu một biến cố quan trọng trong lịch sử dân Israel: người lão bộc của ông Abraham gặp cô Rêbêca vào trao nhẫn cưới, hỏi vợ cho Isaac (St 24,10-27); Ông Giacóp và cô Rakhen gặp nhau tại giếng nước và nên duyên vợ chồng (St 29,1-14).

Chúa Giêsu mở đầu cuộc đối thoại bằng một lời nài xin. Xin nước uống là tạo dịp gặp gỡ, là bắc một nhịp cầu qua vực sâu ngăn cách hai dân tộc Samaria và Do thái vốn dĩ đã thù ghét và xa lánh nhau từ ngàn xưa. Chẳng ai hiểu nổi một bậc thầy như Chúa Giêsu lại nói chuyện và xin nước một phụ nữ Samaria. Chúa Giêsu đã phá bỏ những hàng rào ngăn cách để xây dựng một cuộc đối thoại đích thực và bình đẳng.

Khát nước và xin nước uống là một điều tự nhiên bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước uống mà chỉ là dịp để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Chúa muốn nói cho phụ nữ biết: chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị biết: Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”.

Từ việc xin nước uống, Chúa Giêsu đã cho người phụ nữ Samaria biết Ngài là Đấng Cứu Thế khao khát nhân loại “Ngài là người đến tìm chúng ta trước. Ngài xin ta cho Ngài nước uống, vì Thiên Chúa khao khát chúng ta” (GLCG # 2560).

  1. “Nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).

Những cuộc gặp gỡ đối thoại với Nicôđêmô,Matta và Maria, Lêvi, Giakêu… Chúa Giêsu đều giúp họ thay đổi cuộc đời.

Bài tường thuật cho thấy một quá trình thay đổi nhận thức của người phụ nữ về Chúa Giêsu. Trước hết chị ta nhận thấy Chúa Giêsu là một khách bộ hành lạ mặt, một người Do Thái (câu 9). Nhưng khi Chúa Giêsu tỏ ra thấu hiểu cuộc đời riêng tư của chị, thì chị nhận ra đó là một vị Ngôn Sứ (câu 19). Cuối câu chuyện, chị được biết thêm Ngài là Đấng Kitô (c.25–26). Sau đó dân làng Samaria tuyên xưng “Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (c.42). Người phụ nữ Samaria cũng thay đổi trong ngôn ngữ khi nói chuyện với Chúa. Lúc đầu chị gọi Chúa Giêsu là Ông, kế đó là Thưa Ngài, rồi từ việc nhận thức Ngài là một tiên tri đến Đấng Thiên Sai.

Khi đã khám phá được con người của Chúa Giêsu, người phụ nữ Samaria cũng khám phá ra được thứ nước mà Ngài muốn ban tặng. Lúc đầu, khi nghe nói đến nước, người phụ nữ nghĩ tới thứ nước trong giếng Giacóp. Nhưng rồi, từ thứ nước bên ngoài ấy, Chúa Giêsu đã dẫn người phụ nữ đi tìm thứ nước nằm ngay trong lòng con người, thứ nước đem lại sự sống đời đời. Thứ nước ấy chính là Thần khí và Sự thật.

Giống như Philipphê khi đã gặp được Chúa Giêsu liền đi tìm Nathanaen để loan báo Tin Mừng; Bà Maria Mađalêna đã vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo là đã gặp thấy Chúa; Người phụ nữ Samaria không còn quan tâm đến giếng nước và vò nước nữa, chị chạy một mạch về làng, thông báo về nước hằng sống vừa khám phá: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”. Mọi người tin lời chị, họ đến gặp Chúa Giêsu và họ cũng tin Chúa. Sau khi gặp Chúa, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Chúa giữa những người Samaria trong làng. Chị đã dẫn đưa bà con trong làng đến gặp Đức Kitô, nguồn nước hằng sống. Dân làng sau khi gặp Chúa, đã xin Chúa ở lại với họ, và hân hoan tuyên xưng rằng: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.

  1. “Thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga 4,23).

Trong bài đọc II, thánh Phaolô so sánh ơn Chúa Thánh Thần với một thứ nước kỳ diệu mà Thiên Chúa đổ vào lòng các tín hữu. Đó là Thánh Thần tình yêu. Thánh nhân viết: “trông đợi như thế (nghĩa là trông đợi hưởng vinh quang với Chúa), ta sẽ không thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho ta”.

Nước Hằng Sống mà Chúa Giêsu ban tặng chính là Thánh Thần tình yêu. Từ nay nhân loại thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật. Để giải thích điều này, Chúa Giêsu nói: “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”. Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để gặp Ngài, con người cũng phải dùng thần khí của mình tức tâm hồn mình để gặp Ngài. Vì chỉ có thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như vậy nghĩa là phải gặp Ngài trong chính tâm hồn mình. Thật vậy, nơi dễ gặp gỡ Thiên Chúa nhất, chính là cung lòng của mỗi người chúng ta. Không gì linh thánh bằng con người, hay tâm hồn con người, vì “con người là hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6; Kn 2,23). Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng cung lòng con người: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,17; 6,19). Có gặp được Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình, thì mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong Thánh Thể, trong nhà thờ, trong tha nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình mà mình không gặp được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên ngoài. Thánh Augustinô đã từng than thở: “Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp được Chúa của lòng con”. Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài trong sự thật. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, người gian dối, không thành thật thì không thể gặp được Ngài.

Lời mạc khải của Chúa Giêsu bên giếng Giacóp mời gọi chúng ta hãy tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi. Thờ phượng “trong thần khí” là thờ phượng theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; thờ phượng “trong sự thật” là thờ phượng với tâm tình kết hợp với Chúa Giêsu, Đấng là Đường là Sự Thật và là Sự Sống. Thờ phượng Chúa Cha, dưới tác động của Chúa Thánh Thần và được nuôi dưỡng bằng mọi chân lý đến từ Chúa Giêsu. Khi tụ họp với nhau hay khi làm việc thờ phượng cách riêng rẽ, chúng ta đều được Thánh Thần trợ giúp để có thể cầu nguyện, ngợi khen, thờ phượng, cảm tạ, tuyên xưng Chúa Kitô và Thiên Chúa.(x. Ep 5,18-20; 6,18; Rm 8,26-27; Cl 3,16-17).

Hãy tin vào Chúa Giêsu để lãnh nhận nước hằng sống, hầu mang lại sự sống đời đời là chính là Thánh Thần tình yêu của Thiên Chúa. Tin là gặp gỡ Chúa Giêsu như người phụ nữ Samaria và những người đồng hương của chị đã gặp và đã khám phá ra nguồn nước trường sinh. Niềm tin vào Chúa Giêsu là điều kiện cần thiết để được ơn cứu độ, và niềm tin ấy là hoa quả của Thánh Thần (x. Ga 5,22; 1Cor 1,9). Con người có niềm tin viên mãn cũng là con người đầy Thánh Thần (Cv 6,5; 11,24). Sứ vụ của Thánh Thần là củng cố, làm cho niềm tin phát triển và trở nên viên mãn. Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô là Con Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết khao khát, tìm kiếm và sống các mầu nhiệm đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

 

27.             Chúa hiện diện đó, khi ta khát

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Chúng ta đang chứng kiến Chúa Giêsu khởi đầu đời sống công khai. Người rời xứ Giuđêa, vì ở đó sự thành công của Người làm cho nhóm Biệt phái tức giận. Trong giai đoạn này, Chúa không muốn đi vào cuộc tranh chấp mà bọn họ sửa soạn cho Người, nên Người đi qua Samaria để lên Galilêa. Tại Samaria xảy ra một cuộc gặp gỡ mở màn cho việc rao giảng cho dân ngoại toàn thế giới. Chúa Giêsu dừng chân ở núi Garidim. Từ 400 năm, đó là Núi Thánh của dân bản xứ. Vì kình địch với người Do Thái, họ đã biến ngọn núi này thành một nơi cạnh tranh với Giêrusalem. Đi đường xa mệt mỏi, Chúa Giêsu ngồi xuống bên bờ giếng Giacóp, trong lúc môn đệ đi vào làng mua thức ăn. Trong cuộc đối thoại với người đàn bà ra giếng múc nước, ta thấy ngay ý Người muốn dùng nước làm biểu tượng để mặc khải sứ mệnh và danh tính Người. Câu chuyện người đàn bà xứ Samaria thường được dẫn ra làm tỉ dụ về khoa sư phạm tuyệt vời của Chúa đối với con người. Chúa thâm nhập vào trong tâm trí con người, để làm nổ tung các giới hạn của nó, mở nó ra đón nhận chân lý cao cả hơn bắt nguồn từ Thiên Chúa, chớ không phải từ con người.

Đầu hết, Chúa Giêsu gợi óc tò mò tìm hiểu của người phụ nữ. Muốn thế, người đặt mình vào mức tầm thường của đời sống hằng ngày, vào mức của công việc múc nước vất vả. Người làm cho linh cảm rằng không phải chỉ cần có thứ nước đó để sống mà thôi, không phải chỉ có những thực tại vật chất mới là quan trọng trong đời sống. Do đó phản ứng đầu tiên của người đàn bà Samaria là: xin ông cho tôi thứ nước ban sự sống. Phản ứng lẫn lộn vừa ước muốn thoát khỏi sự vất vả thường ngày vừa lòng khao khát biết Chúa Giêsu muốn nói gì.

Chúa làm cho bà thắc mắc hoàn toàn khi thấy rằng Người nhìn tận đáy lòng bà. Bà hãy về gọi chồng lại đây. Hoàn cảnh bây giờ trở nên nan giải cho người phụ nữ, và bà lái câu chuyện sang hướng khác. Phản ứng rất tự nhiên.

Về việc thờ phượng tại Giêrusalem thì sao? Chúa Giêsu theo bà ‘đi vòng quanh’, lợi dụng cơ hội để nói thế nào là tôn thờ thật sự. Càng lúc càng thắc mắc thêm, bà nghĩ còn có cách nói tới việc Đấng Cứu Thế sẽ đến để thoát khỏi cuộc đàm luận này. Đó là lúc Chúa Giêsu chọn để tự mặc khải mình ra. Chính Ta đang nói với ngươi đây, Ta là Đấng ấy. Bấy giờ bà tin vào Chúa Giêsu và thuật lại điều đã xảy tới, đó là Tin Mừng rồi.

Chúa hiện diện gần gũi với đời sống cụ thể thường nhật của ta. Ta có biết nhận ra Người không? Có chấp nhận đối thoại với Người không? Có chấp nhận rằng không phải chỉ có những của cải vật chất mới là quan trọng chăng? Ta có cố gắng không để cho mình bị vật chất hóa chăng? Không phải chỉ có nước uống nuôi xác, còn có nước chảy vọt ra thành sự sống đời đời. Đời sống ta có được nuôi dưỡng bằng kinh nguyện và thờ lạy không?

 

28.             Nước không bao giờ khát nữa

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Chủ đề của cuộc trao đổi bên bờ giếng giữa Đức Giêsu và người nữ Sa-ma-ri hiển nhiên liên quan tới ‘Nước Hằng Sống’, thứ nước mà Người hứa sẽ ban cho mọi tín hữu thông qua Tin Mừng Người rao giảng. Thế nhưng bản chất của thứ nước đó là gì thì vẫn chưa rõ ràng lắm; nước đó là thứ gì mà, “ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”? Cụ thể hơn nữa sẽ là câu hỏi: cơn khát mà nước đó vĩnh viễn giải được là cơn khát gì? Nắm được hay trả lời được vấn nạn trên tức là hiểu được sứ mạng đích thực của Đức Giêsu và lý do tại sao ta lại đặt trọn niềm tin đời ta vào Người. Và để tìm ra câu trả lời thỏa đáng, có lẽ ta nên nhìn sâu hơn vào người phụ nữ Sa-ma-ri đang tiến tới bờ giếng Gia-cóp để kín nước, vì bà là đối tượng trực tiếp lúc đó của lời mời gọi: hãy kín lấy ‘nước hằng sống’. Cụ thể hơn nữa, ta tự hỏi, trong thâm tâm chị ta đang khát khao điều gì nhất, điều gì có thể khiến chị đi tới xác quyết: ông Giêsu này chính là đấng Ki-tô mà tôi hằng mong đợi?

Câu hỏi là, đối với một phụ nữ ‘đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị’ thì điều gì chị ta thực sự khao khát nhất? Một đời sống luân lý hoàn hảo chăng – không dám đâu! vì trong hoàn cảnh cụ thể của chị, điều này đơn giản là bất khả thi; vả lại xem ra Đức Giêsu cũng không đòi hỏi hoặc quở trách gì chị về điều đó – Người không có lấy một lời đòi chị phải rời bỏ ông chồng hờ. Ngoài tình dục là điều rất tự nhiên của đời sống vợ chồng, người phụ nữ này rất có thể, sau bao nỗi đắng cay ngay trong đời chung sống, đang ủ ấp trong lòng niềm khao khát có được một tình yêu đầy cảm thông và được chấp nhận, điều mà chị chưa từng tìm được nơi một ai, kể cả năm ông chồng trước, cũng như nơi người đàn ông chị hiện đang chung sống với; chị khao khát được thương cảm bao dung, được thứ tha trọn vẹn! Cuộc đối thoại tiếp sau đó cho thấy: hình như dung mạo Thiên Chúa mà chị đang âm thầm tìm kiếm và mong đợi cũng liên quan tới cái khát vọng này. Dầu không phải là nhà thần học để tranh luận vấn đề, phải thờ phượng Thiên Chúa ở nơi nào cho thích hợp nhất; nhưng chị đã thật sự vui mừng khi nghe người lữ hành ngồi bên bờ giếng công bố: “giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật”; một kiểu thờ phượng sẽ đáp ứng trọn vẹn niềm khát vọng ẩn chứa bên trong. Về diện mạo đấng Mê-si-a phải đến cũng tương tự như thế: khác với quan niệm về một đấng Ki-tô thống trị và quyền lực mà giới lãnh đạo vẫn thường quảng bá, chị chỉ mong vị đó “khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”, nhất là khi các điều đó đáp ứng được khát vọng thầm kín nhất của tâm hồn mình. Và một khi phát hiện ra con người mà lòng hằng mong đợi: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây!”, người phụ nữ Sa-ma-ri vội “để lại vò nước, chạy vào thành và nói với người ta; “Đến mà xem; có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là đấng Ki-tô sao?”

Thế rồi dân thành Xy-kha nghe người phụ nữ loan báo, đã đến gặp và mời Đức Giêsu lưu lại với họ… ‘và Người ở lại với họ hai ngày’. Trong thời gian đó, chắc chắn mỗi người trong số họ cũng đã, bằng kinh nghiệm của bản thân, khám phá ra rằng: ông Do Thái Giêsu này đúng là người có thể ban cho ‘nước hằng sống’ để rồi mỗi người trong họ đều có thể tự quả quyết: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”. Đối với những con người chất phác, mang trong mình những mảnh đời riêng tư khác nhau (mà người phụ nữ với sáu đời chồng chỉ là một điển hình…), thì khát vọng sâu xa nhất sẽ không là gì khác hơn một sự cảm thông sâu sắc và một lòng thương xót vô bờ. Họ đã khám phá ra rằng: ông Giêsu tới từ Na-da-rét đây đúng là người đáp ứng được khát vọng mãnh liệt thầm kín nhất ấy cho riêng mình. Và họ sẵn sàng tin theo ông, cho dầu ông có là người xa lạ, là cừu địch của họ về mặt xã hội chính trị. Họ đã khảng định niềm tin đó một cách thật rõ ràng và chân chất nhất: “Người thật là Đấng Cứu Độ!” Đó là một lời tuyên xưng biểu lộ thái độ hoàn toàn mãn nguyện, tương tự như khi tìm được nguồn nước mát của bao dung và thứ tha giữa cơn khát khô họng trong sa mạc nóng cháy da của cuộc đời. Đúng thực, Người là ‘nước hằng sống’ không phải trên lý thuyết, mà là cho những mảnh đời rất tư riêng!

Nếu quả đúng là như thế thì nội dung ‘nước hằng sống’ sẽ không còn nằm trong suy tư thần học này nọ, mà đã trở thành một vấn đề hết sức thiết thực và cá nhân. Mùa Chay được Hội Thánh dành cho tôi, chính là thời gian để tôi xác định được cơn khát của riêng mình (vì thế mà cần sám hối), hầu cho phép tôi tiến sâu hơn vào một tuyên xưng đầy xác tín và chân thành: Giêsu Ki-tô quả là Đấng đã, đang và sẽ tiếp tục mãi ban cho tôi thứ ‘Nước Hằng Sống’ tôi rất cần, là Đấng duy nhất giải được cơn khát khô họng của cõi lòng tôi. Người quả là ‘Đấng cứu độ’ của tôi và cho tôi!

Lạy Chúa, con cũng có một mảng đời riêng tư với những khát vọng cháy bỏng. Vào lúc đời xế bóng này, khát vọng lớn nhất con có chính là được cảm thông, thứ tha và xót thương; vì cũng như mọi kiếp người, cuộc sống con không tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu sót và tội lỗi. Nhưng như người đàn bà Sa-ma-ri bên bờ giếng, làm sao chính con có thể xác tín cho riêng mình rằng: chỉ có ‘nước hằng sống’, tức là lòng từ ái hải hà vô tận của Chúa, mới hoàn toàn giải được cơn khát cháy khô họng của con, bây giờ và cho đến muôn đời. Xin cho con luôn được phúc sống sâu xa cảm nghiệm Tin Mừng này, bây giờ và nhất là trong giờ chết. Amen.

 

29.             Khát vọng vô biên của con người – R. Veritas

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

 

Andre Frossard, một ký giả người Pháp đã cho xuất bản cuộc phỏng vấn Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cách đây vài năm, là con của một người theo chủ nghĩa Marxit. Chính ông đã từng là một người cộng sản đầy xác tín…

 

Ngày nọ, ông phải đưa một người bạn đến một tu viện. Trong lúc chờ đợi người bạn, ông tò mò bước vào một nhà nguyện có đặt Mình Thánh Chúa. Ông không bao giờ nghĩ rằng Chúa đang chờ đợi ông. Trong phút chốc, ông bỗng nhận ra một ánh sáng thiêng liêng trong tâm hồn. Bừng dậy sau một cơn mê tăm tối, ông bước ra khỏi nhà nguyện chạy tức tốc đến người bạn và hô lớn: “Thiên Chúa hiện hữu. Đó là một chân lý”.

 

Ông đã ghi lại kinh nghiệm thiêng liêng ấy trong một quyển sách với tựa đề: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”. Quyển sách đã được liệt kê vào danh sách những tác phẩm bán chạy nhất (best-seller)…

 

Anh chị em thân mến,

Dù cho chúng ta có chối bỏ Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn luôn chờ đợi chúng ta. Tại một góc đường nào đó, trước một ánh nến lung linh nào đó, trong một biến cố đau thương nào đó, Ngài đang chờ đợi chúng ta. Phải, Thiên Chúa như một người tình chung thủy lúc nào cũng chờ đợi chúng ta… Chỉ có sự thất vọng, chán nản mới có thể hủy bỏ mọi hẹn hò của Thiên Chúa. Bao lâu chúng ta còn tìm kiếm, bao lâu chúng ta còn phấn đấu, bao lâu chúng ta còn hy vọng, thì bấy lâu Thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta…

 

Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng đang chờ đợi người thiếu phụ Samari bên bờ giếng của Tổ phục Giacob giữa ngã ba đường, tại làng Sikar. Từ một lời xin được nước uống, Chúa Giêsu đã khéo léo bắt chuyện và dần dần đưa người thiếu phụ từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: từ chỗ chỉ thấy người đối thoại với mình là một người lữ hành, một người Do Thái kỳ lạ, dám tiếp xúc với một người phụ nữ Samari vốn thù nghịch với mình, đến chỗ coi người lữ hành nầy như một tổ phụ – như Tổ phụ Giacod – còn hơn nữa, như một tiên tri và cuối cùng nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế đã được trông đợi từ lâu. Chị liền vội vàng chạy đi thông báo cho dân thành đến với Đấng Cứu Thế. Chính ngài sẽ ban cho chúng ta “Nước hằng sống”. Bao lâu chưa tìm ra nguồn nước đó, con người sẽ chết đói, chết khát.

 

Cuộc hẹn bất ngờ đã làm đảo ngược tình huống: Bây giờ người đói, người khát không phải là Chúa Giêsu nữa mà chính là người thiếu phụ Samari. Chính chị là người phải mở miệng xin Chúa cho nước uống, không phải thứ nước từ trong giếng kia, uống vào chỉ đỡ khát trong chốc lát; còn Ngài, Ngài sẽ ban cho thứ nước ban sự sống đời đời, như Ngài nói: “Ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy vọt mang lại sự sống đời đời”.

 

Thưa anh chị em,

Con người sinh ra trong giới hạn, nhưng lại mang một khát vọng vô hạn. Và để thỏa mãn cơn khát đó, kẻ thì đánh lừa mình bằng cách tạo ra những thần tượng để tôn thờ và họ sẽ thất vọng… Kẻ thì lấp đầy khao khát đó bằng cách lăn xả vào những khoái lạc vật chất. Họ cũng sẽ thấy chán chường, không bao giờ thấy thỏa mãn. Chúa Giêsu đã nói với người thiếu phụ Samari: “Ai uống nước giếng nầy, sẽ vẫn còn khát…”, thứ nước này không giải khát hoàn toàn, nó vừa xoa dịu cơn khát, vừa duy trì và kích thích cơn khát. Ai mà chẳng biết cái chu kỳ quỷ quái của dục vọng, luôn luôn tái phát, chẳng bao giờ no thỏa. Ai lại không cảm thấy nhu cầu được thỏa mãn cứ trào lên vô tận, thúc đẩy mình hưởng thụ cách nào đó: càng khát lại càng uống, càng uống lại càng khát…

 

Chỉ có Chúa Kitô, phát xuất từ Thiên Chúa vô biên có thể dạy chúng ta ý nghĩa khao khát đó. Ngài dạy chúng ta sống với vô biên, khát cái phải khát, và chỉ có Ngài mới có thể lấp đầy khát vọng vô biên của con người. Chính Đấng Vô Biên đã tạo ra trong lòng chúng ta cái khát vọng vô biên, không sao thỏa mãn, không sao lấp đầy đó. Chỉ khi nào gặp được Đấng Vô Biên trong Đức Kitô, lòng chúng ta mới được thỏa mãn mà thôi.

 

Thánh Augustinô, sau một khoảng đời đi tìm kiếm danh vọng, địa vị, tiền tài, tình yêu, hạnh phúc, cuối cùng đã chán ngán, ăn năn sám hối trở lại với Chúa và ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, thế mà bấy lâu nay con chỉ mải mê tìm kiếm cái gì khác ở ngoài Chúa. Vì vậy lòng con luôn băn khoăn thao thức mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa. Lạy Chúa, con đã biết Chúa quá muộn! Con đã yêu Chúa muộn quá rồi!”.

 

Người thiếu phụ Samari hôm nay khi gặp được Đức Giêsu – nguồn mạch nước hằng sống – đã phải thốt lên với mọi người: “Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi mọi việc tối đã làm. Phải chăng ông ấy là Đấng Kitô”. Sau khi dân thành Samari kéo đến gặp Chúa Giêsu và xin Ngài ở lại, họ đã hân hoan tuyên xưng rằng: “Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng Cứu Thế”.

 

Và cũng như Andre Frossard, một đảng viên cộng sản đầy xác tín đã phải thốt lên: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài”. Không phải chỉ thốt lên bằng một lời nói mà bằng cả một tác phẩm ghi lại kinh nghiệm gặp gỡ thiêng liêng ấy, một tác phẩm thuộc loại sách bán chạy nhất.

 

Anh chị em thân mến,

Chúa Giêsu là niềm khát vọng thầm kín, sâu xa của mọi người và mỗi người chúng ta trong cái khát vọng cơm nước tầm thường hằng ngày của chúng ta, để rồi chúng ta cảm thấy không phải chỉ cần có thứ cơm nước đó mới sống được, không phải chỉ có những thực tại vật chất ấy là đáng kể trong đời sống mà còn có những khát vọng tình yêu và hạnh phúc, độc lập và tự do, công lý và hòa bình…, và lắng sâu trong tâm hồn còn có khát vọng sự sống vĩnh cửu; Nước Hằng Sống.

 

Chúng ta phải làm sao để cảm thấy Chúa cần thiết cho đời sống của chúng ta, gắn liền với cuộc sống chúng ta như ánh nắng, như khí thở, như cơm ăn, như nước uống hằng ngày: “Ai uống nước Tôi ban cho sẽ không bao giờ khát nữa… và sẽ được sống muôn đời”.

 

30.             Xin mở mắt tâm hồn con – R. Veritas

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)

Quí ông bà, cô bác và anh chị em thân mến!

Có lẽ chúng ta không còn cần câu chuyện nào khác để dẫn chứng cho chúng ta đối với đoạn Phúc Âm hôm nay. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Samaria được mô tả một cách thật là hay, với nhiều chi tiết gợi ý và có thể thu hút sức chú ý của chúng ta. Tác giả Phúc Âm không nhắc đến tên của người đàn bà này, mà chúng ta có thể giả thuyết là Chúa và các tông đồ, dĩ nhiên trong số các tông đồ có cả tác giả Phúc Âm tức thánh Gioan, biết tên người đàn bà này, vì Chúa đã lưu lại nơi cộng đồng trong vùng hai ngày sau đó để giảng dạy. Người đàn bà không được nhắc đến tên, có lẽ vì hai lý do sau đây:

Trước hết là sự tế nhị không muốn nêu danh tánh của một người đàn bà đã có năm đời chồng và hiện đang sống với người không phải là chồng của mình.

Lý do thứ hai quan trọng hơn, là vì tác giả Phúc Âm thánh Gioan muốn trình bày nơi đây không phải lịch sử cuộc đời của một người đàn bà tội lỗi, nhưng trình bày cho chúng ta có thể nói là con đường đức tin của mỗi người chúng ta.

Nói cách khác, chúng ta không cần biết danh tánh người đàn bà đó là ai. Vì có thể nói, người đàn bà đó là mỗi người chúng ta đây trước mặt Thiên Chúa. Con đường đức tin của chúng ta, chúng ta hãy quan sát xem người đàn bà này đã gặp Chúa Giêsu như thế nào. Hay nói cách khác, Chúa Giêsu đã gặp bà và hướng dẫn bà từ một thái độ đối nghịch sang thái độ kính trọng, cuối cùng tin nhận và làm chứng cho Chúa như thế nào.

Trước hết, dung mạo tinh thần của người đàn bà đó là ai? Mặc dù chúng ta không biết tên và không cần biết tên, đây là người xứ Samaria, con cháu của những người Do Thái mang dòng máu Adam. Chúng ta biết vào năm 700 trước Chúa Giêsu sinh ra thì những người Do Thái bị bắt đi lưu đày sang Babilon và vùng đất Samari này được người khác đến cư ngụ. Năm 500 trước Chúa Giêsu sinh ra thì những người Do Thái được trở về lập quốc và vùng đất Samari này là vùng đất mà những người Do Thái sống với những người ngoại quốc, họ lập gia đình với nhau, cưới hỏi nhau. Từ đó những người Samari này có thể nói là những người Do Thái mang dòng máu lai người ngoại quốc, không còn là Do Thái chính tông trong sạch như những người Do Thái ở vùng Giuđêa, quanh thành Giêrusalem và đền thờ Giêrusalem.

Đây là những người bị người Do Thái coi như là kẻ thù theo cả hai nghĩa, kẻ thù của dân tộc Do Thái đã kết thân lập gia đình với những người ngoại quốc, và cũng là kẻ thù coi thường Luật Chúa, Luật Môsê, không xứng đáng lãnh nhận hồng ân cứu rỗi của Thiên Chúa nữa. Hơn thế nữa, người đàn bà đã có năm đời chồng và đang sống với một người không phải là chồng của mình. Một người tội lỗi công khai, bị kẻ khác xét xử như là kẻ ngoan cố trong tội lỗi, vui lòng với tội lỗi của mình, mà theo quan điểm con người của chúng ta thì có lẽ đây là trường hợp hết thuốc chữa.

Người đàn bà Samari mà Chúa Giêsu gặp không còn xứng đáng với ơn cứu rỗi của Chúa, đó là nhìn theo quan điểm con người chúng ta, nhưng không hẳn như vậy, vì trong thâm tâm của bà vẫn còn có một thắc mắc, một khát khao vượt ra khỏi tình trạng hiện tại của mình. Chúng ta có thể ghi nhận bà còn một chút hiểu biết giáo lý, còn đang mong chờ Đấng Thiên Sai đến để ban ơn cứu rỗi. Do đó bà đã hỏi Chúa Giêsu: “Chúng tôi phải thờ Thiên Chúa ở đâu? Tại Giêrusalem hay trên núi này? Tôi biết rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến để dạy cho chúng tôi mọi sự”. Đó là khao khát từ trong thâm tâm của bà hướng về Đấng Cứu Rỗi, và hơn nữa nơi con người bà còn có một điều tốt là can đảm nói sự về cuộc đời mình ra trước mặt Chúa. Bà đã dám nhìn nhận tôi không có chồng, bà ý thức về tội lỗi của mình, và có chút khao khát hướng về sự giải thoát, về ơn cứu rỗi.

Chúa Giêsu đã hành động như thế nào đối với bà? Chúa đến với bà trước hết trong dung mạo của người Do Thái, tức là kẻ thù của người Samari. Chúa vượt qua hai định kiến xấu đối với bà, người Samari và người đàn bà. Người vùng Samari như đã nói là những người Do Thái mang dòng máu lai ngoại quốc, không còn trung thành, không còn là Do Thái chính cống trong sạch với Luật Môsê nữa.

Một vị thầy của người Do Thái không bao giờ nói chuyện với người đàn bà nơi công cộng, nhưng Chúa Giêsu vượt qua hai định kiến xấu này và khơi dậy thiện cảm của người đàn bà khi mở miệng xin nước uống: “Xin bà cho tôi nước uống”. Chúa tạo dịp cho người đàn bà làm một việc thiện, làm một điều tốt cho một người mà mình không thích để từ đó nâng dậy người đàn bà sa ngã.

Hành động và lời nói của Chúa Giêsu đã phá tan thành kiến nơi người đàn bà: “Sao ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người Samari?” Hành động và những lời nói của Chúa làm cho người đàn bà có một thái độ kính trọng hơn, bà đã đổi cách xưng hô từ việc ngay từ đầu gọi Chúa là ông một cách xa lạ, thì giờ đây biến thành: “Thưa Ngài, xin hãy cho tôi nước uống”. Một lời thưa nói lên thái độ kính trọng, bà đã sẵn sàng lắng nghe Chúa nói với bà.

Chúa dùng hình ảnh nước uống để mạc khải về mầu nhiệm ân sủng Thần Linh từ Thiên Chúa muốn ban cho con người. Chúa không có thái độ khinh thị, Chúa sử dụng ngôn ngữ người đàn bà dễ hiểu và cuối cùng dẫn bà đến thực tại sâu xa nhất trong tâm hồn của bà. Đó là Chúa cho bà biết là bà đang khao khát một cái gì cao siêu hơn, không phải nước uống vật chất, không phải tình thương nhục dục, nhưng khao khát ơn cứu rỗi, khao khát gặp được Đấng Thiên Sai, trong lúc đó Chúa Giêsu đã mạc khải rõ ràng hơn cho bà Đấng Thiên Sai đó chính là Thiên Chúa, là người đang nói với bà đây. Con đường đức tin của bà đã bắt đầu, bà đón nhận và trở thành người chứng đầu tiên cho Chúa, bà chạy về làng kêu mời những người khác đến gặp Chúa Giêsu. Tin và làm chứng cho Chúa luôn đi đôi với nhau.

Tác giả Phúc Âm thánh Gioan không kể thêm chi tiết khác nữa, vì đó có thể là những chi tiết để thỏa mãn tính tò mò của mỗi người chúng ta hôm nay khi đọc đoạn Phúc Âm này, nhưng ngài muốn nói đầy đủ trong đoạn Phúc Âm này những chi tiết khác thuộc phạm vi riêng tư giữa Chúa và người đàn bà, giữa Chúa và mỗi người chúng ta, giữa Chúa và mỗi người mà chúng ta không cần biết đến.

Những gì đã được kể ra trong đoạn Phúc Âm hôm nay là để giúp cho mỗi người chúng ta nhìn lại con đường đức tin của mình: tôi đã gặp được Chúa như thế nào? Tôi đã gặp Chúa hay chưa? Để mỗi người chúng ta biết trở về nhìn nhận giây phút ân sủng mà Chúa đến thăm mỗi người, Chúa thực hiện một dấu lạ, một điều gì đó kể cả Chúa dùng tội lỗi của chúng ta như Chúa dùng trường hợp tội lỗi của người đàn bà để mạc khải một thực tại cao siêu hơn, để kêu gọi người đàn bà trở về, bà đã có năm đời chồng, bà nói đúng sự thật về người mà bà đang sống, bà biết người đang sống với bà không phải là chồng của mình. Chúa có thể dùng những tật xấu, những tội lỗi của chúng ta để thức tỉnh chúng ta và mời gọi chúng ta trở về với Chúa.

Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được thức tỉnh để nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình, nhất là nhìn nhận nơi chính thâm tâm của mỗi người chúng ta có một khao khát hướng về Chúa, có một khao khát được ơn Chúa cứu rỗi. Xin Chúa đến và củng cố đức tin của chúng ta.

 

31.             Trống vắng

Một du khách từ thánh địa trở về kể lại rằng:

Ngày nọ lúc ông đang ngồi trên một bờ giếng, thì một phụ nữ Ả Rập, vai mang một cái thùng, tay cầm một cuộn dây quấn lại tròn như một quả cầu, với một chiếc gàu nhỏ bằng da. Đến nơi, chị cột dây vào gàu và thả xuống giếng, rồi kéo lên và đổ nước vào thùng. Khi đã đầy thùng, chị liền rời khỏi giếng và trở về nhà.

Lúc sau, một người đàn ông xuất hiện. Anh chẳng có gì để múc. Và thế là vì quá khát, anh bèn bò xuống đất, liếm những giọt nước, mà người phụ nữ đã đổ trào ra.

Câu chuyện đơn giản trên sẽ giúp chúng ta hiểu điều mà người phụ nữ Samaria đề cập đến qua đoạn Tin Mừng hôm nay.

Chị ta nói với Chúa Giêsu:

– Thưa ông, ông không có gàu để múc, mà giếng thì lại sâu, thế thì ông kiếm đâu ra nước hằng sống.

Và Chúa Giêsu đã cắt nghĩa cho chị ta hiểu rằng Ngài không định nói đến thứ nước vật chất, làm dịu đi cơn khát thông thường, mà là thứ nước thiêng liêng, làm dịu đi cơn khát tâm linh. Ngài nói:

– Ai uống nước này vẫn còn khát, nhưng ai uống nước Ta ban sẽ chẳng khát bao giờ nữa.

Như thế Chúa muốn nói: Về mặt thể xác, tất cả chúng ta đều bị khát thế nào, thì về mặt tâm linh, tất cả chúng ta cũng bị khát như vậy.

Tuy nhiên, sự khát tâm linh này là gì? Đâu là sự trống rỗng bên trong mà chúng ta đã từng cảm nghiệm…

Các tác giả Cựu Ước đã nói về điều này như là một cơn “khát Chúa”. Chẳng hạn thánh vịnh 42 thì nói:

– Như nai khát mong tìm suối mát, hồn con cũng mong đợi Ngài như thế.

Tiên tri Isaia thuật lại lời Chúa:

– Tất cả mọi kẻ khát hãy đến cùng ta.

Còn tiên tri Giêrêmia thì sánh ví Chúa như giòng suối trong. Cơn khát mà tất cả chúng ta đều cảm thấy là cơn khát Chúa. Đây là một cơn khát nội tâm mà mọi người đều có thể cảm nghiệm được như lời thánh Augustinô:

– Tâm hồn chúng con được tạo nên cho Chúa và nó sẽ còn khắc khoải cho đến khi nào được nghỉ yên trong Chúa.

Thế nhưng, nhiều người thời nay đang cố gắng tìm cách thỏa mãn cơn khát tâm linh này bằng những thứ khác không phải là Chúa. Chẳng hạn như tiền bạc, danh vọng, lạc thú. Họ hành động như cho đứa bé đang khóc một cục kẹo để nó nín. Tuy nhiên kinh nghiệm cho hay dùng vật chất để làm thỏa mãn cơn khát thiêng liêng chẳng khác nào dùng muối để giải tỏa cơn khát thể xác. Càng uống lại càng khát thêm. Nơi trái tim mỗi người đều ẩn dấu một con khát mà không giòng nước nào có thể thỏa mãn nổi, một nỗi khắc khoải mà không sự thành công nào có thể giập tắt được, một sự trống rỗng mà không của cải vật chất nào có thể lấp đầy được. Điều đó dẫn chúng ta tới kết luận của đoạn Tin Mừng hôm nay:

Chỉ có Chúa mới thỏa mãn được cơn khát trong tâm hồn chúng ta. Và chỉ một mình Ngài mới lấp đầy khoảng trống trong cuộc đời chúng ta, bởi vì như lời Ngài đã xác quyết: Ai uống nước Ta ban thì sẽ chẳng khát bao giờ.

 

32.             Thờ lạy trong tinh thần và chân lý – André Sève

Với vẻ tò mò, người phụ nữ Samaria tiến tới phía người đàn ông đang ngồi trên thành giếng. Bởi vì Chúa Giêsu đang sống, bởi vì mỗi bài suy niệm này là một cuộc gặp gỡ tình yêu với Chúa Giêsu hằng sống, tại sao không nghĩ rằng Ngài đang chờ tôi? Chính Ngài nói với tôi: “Hãy cho Ta uống nước”

Nhưng Ngài khẳng định ngay: “Nếu ngươi biết rõ ơn Thiên Chúa ban: chính ngươi biết rõ ơn Thiên Chúa ban; chính ngươi sẽ xin và ngươi sẽ được uống nước hằng sống”.

Hai nỗi khát khao làm hoang mang. Chúa Giêsu nói: “Hãy cho Ta”, rồi: “Hãy xin Ta”. Và xa hơn một chút: “Chúa Cha đang cần những người tôn thờ Ngài thực sự”. Chúng ta đang ở trên đỉnh cao của sự mạc khải. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa có thể làm cho chúng ta hết khát, nhưng không có bài Phúc Âm này thì ai dám nghĩ rằng Thiên Chúa khao khát chúng ta?

Cách duy nhất để có thể xứng đáng với sự khao khát này chính là khao khát Ngài. Sự ước muốn và tình yêu có qua có lại: tình yêu vì tình yêu. Chính là phải xin nước của Ngài là nước sẽ làm cho chúng ta ước ao Chúa: “Hãy xin Ta nước hằng sống và nơi ngươi sẽ phát sinh nguồn mạch tình yêu. Ngươi có thể là một trong những người tôn thờ mà Cha tìm kiếm”.

Người tôn thờ sao? Những hình ảnh phiền nhiễu nổi lên, những người sấp mình trước một ngẫu tượng. Cho nên Thiên Chúa của chúng ta là gì nếu Ngài muốn người ta sấp mình trước mặt Ngài?

Ngài là Thiên Chúa. Không có gì có thể thay đổi được cứ liệu này trong quan hệ của chúng ta: Ngài là Thiên Chúa. Ngài không tìm kiếm những kẻ thờ lạy, Ngài tìm kiếm những kẻ thờ lạy thực sự. Sự chính xác có một tầm quan trọng lớn lao. Chỉ những kẻ tôn thờ thực sự mới đáp lại tình yêu của Ngài, không ngừng xem Ngài là Thiên Chúa. Nếu không, mối quan hệ bị sai lệch, tình yêu của chúng ta không đạt tới Thiên Chuá, chúng ta hoàn toàn ở trong sự ảo tưởng.

Tôi vừa đặt tình yêu vào chỗ tôn thờ, bởi vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chờ đợi chúng ta yêu thương Ngài. Nhưng để không lầm lẫn về mối tình kỳ lạ có thể nối kết con người với Thiên Chúa này, phải đào sâu ý tưởng thờ lạy. Đây hoàn toàn không phải thờ lay một ngẫu tượng nhưng là biết yêu mến Chúa mà vẫn luôn luôn cảm nhận sự uy nghiêm của Ngài. Tôi ngần ngại trước khi viết “sự uy nghiêm”, và sự ngần ngại này chứng tỏ cho tôi thấy rằng không dễ gì tìm được ngôn từ đúng đắn cho tình yêu tôn thờ này. Do đó ngày nay có một cách nói của Phúc Âm trở nên nổi tiếng bởi vì nó xác định đầy đủ sự tôn thờ thực sự: “Phải thờ lạy Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý”.

Khi thánh Gioan nối kết hai từ tinh thần với chân lý bằng từ và, từ quan trọng nhất thường là từ thứ hai (chẳng hạn “Ông ta thấy và ông ta tin”). Do đó, ở đây phải chú trọng đến chân lý. Vẫn đối với Gioan, chân lý làm ta nghĩ ngay đến Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ta là chân lý”. Trong khi mạc khải chân lý về Chúa Cha, về chính mình và về quan hệ giữa Ngài với Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thờ lạy “trong chân lý”. Điều đó có nghĩa là: yêu Cha như Chúa Giêsu yêu thương Ngài.

Nhưng chỉ có Chúa Thánh Thần mới có thể ban cho chúng ta những tâm tình như Chúa Giêsu. Thờ lạy “trong tinh thần” có nghĩa là được Thánh Thần linh ứng khi chúng ta muốn yêu thương Cha theo cách của Chúa Giêsu.

Bạn chắc chắn cảm thấy tôn thờ thực sự tức là tôn thờ Ba Ngôi. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu ở giếng Giacob mang lại cho chúng ta ba màu sắc của sự tôn thờ: Sự tôn thờ này hướng đến Chúa Cha, trong khi, dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, sự tôn thờ này được nuôi dưỡng bằng mọi chân lý đến từ Chúa Giêsu.

 

33.             Đấng xin nước là Nguồn Nước Hằng Sống

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Lộ trình phụng vụ Mùa Chay năm A dẫn đưa chúng ta sống con đường của các anh chị em dự tòng đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rửa Tội, làm sống dậy trong chúng ta ơn Thánh Tẩy.

Giáo Hội luôn kết hợp lễ Vọng Phục Sinh với việc cử hành bí tích Rửa tội trong đó hiện thực mầu nhiệm cao cả của cuộc sống kitô: chết đi cho tội lỗi, tham dự vào sự sống mới trong Chúa Kitô phục sinh và nhận lấy Chúa Thánh Thần, Đấng đã cho Đức Giêsu từ cõi chết sống lại (x. Rm 8,11).

Thế nên, Chúa Nhật thứ nhất gọi là Chúa Nhật cám dỗ, vì giới thiệu các cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu trong sa mạc, và mời gọi chúng ta đứng về phía Chúa Giêsu để chống lại các cám dỗ. Chúa Nhật này sau khi nghe chứng tá của các cha mẹ đỡ đầu, Giáo Hội cử hành việc tuyển chọn những người sẽ được nhận lãnh bí tích Rửa Tội trong đêm Vọng Phục Sinh.

Chúa Nhật thứ hai gọi là Chúa Nhật của tổ phụ Abraham và Chúa Nhật Hiển Dung. Bí Tích Rửa tội là bí tích của đức tin và thiên chức làm con Thiên Chúa: theo Abraham tin tưởng vào Chúa và ra đi để trở nên con cái Chúa.

Bước vào Chúa Nhật thứ ba, chúng ta nghe lại cuộc đối thoại nổi tiếng của Đức Giêsu với người thiếu phụ Samaria, được tường thuật bởi Thánh Sử Gioan. Người thiếu phụ hằng ngày đi lấy nước từ một giếng nước cổ xưa, có từ thời của tổ phụ Giacóp. Và ngày hôm ấy, chị gặp Đức Giêsu đang ngồi trên bờ giếng, mệt mỏi sau một chặng hành trình đường xa (x. Ga 4,5-42). Chúa Giêsu chính là nước hằng sống, Ngài làm cho con người đỡ khát, nước Chúa Thánh Thần. Chúa Nhật này Giáo Hội cử hành việc bỏ phiếu các tân tòng lần thứ nhất và trong tuần trao cho họ Kinh Tin Kính.

Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống

Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Các Giáo phụ đã sớm nhận ra nới “nước hằng sống” biểu tưởng của phép Rửa tội, mà Đức Kitô là chính Nguồn Nước ấy (9). Chúa Giêsu xin người đàn bà xứ Samaria nước uống, không phải lý do khát về thể lý cho bằng khát đức tin và khát sự sống đời đời. Đấng Cứu Thế giả vờ khát nước đến xin người đàn bà nước để trao ban thứ nước ân sủng khỏi khát đời đời. Đó chính là nguồn nước mà Tin Mừng nói tới khi Ngài xin nước của người đàn bà xứ Samaria… Thực ra, nguồn nước ấy không bao giờ cạn, Đấng là nước hằng sống không thể uống nước bị ô nhiễm ở vùng đất này. Câu hỏi được đặt ra: Phải chăng Đức Kitô khát nước?

Vâng, Ngài khát, nhưng Ngài không khát nước trên mặt đất này, hay khát thức uống của con người, mà khát sự cứu chuộc nhân loại. Thánh Ephrem viết: “Khi khát nước, Chúa chúng ta đã ngó đầu vào miệng giếng; Ngài xin người đàn bà nước uống. Từ giếng nước, Ngài đã câu được một tâm hồn. Nhưng tâm hồn ấy đã lại câu tiếp được cả dân trong thành” (Thánh Thi Giáng sinh số 4, 43-44).

Tại sao Chúa Giêsu lại xin người đàn bà xứ Samaria nước uống khi bà đến kín đầy vò nước, không những thế, Ngài còn khẳng định rằng, Ngài có thể trao ban mạch nước dồi dào hơn từ giếng thiêng liêng nếu ai đến xin Ngài?

Câu trả lời là vì dân Samaria thờ ngẫu tượng, nên Ngài khát đức tin của người đàn này. Chúa Giêsu nói: “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: ‘xin cho toi uống nước’, thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống (…) Tất cả những ai uống nước này sẽ còn khát: nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa ; vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời” (Ga 4, 10-14). Đúng như lời Kinh Tiền Tụng thánh lễ hôm nay diễn tả: “Lạy Chúa là Cha chí thánh… Khi người phụ nữ xứ Sa-ma-ri cho nước uống, Người đã ban cho bà đức tin. Vì Người tha thiết ước mong bà tin vững mạnh, nên đã đốt lên trong lòng bà ngọn lửa yêu mến Chúa…”

Hình ảnh người tân tòng

Người đàn bà xứ Samaria là hình ảnh của người tân tòng, còn đang chịu sự ràng buộc của ma quỷ, năm đời chồng bà đã từ bỏ, người đàn ông thứ sáu đang sống với bà là tượng trưng. Giếng nước Giacóp thể hiện tiệc cưới của tâm hồn bà cử hành với Thiên Chúa đã được thanh tẩy bằng nước Rửa tội. Theo M. Dulaey thì: “Giữa thế kỷ thứ III, Origène giải thích rằng, giếng nước này là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với dân Người và hiệp nhất tâm hồn với Thiên Chúa.”, từ nay bà tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người và đi loan báo Đức Kitô cho dân làng bà, kết quả là: “Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng: Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39). Theo Origène “Vị Hôn Phu đích thực là Chúa Kitô (Ga 13, 181). Một khi người đàn bà này tìm thấy Ngài, bà liền chạy về loan báo cho dân làng biết: kể từ Origène, người đàn bà này là hình ảnh của người kitô hữu tuyên xưng đức tin của mình.”

Nguồn suối cứu độ là chính Đức Kitô

Đức Kitô, Đấng ngồi nghỉ trên miệng giếng chính là nguồn nước, từ cạnh sườn bên phải Ngài, tuôn trào dòng nước xót thương; một phụ nữ có sáu đời chồng đã được tẩy sạch bằng dòng nước hằng sống ấy. Thật ngưỡng mộ biết bao: một người phụ nữ nhẹ nhàng đến giếng Samaria kín nước, bà lấy nước từ dòng nước Giêsu! Tìm được nước, bà ra đi với sự tiết hạnh. Ngay lập tức bà xưng thú các lỗi mà Chúa Giêsu ám chỉ, bà nhận ra Đức Kitô và loan báo Đấng Cứu Thế. Bà để vò nước xuống, mang ơn sủng vào thành ; vai nhẹ bớt, bà trở về tràn đầy sự thánh thiện… Đúng là ai đến trong tội lỗi sẽ trở về với sứ mạng tiên tri.

Nước hằng sống này đối với chúng ta là nguồn suối dâng trào sự sống đời đời, nước này không phải là nước hòa với Máu Chúa Kitô, đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên cây Thánh giá đó sao? Đây không phải là các bí tích của Giáo hội mà Phép rửa trình bầy mầu nhiệm của nước ấy, để ám chỉ rằng nước đó phát sinh từ cái chết cứu độ của Đấng Cứu Thế đó hay sao? Trong mọi trường hợp, các Giáo phụ thấy nước tuôn chảy từ tảng đá do Môisen đập ra (Xh 17, 3-7) là hình ảnh tiên trưng của nước chẩy ra từ cạnh sườn Đấng Cứu Thế bị đóng đinh.

Mỗi người chúng ta đều có thể nhìn thấy chính mình nơi hình ảnh của người thiếu phụ Samari: Đức Giêsu chờ đợi chúng ta, nhất là trong thời điểm của Mùa Chay này, để đối thoại với chúng ta, để nói với con tim của chúng ta. Chúng ta hãy dừng lại trong một khoảnh khắc thinh lặng, tại căn phòng của chính chúng ta, tại một ngôi thánh đường, hay tại một nơi nào đó trong ngôi nhà của chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe âm vang lời Ngài nói với chúng ta: “Nếu bạn nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban… ”

Lạy Đức Nữ Đồng Trinh Maria, xin giúp chúng con để chúng con không đánh mất cơ hội gặp gỡ này, là nơi chúng con có thể kín múc nguồn hạnh phúc đích thực cho cuộc đời chúng con. Amen.

 

34.             Cuộc gặp gỡ lịch sử

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)

Tin Mừng đề cập đến rất nhiều cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ, bên ngoài xem ra rất thường tình, song lại là những cuộc gặp gỡ làm nên lịch sử. Điển hình là những cuộc gặp gỡ: giữa Chúa Giêsu và Giakêu, Chúa Giêsu và Lêvi, Chúa Giêsu và Simon Phêrô, Chúa Giêsu và người đàn bà ngoại tình, và hôm nay một cuộc gặp gỡ khác, cuộc gặp gỡ rất đặc biệt giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ Samari. Dưới ngòi bút linh động của thánh sử Gioan, thì đây là cuộc gặp gỡ làm nên cuộc “cách mạng” lớn, cuộc “cách mạng” trên 3 bình diện: chủng tộc, giới tính và tôn giáo.

  1. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào phân biệt về chủng tộc.

Chúng ta biết rằng mối bất hòa giữa dân Do Thái và dân Samaria bắt nguồn từ một câu truyện rất xa xưa. Khoảng năm 720 TCN, người Assiri xâm chiếm và thống trị vương quốc Samaria ở phía bắc. Người Samari bắt đầu cưới gả với người ngoại bang mới đến. Người Do Thái coi đó là trọng tội, không thể tha thứ. Vì họ đã làm mất thuần chủng Do Thái. Cho đến nay, trong gia đình Do Thái có một luật hết sức nghiêm khắc là, nếu có một đứa con trai hay con gái cưới vợ lấy chồng ngoại bang, thì người ta lập tức làm lễ an táng người con ấy, vì bị xem như đã chết rồi. Như vậy, đa số dân xứ Samaria thuộc vương quốc miền bắc bị đầy sang Mêđi và không bao giờ trở về nữa, họ bị đồng hóa với các dân tộc thống trị họ. Số người còn trong xứ lại cưới gả với dân ngoại bang được đưa đến đó, nên họ cũng mất luôn quyền làm công dân Dothái.

Về sau, vương quốc miền Nam, là Giuđêa cũng bị xâm lăng và bại trận. Dân chúng bị đày sang Babylon, nhưng không mất gốc, họ vẫn còn là dân Do Thái ngoan cố. Sau thời lưu đày trở về, công việc đầu tiên của họ là tu sửa lại Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy. Người Samaria đến giúp đỡ, vì muốn được cùng làm công việc thánh thiêng ấy, nhưng họ bị khinh miệt và khước từ. Nhục vì bị từ khước, người Samaria quay lại chống đối kịch liệt dân Giuđêa.

Sự bất hòa còn gay gắt hơn, khi người Do Thái phản đạo là Manasê tìm cách xây một đền thờ đối lập trên núi Garizim, nằm trung tâm xứ Samaria mà người phụ nữ đã đề cập đến. Về sau, năm 129 TCN, quân Do Thái mở cuộc tấn công người Samaria và hủy diệt ngôi Đền thờ tại Garizim. Người Do Thái và Samaria lại càng thù ghét nhau hơn. Cuộc bất hòa giữa hai dân tộc, Do Thái và Samaria, đã có từ hơn bốn trăm năm, nhưng vẫn gay gắt vào thời Chúa Giêsu. Cho nên người đàn bà Samaria sửng sốt khi thấy Chúa Giêsu là một người Do Thái, lại bắt chuyện với mình, một người Samari. (x. Bài giảng của tác giả NT). Đó là bình diện thứ nhất mà cuộc cách mạng của Chúa Giêsu đã phá đổ, bình diện phân biệt chủng tộc.

  1. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào kỳ thị về giới tính.

Người Samaria mà Chúa Giêsu gặp gỡ hôm nay lại là một phụ nữ. Trong khi luật cấm nam nhân chào hỏi phụ nữ giữa những nơi công cộng, cấm ngay cả với vợ, con gái hay chị em của mình nữa. Một số người Biệt phái còn nhắm nghiền mắt lại khi gặp phụ nữ ngoài đường phố. Một đạo sĩ bị bắt gặp nói chuyện công khai với phụ nữ thì kể như tiếng tăm sự nghiệp tiêu tan. Thế nhưng Chúa Giêsu lại trò chuyện với một người, chẳng những là phụ nữ, mà còn là một phụ nữ xấu nết, chồng con lăng nhăng, 5-6 lần rối. Không một người đàn ông đứng đắn nào, chứ đừng nói đến đạo sĩ, hay ngôn sứ, chịu để cho người ta thấy mình đứng chung hay trao đổi dù chỉ một lời với bà ta. Vậy mà điều đó lại xảy ra với Chúa Giêsu (x. Bài giảng của tác giả NT). Bởi thế khi các môn đệ trở về, trông thấy sự việc, họ cho là Thầy mình đã gây ra một xì-căng-đan, có nguy cơ “mất phần linh hồn”.

  1. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào độc quyền về tôn giáo.

Những người Samari thờ phượng Thiên Chúa trên núi Garizim. Còn những người Dothái thờ phượng Thiên Chúa trên núi Sion, tức Giêrusalem. Và hai bên tranh cãi với nhau, thù ghét nhau.

Chúa Giêsu khẳng định: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Jêrusalem!” Cách nói thân tình của Người diễn tả một mạc khải quan trọng: thời kỳ cũ đã qua rồi và cách thờ phượng cũ đã chấm dứt. Nay là thời thiên sai, thời kỳ của ơn cứu độ phổ quát: “Đã đến lúc những người thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và sự thật”. Thờ phượng trong thần khí là thờ phượng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; thờ phượng trong sự thật là thờ phượng với tâm tình kết hợp với Đức Giêsu, Đấng đã xưng mình là đường, là sự thật và là sự sống.

Đức Giêsu đã khai mở và thiết lập giao ước mới. Nghi lễ cũ phải nhường cho nghi lễ mới. Ngài chính là của lễ mới và là Đền thờ duy nhất của Thiên Chúa Cha. Những ai tin nhận Ngài là Đấng Thiên sai, Đấng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết, sẽ có được sự sống mới của Thiên Chúa cách đích thực. Tôn giáo nào đưa con người gặp gỡ được với Thiên Chúa trong Thánh Thần, trong Chân Lý, là tôn giáo được đón nhận. Đây hẳn là một cái nhìn mang tính cách mạng, cách mạng về nơi thờ phượng tôn giáo.

Nói khác đi, qua cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samaria, Chúa Giêsu đã phá vỡ các hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc và các lề thói chính thống của Do Thái giáo. Tại đây, Ngài đã thực hiện cuộc cách mạng giải phóng con người khỏi ý thức hệ, vốn trói buộc con người hàng chục thế kỷ. Tại đây, tính cách phổ quát của Tin mừng là khởi điểm. Tại đây, Thiên Chúa đang yêu thương thế gian, không bằng lý thuyết, nhưng bằng hành động, hành động đem lại ơn cứu độ. Dĩ nhiên, chỉ có Đấng là Mêsia, là Thiên Sai mới làm nên điều kỳ diệu đó. Ngài chính là Đấng mà Cựu Ước đã loan báo, Đấng Cứu Độ mà muôn dân đang trông đợi, Đấng đem lại Nước Hằng Sống cho con người. Amen.

 

35.             Chúa Giêsu- Nguồn nước hằng sống

(Suy niệm của Lm. Giuse Huỳnh Văn Sỹ)

Lời Chúa trong Chúa nhật I Mùa Chay cho ta thấy rằng giữa muôn ngàn cám dỗ và đầy quyến rũ hiện nay chúng ta được mời gọi tỉnh táo để chọn theo Chúa. Hành trình theo Chúa dù là con đường thập giá với muôn vàn thử thách, nhưng không phải là con đường cụt dẫn đến diệt vong, mà là con đường đưa tới vinh quang như khung cảnh biến hình trên núi Tabor báo trước (Chúa Nhật II). Lời Chúa Chúa Nhật III Mùa Chay hôm nay giúp ta xác tín rằng theo Chúa sẽ tới được nguồn nước hằng sống. Hơn nữa theo Chúa sẽ tới được ánh sáng (Chúa Giêsu cho người mù bẩm sinh được thấy, Chúa Nhật IV) và sẽ tới được sự sống (Chúa Giêsu cho Ladarô sống lại, Chúa Nhật V mùa chay).

Theo Chúa để tới được nguồn sống hằng sống là một hành trình tiệm tiến của đức tin. Đó cũng là một hành trình phải vượt qua những trở ngại của khác biệt tôn giáo, văn hóa, giới tính, quan điểm, không gian địa lý, những nhu cầu tự nhiên và nhất là cái tôi của mình… để có thể đạt tới sự “thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và chân lý”.

  1. Hành trình tiệm tiến của đức tin

Trong bài đọc I, trích sách Xuất hành, thuật lại việc dân chúng phải khổ cực và thiếu ăn khát uống trong hành trình qua sa mạc. Họ chán nản kêu trách Chúa và đòi ném đá Môsê. Họ nhớ dòng nước sông Nin mang lại phù sa màu mỡ, nhớ nồi thịt, nhớ củ hành củ tỏi. Họ đòi trở lại Ai cập dù cho phải chịu cảnh nô lệ. Thiên Chúa kiên nhẫn đã dùng chính hoàn cảnh thiếu nước ấy để hướng dẫn họ hiểu biết đâu là điều thiết yếu trong cuộc sống: Ngài muốn họ tin rằng sự cứu rỗi của họ ở phía trước là Đất hứa còn phía sau là ách nô lệ Ai cập. Do đó họ phải tin cậy vào Ngài để tiến tới phía trước dù hiện tại toàn khổ cực thiếu thốn.

Thiên Chúa bảo Môsê lấy gậy đập vào tảng đá để Nước chảy ra cho Dân uống để cứu dân khỏi chết khát. Việc này của Môsê trong hành trình sa mạc được coi như là hình ảnh báo trước cho Đức Kitô là Môsê mới và là nguồn mạch Nước hằng sống tuôn ban ơn cứu độ cho những ai tin vào Người. Đó cũng chính là điều mà Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta qua cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari.

Trong cuộc gặp gỡ đó, Chúa Giêsu đã khéo léo dẫn đưa người phụ nữ từng bước tới đức tin. Trong cuộc đối thoại, Chúa Giêsu làm cho người phụ nữ đi từ bất ngờ nầy đến bất ngờ khác, đi từ nhu cầu thể lý để đi tới sự khao khát thiêng liêng; đi từ chỗ nhận ra nơi Đức Giêsu chỉ là một khách bộ hành mệt mỏi khát nước, xin nước uống đến chỗ nhìn nhận Ngài là nguồn mạch và xin Ngài ban nước hằng sống.

Thật vậy, chúng ta thấy, người phụ nữ đi từ cái nhìn nơi Chúa Giêsu chỉ là người lữ khách khát nước, một người đối nghịch (người Do Thái vốn không ưa người Samari), đến cái nhìn bắt đầu từ chỗ nửa tin nửa ngờ rằng Đức Giêsu vượt lên cả hàng tổ phụ của cả hai dân tộc; rồi sau đó nhìn nhận “Thưa ông, ông thật là một ngôn sứ”; rồi sau nữa tin nhận Ngài là Đấng Mêssia đến dạy dỗ loài người mọi sự và cuối cùng bà với dân thành Samari tuyên xưng “Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4,42).

  1. Vượt những cản trở để có thể đến được mạch nước hằng sống

Đó là một lộ trình đức tin và đón nhận mạc khải mà Chúa Giêsu dẫn dắt và mời gọi người phụ nữ, dân chúng Samari và các môn đệ. Ở đây không có sự áp đặt nào. Trong lộ trình đó chúng ta thấy để có thể đến tận nguồn mạch nước hằng sống là chính Đức Kitô, người ta phải vượt qua khá nhiều rào cản.

Người phụ nữ, qua giọng nói của Chúa Giêsu, nhận ra ngay ngài không phải là dân địa phương, nhưng bà vẫn tiếp nhận cuộc đối thoại. Hơn thế nữa, không chỉ vượt lên khác biệt địa lý, người phụ nữ cũng vượt qua rào cản tập tục và tôn giáo, vì theo tập tục người đàn ông không được nói chuyện với một người đàn bà lạ mặt mà lại là người Samari. Chính các môn đệ cũng lấy làm ngạc nhiên khi thấy thầy nói chuyện với bà.

Trong cuộc đối thoại, có những khoảnh khắc tưởng chừng như sẽ đi vào bế tắc: chẳng hạn như khi người phụ nữ hỏi: Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ, samari, cho ông nước uống sao? (Ga 4,9); hay khi bà nói: “Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này?”. Nhưng tất cả đều vượt qua những cản trở đó. Ngay cả khi Chúa Giêsu chuyển hướng cuộc đối thoại về cuộc sống riêng tư và quá khứ của người phụ nữ (mà có người cho là Chúa Giêsu thiếu tế nhị và lịch sự), nhưng bà lại nhận ra đó là tư cách của một ngôn sứ có khả năng đọc được trong tim của người đối thoại với mình… Từ đó Chúa Giêsu chuyển sang bình diện tôn giáo khi nói về việc “thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” để khai mở đức tin cho bà. Và sau đó bà lại là người đi báo tin cho dân chúng trong thành. “Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39).

  1. Chúa Giêsu, mãi mãi là nguồn nước hằng sống cho nhân loại

Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari cho ta thêm xác tín hơn nữa rằng: chỉ có Chúa Giêsu mới là Đấng làm thỏa mãn mọi cơn khát của nhân loại. Ngài giúp chúng ta biết đâu là sự khát khao đích thực và ý nghĩa của nó trong thế giới hôm nay. Dường như nhu cầu vật chất và tinh thần của con người tăng lên theo cấp số nhân trong khi các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm làm thỏa mãn nhu cầu của con người chỉ tăng theo cấp số cộng. Người ta không bao giờ đạt tới sự thỏa mãn các nhu cầu thực sự của mình hoặc nếu có chỉ là bề ngoài và bị các phương tiện khoa học kỹ thuật ngày nay đánh lừa. Là người tín hữu chúng ta xác tín chỉ có Chúa Giêsu mới thực sự là mạch nước trường sinh làm thỏa mãn mọi sự khát khao đích thực của con người từ trong tận thâm sâu của tâm hồn.

Đến lượt mình, chúng ta dù vô tình hay cố ý, đừng che lấp bịt lối không để người khác đến với nguồn nước hằng sống đó. Như Chúa Giêsu và người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy biết vượt mọi chướng ngại để có thể góp phần khai thông mạch nước ân sủng đến mọi dân, mọi nước, mọi thời đại. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói với chúng ta rằng: “chúng ta nên sợ bị giam hãm trong những cấu trúc làm cho chúng ta có một cảm giác an toàn giả tạo, những qui tắc biến chúng ta thành những quan tòa tàn nhẫn, với những thói quen làm cho chúng ta cảm thấy an thân” (Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, số 49).

Đức Giáo Hoàng nhắn nhủ: “Chúng ta nhiều khi hành động như người ban phát ân sủng thay vì là người tạo điều kiện cho ân sủng. Nhưng Hội thánh không phải là trạm thu phí; Hội Thánh là nhà Cha, có chỗ cho mọi người, với tất cả các vấn đề của họ” (Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, số 47). Chúng ta cũng như bao nhiêu người khác đều có vấn đề của mình. Chúng ta hãy khiêm nhường, dẹp bỏ cản trở lớn nhất, vấn đề lớn nhất là cái tôi của mình để đến với Chúa Giêsu, là nguồn mạch nước hằng sống sẽ làm thỏa mãn mọi con khát đích thực của chúng ta.

 

36.             Nước

Ai cũng cần nước. Sau không khí, nước là yếu tố quan trọng của đời sống. Có nước mới có rau cỏ, mới có sự sống. Ai cũng biết thế, nhưng ít ai lại biết quí nước. Sở dĩ chúng ta không quí nước là vì nước quá nhiều. Sử dụng ở đâu và lúc nào cũng có.

 

Chỉ khi nào hạn hán mọi sông và giếng đều cạn, mọi suối đều khô, lúc ấy chúng ta mới biết đến giá trị của một giọt nước. Chúng ta thường quí những gì ít ỏi, hiếm hoi và có khuynh hướng phung phí và coi thường cái có nhiều.

 

Đối với Ả Rập hay Tây tạng, đối với khách bộ hành trong sa mạc thì mỗi giọt nước là một giọt máu trong thân thể. Trái lại, với chúng ta ở đồng ruộng hay ven sông, có phung phí nước cũng không hết. Có nhiều khi còn sợ nước gây úng thủy ngập lụt. Chúng ta là những người giàu có nước uống, nước giếng, nước sông, nước hồ, nước ao, nước mưa, nước trái cây và mỗi ngày chúng ta dùng từ 200 đến 500 lít nước để ăn uống, tắm giặt, tha hồ thoải mái.

 

Nhưng có bao giờ chúng ta uống nước nhớ nguồn. Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi tại sao tôi lại được dư giật nước như thế. Tại sao nước chúng ta dùng lại là nước ngọt, trong khi ở biển nước lại mặn đắng.

 

Kinh Thánh trả lời nước là tác phẩm do Thiên Chúa tạo dựng. Ngay từ buổi khai thiên lập địa, Thánh Thần Chúa đã bay lượn trên nước. Thiên Chúa đã cho mưa thuận gió hòa, đã dùng nước để tiêu diệt cả một thế hệ vô luân ngoại trừ Noe là người công chính. Nước ở biển đỏ đã cứu thoát dân Do Thái và vùi dập đoàn quân của Pharaon. Qua những sự kiện ấy, chúng ta thấy được giá trị của nước.

 

Trước hết, nước tạo nên sự tươi mát. Bất cứ nơi đâu, dù là sa mạc mà có nước chảy vào, tức thì có ngay mầu xanh của cây cối. Đứng trước một dòng nước, ai lại không muốn tâm hồn mình được tươi mới. Những ngày hè nóng bức, chúng ta uống nước đá, tắm nước sông hay gặp nước mưa thì quả thực là mát mẻ. Từ vạn vật cho đến lòng người,tất cả đều được đổi mới. Chúng ta cũng hãy nghĩ đến dòng nước Rửa tội đã gây nên trong chúng ta những đổi mới cho đời sống thiêng liêng.

 

Tiếp đến nước tinh luyện và tẩy sạch. Còn gì sạch bằng nước, người Do Thái xưa kia đã hiểu như vậy, cho nên họ đặt ra những luật lệ trong việc sử dụng nước: phải rửa tay trước khi ăn uống, phải tắm gội trước khi dâng của lễ, phải rửa chân khi đi đường xa mà trở về nhà.

 

Nước còn được dùng để trừ bệnh phong cùi, tẩy sạch mọi ô uế tình dục. Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ trong ý nghĩa thanh tẩy ấy và đã dùng dòng nước rửa tội để xóa bỏ mọi dấu vết của tội lỗi.

 

Nếu như nước thường do bàn tay Chúa dựng nên còn có ích cho việc dinh dưỡng, thì Chúa càng có quyền để làm nên một thứ nước trường sinh như chính Ngài đã quả quyết với ông Nicôđêmô và người thiếu phụ Samaria:

 

Nước hằng sống của Chúa là nước cứu độ, ai uống vào sẽ không bao giờ khát và không còn mơ ước một thứ gì trên trần gian này nữa. Nước hằng sống này xuất phát từ trái tim ngập tràn yêu thương của Ngài, đã hoán cải được biết bao nhiêu người, không lẽ lại chẳng níu kéo được chúng ta ra khỏi vũng lầy tội lỗi.

 

Nước sông Babylon đã chứng kiến nỗi lòng thống hối của một dân tộc lưu vong. Nước sông Giocđan đã góp phần chữa lành Naaman, đã được diễm phúc đón nhận Đấng Cứu Thế. Dòng nước hằng sống vọt ra từ cạnh sườn Chúa đã tha tội cho tên trộm lành, cho dân Do Thái cũng như cho toàn thể nhân loại.

 

Điều quan trọng là chúng ta có đến để kín múc hay không. Cho dù chúng ta có đang sống bên bờ con kênh nhỏ thì đừng bao giờ quên dòng nước hằng sống, đó là một dòng nước ít người biết đến nhưng lại không bao giờ cạn và nhiễm độc.

 

Điều cần thiết đó là: Hãy hiệp thông với dòng sông ấy để lãnh nhận những ân sủng của Chúa, nếu chúng ta không muốn là những kẻ bị chết khát.

 

37.             Đổi thay

Qua Tin mừng hôm nay, chúng ta nhận thấy nơi Chúa Giêsu, con người gặp gỡ được tình yêu và ơn cứu độ của Thiên Chúa với những diễn biến nội tâm:

 

  1. Một sự thay đổi:

Cũng giống như các cuộc đàm thoại với ông Nicôđêmô, Marta và Maria, người đàn bà ngoại tình, tất cả đều kết thúc bằng một sự thay đổi. Qua lời Chúa mà tất cả các nhân vật đã nhận ra Chúa Giêsu là ai. Người đàn bà Samaria đã có sự thay đổi trong ngôn ngữ khi nói chuyện với Chúa. Lúc đầu bà gọi Chúa Giêsu là ông (You), ngôi thứ hai, kế đó là Thưa Ngài (Sir), rồi từ việc nhận thức Ngài là một tiên tri đến Đấng Thiên Sai. Dịch từ tiếng Hy lạp “Kyrios”, “Đấng Cứu Thế”, là Đấng mà theo thánh Phaolô diễn tả trong thơ gửi tín hữu Philipphê: “Mọi gối phải bái quì, cả trên trời dưới đất và nơi âm phủ”.

 

  1. Một sự hiểu biết:

Cuộc đối thoại đã thay đổi từ sự ngộ nhận tới thái độ thông cảm hiểu biết. Chúa Giêsu nói về Ngài như là nước hằng sống. Lúc đầu, người đàn bà hiểu nước hằng sống như là dòng nước luân lưu trôi chảy, khác với nước ao tù ứ đọng. Đối với người Do Thái, nước là một biểu tượng có ý nghĩa. Họ thường đề cập đến sự khao khát của đời sống tinh thần đối với nguồn nước hằng sống và sự khao khát của linh hồn tìm kiếm Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, suối nước biểu tượng cho chính Thiên Chúa hay cho sự khôn ngoan qua việc tuân giữ lề luật. Đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Theo Gioan thì đó là sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Đấng được Xức dầu của Thiên Chúa. Nước biểu tượng cho thần khí, như Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin vào Ta, thì từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí”.

 

  1. Một lòng khao khát:

Trong cuộc đối thoại, Chúa Giêsu đã vượt qua những hàng rào đố kỵ, ngộ nhận để đi thẳng vào lòng khao khát của con người. Theo William Barclay, thái độ của người đàn bà lúc đầu không những là hiểu lầm mà còn có vẻ mỉa mai, châm biếm Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa”. Nhưng trong thái độ mỉa mai này đã biểu lộ một sự thật trong trái tim của con người. Đó là khát vọng tìm kiếm một điều gì mà chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa mãn được. Thánh Augustinô đã nói lên sự thật này: “Trái tim của chúng ta không bao giờ yên nghỉ cho đến khi được nghỉ yên trong Người”.

 

  1. Một chứng nhân:

Cuộc đối thoại bị ngưng vì các môn đệ trở lại, và người đàn bà đã để chiếc vò múc nước ở giếng, trở về làng. Bà trở về làng mà không mang vò nước theo chứng tỏ rằng bà rất vội vã, muốn chia sẻ Tin Mừng gặp gỡ Đấng Cứu Thế cho những người khác. Giống như Philipphê khi đã gặp được Chúa Giêsu rồi liền đi tìm Nathanaen để loan báo Tin Mừng. Bà Maria Mađalêna đã vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo rằng đã gặp thấy Chúa.

Sứ mạng của người Kitô hữu cũng trải qua hai giai đoạn: trước hết gặp gỡ Đức Kitô một cách cá nhân, như là một chứng nhân; sau đó trở nên nhà truyền giáo, loan báo Tin Mừng. Sự khám phá ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đã làm cho người đàn bà vui mừng đến nỗi không còn cảm thấy xấu hổ về tội lỗi của mình nữa. Bà chạy đi loan báo công khai cho mọi người biết về một con người đã biết tất cả cuộc đời của bà. Bà chỉ nói về điều xảy ra cho bà, và mời mọi người hãy đến và xem.

Vai trò của người đàn bà Samaria là đưa mọi người đến với Chúa Giêsu như Công đồng Vatican II đã viết: “Việc tông đồ mà mỗi người phải thực hiện bắt nguồn từ mạch sống phong phú đích thật Kitô giáo. Đó là căn bản và điều kiện của mọi hoạt động tông đồ giáo dân.

Dẫn đưa mọi người đến với Đức Kitô, nguồn nước hằng sống cũng là vai trò của Giáo Hội, của các người Kitô hữu như thánh Gioan đã nói: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể lại mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Đấng Cứu Thế”.

 

38.             Gặp gỡ

Bài Tin Mừng thuật lại một trong những cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu. Đây là cuộc gặp gỡ một phụ nữ ở Samaria và cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời của người phụ nữ ấy.

 

Người phụ nữ này đi kín nước thì tình cờ gặp Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ chân bên bờ giếng, chứ chị ta không hay biết gì và cũng không có ý định gặp Chúa. Chúa đã gợi chuyện với chị bằng việc xin nước uống. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt mỏi, Chúa Giêsu khát nước, gặp giếng nước và người kín nước, Ngài xin nước uống là một điều tự nhiên bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước uống mà chỉ là dịp để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Có thể nói Chúa giả vờ xin nước để gợi truyện, Ngài muốn nói cho chị ta biết: chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị ta biết: Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”.

 

Nhưng lại ở mức độ cụ thể của đời thường, người phụ nữ Samaria không hiểu gì hết, nên Chúa đi thêm một bước nữa, Ngài nói với chị về đời tư của chị, khi đó chị nhận ra ngay Ngài là một ngôn sứ. Chúng ta thấy Chúa không kết án, cũng không trách chị ta đã có đến năm đời chồng rưỡi. Đó không phải là vấn đề. Điều Chúa muốn là chị ta nhận ra Ngài là ai, và Chúa đã thành công. Từ không biết đến nghi ngờ, từ nghi ngờ đến nhận biết. Chị nghi ngờ người đang nói với chị không phải là bất cứ ai, và chị đã nhận ra một khuôn mặt mới: không phải là một ngôn sứ mà là Đấng Mêsia mọi người đang mong đợi.

 

Thế là giếng đó, vò đó, người phụ nữ không còn quan tâm nữa, chị chạy ngay đi thông báo nước hằng sống vừa khám phá. Chính cái quá khứ không ra gì của chị đã làm cho chị trở thành có khả năng nói về Chúa: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” Mọi người tin lời chị, họ đến gặp Chúa Giêsu và họ cũng tin Chúa. Như vậy, sau khi gặp Chúa Giêsu, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Chúa giữa những người Samaria trong thành, và những người này, sau khi gặp Chúa, đã xin Chúa ở lại với họ, và hân hoan tuyên xưng rằng: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.

 

Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của người phụ nữ Samaria là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta hãy cố thực hiện một cuộc gặp gỡ như thế trong Mùa Chay. Sống kinh nghiệm gặp gỡ Chúa không phải chỉ là một may mắn tình cờ mà là điều ai cũng có thể tìm gặp được. Muốn gặp gỡ Chúa là điều rất dễ, bởi vì chính Chúa yêu thương chúng ta, ngày ngày đi tìm và đến gõ cửa tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúng ta đang muốn gặp gỡ Chúa ư? Hãy nhớ lời Chúa nói: “Này Ta đang đứng ngoài cửa và gõ, ai nghe tiếng Ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà kẻ ấy”. Như vậy có nghĩa là cuộc gặp gỡ hoàn toàn tùy thuộc nơi chúng ta, tùy thuộc vào thái độ sẵn sàng của chúng ta. Có thể Chúa Giêsu đã tìm đến gõ vào cánh cửa của tấm lòng chúng ta nhiều lần rồi, nhưng chúng ta say ngủ hay bận bịu trăm công ngàn việc hoặc trong tấm lòng chúng ta có quá nhiều tiếng ồn ào và quá nhiều khách khứa nên chúng ta đã không nghe thấy tiếng Ngài và không mở cửa cho Ngài. Nếu thế thì cần phải có những quyết định cụ thể và thay đổi ngay thế nào để khi Chúa đến gõ cửa, chúng ta sẵn sàng mở ngay. Có thể Chúa đang gõ cửa tấm lòng chúng ta ngay trong lúc này, chúng ta đừng bỏ lỡ cơ hội. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều sẵn sàng mở cửa để Chúa đến gặp gỡ và ban nhiều hồng ân cho chúng ta trong Mùa Chay.

Người phụ nữ Samaria gặp Chúa Giêsu, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời chị. Nếu chúng ta muốn thay đổi hay đổi mới cuộc đời mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy gặp gỡ Ngài, bởi vì chỉ có Chúa mới giải đáp được những băn khoăn, những ưu tư của chúng ta, chỉ có Ngài mới làm cho cuộc đời chúng ta đáng sống, sống vui, sống mạnh, sống hạnh phúc và có ý nghĩa.

 

39.             Trong Thánh Thần và Chân Lý

Trong một câu chuyện ngụ ngôn “Những Sinh Vật của Thói Quen”, kể rằng có hai vợ chồng bác nông dân kia cảm thấy cần phải sửa chữa cái chuồng gia súc cũ. Nóc chuồng thì dột, một vài tấm ván ghép tường bị mục, còn sàn chuồng bằng đất lại lồi lõm nên bị đọng nước mỗi khi trời mưa. Thế rồi chuồng mới được xây lên và chuồng cũ bị phá hủy trước khi mùa đông đến.

Sáng hôm sau, trước khi đi phố mua thêm đồ dùng, bác cho gia súc ra đồng cỏ và để cửa chuồng mở phòng hờ nhỡ khi thời tiết đổi xấu. Mà thật, thời tiết trở nên xấu thậm tệ. Nhiệt độ xuống thấp dần, mưa bắt đầu rơi và nước mưa chuyển thành băng. Bác nông dân cảm thấy rất vui khi nghĩ mấy con vật giờ đang được ấm áp trong căn chuồng mới. Khi bác về tới nhà liền đi thẳng ra chuồng thú vật, nhưng căn chuồng trống rỗng chẳng có con vật nào cả. Bác vội chạy ra ngoài tìm kiếm và thấy một cảnh thật lạ lùng. Đó là mấy con vật trông thật tội nghiệp, chúng nép vào với nhau và trên lưng chúng thì phủ đầy băng tuyết; đồng thời chúng lại đứng trên cái nền chuồng cũ, cảnh ấy thật là Những Sinh Vật của Thói Quen.

Chúng ta thờ Chúa không phải chỉ làm những việc theo thói quen như đi nhà thờ hay đọc kinh nhưng phải thờ Chúa trong cả đời sống chúng ta.

Vào thời Chúa Giêsu thì người Samaritanô là những người xưa ly khai và tách mình khỏi dân tộc Do thái. Không như người Do thái thờ Thiên Chúa tại đền thờ trên núi Sion ở Giêrusalem, người Samaritanô đã thờ Chúa Trời tại đền thờ trên núi Garizim. Bởi đó phụ nữ kia đã nói với Chúa Giêsu: “Tôi thấy Ngài là một tiên tri, vậy xin Ngài hãy nói với tôi tại sao cha ông chúng tôi thờ Chúa Trời trên núi này trong khi những người Do thái các ông lại nói phải thờ tại Giêrusalem?” Chúa Giêsu trả lời: “Hãy tin Ta, vì khi giờ đến thì người ta không còn thờ phượng Chúa Cha trên núi này hay tại Giêrusalem… Nhưng khi giờ đến, mà thật sự nó đã đến rồi, thì những người thật sự thờ Thiên Chúa sẽ tin thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý; đó chính là điều Chúa Cha muốn” (Ga 4, 20.21.23).

“Thờ Chúa Cha trong tinh thần và sự thật”, qua những lời đó Chúa Giêsu đã hướng quan niệm về việc thờ phượng Thiên Chúa từ nơi chốn sang tính cách. Tức là việc tôn thờ Thiên Chúa hệ tại không phải là “ở đâu” nhưng là “thế nào”. Người ta sẽ không còn cho rằng Thiên Chúa chỉ ẩn mình trong những bức tường của đền thờ thế gian, hay Ngài chỉ quanh quẩn đâu đấy như trên đỉnh núi chẳng hạn. Thật sự, người ta sẽ thờ Chúa trong tinh thần và chân lý, và Nhà của Chúa được tìm thấy trong tâm hồn con người. Người ta không dựa vào thói quen nhưng mặc lấy tinh thần của Chúa.

Thánh Phaolô đã nhắc nhớ chúng ta phải tẩy sạch một số thói quen. Ngài nói, “Anh em hãy vất bỏ tất cả những gì thuộc về thế gian: gian dâm ô uế, đam mê sai trái, dục vọng xấu xa, tham lam ăn uống, giận dữ, nóng nảy, thù hận, chửi thề và ngôn từ lăng loàn… anh em hãy dứt khoát với mọi thói quen ấy” (Col 3:5-7). Kể cũng lạ, vì có rất nhiều trong chúng ta đi nhà thờ, đọc Thánh Kinh, bàn về đạo lý nhưng vẫn cứ để cho những tính xấu ấy làm chủ đời mình.

Hơn nữa, Thánh Phaolô nói rằng chúng ta cần phải thay đổi những tập quán xấu bằng những tập quán tốt. Ngài nói, “Hãy mặc lấy, hỡi những người được Chúa tuyển chọn, lòng quan tâm trắc ẩn, tốt lành, khiêm nhường, quảng đại, nhẫn nại, chia sẻ nỗi buồn, tha thứ mọi lỗi lầm anh em xúc phạm tới ngươi, và trên hết hãy mặc lấy tình yêu” (Col 3:12-14).

Xin cho chúng con thật sự thờ Chúa trong tinh thần và chân lý, trong cả cuộc sống chúng con.

 

40.             Nước hằng sống

“Cho thì có phúc hơn là nhận”. Qua việc xin người khác cho đi sự gì đó, đôi khi chúng ta làm họ giác ngộ và trưởng thành. Họ có dịp để bước vào thế giới biết chia sẻ tình thương. Tagore đã viết một dụ ngôn rất có ý nghĩa.

Ngày nọ có một người ăn xin đi khắp làng, nhưng anh chẳng xin được gì vì nhà nào cũng đóng cửa. Anh bèn tìm cách đi ra khỏi ngôi làng vào giữa lúc ban trưa nắng đổ. Mồ hôi nhễ nhãi, mệt mỏi vì đói, chán nản vì bị từ chối, anh ngồi xuống bên vệ đường. Bên cạnh anh là một cái túi chứa một nắm hạt bắp. Anh dự định chiều tối về nhà sẽ đem ra xay thành bột, làm một cái bánh ăn cứu đói.

Thình lình mắt anh sáng lên khi nhìn thấy chiếc xe của vua từ đằng xa đang tiến lại gần. “Nhà vua nổi tiếng là một người tử tế”, anh tự nghĩ. “Ngài sẽ không lỡ đi qua mà chẳng cho mình cái gì”. Rồi anh chuẩn bị đứng lên, chờ đợi hồi hộp. Anh thật khoái chí khi thấy chiếc xe của vua từ từ chậm lại. Quả vậy, nó đã ngừng lại ngay chỗ anh đứng với đôi bàn tay giang rộng chờ đợi xin xỏ.

Cửa xe mở ra và nhà vua xuất hiện. Người ăn xin cúi gập người xuống dự tính nói: “May phước thay, thưa hoàng đế. Xin ngài bố thí cho tôi tớ hèn mọn này một ít tiền”. Nhưng nhà vua đã chìa tay ra trước và nói: “Xin bạn dành cho vua một hạt bắp nhỏ được không?” Người ăn xin hoàn toàn ngỡ ngàng trước biến cố lạ lùng này. Lấy lại bình tĩnh, anh nói: “ Thưa hoàng đế, xin vâng lệnh”. Rồi mở chiếc bị ra, liếc nhanh vào trong, anh nhặt lấy một hạt bắp nhỏ nhất, và đưa cho vua với lời xin lỗi rằng đây là tất cả lương thực anh có. Nhà vua cám ơn anh, bước lên xe đi khỏi, để lại cho người ăn xin một cảm giác trống rỗng và thất vọng ê chề.

Suốt ngày ngồi ăn xin bên bên vệ đường mà chẳng được gì, khi hoàng hôn xuống anh trở về nhà buồn bã, mệt mỏi và đói bụng. Ngay khi về đến nhà anh bắt đầu làm bếp, đổ hết số hạt bắp trong bị ra. Khi kiểm tra lại những hạt bắp, anh giật mình khám phá thấy rằng hạt bắp nhỏ nhất đã được thay thế bằng một hạt vàng ròng cùng cỡ. Trong nuối tiếc, anh ngồi than thở rằng nếu biết được món quà nhà vua muốn cho, anh đã cho vua tất cả số bắp đang có trong bị. Nếu làm như thế, bây giờ anh đã trở thành một người giàu có và không bao giờ phải đi ăn xin nữa!

Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng áp dụng phương pháp giáo dục này khi Ngài hỏi người đàn bà Samaria: “Xin bà cho tôi nước uống”. Ngài thường khởi sự làm phép lạ bằng việc xin một điều gì trước. Ngài đã xin những người đầy tớ đổ đầy những chum nước trước khi biến thành rượu ở tiệc cưới Cana. Ngài đã xin năm chiếc bánh và hai con cá từ em bé trai để hóa bánh ra nhiều.

Từ việc xin nước uống, Chúa Giêsu đã biểu lộ cho người đàn bà Samaria biết Ngài là Đấng Cứu Thế khao khát nhân loại. “Ngài là người đến tìm chúng ta trước. Ngài xin ta cho Ngài nước uống, vì Thiên Chúa khao khát chúng ta”. Thánh Gioan đã dùng câu chuyện người đàn bà Samaria bên giếng nước để làm nổi bật lên chủ đề của Tin Mừng thứ Tư được tóm tắt trong lời mở đầu như sau: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”.

Lòng thương xót của Thiên Chúa vượt ra khỏi mọi giới hạn về quốc gia, văn hóa, sắc tộc, và phái tính. Sự cứu rỗi được ban cho tất cả nhân loại.

 

41.             Thiếu phụ Samaria

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Ga 4: 5-42: Chúa Giêsu từ Giuđêa trở về Galilêa băng qua vùng dân ngọai Sychar xứ Samaria. Trời hè oi bức, Chúa Giêsu và các môn đệ ngồi nghỉ bên giếng Giacob….

Chúa Giêsu từ Giuđêa trở về Galilêa băng qua vùng dân ngọai Sychar xứ Samaria.

Trời hè oi bức, Chúa Giêsu và các môn đệ ngồi nghỉ bên giếng Giacob.

Trong lúc các môn đệ đi mua thức ăn, thì một thiếu phụ trong làng ra giếng múc nước và đã gặp Đức Giêsu bên bờ giếng.

Bắt đầu câu chuyện chỉ là một việc xin nước uống bình thường, nhưng dần dần, đã chuyển hướng từ lãnh vực tự nhiên qua lãnh vực siêu nhiên theo một diễn tiến thật tuyệt vời:

Ban đầu Chúa Giêsu mở miệng xin chị cho mình nước uống

​Tiếp đến Người cho chị biết có một thứ nước hễ uống vào thì không bao giờ khát nữa.

​Chị tưởng đó là một thứ nước “phép” nên mở miệng xin Người “để hết khát và khỏi đến đây lấy nước nữa”

​Cuối cùng Chúa Giêsu nói nước ấy chính là Người.

​Có thể lúc đầu, thiếu phụ chỉ gặp gỡ vì tò mò và coi Chúa như một người khách như bao người khách khác. Nhưng sau đó nghe giọng nói cũng như cách ăn mặc, thiếu phụ nhận ra đó là một người Do Thái.

Như chúng ta biết người Do Thái và người Samaria có một mối thù truyền kiếp.

Họ cùng là con cháu Abraham, nhưng họ đã cắt đứt liên lạc cả hàng 400 năm rồi.

Người Samaria đã xây một đền thờ riêng tại Garidim đối địch lại với đền thờ Giêrusalem.

Từ đó chúng ta mới hiểu được tại sao người thiếu phụ lại hỏi Chúa Giêsu: “làm sao một người Do Thái như ông mà lại xin nước uống với một người phụ nữ Samaria được”.

Rồi như một sự thách thức chị nói “gầu thì không có, giếng thì lại sâu, làm sao mà có nước được”.

Nhưng rồi nghe lời hứa về một thứ nước kỳ lạ, tuy chưa hiểu nhưng cũng cố xin cho được thứ nước đó. Nước đó chính là Đức Giêsu.

Nếu câu chuyện chỉ dừng lại ở đây thì chưa thể làm chuyển biến cuộc đời của người thiếu phụ này. Chúa Giêsu đã đánh thẳng vào tim đen của chị, nên Người nói “về gọi chồng chị tới đây”.

Chính ở điểm này mà chị đã nhận ra Chúa Giêsu không chỉ là một ngôn sứ, nhưng còn là Đấng Messia mà mọi người đang trông đợi.

Thế là chị đã bỏ vò nước lại bên bờ giếng và đi loan báo cho cả dân làng.

Phải, bên bờ giếng, có một khách bộ hành mỏi mệt dừng chân. Cũng bên bờ giếng đó, một thiếu phụ đã để lại cái vò nước của mình, bởi vì từ nay nó chẳng giúp ích gì cho chị nữa. Cái vò nước bị bỏ quên đó sẽ mãi mãi nói với chúng ta về một người phụ nữ mà số phận đã từng bị giam hãm trong đủ thứ công việc hàng ngày, trong những quan hệ chẳng đi tới đâu với một lọat đời chồng, nay bỗng tìm thấy ý nghĩa cho đời mình qua cuộc gặp gỡ Đức Giêsu.

Người ta kể lại rằng một nhà thám hiểm nọ đi trong sa mạc, chuyển từ nơi này đến nơi kia, nhìn hết hướng nay đến hướng khác, ở đâu ông cũng chỉ thấy toàn cát với cát.

Ông lê gót trong tình trạng tuyệt vọng, tình cờ chân ông vấp phải một gốc cây khô.

Ông không còn đủ sức đứng lên, ông không còn đủ sức chiến đấu và cũng không còn một chút hy vọng sống sót nào.

Trong tư thế bất động ấy, nhà thám hiểm bỗng ý thức được về sự thinh lặng của sa mạc. Bốn bề chỉ có thinh lặng. Thình lình ông ngẩng đầu lên.

Trong thinh lặng tuyệt đối của sa mạc, ông bỗng nghe được như có tiếng thì thào yếu ớt vọng lại bên tai.

Dồn tất cả sự chú ý, nhà thám hiểm mới nhận ra được đó là tiếng chảy róc rách của một con suối từ xa vọng ại.

Như sống lại từ cõi chết, ông xác định nơi xuất phát của tiếng suối, ông dùng hết nguồn năng lực còn lại, ông cố gắng lê lết cho đến khi gặp được dòng suối.

Nhà thám hiểm đã gặp được con suối. Chính nước suối này đã cứu ông khỏi chết về phần xác. Nếu không có con suối này ông đã chết trong tuyệt vọng.

Còn người phụ nữ Samaria trong bài Tin Mừng hôm nay sống trong tội lỗi, nhưng đã gặp được nguồn nước là chính Chúa Giêsu.

Tin Mừng không cho chúng ta biết cuộc sống sau đó của chị ra sao, nhưng chúng ta có thể đóan chắc rằng, chị đã dứt khóat bỏ lại tất cả quá khứ cùng với vò nước bên bờ giếng để bắt đầu cho một cuộc sống mới, một cuộc sống được nuôi dưỡng bằng chính nguồn nước không bao giờ cạn, đó chính là Đức Giêsu, Đấng Messia mà mọi người đang trông đợi. Amen.

 

42.             Đức Giêsu là ai? – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn

Không ít các nhà chú giải Thánh Kinh có cùng nhận xét: Đức Giêsu đã đặt ra cho các môn đệ một câu hỏi vô cùng căn bản: “Các con bảo Thầy là ai?”, và tính chất tồn vong hay tiến lùi của đạo Kitô đều dựa vào yếu tố trả lời cho câu hỏi đó.

Không phải chỉ có trong thời Đức Giêsu người ta mới nói: “Ngài là Êlia, Gioan Tẩy giả, hay một tiên tri nào đó”, nhưng sau hơn 20 thế kỷ, tức sau một thời gian dài của nghe biết, học hỏi, và suy tư, vẫn không ít người, như anh em Hồi giáo, cho Ngài là một tiên tri lớn, hay dân Hy lạp xem Ngài là một hiền triết rất đáng kính trọng, hoặc dân Do thái chỉ coi Ngài như một con người siêu việt, không hơn không kém.

Nếu cùng một câu hỏi “Đức Giêsu là ai?” được đặt ra cho bạn và tôi, chúng ta sẽ trả lời thế nào?

Phải chăng Ngài là một thủ kho để khi khổ đau túng thiếu, ta chạy đến Ngài nài van khấn hứa? Rồi nếu lời ta cầu được như ý thì mình hăng hái tin Chúa hơn một tí, yêu Chúa hơn một tí. Còn nếu không thì ta chán Chúa, chán nhà thờ, và chán đạo thêm một chút chăng?

Hay Đức Giêsu là một ông “kẹ”, một quan án nghiêm khắc, để hễ ta phạm tội là Ngài giáng xuống ít điều xui xẻo cho sáng mắt ra? Không chừng vì xem Chúa như ông kẹ, nên việc giữ đạo hay sống đạo của tôi cứ mãi chìm ngập trong sợ hãi, cốt sao khỏi sa hoả ngục là mừng lắm.

Hay có phải Đức Giêsu là một tượng thạch cao vô tri vô giác, chẳng đụng chạm gì đến con người, cuộc đời, và thế giới của tôi?

Thiết tưởng, nêu lên vấn đề qua việc nhìn lại câu hỏi căn bản của Chúa Giêsu, hầu tái khám phá chân dung đích thật của “Con Người” mà mình đang tin theo, hẳn không phải là một chuyện vô bổ.

Chắc chắn ai cũng công nhận Đức Giêsu là một nhân vật lịch sử: sinh ra trong xã hội Do thái, lớn lên dưới sự đô hộ của đế quốc Rôma, chết trong thời quan Philatô làm tổng trấn Giuđêa. Ngài có những tính chất rất người. Ấy là cũng buồn, vui, sướng, khổ, khóc than, mệt nhọc, nóng nảy… nhưng cũng là một người rất hiểu biết, cảm thông, và nhân ái.

Ngài hiểu rằng: con người, ai cũng khát khao hạnh phúc. Trong câu chuyện bên giếng Giacóp với người phụ nữ xứ Samari, những mẩu đối thoại đã nêu lên điều đó. Chúa Giêsu nói với người đàn bà: “Cô nói cô không có chồng là đúng lắm. Nhưng đúng hơn là cô đã có 5 đời chồng, và người đang sống với cô lại không phải là chồng cô”. Đức Giêsu nói thế không phải để vạch trần hay lên án tình trạng vô luân của người đàn bà, song là tỏ bày một sự hiểu biết về niềm khát khao hạnh phúc nơi con người: con người tìm kiếm liên lỉ, tìm kiếm đến 5,6 đời chồng mà vẫn thấy chưa thoả.

Đức Giêsu cũng rất cảm thông trước nỗi khổ đau của nhân loại. Ngài từng dừng lại bên cửa thành Naim, thổn thức và chia sẻ nỗi niềm của một người đàn bà goá có đứa con trai qua đời. Niềm an ủi và chỗ tựa nương duy nhất không còn nữa. Nỗi đau thương đã đến tận cùng!

Đức Giêsu cũng từng rơi nước mắt, xót xa cho sự mất mát của hai chị em Matta và Maria khi Lazarô bị thần chết chế ngự.

Nhưng Đức Giêsu không dừng lại nới đó. Ngài không dừng lại với việc tỏ bày vai trò của một tiên tri khi biết chuyện đời người ta, hay một tâm lý gia đại tài khi biết lắng nghe, chia sẻ, và cảm thông với người khác. Song Ngài đã bộc bạch vai trò và chân dung của một Vị Thiên Chúa, một Đấng Cứu Độ-Đấng Giải Thoát.

Chúa Giêsu không chỉ chứng tỏ sự hiểu biết của mình về nhu cầu hạnh phúc của con người với những khắc khoải kiếm tìm, qua 6 đời chồng vẫn bế tắc, uống mấy vẫn còn khát. Trái lại, Ngài còn chỉ ra mạch nước mà khi uống vào sẽ không còn khát nữa. Mạch nước đó đã phát sinh từ chính Ngài. “Ai uống nước Ta ban sẽ không hề khát… Ai tin vào Ta sẽ sống muôn đời”.

Chúa Giêsu không dừng lại với những cảm thông mất mát, chia sẻ khổ đau, và khóc than cái chết của con người. Nhưng Ngài còn chứng tỏ sức mạnh của một Thiên Chúa khi phục sinh kẻ chết, thánh hoá khổ đau, và mang lại niềm vui cứu độ cho thế giới.

Đó là tất cả những gì cần nói về chân dung của Đức Giêsu. Đó là tất cả những gì Thánh Phêrô đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16). Đó là lời xác tín của dân làng Samari sau khi được Chúa ghé thăm: “Chúng tôi biết Người thật là Đấng Cứu Thế” (Ga 4,42). Và đó cũng là tất cả những gì Thánh Cyrilliô, một trong những nghị phụ chính của Công đồng Êphêsô đã xác định: “Chúa Giêsu phải là con người toàn hảo để hiểu thấu và cảm thông tất cả những yếu đuối, tội lỗi, bất toàn của chúng ta. Và Chúa Giêsu phải là Thiên Chúa để cứu chuộc chúng ta”. Bởi vì hiểu mà không cứu thì được ích chi, và cứu mà không hiểu thì cũng chỉ cứu nửa vời.

Thế nhưng, cái sức mạnh cứu chuộc-nguyên lý khiến cho Thiên Chúa hiểu thấu, cảm thông, và cứu độ-lại nằm trong một yếu tố duy nhất. Đó là Tình Yêu. Như vậy nói cô đọng, chân dung của Chúa Giêsu là chân dung của Tình Yêu. Và như thế đọc lại Thánh Kinh bạn sẽ chỉ thấy hình ảnh của một Tình Yêu đau khổ, một Tình Yêu cảm thông, một Tình Yêu tha thứ, một Tình Yêu hiểu biết, một Tình Yêu khoan dung, một Tình Yêu chịu đóng đinh, một Tình Yêu cứu độ, một Tình Yêu mang lại sự sống.

Khám phá ra dung mạo của Chúa Giêsu là tình yêu thương như thế thì tìm Chúa và theo Chúa nghĩa là gì nếu không phải là tiến đến với cội nguồn yêu thương đó. Đành rằng trong yêu thương cũng có muôn lối đi, ngàn phương đến, nhưng đích điểm vẫn là để bước vào cuộc tình sâu thẳm với Đức Kitô, và đồng thời làm sáng tỏ dung nhan Ngài qua đời sống thân ái với tha nhân của mình.

 

43.             Nước Hằng Sống

 

Anh chị em thân mến,

Trong sinh hoạt của con người, Nước là một vật hết sức quan trọng và rất cần thiết. Thể xác con người cần có nước mới sống được. Người ta có thể nhịn ăn cả tháng trời, nhưng không thể nhịn uống… Mức độ nhịn uống chỉ vài ngày mà thôi. Trên trái đất, nước chiếm 2/3 diện tích và Nước rất cần cho sự tưới tiêu. Ngay cả cây cỏ cũng như súc vật, không có nước, sẽ chết hết… Trái đất này nếu không có nước, cũng chỉ là một hành tinh chết mà thôi, vì từ con người, đến súc vật, đến cây cỏ, nếu không có nước, số phận chắc chắn là phải chết…. Câu chuyện đối thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà Samaria hôm nay xoay quanh một chủ đề: Nước (nước hằng sống). Kính mời anh chị em cùng suy niệm.

 

a/. Trước hết xin tìm hiểu một vài từ:

Samaria: Nước Do thái từ Bắc xuống Nam dài khoảng 300 km, chia làm 3 miền rõ rệt. Miền Bắc: Galiêa – miền Nam: Giuđêa – miền Trung: Samaria. Mỗi miền có lối phát âm cách riêng biệt như người Việt Nam chúng ta. Riêng miền Trung (Samaria), miền này bị kể là dân ngoại. Người Do thái kỳ thị và khinh thường họ, cho dân Samaria là dân hợp chủng. Một người Do thái đàng hoàng không được phép nói chuyện và cả xin nước uống từ bất cứ chiếc bình nào của người phụ nữ Samaria.

 

Thờ Chúa trên núi này: vì người Do thái khinh thị và cắt đứt quan hệ với người Samaria, nên họ đã trả đũa bằng cách cho xây một đền thờ khác trên núi Garizim, cao 881m, mạn Nam thành Sikem. Có thể đứng bên giếng Giacop nhìn thấy núi này.

 

Thờ Chúa trong Thánh Thần và sự thật: Chúa muốn nhấn mạnh đã đến lúc không phải thờ Chúa trên núi này hay tại Giêrusalem, vì phải thờ phượng Chúa bằng thái độ nội tâm hơn là hình thức bên ngoài…

 

b/. Qua câu chuyện bên giếng Giacóp, chính Chúa Giêsu là người đi bước trước để gặp gỡ và cảm hóa người phụ nữ tội lỗi này. Chúa khởi sự từ việc Người khát nước và xin nước uống. Từ đó, Chúa hướng sự quan tâm của người phụ nữ sang thế giới khác, thế giới của tâm hồn. Dần dà, Chúa giải thoát khỏi những thiên kiến về sắc tộc, chính trị và tôn giáo. Phần chị ta, nhờ sự khéo léo của Chúa, lần hồi, chị ta khám phá ra người Do thái đang nói chuyện với mình là một tiên tri, là Đấng Cứu Thế muôn dân đang trông đợi.

 

Điều kỳ lạ và bất ngờ là cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà Samaria, bình thường khó mà xảy ra. Ít nữa chúng ta thấy có bốn trường hợp ngăn cách hai người này không thể gặp nhau: thứ nhất là vì sắc tộc: vì kỳ thị nên người Do thái không gặp gỡ tiếp xúc với dân Samaria, vì họ bị coi là tạp chủng, ngoại lai. Thứ hai là sự phân biệt nam nữ; vào thời đó gặp gỡ giữa một người đàn ông và một người phụ nữ xa lạ là điều cấm, huống chi Chúa Giêsu lại gặp gỡ và nói chuyện với một người phụ nữ Samaria. Thứ ba: dù cả hai xứ, đều thờ chung một Giavê Thiên Chúa, nhưng dân Samaria bị khinh miệt như là dân ngoại, chung chạ với tà thần. Người Do thái liên hệ với họ sẽ bị ô uế. Thứ tư: một vị thánh như Chúa Giêsu mà lại nói chuyện với một người đàn bà tội lỗi, đang sống bất hợp pháp với 6 người đàn ông; rõ ràng dưới mắt người Do thái là một chuyện không thể được…

 

Qua câu chuyện bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã khéo dẫn đưa người phụ nữ Samaria đến nguồn nước hằng sống, thứ nước không chỉ để giải khát bên ngoài, nhưng có khả năng giải khát tâm hồn con người. Sau đó, người phụ nữ khi đã đón nhận nước hằng sống, đã trở thành chứng nhân, chạy đi báo tin cho người trong làng cùng biết và cùng đến với nước hằng sống là Đức Giêsu Kitô. Một câu chuyện thật nên thơ, nhưng cũng đầy ý nghĩa, cũng là bài học lớn cho mỗi người kitô hữu chúng ta.

 

c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Ta có tin Chúa Kitô là nước hằng sống không? Khi đã tin, ta có sẵn sàng đem chia sẽ niềm tin đó cho người khác không?

 

44.             Đổi mới

Anh chị em thân mến.

Nếu có dịp đi qua bến phà hay những nơi công cộng, anh chị em nhìn thấy những cảnh hết sức thương tâm của người dân Việt Nam , đó là cảnh người nghèo đói còn quá nhiều. Những người ăn xin hiện diện khắp nơi, với những kiểu dáng hết sức phong phú, làm động lòng trắc ẩn khách đi đường. Họ cố gắng dùng mọi cách để làm sao kiếm được những đồng tiền để sinh sống. Nhiều vị khách đã động lòng mở rộng vòng tay nhân ái để giúp cho họ. Nhưng có phải vì túng thiếu không có phương tiện cần thiết để sống, nên họ mới chọn phương cách này không? Có người là như thế. Nhưng cũng có người không phải thế. Họ chọn việc ăn xin như là một nghề nghiệp của mình và không muốn từ bỏ nó, chứ không phải vì túng thiếu nên họ mới rơi vào tình trạng như thế, nên họ không muốn thay đổi cuộc sống của mình, họ muốn ở mãi trong tình trạng đó, vì nó đem lại cho họ nguồn lợi. Họ vẫn biết việc làm của mình không hay lắm, nhưng vì đồng tiền mà quên đi danh dự.

 

Chúng ta vừa chứng kiến một phong cảnh đẹp của Phúc Âm. Nơi bờ giếng Chúa Giêsu hoán cải được một thiếu phụ, cũng từ đó Ngài làm cho cả dân làng có được một niềm tin và một sức sống mới. Ngài không bắt ép họ, nhưng gợi ý và để họ tự do hành động. Họ đã biết lựa chọn và hành động đúng.

 

Nếu người thiếu phụ đó cứ giữ mãi sự hiềm khích trong lòng cùng với sự căm hờn, nếu bà ta ích kỷ nhỏ nhen mà không nán lại một chút, chỉ biết lo trốn chạy vì sợ mất thời gian của mình trong một việc vô ích, thì làm sao bà ta nhận ra được hồng ân Thiên Chúa ban cho mình. Nếu chị ta nóng nải bỏ đi ngay tức khắc thì dân làng làm sao có thể nhận ra Đấng Cứu Độ đang đến với mọi người. Chúa Giêsu đến với mọi người, nhưng Ngài cũng chờ đợi mọi người biết đứng lên để đến với Ngài. Dân làng đã làm được điều đó, họ đứng lên và chạy đến với Ngài, nên họ nhận ra được hồng ân cao cả mà Thiên Chúa ban cho họ. Chính vì sự hy sinh nhẫn nại của một người mà cả dân làng mới có cơ hội tiếp nhận được hồng ân quý báu, và cũng nhờ họ có một tâm hồn quảng đại, biết lắng nghe nên họ đ ược hơn điều mình mơ tưởng.

  • Cơ hội không bao giờ thiếu cho con người, chỉ có con người không biết đón nhận và không biết tận dụng mà thôi.
  • Cơ hội cũng đến với chúng ta thật nhiều lần trong cuộc sống, cũng nhiều lần chúng ta bỏ qua một cách vô tình, có khi còn cố ý để cho cơ hội qua đi để tránh sự phiền phức.

 

Biết bao nhiêu lần vì ích kỷ sợ mất thời giờ quý báu của mình, chúng ta không chịu lắng nghe, nên không thể nghe được những điều hữu ích cho cuộc sống. Nhiều lần vì sự hiềm khích, vì nóng giận, vì sự tự ái trong người chúng ta quá lớn, nên chúng ta không có kiên nhẫn chấp nhận người khác, những lúc đó chúng ta cũng bỏ qua cơ hội ngàn vàng để biết đứng lên và quay trở về với Chúa. Cũng nhiều lần vì sợ mất đi những gì mình đang có như: thời giờ, tiền của, danh vọng, hay những thú vui trong cuộc sống, nên chúng ta cũng không thể lắng nghe để làm cho đời sống mình trở nên tốt hơn, đồng thời giúp cho những người chung quanh được lợi ích nhiều hơn. Chính những lần như thế, không phải là chúng ta không có phương tiện để sống tốt, nhưng vì mình không muốn. Như thế chúng ta không phải như những người ăn xin không phải vì hoàn cảnh, nhưng vì muốn làm nghề ăn xin và không muốn vươn lên. Không lẻ đời sống con người của chúng ta không thể đỗi mới được mà cứ phải lầm lủi trong bóng đêm mãi sao.

 

Nếu chúng biết mở rộng vòng tay ban phát những gì mình có cho những người cần đến, nếu chúng ta biết nhắt bước chân của mình để mang niềm vui đến cho người khác như người đàn bà bên bờ giếng, nếu chúng ta biết mang con tim yêu thương đến cho mọi người bằng hành động trong cuộc sống, khi đó chúng ta cũng dám nói như những người trong làng: bây giờ không cần chị nói, nhưng chính chúng tôi đã nghe và đã biết Người thật là Đấng cứu độ trần gian.

 

Xin Chúa soi sáng và hướng dẫn đời sống mỗi người chúng ta biết sống theo thánh ý Chúa.

 

45.             Cuộc gặp gỡ kỳ diệu

(Sưu tầm của Linh Xuân Thôn)

Cuộc sống con người có nhiều mối tương quan liên đới với nhau, và có nhiều cuộc gặp gỡ khác nhau. Có những cuộc gặp gỡ như gió thoảng, như mây trôi… gặp đó rồi tan biến đi không để lại một dấu tích nào trong cuộc đời. Nhưng cũng có những cuộc gặp gỡ đã làm thay đổi cả một đời người. Đó là cuộc gặp gỡ kỳ diệu của tôi, người con gái dân làng Samaria, với Đức Giêsu bên bờ giếng.

Hơn hai ngàn năm trước, giữa trưa hè oi bức, trong lúc mọi người đang nghỉ trưa, nhìn trước nhìn sau không thấy bóng người, tôi một mình lén lút mang bình ra giếng để múc nước với hy vọng không phải gặp mặt những người thân quen. Tôi muốn chạy trốn vì gốc gác thấp hèn không trong sạch của mình, nên những người hàng xóm láng giềng luôn xa lánh tôi. Tôi muốn trốn chạy vì trót mang thân phận hồng nhan đa truân, tình duyên lỡ làng với 5 đời chồng, nên những người họ hàng bà con luôn nhìn tôi bằng con mắt khinh bỉ. Tôi muốn chạy trốn vì xã hội này đã quay lưng với tôi, đã không có chỗ dành cho tôi, đã âm thầm kết án tôi là phường đàng điếm tội lỗi …

Một mình tôi bước đi trong cuộc đời, và hôm nay, một mình tôi bước ra bờ giếng với hy vọng không phải gặp mặt người nào cả. Nhưng kìa, một người đàn ông Do Thái đang ngồi nghỉ trưa bên giếng. Ông ngước mắt nhìn tôi, tôi không còn cách nào chạy trốn nên đành phải cúi đầu bước đi trong thinh lặng. Tôi bước đi nhưng lòng tôi lại có ý nghĩ khinh miệt người đàn ông này.

Hắn chỉ là một gã Do Thái đói rách bẩn thỉu, nhưng có lẽ hắn cũng tham lam và coi trọng lề luật như bao gã Do Thái khác. Nhìn quần áo của hắn thì biết rõ hắn là một gã Do Thái nghèo. Cuối cùng bước chân nặng nề cũng mang tôi đến bên bờ giếng. Tôi mong muốn múc nước đổ đầy bình cho thật nhanh để ra về ngay, tránh cái nhìn soi mói của gã đàn ông Do Thái này. Hơn nữa, theo luật Do Thái, Samari và Do Thái là hai thế giới riêng biệt, không bao giờ được phép chung đụng, vì người Samari bị coi là phường ngoại đạo.

Bỗng dưng người đàn ông lên tiếng gợi chuyện với tôi: “Chị cho tôi xin chút nước uống” (Ga.4:8). Tôi bâng khuâng ngỡ ngàng về giọng nói trầm ấm đó. Tôi ngạc nhiên về lời xin nước để uống. Tôi ngước mắt nhìn ông, nhìn vào vầng trán cao với khuôn mặt nhân hậu … nhìn vào cặp mắt sáng ngời với nụ cười hiền hoà tươi vui … Tôi nhủ thầm trong lòng: “Chắc hẳn ông này không phải là người tầm thường”. Tôi lên tiếng nói với ông ” Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao?” (Ga.4:9). Nghe tôi nói, ông nở nụ cười thật tươi, thật hiền hòa như trả lời với tôi rằng ông chẳng nặng lề luật, nhưng trọng tình người.

Trong cuộc gặp gỡ kỳ diệu này, tôi mới hiểu ra rằng ông chỉ giả vờ xin nước để gợi chuyện với tôi mà thôi. Ông không khát nước, nhưng từng bước rồi từng bước, ông tế nhị chỉ bảo cho tôi biết chính tôi mới là người khát, khát Nước Hằng Sống. Ông hé mở cho tôi biết ông là ai, và ông sẽ làm gì để tôi hết khát: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga.4:13-14). Sự xa lạ và nghi ngờ đối với ông trước đây đã dần dần tan biến trong tôi, nhường chỗ cho sự yêu thương kính trọng.

Trong cuộc gặp gỡ kỳ diệu này, ông nhìn thấu suốt con người của tôi: những cuộc tình vụng trộm chóng qua, những thù hận và trốn chạy trong cuộc đời, những vết thương lòng nhói đau … tất cả ông đều biết rõ, cái biết của ông không nhằm soi mói, nhưng để cảm thông. Tôi giật mình sấu hổ khi thấy ông biết rõ những bí ẩn của đời tôi: “Chị nói: tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị “ (Ga.4:18). Nghe lời nói của ông, trong tôi từ chỗ yêu thương kính trọng trước đây, bây giờ tôi cúi đầu tôn kính ông là ngôn sứ của đời mình.

Trong cuộc gặp gỡ kỳ diệu này, ông chỉ vẽ cho tôi biết về Thiên Chúa:” Thiên Chúa là thần khí, và những ai thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga.4:24). Và cũng trong cuộc gặp gỡ kỳ diệu này, khi nghe tôi nhắc đến Đấng Mêsia, còn gọi là Đức Kitô. Ông đã lên tiếng: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga.4:26).

Tôi đứng dậy, để lại vò nước bên bờ giếng, chạy như bay về nhà, thông báo với bà con họ hàng, với hàng xóm láng giềng, với mọi người tôi gặp gỡ… những người mà chỉ vài giờ trước đây tôi còn chạy trốn không muốn gặp mặt, nay tôi mạnh dạn lớn tiếng nói với họ: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga.4:29).

Giêsu ơi! Cuộc gặp gỡ kỳ diệu bên bờ giếng đã biến đổi đời con, giúp con trở thành con người mới, với trái tim mới, trái tim của yêu thương và hy sinh phục vụ… Xin cho con được gặp gỡ Ngài mỗi ngày trong suốt cuộc đời của con. Amen.

 

46.             Nước hằng sống – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Nước là nguồn sống. Mọi loài thụ tạo đều cần có nước để bào tồn sự sống. Thiên Chúa ban dư tràn các nguồn nước từ trên cao mây trời, từ sông suối biển hồ và từ các nguồn mạch dưới đất. Nơi nào có nước, nơi đó có hiện hữu của sự sống và sự phú túc. Câu truyện dân Do-thái lữ hành trong sa mạc bị đói khát là lẽ thường vì sa mạc khô cằn và nắng cháy. Dân chúng kêu trách Môisen vì sự khổ sở thiếu thốn đủ thứ trên đường đi về miền Đất Hứa: Trong những ngày ấy, dân chúng khát nước, nên phàn nàn với ông Môsê rằng:”Tại sao ông dẫn dắt chúng tôi ra khỏi Ai-cập, để cho chúng tôi cùng con cái và đoàn súc vật chúng tôi phải chết khát như vầy”. (Xh 17, 3). Trong cuộc lữ hành, dân chúng hoàn toàn tùy thuộc vào nguồn nước tự nhiên của mưa sương và sông suối. Họ đã trải nghiệm sự đói, sự khát và sự thèm thuồng của ăn của uống. Cho nên họ đã phàn nàn kêu trách.

Chúa Giêsu đã cho quyền ông Môisen thực hiện một sự lạ lùng là dùng gậy đập vào tảng đá và nguồn nước sẽ vọt chảy cho dân uống. Sách Xuất Hành diễn tả biến cố có một không hai này: Này đây, Ta sẽ đứng trước mặt ngươi, trên tảng đá Horeb, ngươi sẽ đánh lên tảng đá, từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống”. Môsê làm các điều nói trên trước mặt các bậc kỳ lão Israel (Xh 17, 6). Môisen đã dùng cây gậy để thực hiện nhiều phép lạ trên hành trình đi về Đất Hứa. Hôm nay, trước mặt các bậc kỳ lão và dân chúng, ông Môisen đã lo sợ và niềm tin bị chao đảo. Ông đã dùng gậy và đập vào tảng đá hai lần. Nước từ tảng đá đã chảy tràn lan lai láng. Nhưng Thiên Chúa thấu rõ sự kém lòng tin của ông, nên ông chỉ được phép lữ hành tới biên giới ngắm nhìn miền Đất Hứa mà không được vào. Ông đã chết trước khi đoàn dân tiến chiếm miền Đất Hứa.

Tôi có dịp hành hương Đất Thánh và đi thăm viếng một số nơi mà Chúa Giêsu đã có dấu chân của hai ngàn năm trước đây. Phúc âm kể rằng vào một buổi trưa hè nóng bức, Chúa Giêsu đã ngồi nghỉ bên bờ giếng Giacób. Ngày xưa, các tổ phụ đã biết đào giếng để kiếm tìm nguồn nước dưới sâu trong lòng đất. Giếng nước nay thuộc quyền sở hữu của giáo hội Chính Thống Giáo. Hiện nay giếng nằm trong khu vực (West Bank) thuộc Samaria của người Palestine. Theo truyền thuyết từ lâu đời, giếng vẫn còn cung cấp nước sạch và chúng ta có thể uống thử nước từ nguồn. Chính nơi đây, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và đối thoại với người đàn bà Samaria. Chúa đã nhìn thấu rõ tâm hồn người đàn bà lầm lạc và đã mở lối giải thoát bà khỏi ràng buộc của tội lỗi. Chúa Giêsu đã giúp bà tìm đến ý nghĩa sự thật của cuộc đời. Bà đã đem chia sẻ kinh nghiệm đổi đời này với dân chúng trong thành. Giếng Giacób trở thành Giếng của sự thật (Well of Truth).

Trong cuộc đàm thoại với người đàn bà, Chúa Giêsu đã mạc khải cho bà về nguồn ân sủng, đó là nguồn nước trường sinh sẽ không bao giờ cạn: Chúa Giêsu trả lời: “Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời” (Ga 4, 13). Từ câu chuyện đời thường, Chúa Giêsu đã khéo dẫn bà đi vào đời sống nội tâm và nhìn biết được chính mình. Biết phận mình, bà ra giếng giữa lúc trưa nắng để tránh gặp những người hàng xóm quen thuộc. Bà đã gặp được Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ cạnh giếng. Chúa Giêsu không ngần ngại khởi đầu câu chuyện xin người đàn bà cho nước uống. Thời đó, chúng ta biết giữa người Do-thái và người Samaria phân biệt không liên đới và không dùng chung các dụng cụ tại giếng. Ngay cả các tông đồ cũng ngạc nhiên về cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà tội lỗi nơi công cộng. Nhờ cơ hội này, Chúa đã đi vào sâu thẳm trong tâm hồn khao khát sự thật của bà. Chúa đã giải thoát cho bà.

Người đàn bà đã thắc mắc với Chúa về sự thờ phượng nơi đâu cho đúng. Câu trả lời của Chúa Giêsu đã đánh tan mọi giới hạn ngăn cản. Chúa Giêsu không đứng về phe phái nào cả và sự thờ phượng Thiên Chúa không tùy thuộc vào nơi này hay nơi kia, không phải trên núi này hay ở Giêrusalem. Đây là một câu trả lời cách mạng của sự thật: Chúa Giêsu đáp: “Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem (Ga 4, 21). Con người chúng ta thường câu nệ vào những hình thức bên ngoài và xây lên những bức tường chia rẽ để ngăn cách nhau trong cuộc sống. Chúa Giêsu đã phá đổ những khuôn mẫu mà con người vì ghen tương đã dựng xây. Chúa dẫn con người đi vào tận thâm tâm sâu thẳm của trái tim chân thật.

Đến thăm viếng thành thánh Giêrusalem hiện nay, chúng ta thấy các tường thành được xây dựng khắp nơi. Các khu vực tôn thờ bị chia cắt và tranh dành quyền sở hữu. Địa sở thành Giêrusalem trở nên nơi tranh chấp và bị chiếm hữu thế tục. Nơi đây là tấc đất tấc vàng. Mỗi nhóm tôn giáo cố gắng sở hữu một khu vực để gọi là thờ phượng và lưu giữ truyền thống. Vùng đất Chúa Giêsu đã đi qua, nhưng Ngài đã không để lại một dấu vết cụ thể nào. Vì Chúa muốn xây dựng đền thờ trong tâm hồn con người. Chúa phán: Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn (Ga 4, 23). Chúa Giêsu muốn chúng ta tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý, chứ không hệ ở đền thờ vật chất hoành tráng hay bằng môi miệng trống rỗng hoặc những hình thức hiến dâng lễ tế chiên bò. Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở rằng Chúa muốn tình yêu, chứ không muốn hy lễ.

Chúa Giêsu đã mở lòng người đàn bà Samaria. Bà đã đón nhận nguồn nước sự sống trường sinh. Bà đã tìm ra sự thật của việc tôn thờ Thiên Chúa trong thần trí. Bà đã thấy và đã tin vào Chúa Giêsu. Bà trở thành nhân chứng của nước trời mang tin vui cho những người chung quanh. Dù bị xem là người dân ngoại, bà đã có lòng tin trở lại. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho dân thành Rôma đã công bố: Đấng cho chúng ta nhờ đức tin mà tiến đến ân sủng, đứng vững ở đó và được hiển vinh trong niềm hy vọng vinh quang của con cái Chúa (Rm 5, 2). Đức tin dẫn đến ân sủng. Tin vào Chúa Giêsu là cửa ngõ dẫn chúng ta đến ơn cứu độ. Niềm tin là sự phó thác hoàn toàn vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta rằng tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người và mọi sự sẽ được ban cho.

Cậy trông vào Chúa là chìa khóa mở cửa dẫn chúng ta vào quê thật. Chúa Giêsu mở lòng người đàn bà đến với sự thật tinh tuyền. Sự thật được gột rửa bởi sự đơn sơ thanh sạch trước nhan Chúa. Sự thật được phơi bầy xóa nhòa mảnh hồn tội lỗi chất chồng của người đàn bà Samaria. Chúa Giêsu đã tưới gội tâm hồn của bà bằng dòng nước trường sinh. Nguồn ân sủng của Chúa Thánh Thần như nguồn nước thấm nhập vào đời sống đức tin, đức cậy và đức mến. Các nhân đức hòa trộn dẫn dắt chúng ta đến Chúa Giêsu là nguồn ơn cứu độ. Thánh Phaolô dạy: Nhưng cậy trông không làm hổ thẹn, vì lòng mến Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Đấng đã được ban cho chúng ta (Rm 5, 5). Chúa Thánh Thần sẽ tác động làm đổi mới tâm can và canh tân mọi sự.

Lạy Chúa, xin cho nguồn nước hằng sống tuôn đổ vào tâm hồn, để chúng con được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt của Chúa. Xin Chúa thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi vết nhơ tội lỗi và ban cho chúng con một trái tim biết yêu thương chân thành.

 

47.             Đón nhận ơn tái sinh

(Suy niệm của Lm GB Nguyễn Minh Hùng)

Tin Mừng theo thánh Gioan cho biết, người đàn bà có sáu đời chồng, ra giếng múc nước vào buổi trưa, gặp Chúa Giêsu và được Chúa đánh thức tâm hồn, đó là người đàn bà xứ Samaria.

Samaria trước là vùng đất Do thái, vì thế, những người sinh sống tại đây cũng là người gốc Do thái. Nhưng qua nhiều đổi thay của đất nước, nhất là trong những lần bị đưa đi lưu đày, nhiều lần bị đặt dước ách đô hộ của các đế quốc, làm cho lịch sử biến chuyển không ít… Người Do thái ở Samaria không còn giữ được nguyên gốc Do thái. Họ ngày càng có nhiều mối dây liên hệ với dân ngoại. Do đó, người Samaria luôn luôn bị người Do thái khinh miệt, tránh mọi liên hệ gần gũi và tiếp xúc.

Nhưng Chúa Giêsu thì không. Người đã không đứng chung hàng ngũ với những người đồng hương để lên án con người, mà luôn ý thức vai trò cứu rỗi của mình: đưa con người từ tội lỗi về lại với sự thánh thiện.

Tin Mừng theo thánh Gioan viết: “Đức Giêsu tới thành gọi là Kikha thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng Giacóp, Đức Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu”(Ga 4,5-6).

Bỗng dưng một phụ nữ ra giếng múc nước. Chúa nhìn thấy tâm hồn chị. Chúa biết chị luôn sống trong mặc cảm của tội, bởi chị đã có đến “năm đời chồng và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị”. Nhưng Người cũng nhìn thấy khả năng đón nhận chân lý nơi chị, vì thế, chính Chúa lên tiếng trước: “Cho tôi chút nước uống”.

Chúa phá tan sự nghi kỵ. Chúa đã làm khiến ngạc nhiên không ít. Bởi không phải chỉ vì “Ông là người Do thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria, cho ông nước uống”. Nhưng nếu theo dõi hết trình tự của câu chuyện, ta sẽ thấy, Chúa khiến chị phụ nữ phải đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

Đúng hơn, khi đối thoại với Chúa Giêsu, người phụ nữ Samaria đã phải chuyển từ ngạc nhiên sơ khởi dần dần đi lên đến đỉnh điểm của đức tin.

Chỉ cần một chi tiết sau, đủ chứng minh tình cảm biến đổi từ thấp lên cao dần của chị: Khởi đầu chị gọi Chúa là “ông”, rồi chuyển sang gọi là “ngài”, kế đến là “đấng tiên tri”, cuối cùng là “Đấng Kitô”.

Chúa làm thay đổi hoàn toàn tình thế: Chúa, người xin, trở thành người cho; chị phụ nữ, người được xin, trở thành kẻ đón nhận.

Một loạt những lời nói của Chúa Giêsu đã biến chính Người thành Đấng trao ban, còn chị phụ nữ thành người thụ nhận:

– “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10).

– “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).

– “Đã đến giờ và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý. Đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn” (Ga 4, 23).

– Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật (Ga 4, 34).

– Và sau hết, như một đoạn kết có hậu, một đoạn kết tất yếu phải có, Chúa Giêsu dứt khoát chỉ cho chị để chị nhận ra “Chân Lý” mà chị cần gặp, chị phải gặp. “Chân lý” ấy không phải ai khác mà là chính Chúa, Đấng đã tự mình tìm đến với chị: “Đấng Mêsia chính là Ta, Người đang nói với chị đây” (Ga 4, 26).

Bất cứ ai, khi được Chúa chạm đến, với điều kiện người ấy phải chấp nhận sự thật về mình, chấp nhận vạch trần con người tội lỗi của mình, đều được biến đổi. Một khi đã được biến đổi, người ấy lập tức trở thành chứng nhân của Chúa, chứng nhân của tình yêu tha thứ mà Chúa ban cho mình.

 

  1. Biến đổi

Người phụ nữ Samaria chắc chắn đã phải giật thót mình khi “bị” một người xa lạ đánh đúng vào thái độ đùa nghịch với đạo đức, với luân lý mà chị đã quen sống từ trước đến nay.

Chị đã thật sự nhận ra mình trong phút chốc khi chị được Chúa soi sáng.

Không ai có thể thật sự thấy mình, cho đến khi soi mình trong sự hiện diện của Thiên Chúa.

Chị phụ nữ đã được Chúa buộc phải nhìn vào Chúa để từ đây, chị biến đổi chính mình.

Cú “giật mình” đã phải làm cho chị nhanh chóng thốt lên: “Tôi thấy ngài thật là một tiên tri…” (Ga 4, 19).

 

  1. Chứng nhân

Thánh Gioan đã không bỏ qua chi tiết chị phụ nữ “bỏ vò nước lại” ngay tại chỗ chị đã gặp Chúa Giêsu. Tại sao lại bỏ vò nước? hành động này, tuy nhỏ, lại nói lên nhiều ý nghĩa lớn:

– Sự biến đổi ngoạn mục trong chị đã làm cho chị phải dẹp những gì là cồng kềnh vướng víu, để lập tức ra đi trong nhẹ nhỏm, trong thanh thoát.

– Sự biến đổi ấy đã làm cho chị sung sướng đến độ không còn nhớ việc ban đầu của mình.

Điều duy nhất quang trọng lúc này là chạm đến chân lý, là khám phá tận căn con người hèn hạ của mình, nhằm chứng minh với mọi người Đấng đã giúp mình khám phá chính bản thân mình.

– Sự biến đổi đã thôi thúc chị ra đi với “tốc độ”, ra đi càng nhanh càng tốt.

Chị nóng lòng, không phải với việc múc nước nữa, nhưng là làm sao phải hô thật to, nói thật nhiều cho mọi người biết Đấng Tiên Tri và chạm đến Người, như chính mình đã được biết, đã được chạm đến.

– Chị “bỏ lại” để chị còn quay lại. “Bỏ lại” là lý do tốt nhất để còn được quay lại.

Bắt đầu từ Chúa Giêsu, chị khám phá sự thật về mình.

Bắt đầu từ Chúa Giêsu chị biến đổi chính mình.

Bắt đầu từ Chúa Giêsu, chị ra đi loan báo ơn tái sinh.

Và rồi bắt đầu từ Chúa Giêsu, chị quay lại với Chúa Giêsu.

Chúa vẫn yêu thích tìm đến cùng chúng ta. Chúa muốn chúng ta mở lòng đón Chúa để được tái sinh và biến đổi đời mình.

Chúng ta hãy làm như chị người Samaria, đó là mềm lòng để Chúa uốn nắn. Từ nay ta sẽ trở về, biết chối từ quá khứ lầm lỡ đển vươn tới tương lai thánh thiện trong Chúa.

 

48.             Nước đem lại Sự Sống Đời Đời

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Chúa Giêsu đăng trình rao giảng, mỏi mệt ngồi bên bờ giếng Giacob. Chắc không phải vô ý mà Ngài đã chọn nơi đó để nghỉ mệt. Ngài chờ đợi một người, một người mà Ngài sẽ ban cho một hồng ân lớn lao: “Con Người đến không phải để tìm những người công chính nhưng tìm người tội lỗi”. Ngài thực hiện đúng như lời Ngài nói.

Mười hai giờ trưa. Nắng như thiêu như đốt. Đường xa mệt mỏi, khát nước là chuyện thường. Nhưng đối với Ngài, mọi hoàn cảnh đều là những dịp để ban bố hồng ân.

Một người phụ nữ Samari đến múc nước. Chắc nàng không để ý gì đến người đàn ông Do Thái đang ngồi cạnh bờ giếng, vì người Do Thái không thuận thảo gì với người Samari. Người Do Thái xem người Samari là người lạc đạo và trong lịch sử có những cuộc va chạm đôi khi đẫm máu, vì thế giữa Do Thái và Samari có hố sâu ngăn cách càng ngày càng sâu. Chúa Giêsu gợi chuyện bằng cách xin nàng cho một chút nước uống.

Người phụ nữ ngạc nhiên vì có một người Do Thái hạ mình xin nàng chút nước uống. Câu chuyện bắt đầu bằng những lời không mấy thiện cảm: “Ông là người Do Thái mà lại xin tôi nước uống là thế nào?” Nghĩa là ông không là người thân mà là người thù, sao lại xin tôi chút nước? Ông không thấy nhục sao? Chúa Giêsu bắt đầu bước thêm một bước và gây ngạc nhiên: “Nếu chị nhận ra ân huệ Chúa ban…” Và như thế câu chuyện tiếp diễn nhờ đó Chúa Giêsu mở mắt cho chị thấy những gì chị không thể thấy. Ân huệ Chúa ban là đây: Một người khát nước và một người khao khát sự thật; từ nước giếng Chúa Giêsu cho thấy một thứ nước mang lại sự sống đời đời; Đền thờ trần gian và cách thờ phượng trong thần khí và sự thật.

Thời bấy giờ, Giêrusalem là trung tâm của Do Thái giáo, người Samari xây một đền thờ riêng trên núi Garidim. Việc thờ phượng được tập trung tại Giêrusalem. Chúa Giêsu cho thấy, “Nhưng giờ đã đến rồi – và chính là lúc này đây… chỉ thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và sự thật mà thôi”. Đền thờ sẽ là Ngài, không còn Đền thờ xây bằng đá nữa. Việc thờ phượng không chỉ tập trung vào một nơi chốn nào nữa nhưng là nơi Ngài.

Trong một cuộc đối thoại ngắn ngủi, Chúa Giêsu đã mạc khải cho người phụ nữ Samari nguồn sống mới, đã đổi mới tâm hồn đang lạc lõng của chị.

Người phụ nữ ấy chính là hình ảnh của mỗi người chúng ta. Phụ nữ ấy chỉ có sáu người chồng, chúng ta có bao nhiêu người yêu? Không chỉ là sáu mà là một khối: ích kỷ, kiêu căng, tham lam, hận thù, đam mê xác thịt, ý muốn thống trị… Không thể kể ra hết. Thế mà chúng ta cứ ung dung như không có vấn đề gì. Tâm hồn chúng ta quá quen với tội lỗi đến nỗi không còn thấy xốn xan hay khó chịu nữa, như người phụ nữ kia. Sáu đời chồng mà như không có chuyện gì.

Hãy đến bờ giếng Giacob, chúng ta sẽ gặp một người đang chờ đợi chúng ta.

Thời xa xưa, thời ông Giacob và Môsê, bờ giếng gần như là nơi hẹn hò. Giacob đến bờ giếng và gặp Rakhen và sau này cưới nàng; Môsê cũng đến bờ giếng ở xứ Mađian và đã gặp con gái thầy cả xứ đó và sau này đã cưới nàng.

Bờ giếng Giacob là nơi người phụ nữ Samari gặp Chúa và đã mở mắt thấy được giếng nước hằng sống, đã gặp được Đấng Mêsia, mà trong tâm hồn nàng vẫn mơ hồ nghĩ đến. Nàng đã khám phá ra người Do Thái đang đối thoại với nàng là ai và đã đạt đến niềm tin. Nàng đã nhìn nhận ông này là một vị ngôn sứ khi nói cho nàng biết mọi sự về quá khứ không mấy tốt đẹp của nàng. Nàng bắt sang một vấn đề khác, vấn đề thờ phượng. Tại sao đang nói về nước uống, nàng lại nói đến vấn đề thờ phượng? Tuy nàng là một phụ nữ lăng loàng, nhưng trong thâm tâm nàng vẫn ưu tư về vấn đề đạo đức. Theo tâm lý, những người sống trong hoàn cảnh bất hợp pháp, hay trong tội, thường không mấy khi muốn nói đến việc đạo đức, nhưng người phụ nữ này vẫn còn lòng đạo, vẫn khao khát một cái gì đó mà chính nàng không biết, vẫn còn ưu tư thao thức nào đó. Chúa Giêsu đã đến đáp ứng nhu cầu tâm linh của nàng, đã khơi lại trong lòng nàng ước mơ đạo đức đã lâu ngày ngủ yên. Ngài chính là Đấng không “dập tắt  ngọn đèn còn leo lét, không bẻ gãy cây lau bị giập”. Ngài đến như một sự đón tiếp ân cần. Chúng ta có đón nhận Ngài và đối thoại với Ngài không?

Ngài sẽ dẫn chúng ta từ những thực tại trần gian đến những thực tại thiêng liêng như đối với người phụ nữ Samari. Ngài sẽ cho chúng ta hiểu chính mình và khuôn mặt thần linh của Ngài. Ngài sẽ nói cho chúng ta biết: “Đấng Mêsia, chính là tôi, người đang nói với chị đây”. Chúng ta đã từng nghe nói đến Đấng Cứu Thế, chính là Ngài, nhưng có lẽ chúng ta chỉ biết mà không tìm hiểu sâu hơn. Chúng ta không thấy Ngài là sự sống và là sự sống lại, là hiện thân của Chúa Cha, là Người Con Một đầy ân sủng và chân lý.

Ngài sẽ cho chúng ta tìm thấy mạch suối đem lại sự sống đời đời. Ngài sẽ dạy chúng ta thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và sự thật. Chúng ta sẽ không còn chạy theo những thần tượng khác. Chúng ta sẽ không còn khát thứ nước trần gian nữa. Chúng ta sẽ tin vào Ngài như người dân Samari, khi đến với Ngài. Họ nài xin Ngài ở lại với họ… Chính Ngài đã mời gọi tha thiết: “Hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng…” Phải, Ngài biết cuộc sống không dung thứ cho chúng ta, Ngài biết chúng ta đang khao khát hòa bình, khao khát tình thương… Hãy xin Ngài ở lại với chúng ta và dạy chúng ta yêu mến Chúa Cha, lấy ý Cha làm lương thực. Sống trong tình Cha như những đứa con yêu quý.

Người phụ nữ kia đã tìm được điều nàng đang mơ ước, tìm được Đấng Mêsia, “Đấng sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Nàng vui mừng chạy nhanh về trong làng, loan báo cho mọi người biết Đức Kitô đã đến thật rồi, và nhờ đó nhiều người Samari đã tin Ngài. Chúng ta đã tìm được Chúa chưa? Sao chúng ta không vui mừng?

Niềm vui của chúng ta ở đâu? Nơi trần thế, chúng ta tìm được những gì? Mọi sự sẽ qua đi. Các nền văn minh theo nhau đi vào đổ nát và quên lãng, còn chăng là một vài vết tích mà người ta cố gắng bảo vệ. Để làm gì? Để thỏa mãn một nhu cầu hoài cổ nào đó. Tương lai của thế giới này sẽ là gì? Chiến tranh, giết chóc, hận thù, tội ác… Còn gì nữa để con người hạnh phúc? Con người chỉ sống để làm khổ nhau thôi sao?

Chúa Giêsu đem đến một niềm vui luôn luôn mới. Niềm vui chính là Ngài, hạnh phúc chính là Ngài: “Đấng Mêsia là chính tôi, người đang nói với chị đây”. Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Chỉ nơi Ngài chúng ta mới thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Vũ khí con người sản xuất chỉ đem lại cái chết. Chỉ có tình yêu mới đem lại hạnh phúc. Chính Ngài là Tình Yêu. Yêu mến Chúa, chính là hạnh phúc thật mà thôi.

Ngài luôn có mặt. Bên bờ giếng của linh hồn, Ngài đang ngồi chờ đợi. Chờ đợi để trao ban, trao ban chính bản thân Ngài làm của ăn. Của ăn này sẽ đưa chúng ta đi thật xa, đi vào thế giới của tình yêu.

Ăn lấy Ngài phải chăng là một niềm hạnh phúc lớn lao nhất cho những kẻ tin. Hãy đến, bàn tiệc vẫn luôn sẵn sàng đón tiếp, và niềm vui của chúng ta sẽ tràn đầy sung mãn: “hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”.

 

49.             Thờ phượng Chúa trong Thần Khí và Sự Thật

(Suy niệm của Lm. JB. Lê Ngọc Dũng)

Bài Tin Mừng cho thấy một điều lạ là Đức Giêsu đi tới gặp một phụ nữ bên bờ giếng để xin nước uống vì mõi mệt, vì khát nước. Sao Ngài lại xin trong khi Ngài đang có? Ngài đang có nước, mà lại nước hằng sống! Nếu Ngài có nước hằng sống, thì cứ lấy ra mà uống đi, cần gì phải xin?

Người ta vẫn nghĩ rằng Chúa Giêsu rất khôn ngoan về khoa sư phạm, Ngài chỉ tìm cách gợi chuyện để rao giảng mà thôi. Và kết quả là rất thành công, khiến cho cả làng ra đón tiếp và tin Ngài.

Hãy xem, Chúa có cho nước hằng sống không? Người phụ nữ đã xin: “Thưa ông, xin cho tôi nước ấy, để tôi khỏi chết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. Nhưng Chúa Giêsu lại nói lãng qua chuyện khác: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây”. Rồi sau đó Chúa Giêsu lại nói đến chuyện thờ Thiên Chúa đích thực là trong Thần khí và Sự Thật.

Tuy nhiên, chuyện lạ lùng đã xảy ra:  người phụ nữ nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và sau đó cả làng đều tin.

Vậy thì nước hằng sống mà Chúa Giêsu đã ban cho họ chính là Đức Tin. Đó là tin rằng Ngài là Đấng Cứu Thế. Chúa đã cho người phụ nữ và cả làng ơn đức tin, cũng là nước hằng sống mà họ muốn có.

Tin Ngài là Đấng Cứu Thế lại liên hệ sâu xa đến việc thờ phượng Thiên Chúa. Rõ ràng là khi tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Thiên Chúa Cha ban cho chúng ta vì yêu thương, thì lúc đó chúng ta thực hiện sự tôn thờ, kính mến Thiên Chúa. Khi chúng ta tin vào Đức Giêsu, cùng với cả cuộc đời Ngài vâng phục là chết trên thập giá vì tình yêu thương, và chúng ta sống theo gương Ngài, thì chính lúc đó chúng ta tôn thờ Thiên Chúa.

Hôm nay Chúa Giêsu nói, tôn thờ Thiên Chúa đích thực không phải sự tôn thờ trên núi này hay trên núi nọ mà là trong Thần Khí và Sự Thật. Chúng ta vẫn thường nghĩ rằng đơn thuần là thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý, hiểu như là trong tinh thần thì khác với thể xác, trong chân lý thì khác với trong gian dối. Các nhà Kinh Thánh thấy rằng, nó không đơn giản như vậy, vì tác giả Tin Mừng Thánh Gioan viết rất sâu xa.

Đó là sự thờ phượng Thiên Chúa trong Chúa Thánh Thần và Chúa Giêsu Trong Sự Thật cũng là trong Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chính là Sự Thật, như có lần Ngài nói: Ta là Đường là Sự Thật và là Sự Sống. Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Cả mầu nhiệm Nhập thể cứu độ cũng là Sự Thật, Sự Thật cứu độ, cần phải tin để được sống đời đời.

Trong Thần Khí hay trong Tinh Thần cũng có nghĩa là trong Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta tin và sống đức tin mạnh mẽ. Chính nhờ Chúa Thánh Thần ban ơn để ta tin vào Sự Thật là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu, cũng có nghĩa là tin Thiên Chúa Cha ban cho nhân loại chính Con Một Ngài, vì yêu thương thế gian.

Để dễ hiểu, hãy nghĩ đến sự thờ phượng Chúa trong Thánh Lễ. Cử hành Thánh Lễ cũng là cử hành hiến tế của Đức Giêsu lên Thiên Chúa Cha. Đó là sự thờ phượng của Chúa Giêsu. Ngài, nhờ tay linh mục dâng hiến tế, thực hiện trong Chúa Thánh Thần, Đấng Thánh hóa lễ vật. Chúng ta dự lễ, có nghĩa chúng ta được dự phần thờ phượng Thiên Chúa trong Chúa Giêsu, nhờ công nghiệp vô cùng quý giá của Chúa Giêsu, như lời đọc của linh mục chủ tế “chính nhờ Người, với Người và trong Người mà mọi chúc tụng và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần đến muôn đời’.

Chính đức tin và sự thờ phượng trong Chúa Giêsu và trong Chúa Thánh Thần đem lại cho ta nước hằng sống, tức là sự sống đời đời.

Tuy nhiên đức tin với kiểu chỉ nói “lạy Chúa”, “lạy Chúa” mà không thực hiện Lời Chúa thì cũng không mang lại được sự sống đời đời. Đức tin phải thể hiện bằng việc làm, bằng cuộc sống.

Đức tin của người phụ nữ Samaria ít nhất cũng thấy được là chị đã làm chứng cho Đức Giêsu cho những người Samari khác trong thành. Chị đã thuyết phục họ bỏ qua đi những kỳ thị ghen ghét lẫn nhau để đến với Đức Giêsu và tin Ngài là Đấng Cứu Thế.

Người phụ nữ cũng như dân Samaria thừa biết “người Do Thái không được giao tiếp với người Samaria”. Vậy mà khi nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, họ đã vượt qua “hố sâu ngăn cách” ấy cũng như vượt trên “tự ái dân tộc” để đến gặp Đức Giêsu và xin Ngài ở lại với mình.

Trong thực tế đời sống, không dễ chút nào trong việc vượt qua những rào cản của tự ái của mặc cảm của sự cách biệt để ta đến với người anh em để sống yêu thương vâng phục như Đức Kitô; không dễ chút nào trong việc thoát khỏi xiềng xích trói buộc của tội lỗi mà trở về cùng Chúa.

Chính khi gặp gỡ Đức Kitô, sống trong Đức Kitô, trong Chúa Thánh Thần, thì chúng mới có khả năng dẹp bỏ những rào cản những khó khăn này. Nói một cách khác, trong mọi hoàn cảnh người Kitô hữu phải liên kết với Chúa Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần để sống đức tin, để thờ phượng Thiên Chúa. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta đang thờ phượng Chúa cách đích thực, trong Tinh Thần và Chân Lý.

 

50.             Nước vọt đến sự sống đời đời

(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)

Tin mừng của Chúa nhật hôm nay gồm hầu như cả chương 4 (4,5-42). Chương 4 bắt đầu một khung cảnh và chủ đề mới. Chúa Giêsu rời Giuđêa đi về lại Galilêa và Người đi ngang qua Samaria (4,3), nơi đây xảy ra câu chuyện giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ. Khung cảnh gần hơn là bên giếng nước Giacóp. Chủ đề chính: – Chúa Giêsu và người phụ nữ Samaria: Mở đầu cuộc đối thoại (4,1-8); – Nước hằng sống (4,9-15); – Việc phụng thờ đích thật (4,16-26); – Mùa gặt (4,27-38); – Kết quả của việc truyền giáo tại Galilêa và Samaria (4,39-45).

Đoạn 4,9-15 gồm 3 lần trao đổi giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ: 7 và 9; 10-12; 13-15. Phần cuối của câu 9 là ghi chú của thánh sử. Xét về mặt ngữ nghĩa các trao đổi nầy liên hệ với nhau qua chủ đề nước. Cụm từ “đến múc nước” (4,7 và 15 ) đóng khung đoạn nầy.

Xin nước uống (4,7-9)

Chúa Giêsu xin người phụ nữ nước uống, “Cho tôi uống với” (c. 7). Chúa Giêsu khát nước sau hành trình dài. Điều nầy được xác nhận qua việc các môn đệ đi vào thành để mua thức ăn (9,4-8). Người lấy việc khát nước của mình để bắt đầu cuộc trao đổi về nước hằng sống (x. 4,10). Động từ “cho” dùng nhiều lần trong đoạn nầy (cc. 10.12.14 [2x].15). Cuộc trao đổi được đóng khung bởi lời mở đầu “cho tôi uống với” của Chúa Giêsu (c. 10) và kết thúc với lời xin ngược lại từ phía người phụ nữ “cho tôi nước nầy” (c. 15).

Người phụ nữ nầy chỉ hiểu theo nghĩa đen lời xin nước của Chúa Giêsu (c. 9). Lời xin nước của Chúa Giêsu bị bỏ ngõ, vì bà không trả lời trực tiếp lời xin nước của Chúa Giêsu và nói đến sự ngăn cách giữa hai người do thuộc hai miền khác nhau. Bà là người miền Samaria, trong khi Chúa Giêsu là người miền Giuđêa. Thánh sử cho lời giải thích về điều nầy (c. 9; Lc 10,25-37). Thời ấy, người do thái không chỉ tránh gặp người thuộc miền Samaria, mà cả tránh không nói chuyện với phụ nữ nơi công cộng. Phản ứng của các môn đệ khi thấy Chúa Giêsu nói chuyện với người phụ nữ Samaria cho thấy điều nầy (4,27). Ngay cả người phụ nữ cũng thắc mắc là có thể có một cuộc trao đổi như thế giữa bà và Chúa Giêsu hay không. Vào thời xưa giếng nước là thường là nơi gặp gỡ (x. Kn 24,11.15.17; 29,2-12).

Ban nước uống (4,10-12)

Trong lần trao đổi tiếp theo nầy, chủ đề nước chuyển sang khía cạnh khác, tập trung vào Chúa Giêsu là nước hằng sống, ân huệ của Thiên Chúa, và Người cũng là Đấng ban nước ấy cho những ai xin Người  (c. 10). “Ân huệ của Thiên Chúa” (c. 10) nghĩa là ơn do Thiên Chúa ban cho. Ân huệ ấy được đồng hoá với Chúa Giêsu. Mệnh đề điều kiện “Nếu bà biết…” vừa có tính cách điều kiện là phải biết, vừa có tính cách mời gọi. Điều kiện tiên quyết là phải biết Người là ai, và khi cầu xin thì Người sẽ sẵn sàng ban nước hằng sống ấy. Ở đây Chúa Giêsu không dùng cách nói trực tiếp Người là nước hằng sống, dù Người gọi mình là “Tôi là Bánh hằng sống” (6,51). Nước gắn liền với sự sống như bánh vậy (6,35).

Người phụ nữ không hiểu ngôn ngữ của Chúa Giêsu (c. 11); như trường hợp của Nicôđêmô (3,3). Suy nghĩ của bà bị kẹt trong thế giới thể lý và tự nhiên nầy. Bà không hiểu làm sao Chúa Giêsu có thể: – có nước mà không cần đến cái gàu để múc nước, trong khi giếng lại sâu; – lớn hơn tổ phụ Giacóp, người đã truyền lại cho họ giếng nước nầy (Kn 49,22). Pothen, “do đâu” (c. 11) là một trong những từ then chốt của Gioan. Khi đối diện với Chúa Giêsu, nhiều người không hiểu do đâu mà đến những hiểu biết của Chúa Giêsu (1,48); những việc Người làm (2,9). Cũng thế người phụ nữ Samaria nầy không hiểu bởi đâu Người có thể có nước để ban cho (4,11). Trọng tâm của những thắc mắc “pothen” nầy là con người không hiểu nguồn gốc của Người (7,27; 8,14; 9,30; 19,9).

Người phụ nữ Samaria đưa ra một so sánh giữa Chúa Giêsu và tổ phụ Giacóp (c. 12). Câu hỏi của bà “Không lẽ ông cao trọng hơn Giacóp…?” tương tự câu hỏi người do thái đặt cho Chúa Giêsu “Không lẽ ông cao trọng hơn Abraham…?” (8,53). Bà đặt vấn đề là ai cao trọng hơn ai. Giacóp đã để lại giếng nước. Chúa Giêsu có thể hơn thế không? Chắc chắn là Người cao trọng hơn Giacóp, cũng như Người tuyên bố là cao trọng hơn Abraham, vì Người có trước Abraham (8,58). Cũng vậy Người cao trọng hơn Giacóp, vì Người ban “nước không hề khát” (c. 14) chứ không như nước tự nhiên lấy lên từ giếng của Giacóp. Điều nầy sẽ được nói đến trong những câu tiếp theo.

Nuớc uống ban sự sống (4,13-15)

Trong lời trao đổi sau cùng, Chúa Giêsu không trả lời những điều liên quan đến gàu nước, và tổ phụ Giacóp. Người giải thích phẩm tính của nước do Người ban bằng một so sánh giữa “nước nầy”, nghĩa là nước tự nhiên lấy lên từ giếng (c. 13) và “nước do Người ban cho” (c. 14). Uống “nước nầy” sẽ lại khát. Uống nước Người ban sẽ không bao giờ khát nữa. Chúa Giêsu tiếp tục mời gọi đến với Người để giãn khát, “ai khát hãy đến cùng Tôi và uống” (7,37; x. 6,35.51). Chúa Giêsu nói đến “mạch nước” (c. 14b), nhắc nhớ đến giếng nước tự nhiên (4,6). Trong Cựu ước, pēgē hydatos, “mạch nước” ám chỉ Thiên Chúa (x. Tv 36,9; Giêr. 2,13; 17,13), cũng thế trong sách Khải huyền, nước hằng sống phát xuất từ ngai của Thiên Chúa và Con Chiên (Kh 22,1; 7,17). Hallomai, có nghĩa là “phun lên” (mạch nước), và “nhảy lên”. Động từ nầy chỉ được dùng một lần duy nhất ở đây trong Gioan. Trong Công vụ Tông đồ, động từ nầy dùng cho hai người què (3,18; 14,10). Họ nhảy nhót lên sau khi đã được chữa lành. Có thể hiểu là việc làm cho mạch nước phun vọt lên, cũng như việc làm cho người què nhảy nhót được là do Thiên Chúa. Người hành động trong nước hằng sống, cũng như hành động trong việc chữa lành của các tông đồ. Và mục đích của hành động nầy là đưa đến “sự sống đời đời”. Vậy vì nước hằng sống nầy chính là Chúa Giêsu, khi ai lãnh nhận Người, Người sẽ hành động trong họ và đưa người ấy vào sự sống đời đời. Chúa Giêsu chính là sự sống (1,4; 14,6), nên tất cả những gì Người ban đều mang lại sự sống cho người lãnh nhận: nước (4,14), lương thực (6,27), bánh (6,33.35.48.51), thịt và máu của Người (6,53-54).

Thêm một lần nữa người phụ nữ nầy không hiểu lời Chúa Giêsu (c. 15). Bà chỉ nghĩ đến nhu cầu cụ thể hằng ngày “Thưa Thầy, xin cho tôi nước ấy để tôi khỏi phải đến đây múc nữa” (c. 15). Có thể bà nghĩ là Chúa Giêsu có một thứ nước phù phép, và bà xin thứ nước ấy. Cuộc đối thoại chẳng làm cho bà hiểu hơn. Tuy nhiên đó là cơ hội Người nói về nước hằng sống. Trong các phần tiếp theo, Chúa Giêsu sẽ phá vỡ sự vô tri nầy và sẽ làm cho bà nhận biết Người là ai.

Lời xin nước uống của Chúa Giêsu ám chỉ đến sự cứu độ của con người. Người sẽ lập lại lời tương tự trên thánh giá, “Ta khát” (19,28). Người khát khao người phụ nữ nầy được cứu độ; qua bà như biểu tượng, là cả dân miền Samaria và mọi người. Chúng ta khát khao được cứu độ?

 

51.             Chúa Nhật 3 Mùa Chay

(Suy Niệm Chú Giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)

Trong chu trình Mùa Chay, Giáo Hội dành Chúa Nhật III và Chúa Nhật IV Mùa Chay cho bí tích Thánh Tẩy, vì thế các Bài Đọc được chọn lựa nhằm chuẩn bị cho tân tòng đón nhận Thánh Tẩy vào đêm vọng Phục Sinh. Như vậy, vào Chúa Nhật III Mùa Chay này, chủ đề nổi bật là  “nước hằng sống”, nguồn mạch cứu độ.

 

Xh 17: 3-7

Suốt cuộc hành trình trong hoang địa, dân Do thái phải chịu cảnh đói khát. Thiên Chúa đã ban cho họ nước mát trong tuôn trào từ tảng đá. Qua đó, Thiên Chúa tỏ cho dân Ngài biết rằng Ngài vừa là Đá Tảng vừa là Nguồn Mạch luôn luôn tuôn trào sự sống và ơn cứu độ.

Rm 5: 1-2; 5-8

Thánh Phao-lô nói cho tín hữu Rô-ma biết rằng chính nhờ Đức Tin mà họ trở nên công chính và vui hưởng niềm hy vọng lớn lao, đó là một ngày kia sẽ được dự phần vào vinh quang của chính Thiên Chúa. Đức cậy này có một nền tảng vững chắc bởi vì nó cắm rễ sâu vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Ga 4: 5-42

Tin Mừng tường thuật cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri ở bên bờ giếng Gia-cóp. Đức Giê-su tự đồng hóa mình với nguồn nước hằng sống đem lại sự sống đời đời.

 

BÀI ĐỌC I (Xh 17: 3-7)

Nhan đề của sách Xuất Hành tự nó nói lên nội dung của sách: “cuộc xuất hành khỏi đất Ai-cập”. Chương 17 này tường thuật một loạt những thử thách mà dân Do thái đã trải qua trong suốt cuộc hành trình gian khổ băng qua hoang địa: cái đói, cái khát, chiến tranh, từ đó họ kêu trách, gây gổ và nổi loạn.

Đoạn văn được trích dẫn hôm nay tường thuật dân Do thái trải qua cuộc thử thách về cái khát, và từ đó nẩy sinh sự nghi nan ngờ vực về sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài. Đối lại, Thiên Chúa đáp trả nhu cầu của dân. Vì thế biến cố này bao gồm hai bài học.

  1. Qua việc ban nước hằng sống, Thiên Chúa tỏ mình ra là Đấng cứu độ

“Ông Mô-sê đập cây gậy vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy tràn ra cho dân uống”. Đây không là một phép lạ từ hư không (ex nihilo). Chính Đức Giê-su cũng sẽ không thực hiện bất kỳ phép lạ từ hư không nào. Ngài luôn luôn sử dụng chất liệu tự nhiên: từ nước ở Ca-na, Ngài biến thành rượu; từ năm chiếc bánh và hai con cá Ngài nuôi một đám đông dân chúng. Cũng vậy trong trường hợp của ông Mô-sê, từ đá tảng Thiên Chúa cho nước mát trong chảy tràn ra cho dân chúng uống.

Cây gậy mà ông Mô-sê sử dụng là cây gậy mà Thiên Chúa đã ban cho ông để chiến thắng các cây gậy của các nhà phù thủy của Pha-ra-ô (Xh 7: 11-12). Việc cây gậy thần hay chiếc đũa thần làm nên những điềm thiêng dấu lạ chẳng có gì đáng ngạc nhiên đối với những chuyện tích nhân gian, nhưng điều quan trọng chính là Thiên Chúa, qua người đại diện của Ngài, cho thấy quyền năng của Ngài hơn các quyền năng của các vị thần linh Ai-cập, qua các vị pháp sư này. Thật ý nghĩa biết bao ở Ds 20: 7-8, câu chuyện này được đọc lại, thay vì cây gậy của ông Mô-sê, chính là “lời của ông” khiến nước phun ra từ tảng đá: “Đức Chúa phán với ông Mô-sê: ‘Hãy cầm lấy cây gậy, và cùng với A-ha-ron, anh ngươi, triệu tập cộng đồng lại. Trước mặt chúng, các ngươi sẽ nói với tảng đá và chúng sẽ cho nước…”.

Ân ban nước trong sa mạc Rơ-phi-đim được ghi trong sách Xuất Hành này là một hành động cứu độ. Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Vì thế, trong Kinh Thánh, “nước” không chỉ là một yếu tố tự nhiên đảm bảo sự sinh tồn, nhưng còn hổ trợ cho một chủ đề huyền nhiệm và biểu tượng: hình ảnh về sự sống tâm linh:

“Hai tay cầu Chúa giơ lên,

hồn con khát Chúa như miền đất khô” (Tv 143: 6)

hay:

“Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong,

hồn con cũng trong mong được gần Ngài, lạy Chúa” (Tv 42: 2).

Tảng đá phun trào nước mát trong cho dân chúng uống ở Rơ-phi-lim mặc lấy cũng một ý nghĩa này. Truyền thống này vang dội trong thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô: Cha ông chúng ta “cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô” (1Cr 10: 4).

 

  1. Kiên vững trong thử thách

Ông Mô-sê đã phải hứng chịu cơn thịnh nộ của dân chúng. Họ sợ hãi trước một cái chết thảm khốc: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?”. Đoạn, sự nghi nan ngờ vực trở thành lời nói phạm thượng: “Có Chúa ở giữa chúng tôi hay không?”.

Trước cuộc nổi loạn của dân chúng, ông Mô-sê sợ hãi kêu lên cùng Chúa: “Tôi phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ còn chút nữa là họ lấy đá ném chết tôi!”. Ông Mô-sê chấp nhận đánh cược niềm tin của mình; Thiên Chúa phục hồi uy tín cho ông trước mắt mọi người khi cho ông thực hiện ân ban của Ngài trước sự chứng kiến của một số kỳ mục mà ông dẫn theo đến tảng đá.

Chính nhờ niềm tin mà ông Mô-sê đã vượt qua cơn nguy khốn này. Ông tin rằng không gì mà Thiên Chúa không thể làm được. Hơn nữa, ông đặt trọn niềm tin tưởng vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng, bất chấp những cằn nhằn gây gổ của dân Ngài, đã không từ chối ra tay cứu giúp họ. Đức tin không thể tương hợp với sự tuyệt vọng.

Việc dân Do thái thách thức và cằn nhằn gây gổ ở Ma-xa và Mê-ri-ba được sách Đệ Nhị Luật nêu lên: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, như anh em đã thách thức ở Ma-xa” (Đnl 6: 16). Khi chịu thử thách trong hoang địa, Đức Giê-su đáp lại cơn cám dỗ thứ hai của Xa-tan cũng bằng chính những lời này: “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.” (Mt 4: 7).

 

BÀI ĐỌC II (Rm 5: 1-2, 5-8)

Thần học về ơn công chính hóa là phần cốt yếu của thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma. Trong phần đạo lý (1: 16-11: 36), thánh Phao-lô nói cho chúng ta biết rằng chúng ta được trở nên công chính nhờ tin vào Đức Ki-tô. Phần đạo lý này được khai triển thành hai phần: phần thứ nhất (1: 18-4: 25) trong đó thánh Phao-lô chứng minh rằng ơn công chính hóa đạt được nhờ đức tin và phần thứ hai (5: 1-11: 36) trong đó thánh nhân sẽ bàn đến những hoa trái mà ơn công chính hóa sản sinh ở nơi những ai được trở nên công chính.

Đoạn trích hôm nay là phần đầu chương 5, chương đóng chức năng như bản lề của phần đạo lý này. Trong các chương trước, thánh Phao-lô đã trình bày cho chúng ta biết rằng chúng ta được cứu độ và trở nên công chính nhờ đức tin chứ không nhờ công này việc nọ. Bây giờ thánh nhân tiếp tục giải thích những hoa trái của đời sống mới. Hoa quả đầu tiên là “sống hòa hợp với Thiên Chúa” và “niềm hy vọng vào vinh quang tương lai”.

 

  1. Sống hòa hợp với Thiên Chúa (5: 1-2)

Được trở nên công chính, con người lại có thể sống trong mối thân tình với Thiên Chúa. Tội lỗi kéo theo sự thù địch giữa con người với Thiên Chúa, trong khi ơn công chính hóa chấm dứt tình trạng thù địch này. Con người sống trong tình trạng giao hòa với Đấng Tạo Hóa của mình. Những mối liên hệ giữa thụ tạo và Tạo Hóa được bình thường hóa. Đức Giê-su Ki-tô là Đấng trung gian của cuộc sống hoà hợp này. Để nhắc lại vai trò trung gian của Đức Giê-su, thánh Phao-lô cậy nhờ đến hình ảnh tế tự. Như một người tiến vào cung thánh nhờ chu toàn vài điều kiện, cũng vậy, hiện nay Đức Giê-su, Đấng cứu độ chúng ta, mở lối cho chúng ta vào để chúng ta được vui hưởng ân sủng của Thiên Chúa.

Vì thế, ân sủng không gì khác hơn là hành động của Thiên Chúa, nhờ đó con người được thụ hưởng ân này đến ân khác. Con người chỉ có thể tự hào và hoan hỉ vì những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Cuộc sống hòa hợp với Thiên Chúa mà con người được thụ hưởng hôm nay bảo đảm cho họ rằng ngày mai họ sẽ dự phần vào vinh quang Thiên Chúa, vào chính cuộc sống của Thiên Chúa. Ân ban bình an là tham dự trước vinh quang thiên quốc, ân ban này là bảo chứng cho cuộc sống thần linh mà một ngày kia họ sẽ thụ hưởng viên mãn.

 

  1. Niềm hy vọng vào vinh quang tương lai (5: 5-8)

Thánh Phao-lô nêu lên hai lý do để khẳng định rằng niềm hy vọng vào vinh quang tương lai là có cơ sở vững chắc:

A -Ân ban Thánh Thần (5: 3-5)

Được công chính hóa, chúng ta không chỉ vui mừng vì đang được sống hòa hợp với Thiên Chúa và hy vọng về phần thưởng ngày mai, cho dù hiện nay phải gặp thấy niềm hoan hỉ trong những gian truân thử thách, vì “ai quen gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là người trung kiên, thì có quyền trông cậy” (5: 4). Điều quan trọng nhất chính là Thiên Chúa đang hoạt động để dẫn đưa chúng ta đến cứu cánh tối hậu mà Ngài dành sẵn cho chúng ta. “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”.

B -Hiến dâng Con Một của Người (5: 6-8)

Thánh Phao-lô nêu ra một bằng chứng khác để khẳng định rằng niềm cậy trông của chúng ta là có cơ sở vững chắc, đó là Đức Giê-su đã chết để cứu độ chúng ta. Tình yêu này còn lớn lao hơn, bởi vì thật khó gặp thấy một ai sẵn sàng hiến dâng mạng sống mình cho một người lương thiện, ấy vậy, Đức Giê-su đã chết cho chúng ta trong khi chúng ta còn là hạng phản nghịch cùng Thiên Chúa. Như vậy, không chỉ Chúa Con, nhưng cũng Chúa Cha đã bày tỏ tình yêu của mình trong cái chết của Đức Ki-tô.

 

TIN MỪNG (Ga 4: 5-42)

Phần mở đầu (4: 5-6) cho chúng ta biết cuộc hành trình của Đức Giê-su từ miền Giu-đê trở lại Ga-li-lê băng qua Sa-ma-ri, thời gian: “khoảng mười hai giờ trưa”, giờ nóng nhất trong ngày, và nơi diễn ra những cuộc đối thoại của Ngài với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri (4: 7-26), với các môn đệ Ngài (4: 27-38) và sau cùng với dân Sa-ma-ri (4: 39-42) là bên “giếng của ông Gia-cóp”.

 

  1. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri (4: 7-26)

Trong khi các môn đệ vào thành để mua thức ăn để Thầy lại một mình vừa đói vừa khát bên bờ giếng Gia-cóp, thì có một người phụ nữ xứ Sa-ma-ri đến múc nước. Vì thế, Ngài ngỏ lời xin chị: “Chị cho tôi xin chút nước uống” (4: 7), nhưng gặp phải phản ứng không mấy thuận lợi từ phía người phụ nữ qua câu trả lời của chị: “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?” (4: 9). Cuộc đối thoại khởi đi từ đó. Phải nhấn mạnh rằng cuộc đối thoại phát xuất từ sáng kiến của Đức Giê-su. Chính Ngài là người đầu tiên ngỏ lời bắt chuyện với người phụ nữ để dẫn chị vào trong mầu nhiệm của Ngài.

Trong cuộc đối thoại, những trao đổi giữa Đức Giê-su và người phụ nữ đề cập đến hai chủ đề quan trọng: nước hằng sống (4: 10-14) và thờ phượng đích thật (4: 20-26). Chen vào giữa hai chủ đề này là một cuộc trao đổi ngắn về đời tư của người phụ nữ (4: 15-19) như một nhịp cầu nối giữa hai chủ đề này.

A- Nước hằng sống (4: 10-14)

Trong câu trả lời của mình, người phụ nữ nêu lên hai lý do để từ chối nói chuyện với Đức Giê-su: trước hết, mối thù truyền kiếp giữa hai dân tộc này như lời giải thích của người kể chuyện: “Quả thế, người Do thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri” (4: 9); thứ nữa, phong tục tập quán vào thời ấy không cho phép người phụ nữ được nói chuyện với một người đàn ông, nhất ở nơi hoang vắng.

Nhưng Đức Giê-su muốn phá đổ bức tường ngăn cách giữa hai dân tộc này cũng như giữa nam và nữ, để mở ra cuộc đối thoại với chị: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người đang nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (4: 10). Đức Giê-su lợi dụng biểu tượng phong phú về “nước hằng sống” để chị có thể khám phá chân tính của Đấng không chỉ là ân huệ Thiên Chúa ban, nhưng còn là Thiên Chúa đích thân, Đấng đến từ trên cao (Ga 3: 3), từ trời (Ga 3: 31), nhờ đó chị có thể đón nhận lời của Ngài, lời ban sự sống.

Với câu trả lời này, vai trò của Đức Giê-su và của người phụ nữ đảo ngược: giếng ban nước mát trong vẫn ở đó, nhưng nhường chỗ cho sự hiện diện của Đức Giê-su, Đấng ban “nước hằng sống”. Cặp đối lập: “Ông, người Do thái” và “tôi, người phụ nữ Sa-ma-ri” vẫn còn đó, nhưng bị vượt qua bởi “Đấng hiện thân ân huệ Thiên Chúa”. Câu trả lời của Đức Giê-su ở thể điều kiện, nghĩa là lời đề nghị, hay lời mời gọi. Nếu chị chấp nhận điều kiện, lời hứa sẽ trở thành hiện thực.

Tuy nhiên, người phụ nữ chưa nắm bắt thực tại thần linh của biểu tượng, vì thế chị vẫn cứ bám vào thực tại vật chất của giếng Gia-cóp: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính người đã uống giếng nước này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy” (4: 11-12). Đây là phương pháp “ngộ nhận” của Tin Mừng Gioan được dùng hai lần: trong cuộc đối thoại với người phụ nữ về “nước hằng sống” và trong cuộc đối thoại với các môn đệ về “lương thực đích thật”. Điều này giúp cho Chúa Giê-su khai triển sâu xa hơn điều Ngài muốn người đối thoại đạt đến.

Vì thế, Chúa Giê-su xác định rõ ra sự khác biệt giữa nước mà giếng Gia-cóp ban cho và nước mà Ngài ban cho: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (4: 13-14). Trong câu 13 nói về nước mà giếng Gia-cóp ban cho, kiểu nói: “Ai uống nước này, sẽ lại khát” đã được sách Huấn Ca sử dụng: “Ai ăn Ta sẽ còn đói, ai uống Ta sẽ còn khát” (Hc 24: 21) để diễn tả người nào đã nếm lời Khôn Ngoan, sẽ ao ước được nếm mãi không thôi. Trong câu 14a nói về nước mà Ngài ban cho, kiểu nói: “Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” đã được ngôn sứ I-sai-a sử dụng: “Họ sẽ không còn đói và khát nữa” (Is 49: 10-13) để loan báo thời thiên sai và hoàn vũ. Như vậy Đức Giê-su khẳng định rằng nước mà Ngài ban cho không thuộc trật tự vật chất, nhưng thuộc trật tự biểu tượng: Ngài tỏ mình ra như “ân huệ” tuyệt mức mà Thiên Chúa ban cho con người (Ga 3: 16-17). Khi gặp gỡ Ngài, người ta không đơn giản gặp bậc tôn sư dạy những lời khôn ngoan xuất phát từ Mặc Khải, nhưng chính nguồn Mặc Khải. Đức Giê-su là hiện thân Mặc Khải (Ga1: 14). Đó là lý do tại sao Ngài mời người đối thoại hãy tiếp nhận và sở hữu lời Ngài để lời Ngài trở nên nguồn sống đời đời trong lòng của mình: “Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (4: 14b).

 

B -Đời tư của người phụ nữ (4: 15-18)

Chủ đề “nước hằng sống” xem ra đến hồi kết thúc với lời đáp trả của chị: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (4: 15). Như vậy, với lời đáp trả này, chị chấp nhận một sự hoán chuyển vai trò giữa “người xin” và “người cho” như lời đề nghị của Chúa Giê-su ngay từ đầu câu chuyện (3: 10). Nhưng rõ ràng người phụ nữ này chưa đạt đến niềm tin vào Ngài như Chúa Giê-su muốn, vì thế Ngài muốn câu chuyện được tiếp tục để dẫn chị đi xa hơn nữa.

Để thoát khỏi thế bế tắc, Đức Giê-su chứng tỏ cho chị thấy là Ngài biết mọi điều ẩn kín về chị như Ngài đã làm đối với ông Na-tha-na-en. Cho dù đã không đạt được lời tuyên xưng tròn đầy như Na-tha-na-en (1: 49), chị nhận ra rằng người biết đời tư của chị phải là một ngôn sứ. Khởi đi từ đó, chị bắt đầu cởi mở tấm lòng mình cho Ngài. Như vậy phân đoạn này đóng vai trò chuyển tiếp giữa chủ đề “nước hằng sống” đi trước và chủ đề “thờ phượng đích thật” theo sau.

 

C -Thờ phượng đích thật (4: 19-26)

Từ đó, người phụ nữ Sa-ma-ri nêu lên với Ngài một vấn đề then chốt, một vấn đề ám ảnh tâm thức tôn giáo của chị: chân lý thuộc về phía nào, về phía tín đồ phụng thờ Thiên Chúa ở đền thờ Ga-ri-zim hay về phía tín đồ phụng thờ Ngài ở đền thờ Giê-ru-sa-lem? Câu trả lời của Chúa Giê-su không là người này hay kẻ kia, “nhưng đến giờ – và chính là lúc này – những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha theo thần khí và sự thật” (4: 23).

Cụm từ “thần khí và sự thật” theo “kiểu thế đôi” đặc trưng của Tin Mừng Gioan theo đó chữ thứ hai bổ túc cho chữ thứ nhất, vì thế phải được hiểu là “Thần Khí sự thật”, tức là Đấng mà Đức Giê-su sẽ nói với các môn đệ trong bữa Tiệc Ly (Ga 14: 17; 15: 26; 16: 13) và là Đấng mà Ngài sẽ hứa ban cho họ sau khi Ngài sống lại (Ga 7 : 37-39 ; 20: 22). Như vậy, thờ phượng đích thật là thờ phượng được nuôi dưỡng bằng Mặc Khải của Đức Giê-su dưới tác động của Thần Khí sự thật, Đấng “sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (14 : 26) và “sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (16 : 13). Tác động của Thần khí sự thật cốt là làm cho sự thật của Đức Giê-su hiện diện trong chúng ta và giúp chúng ta hiểu biết đích thật về Ngài. Vì thế, thờ phượng đích thật không còn quy chiếu đến một đền thờ do người phàm xây dựng, nhưng đến Mặc Khải của Chúa Giê-su dưới tác động của Chúa Thánh Thần, qua đó Chúa Cha bày tỏ tận mức tình yêu của Ngài cho nhân loại. Đó sẽ là thờ phượng đích thật, nét đặc trưng của thời đại mới.

Trên bình diện cấu trúc và ngữ nghĩa, câu trả lời của người phụ nữ: “tôi biết” ở 4:25 là lời đáp trả tương ứng với lời đề nghị của Đức Giê-su ngay đầu câu chuyện: “nếu chị biết” ở 4:10.  Như vậy cuộc đối thoại khởi đi từ lời mời gọi khám phá chân tính của “Đấng đang nói với chị” (4:10) và hoàn tất ở nơi việc Ngài tự mặc khải mình ra: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (4: 26).

 

  1. Cuộc nói chuyện của Đức Giê-su với các môn đệ (4: 31-38)

Có một cuộc hoán chuyển vai trò của những người đối thoại với Chúa Giê-su. Trước đó, các môn đệ đi vào thành phố mua thức ăn để nhường không gian và thời gian cho người phụ nữ Sa-ma-ri từ thành phố đến múc nước bước vào cuộc đối thoại với Chúa Giê-su. Bây giờ, người phụ nữ Sa-ma-ri trở về thành phố để nhường không gian và thời gian cho các môn đệ từ thành phố trở về bước vào cuộc đối thoại với Thầy.

Ở giữa lòng lịch sử niềm tin của dân Sa-ma-ri xảy ra một cuộc đối thoại của Đức Giê-su với các môn đệ của Ngài (4: 31-38). Cuộc đối thoại này là dịp để Đức Giê-su giải thích không chỉ cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri và việc dân Sa-ma-ri đến với Ngài, nhưng cũng sứ mạng của Ngài và sứ mạng của các môn đệ Ngài. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với các môn đệ được dàn dựng như bức tranh bộ đôi: ở tiền cảnh, dân Sa-ma-ri đang trên đường đến với Ngài vì lời loan báo của người phụ nữ, trong khi ở hậu cảnh, Đức Giê-su vẫn ngồi bên bờ giếng và nói chuyện với các môn đệ về ý nghĩa của những gì đã và đang xảy ra.

Trong cuộc đối thoại, những trao đổi giữa Đức Giê-su với các môn đệ đề cập đến hai chủ đề quan trọng: “lương thực” (4: 31-34) và “sứ vụ” (4: 37-38). Chen vào giữa hai chủ đề này là một cuộc trao đổi ngắn về “mùa gặt” (4: 35-36) như một nhịp cầu nối giữa hai chủ đề này.

 

A -Lương thực (4: 31-34)

Chủ đề “lương thực” là một bước tiến giúp hiểu mầu nhiệm của Đức Giê-su so với chủ đề “nước hằng sống” trước đó. Người phụ nữ Sa-ma-ri đã ngộ nhận ý nghĩa “nước hằng sống” mà Đức Giê-su nói với chị như thế nào, thì các môn đệ ngộ nhận ý nghĩa “lương thực” mà Chúa nói với họ cũng như thế khi họ hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?” (4: 33).

Theo Tin Mừng Nhất Lãm, Đức Giê-su đã đáp trả Tên Thử Thách muốn khai thác cái đói vật chất của Ngài trong hoang địa: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra” (Mt 4: 4), theo đó lương thực nuôi sống Đức Giê-su không chỉ cơm bánh vật chất nhưng còn là Lời Thiên Chúa. Theo Tin Mừng Gioan, lời đáp trả của Ngài còn triệt để hơn: lương thực duy nhất nuôi sống Ngài là “thực hiện ý muốn của Cha, chính là hoàn tất công trình của Người” (4: 34).

Khi đối chiếu lời đáp trả của Đức Giê-su ở đây: “Thực hiện ý muốn của Cha, chính là hoàn tất công trình của Người” (4: 34) với lời nguyện hiến tế của Ngài: “Phần con, con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao phó cho con làm” (17: 4) và với lời nói sau cùng của Ngài trên thập giá: “Thế là đã hoàn tất”(19: 30), các nhà chú giải đều nhận định rằng “công việc” mà trọn cuộc đời Đức Giê-su theo đuổi trên trần gian cho đến khi “hoàn tất” đó là kế hoạch cứu độ mà Chúa Cha đã khởi xướng. Nói cách khác, ý muốn của Chúa Cha được hoàn thành ở nơi công trình của Chúa Con, như Chúa Giê-su nói với người Do thái: “Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng tin các việc đó. Như vậy các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng: Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha” (11: 37-38). Như vậy, “thực hiện ý muốn của Cha” không cốt chỉ thực hiện một sứ vụ đúng thời đúng buổi, nhưng theo đuổi trọn một cuộc đời cho đến lúc hoàn tất trên Thập Giá.

 

B -Mùa gặt (3: 35-36)

Đức Giê-su dùng hình ảnh “lương thực” để diễn tả sứ mạng của Ngài hiệp nhất với ý muốn của Cha Ngài cho đến mức cả hai nên một lòng một ý. Những câu tiếp theo (4: 35-36) sẽ soi sáng sứ mạng của Ngài bằng hình ảnh khác, hình ảnh “mùa gặt”.

Mới nhìn thoáng qua, có một mối liên hệ giữa hình ảnh “lương thực” và hình ảnh “mùa gặt”. Nếu lương thực là thành quả của mùa gặt, thì mùa gặt là thời gian sau cùng của một tiến trình khởi đi từ gieo giống. Tương tự như vậy, công việc của mỗi vụ mùa bắt đầu với “người gieo” và hoàn tất với “người gặt”.

Đức Giê-su lưu ý các môn đệ: “Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt sao?” (4: 35), lời này rõ ràng ám chỉ đến mùa gặt chưa đến, vì câu trả lời được mong đợi phải là: “Vâng, còn bốn tháng nữa sẽ đến mùa gặt”. Quả thật, đây là khoảng thời gian giữa “gieo” và “gặt” ở miền đất Pa-lét-tin (Am 4: 7). Nhưng lời mời gọi tiếp theo: “Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!” (4: 35) đưa các môn đệ vào bình diện khác, từ bình diện mùa gặt vật chất sang bình diện mùa gặt biểu tượng, theo đó mùa gặt không còn phải đợi cho đến bốn tháng nữa. Đức Giê-su chỉ cho các môn đệ cánh đồng lúa chung quanh còn bốn tháng nữa sẽ đến mùa gặt để mời gọi họ vươn tầm nhìn cao hơn: đồng lúa chín vàng đang chờ ngày thu hoạch đó chính là dân Sa-ma-ri đang trên đường đến với Ngài.

Trong khi truyền thống Nhất Lãm nhấn mạnh mùa gặt dưới khía cạnh án phạt: “Đến ngày mùa, tôi sẽ bảo thợ gặt: hãy gom cỏ lùng lại, bó thành bó mà đốt đi, còn lúa, thì hãy thu vào kho lẫm cho tôi” (Mt 13: 30, 40), thì Tin Mừng Gioan nhấn mạnh mùa gặt dưới khía cạnh niềm vui: “Cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng” (Ga 4: 36b). Truyền thống Cựu Ước cũng loan báo rồi vào thời Thiên Sai không còn khoảng cách giữa người gieo với kẻ gặt: “Này đây sắp đến những ngày thợ cày nối gót thợ gặt, kẻ đạp nho tiếp nối bước người gieo giống” (Am 9: 13; Lv 26: 5). Trong bối cảnh cuộc gặp gỡ của Đức Giê-su với dân Sa-ma-ri, chúng ta có thể nghĩ rằng Đức Giê-su ám chỉ đến cuộc quy tụ của dân Sa-ma-ri chung quanh Ngài như niềm vui của mùa gặt thời Thiên Sai (4: 39-42).

 

C -Sứ vụ (4: 37-38)

Xét về phương diện hình thức, có một sự liên tục giữa đề tài mùa gặt đi trước (4: 35-36) và đề tài sứ vụ theo sau (4: 37-38). Trước hết, liên từ: “Thật vậy” ở đầu câu 37 tiêu biểu Tin Mừng Gioan, khẳng định những điều đi trước, đồng thời khai triển những điều theo sau như nhân với quả (x. Ga 9: 30; 13: 35; 15: 8). Quả thật, qua câu tục ngữ: “kẻ này gieo, người kia gặt”, việc sai các môn đệ ra đi thi hành sứ vụ như những thợ gặt khai thác cùng một hình ảnh “mùa gặt” trước đây. Nhưng nếu 4: 36b hiệp nhất “cả người gieo lẫn kẻ gặt”, thì 4: 37 lại phân biệt “kẻ này gieo, người kia gặt”.

Chính trên nền tảng của sự phân biệt này mà chủ đề sứ vụ của các môn đệ như những thợ gặt được khai triển: “Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ” (4: 38). Câu nói trầm buồn này ám chỉ cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài. Nhờ sự nhọc mệt vất vả của Ngài, mùa thu hoạch sẽ là ơn cứu độ cho con người. Như vậy, cuộc Khổ Nạn của Đức Ki-tô đóng khung toàn bộ câu chuyện lớn lao này: cái khát của Ngài bên bờ giếng Gia-cóp loan báo một cái khát khác: “Ta khát” (Ga 19: 28) trên thập giá. Chính vì mùa gặt này mà Ngài sẽ sai các môn đệ Ngài đi gặt những gì Ngài gieo bằng cuộc sống vắt cạn của mình.

 

  1. Cuộc gặp gỡ của dân Sa-ma-ri với Đức Giê-su (4 : 39-42)

Lời chứng của người phụ nữ làm xôn xao dân Sa-ma-ri và thúc dục họ lên đường đích thân đến với Đức Giê-su, xin Ngài ở lại với họ, và Ngài đã chấp nhận ở lại với họ hai ngày.

Dù khởi điểm niềm tin của họ xuất phát từ lời chứng của người phụ nữ, tuy nhiên niềm tin của họ không dừng lại nhưng vượt qua lời chứng này: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (4: 42).  Do đâu mà dân Sa-ma-ri đạt đến một niềm tin sâu xa như vậy, nếu không phải là họ đã lợi dụng hai ngày Đức Giê-su ở lại với họ để đích gặp gỡ và đối thoại với Ngài? Nếu thế, đức tin của họ không còn dựa trên lời chứng của người phụ nữ, nhưng trên kinh nghiệm cá nhân của mình trong cuộc gặp gỡ và đối thoại với Đức Ki-tô. Lúc đó, sự kiện “Dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày” (4: 40) phải là trọng tâm của câu chuyện giữa Chúa Giê-su và dân Sa-ma-ri.

Thật kỳ diệu, “Đấng Cứu Độ xuất thân từ dân Do thái” được người Sa-ma-ri đón tiếp một cách nồng hậu và được tuyên xưng là “Đấng cứu độ trần gian”, tức là Đấng vượt lên trên tất cả mọi xung đột chủng tộc, văn hóa và tôn giáo. Sự nghịch lý này vang dội ngay ở đầu Tin Mừng:

“Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.

Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,

thì Người cho họ quyền trở thành con Thiên Chúa” (Ga 1 : 11-12).

Thánh ký kết thúc câu chuyện của mình bằng cách gợi lên tước hiệu mà dân Sa-ma-ri ban cho Ngài: “Đấng cứu độ trần gian”. Quả thật, thánh Gio-an là thánh ký duy nhất sử dụng tước hiệu này. Toàn bộ câu chuyện nhận được ý nghĩa sâu xa của nó: loan báo chiều kích hoàn vũ của ơn cứu độ.

Vài nhà chú giải vạch ra một sự đối xứng đáng ngạc nhiên giữa bài tường thuật về sứ vụ của Đức Giê-su ở Sa-ma-ri và bài trình thuật về cuộc Tử Nạn của Ngài trong Tin Mừng Gioan. Quả thật, cả hai đều kể ra thân xác mệt mỏi của Ngài, cơn khát của Ngài và sự hoàn tất công việc của Ngài. Từ đó, họ nghĩ rằng có một mối liên hệ giữa công trình truyền giáo mà Đức Giê-su thực hiện ở Sa-ma-ri, ở đó, Ngài được tuyên xưng là “Đấng Cứu Độ trần gian” và công trình cứu độ thế giới mà Ngài thực hiện trên thập giá; nghĩa là giữa thời gian mặc khải Đấng cứu độ trần gian và thời gian thực hiện ơn cứu độ cho trần gian. Lúc đó, “mười hai giờ trưa” ở trong câu chuyện này ám chỉ đến “mười hai giờ trưa” trong 19: 14, giờ siêu thăng, giờ ban Thánh Thần, giờ sinh ra Giáo Hội.

 

52.             Cuộc gặp gỡ bất ngờ – Lm. FX. Vũ Phan Long

1.- Ngữ cảnh

Trong cuộc chuyện trò với Nicôđêmô, tác giả Gioan đã mô tả cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với mộtđại diện của giai cấp cầm quyền Do Thái. Hoạt cảnh tiếp theo có nội dung là cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với mộtngười phụ nữ Samari. Người Do Thái và người Samari sống những tương quan căng thẳng. Người Samari coi mình là hậu duệ của các tổ phụ (x. Ga 4,12.20) và là số sót của Israel, vì Bắc quốc đã bị người Átsua tiêu diệt vào năm 722 tCN. Thiên Chúa của họ là Đức Chúa (Yhwh), là Thiên Chúa của Israel. Họ chỉ chấp nhận năm cuốn sách của Môsê (= Ngũ Thư). Người Do Thái Giêrusalem coi họ như là mộtdân tộc hỗn hợp bán ngoại giáo (x. 2 V 17,24-41), nên đã cấm họ không được tham gia vào việc tái thiết Đền Thờ sau Lưu đày (x. Er 4,1-24), và lại còn ghét họ thậm tệ mà coi họ như là dân ngu ngốc sống tại Sikhem (Hc 50,26).

Đức Giêsu không để mình bị ảnh hưởng bởi những kiểu đánh giá như thế. Người đã đón tiếp vị đại diện của Thượng Hội Đồng đã lén đến gặp Người ban đêm như đi gặp một vị tôn sư. Bây giờ Người ngỏ lời với mộtphụ nữ Samari, có lối sống dường như nước đôi (x. 4,17-18), mà Người tình cờ gặp lúc giữa trưa. Trong cả hai trường hợp, Đức Giêsu đều ý thức Người chu toàn nhiệm vụ Chúa Cha giao phó (x. 4,34); trong cả hai trường hợp, Người đều muốn chỉ cho thấy con đường đưa tới sự sống.

2.- Bố cục

Bản văn có thể được chia thành ba phần:

1) Mở (4,1-3);

2) Cuộc gặp gỡ với người phụ nữ (4,4-38):

  1. a) Khung cảnh và các nhân vật (cc. 4-6),
  2. b) Cuộc đối thoại với người phụ nữ (cc. 7-26):

– Lời xin nước và ân ban nước hằng sống (cc. 7-15),

– Mạc khải về phụng tự chân thật (cc. 16-26),

+ Các người chồng (cc. 16-18),

+ “Nếu ông là một ngôn sứ” (c. 19),

+ Nền phụng tự mới (cc. 20-26: 20-24; 25-26),

  1. c) Đối thoại với các môn đệ (cc. 27-38),

3) Gặp gỡ với dân Samari (4,39-42).

3.- Vài điểm chú giải

– Người phải băng qua (4): Edei (thì vị hoàn của dei), “phải”, diễn tả một điều nằm trong ý muốn hoặc chương trình của Thiên Chúa.

– Xykha … Giacóp (5): Đa số các thủ bản chép là “Xykha” (Sychar). Trong thực tế, trong miền Samari, không có thành Xykha, mà chỉ có Sêkhem (Shechem) thôi. Có lẽ chữ Shechem đã bị đọc lầm thành Sychar do vần ar trong Samari. Về liên hệ giữa Giacóp và Shechem, xin đọc St 33,18; 48,22; Gs 24,32.

– Người Do Thái… người Samari (9): Người Samari là con cháu của hai nhóm: 1) Những người Israel không phải đi lưu đày khi Vương quốc phía Bắc sụp đổ vào năm 722 tCN. 2) Những người thực dân xứ Babylon và Mêđia do các đoàn quân xâm lăng Átsua đưa vào (x. 2 V 17,24tt).

Có một sự đối lập về thần học giữa những người Do Thái phía Bắc này và người Do Thái phía Nam, bởi vì người Samari không chịu thờ phượng Thiên Chúa tại Giêrusalem. Tình trạng này thêm trầm trọng vì người Samari đã gây khó khăn cho người Do Thái hồi hương trong việc tái thiết Đền Thờ Giêrusalem, rồi đến thế kỷ ii tCN, người Samari lại giúp các vua Syri trong các cuộc chiến chống người Do Thái. Vào năm 128 tCN, thượng tế Do Thái đã đốt Đền Thờ Samari trên núi Garidim. Đối với người Do Thái, dân Samari là dân ô uế.

– Người ấy ban cho chị nước hằng sống… Vậy Người lấy đâu ra nước hằng sống (10-11): Trong Ga, chúng ta thường gặp tình trạng các người đối thoại với Đức Giêsu hiểu lầm những công thức Người dùng, ví dụ ở đây, hai công thức “nước hằng sống” trên môi Đức Giêsu và trên môi người phụ nữ không cùng một ý nghĩa. Tác giả dùng kiểu viết đó để trình bày mạc khải của Đức Giêsu về bản thân Người.

– Giếng (cc. 6.11): Trong c. 6, “cái giếng” là pêgê (HL), trong c. 11, “cái giếng” là phrear (HL). Trong bản Cựu Ước Hy Lạp (= Bản LXX), pêgê và phrear có nghĩa gần như nhau, nhưng phrear thì gần với nghĩa là “giếng nước”, còn pêgê thì gần với nghĩa là “mạch/suối nước”. Ý nghĩa là: Lúc đầu, khi nói về nước tự nhiên của giếng Giacóp, tác giả chưa phân biệt; bây giờ, khi câu chuyện chuyển sang đề tài nước hằng sống của Đức Giêsu, tác giả mới phân biệt: Đức Giêsu bây giờ là mạch nước (pêgê; Người sẽ chính thức tuyên bố như thế ở c. 14), còn giếng Giacóp chỉ là một “cái giếng” thôi (phrear).

– Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Giacóp (12): Đây là một ví dụ về nét hài hước trong Ga: các nhân vật vô tình nói ra sự thật về Đức Giêsu.

– Thưa Ngài (cc. 11.15.19): Ba lần, bản văn Hy Lạp cho thấy người phụ nữ gọi Đức Giêsu là Kyrios (sir, lord; seigneur). Cùng một kiểu xưng hô, nhưng chúng ta hiểu là có một sự chuyển biến về ý nghĩa vì người phụ nữ thưa với thái độ càng lúc càng tôn kính hơn.

– Núi này (21): x. Đnl 27,4. Đây là núi Garidim. Trong Bản Ngũ Thư Samari, ở Đnl 27,4, chúng ta đọc được huấn thị ban cho Giôsuê là dựng một thánh điện trên núi Garidim, núi thánh của người Samari, chứ không phải trên núi Êvan. Cụm từ “Núi Êvan” rất có thể đã được sửa lại trong bản văn Híp-ri do chủ trương chống Samari.

– Thần khí và sự thật (24): tức là Thánh Thần và Đức Giêsu (là sự thật).

– Đấng ấy chính là tôi (26): Đây là công thức bằng tiếng Hy Lạp egô eimi (I am; Je suis). Công thức này là chính danh xưng Thiên Chúa tỏ cho Môsê. Tác giả muốn ngầm giới thiệu thần tính của Đức Giêsu.

4.- Ýnghĩa của bản văn

Bản văn được bố cục thành những “xen” qua đó Đức Giêsu đối thoại với người phụ nữ và các môn đệ để đưa họ đến chỗ đón nhận những mạc khải chính yếu về bản thân Người.

* Mở (1-3)

Chương 4 của TM Ga mở đầu bằng một đoạn văn tóm tắt có vai trò “làm cầu” nối [vì liên kết] 3,22-36 với [vì chuẩn bị cho] 4,4-42. Đoạn Ga 4,1-4 này thông tin cho chúng ta về Đức Giêsu và các môn đệ Người, và về phép rửa mà Người đã làm. Hoạt động này của Đức Giêsu và nhóm của Người dường như diễn tiến song song với hoạt động của Gioan và các môn đệ ông.

Các câu 1-2 nói với chúng ta một lần nữa rằng Đức Giêsu đã làm phép rửa cùng với các môn đệ Người (x. Ga 3,22), rồi nhờ một mệnh đề xen vào giữa, chúng ta biết rằng chính các môn đệ đã làm phép rửa, đồng thời, bản văn cho biết là Đức Giêsu cũng biết việc ấy.

Sang c. 3, bản văn xác định rằng Đức Giêsu bỏ miền Giuđê, mà trở lại miền Galilê.

* Cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samari (4-42)

  1. a) Khung cảnh và các nhân vật (cc. 4-6),

Để trở lại miền Galilê, Đức Giêsu phải băng qua miền Samari. Không phải là Đức Giêsu và các môn đệ không còn cách nào khác ngoài cách băng qua Samari, một miền đất nổi tiếng là không hiếu khách (x. Lc 9,51-56). Sự bó buộc này (“phải”, edei) mang tính thần học và thiêng liêng, vì thuộc về chương trình của Thiên Chúa, sẽ tạo cơ hội cho cuộc gặp gỡ.

Đến đây chúng ta được giới thiệu khung cảnh của cuộc gặp gỡ: bên cạnh giếng Giacóp, trong thửa đất mà Giacóp đã cho con là Giuse. Với chi tiết này, tác giả đưa ta trở lại với bài anh hùng ca là lịch sử các tổ phụ và đặc biệt của tổ phụ Giacóp. Tác giả TM IV đã đối chiếu Đức Giêsu với Giacóp trong giai thoại Nathanaen, khi ngài nói đến các thiên thần lên xuống trên Con Người, tức là gợi đến thị kiến của Giacóp. Thế rồi truyện Giacóp lại được đặt liên kết với truyện Giuse, từ nơi ông mọi phúc lành đến với nhà Israel. Cả câu “Người nói gì, các anh cứ việc làm theo” được Đức Maria nói ở Cana (Ga 2,5b) cũng liên kết với truyện Giuse. Vậy tác giả muốn liên kết Đức Giêsu cả với cuộc đời Giacóp lẫn cuộc đời Giuse và với những gì làm nên ý nghĩa của vai trò Giuse trong lịch sử Israel. Đức Giêsu là Đấng ban lương thực, Đấng cho người đói ăn no, và vì đói luôn đi với khát, Người cũng là Đấng giải khát, như đã xảy ra trước đây với Giacóp rồi với Giuse. Phải chăng ở đây chúng ta còn gặp lại đề tài những cuộc hôn nhân phát sinh từ bên một bờ giếng?

Và hai nhân vật chính là Đức Giêsu và người phụ nữ Samari xuất hiện, trong khi các môn đệ đã đi vào thành mua thức ăn.

Đức Giêsu đến ngồi ngay xuống bờ giếng, vì mệt mỏi. TM IV nhắc đến sự mệt mỏi của Đức Giêsu (khác với quan niệm của ảo thân thuyết hay của phái ngộ đạo). Người không phải chỉ là Thiên Chúa, mà cũng còn là một người thật, và vì thế, đôi lúc Người cảm thấy mệt nhọc. Xa hơn một chút, nhân tính Người còn được nêu bật thêm một lần nữa khi tác giả viết rằng Người cảm thấy sức nóng nực của lúc giữa trưa và cần uống nước (x. cc. 6 và 7). Nhu cầu này khiến Người xin nước với người nào xuất hiện đầu tiên, và đây là một phụ nữ Samari (Ga 4,7-15), bà này có lẽ vẫn quen đi kín nước tại giếng này.

  1. b) Cuộc đối thoại với người phụ nữ (cc. 7-26)

Người phụ nữ vừa đến nơi, liền xảy ra cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và bà ấy, Trong mẩu đối thoại, sẽ xuất hiện chuyển động này: các nhân vật đi từ nhu cầu thể lý (của Đức Giêsu), để đi tới cơn khát thiêng liêng (của người phụ nữ), cơn khát duy nhất có thể giải tỏa tình trạng khao khát của thân phận con người. Nhu cầu hoặc các nhu cầu tự nhiên luôn luôn có đó để ta phải tìm thỏa mãn, nhưng không đến độ bóp nghẹt ước vọng sâu xa của con người.

– Lời xin nước và ân ban nước hằng sống (cc. 7-15). Trong phân đoạn cc. 7-15, chúng ta gặp được một mạc khải về nước hằng sống. Khi thấy người phụ nữ, Đức Giêsu liền xin uống. Người đang ở một mình, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn (c. 8), nên Người không thể xin các ông đáp ứng nhu cầu.

Có lẽ do nghe giọng nói của Đức Giêsu, người phụ nữ biết rằng Người không phải là dân địa phương, nên đã cao giọng đưa ra mấy nhận xét tiêu cực. Làm sao Người lại dám xin điều gì với một người Samari? Chẳng lẽ Người lại không biết tập tục cấm một người đàn ông nói chuyện một mình với một người đàn bà lạ mặt? Các kinh sư thường dạy rằng nếu ai cần xin một phụ nữ điều gì, thì phải nói thật ít. Do đó, chúng ta hiểu nỗi ngạc nhiên của các môn đệ, khi trở về, thấy Đức Giêsu đang trò chuyện với một người phụ nữ và lại là một phụ nữ Samari.

Cũng như trong truyện Nicôđêmô, ở đây cơn khát của Đức Giêsu tạo dịp cho Người đối thoại, nhưng hoàn cảnh đầy những dị nghĩa khiến cuộc đối thoại có thể bị phá vỡ. Quả thế, câu nói của người phụ nữ: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” (c. 9) lẽ ra đã bắt Đức Giêsu phải thinh lặng. Nhưng Đức Giêsu lại có sáng kiến bỏ qua cuộc tranh luận về các quy luật xã hội tôn giáo dựa trên những đối lập hỗ tương có từ bao đời. Các đối lập ấy không bao giờ là tiếng nói cuối cùng cho các tương quan giữa con người với nhau.

Thoạt tiên, câu trả lời của Đức Giêsu: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống” (c. 10), dường như muốn nhắc bà nhớ đến truyền thống hiếu khách của dân Địa Trung Hải: giúp đỡ tận tình bất cứ người lữ khách nào. Thế nhưng Đức Giêsu còn nhắm một đề tài lớn hơn. Từ c. 10 đến c. 15, có một mẩu đối thoại nhỏ xoay quanh đề tài “nước/ân ban”. Bằng cách đó, Người muốn lôi kéo sự chú ý của người phụ nữ vào điểm mà lẽ ra bà phải hiểu, nghĩa là lẽ ra bà không được lẫn lộn hai yếu tố: một bên là nước cụ thể và vật chất, và bên kia là nước hằng sống, ân ban hoàn toàn đặc biệt bây giờ được trao tặng.

Từ c. 10, nổi rõ là “nước” mà Đức Giêsu nói đến thì cao trọng hơn là nước thiên nhiên, nước kín từ giếng lên. Còn phải hiểu ngầm một điều song song khác, đó là nước mà Đức Giêsu hứa ban thì cao trọng hơn nước các tổ phụ đã ban; như vậy, mạc khải của Đức Giêsu về phẩm chất, thì cao trọng hơn mạc khải của các tổ phụ (như pêgê so với phrear). Ta thấy rõ trên bình diện biểu tượng, trọn con đường mà người phụ nữ phải trải qua: khởi đi từ cái giếng Giacóp (x. St 24), bà phải đi lên tới tận nguồn nước hằng sống, là chính Đức Giêsu. Đây hầu như là lời loan báo chương trình mà bài tường thuật sẽ phải rảo qua. Bởi vì người đàn bà có thể thực hiện bước ấy, Đức Giêsu mới đề nghị cho bà nước hằng sống (Ga 4,10).

Đã mơ hồ linh cảm người đang đối thoại với mình là một người khác thường, người phụ nữ không quay về điều được nói đến nữa, nhưng quay về người đã xin bà cho uống, và bây giờ lại tỏ ra sẵn sàng ban cho bà nước hằng sống. Bà hỏi (c. 11), y như thể muốn nói với giọng mỉa mai rằng: “Ông tưởng ông là ai chứ? Ông không có gầu để kín nước mà giếng lại sâu, thế mà ông lại đề nghị như thế?” Rồi bà tiếp: “Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Giacóp, là người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu…”.

Một lần nữa, cuộc gặp gỡ có thể bị phá hỏng, bởi vì đề nghị của Đức Giêsu đã không được đón nhận. Nhưng Đức Giêsu kiên nhẫn tiếp tục. Người tìm cách gợi lên nơi bà khát vọng chân thật sẽ đưa bà đến chỗ quay hướng về Người, như quay về với Đấng duy nhất có thể thỏa mãn điều bà đang đi tìm. Vậy điều đầu tiên là làm cho bà hiểu rằng có hai loại nước: loại thứ nhất là nước tự nhiên của giếng, không thể làm cho hết khát, và loại thứ hai, nước mà Người sẽ ban, sẽ giải khát hoàn toàn. Hơn nữa, loại nước thứ hai còn biến kẻ uống thành một mạch nước trào dâng. Đàng khác, Đức Giêsu muốn đưa bà chuyển đi từ ân ban đơn giản hoặc ân ban của Thiên Chúa đến Đấng ban ơn, là chính Người. Ở c. 15, người phụ nữ đã đưa một bước chân về phía Đức Giêsu, nhưng đồng thời lại kéo mọi sự về bình diện của bà, về các nhu cầu trực tiếp của bà, điều đó chứng tỏ bà chưa hiểu gì cả. Thứ nước bà ấy mong có không phải là thứ mà Đức Giêsu muốn ban cho bà.

Mặc dù lại gặp một thất bại thứ hai, Đức Giêsu không nản lòng, không dừng lại, Người vẫn tiếp tục bằng cách dựa trên sự mở lòng nửa vời của người đàn bà.

– Mạc khải về nền phụng tự chân thật (cc. 16-26). Cuộc đối thoại lại chuyển sang một hướng khác hẳn. Không úp mở, Đức Giêsu bảo bà đi gọi chồng lại đây. Qua câu nói này, Đức Giêsu nắm lại phần chủ động trong đối thoại. Bà đã thú nhận không mập mờ rằng bà không có chồng. Đức Giêsu trân trọng sự chân thành đó. Nhưng Người cho bà thấy khả năng hiểu biết đặc biệt của Người khi nói rằng rằng bà đã có năm đời chồng. Đã thế, Người còn nói: “Hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị”. Nếu nói Đức Giêsu đã cư xử thiếu tế nhị và lịch sự, là chúng ta phán đoán với các tiêu chí của chúng ta hôm nay. Thật ra, khi nói như thế, Đức Giêsu đã cư xử như các ngôn sứ Cựu Ước, có khả năng đọc trong tim người đối thoại (x. Êlisa).

Người phụ nữ không mất tinh thần. Bà nhận ra chiều kích ngôn sứ này. Đây không phải là một cuộc xưng thú tội lỗi ép buộc, nhưng là một bước đi tới sự thật, nhờ đó người phụ nữ cảm thấy được giải thoát khỏi quá khứ của bà. Sự thật và sự rõ ràng của cuộc gặp gỡ đòi hỏi sự trong suốt này. Bây giờ bà hướng về hiện tại và tương lai một cách mới mẻ, và hậu quả là bà tuyên xưng Đức Giêsu là một ngôn sứ. Ở đây có hai chuyển động đồng thời: một đàng, người phụ nữ xưng thú tình cảnh thực tế của mình; đàng khác, việc xưng thú này giúp bà nhận biết chân tính của Đức Giêsu. Như vậy, bà đã thực sự chuyển sang một bình diện khác và bắt đầu nhìn các sự việc dưới một góc độ mới. Một mẩu đối thoại về nền phụng tự chân thật đã sẵn sàng được mở ra.

Cuộc đối thoại tiến sang một giai đoạn mới nữa. Người phụ nữ đi tới một bình diện hiểu biết mới: đã linh cảm Đức Giêsu là ngôn sứ, bà hỏi Người rằng đâu là nơi hợp pháp để thờ phượng Thiên Chúa, núi Garidim hay Giêrusalem, và bà dùng lời lẽ nghèo nàn để trình bày thế lưỡng nan truyền thống giữa người Do Thái và người Samari. Mặc nhiên bà nhìn nhận uy tín của Người nên xin Người giải quyết vấn đề. Đây là dịp tốt để Đức Giêsu đưa bà vào việc phụng tự chân thật (Ga 4,21-24), Người đã nói thẳng thắn và đơn giản về ý nghĩa của phụng tự trong thần khí và sự thật, mà không bận tâm xem là bà có hiểu chăng. Người không đi vào các tranh cãi “truyền thống”, cứ để cuộc xung đột trong tình trạng mở, chỉ nêu bật ý nghĩa đích thực của việc thờ phượng.

Đối với Đức Giêsu, điểm chính của vấn đề không chỉ nằm tại việc “thờ phượng”, mà là “thờ phượng Chúa Cha”. Để nói về thực tại này, Người dùng các đại từ “các người” và “chúng tôi”. Có những tác giả cho rằng “chúng tôi” là Đức Giêsu, hoặc là cộng đoàn Kitô hữu, còn “các người” là những người đối thoại không phải là Kitô hữu; nhưng đọc như thế là không tôn trọng mặt chữ và thời điểm của bản văn. Chắc chắn nhất, trên bình diện lịch sử, và theo ngữ cảnh cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari, là coi “các người” là dân Samari, còn “chúng tôi” là người Do Thái, và Đức Giêsu cũng thuộc về nhóm đó.

Sau khi đã nêu bật các yếu tố chính của tranh luận tôn giáo, trước khi đi tiếp, Đức Giêsu không ngần ngại khẳng định rõ ràng rằng ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái (c. 22). Ý nghĩa đầu tiên của câu này là Đức Giêsu không đặt lập trường của người Do Thái và người Samari trên cùng một bình diện (như chúng ta nói: có những người là “chính thống” và có những người là “lạc giáo”). Không thể dễ dàng loại trừ những khác biệt thuộc quá khứ; chúng đã có đó, chúng có ý nghĩa của chúng. Nhưng còn có ý nghĩa khác nữa: Đức Giêsu muốn nhắc nhớ đến lịch sử cứu độ như đã có và như Thiên Chúa đã muốn có. Và như vậy, đây không phải là một câu thêm vào (glose) như Bultmann và một vài tác giả đã chủ trương. Khởi đi từ công thức này, phải nhìn nhận Đức Giêsu đã nhập thể trong dân Do Thái. Điều này lại làm nổi rõ hơn tầm quan trọng của Cựu Ước, liên hệ đến lịch sử cứu độ. Bây giờ, cho cả hai nhóm, không còn có một quyền ưu tiên nào cả, họ cần phải đi đến một kiểu phụng tự mới, “trong thần khí và sự thật”.

Dọc theo lịch sử, người ta đã thờ phượng Thiên Chúa, bây giờ cần tiếp tục. Việc thờ phượng của người Israel không sai; vào thời đó, kiểu thờ phượng như thế là tốt và đúng. Nhưng tính từ “đích thực” (alêthinoi) cho thấy rằng trong kiểu thờ phượng trước đây còn có nhiều thiếu sót, và chỉ kiểu thờ phượng mới này mới đạt sự hoàn hảo, do có giá trị phổ quát. Kiểu thờ phượng sau không phải là một ngẫu hứng của loài người, nhưng là do mạc khải của Thiên Chúa như là Cha trong Con, Đức Giêsu Kitô. Mạc khải này được đưa đến chỗ thành toàn nhờ chính Đức Giêsu. Việc thờ phượng này là chân thật bởi vì do Thần Khí, do Thiên Chúa, do từ trên cao, gợi lên. Kiểu thờ phượng này chuẩn nhận sự thật của những gì Đức Giêsu nói. Từ nay, bất cứ người nào thờ phượng đích thực đều phải quan tâm thờ phượng Thiên Chúa như Ngài muốn được thờ phượng, chứ không như họ thấy là tốt.

Người phụ nữ lại nêu ra một nhận định tổng hợp (Do Thái và Samari) liên quan đến Đấng Mêsia sẽ đến, mà người Samari cũng đang chờ đợi (Samari: Ta’eb). Đã nhìn nhận Đức Giêsu là ngôn sứ, lúc này bà còn linh cảm mạnh mẽ tầm quan trọng của con người Đức Giêsu. Thế là bà đã đủ chín muồi để có thể đón nhận lời công bố long trọng của Đức Giêsu trong tư cách Đấng Mêsia. Đây là đỉnh cao của cuộc đối thoại.

Hướng đi cứ thay đổi liên tục. Và Đức Giêsu, chỉ sau tất cả những chặng này, mới tự mạc khải cho bà như là Đấng Mêsia, Người nói đơn giản: “Chính là tôi (egô eimi)”. Công thức egô eimi đưa chúng ta trở lại với tên của Đức Chúa (Yhwh), khiến chúng ta có thể nói Đức Giêsu là chính là Đức Chúa đến viếng thăm dân Samari. Đến cuối cuộc thăm viếng, người Samari đã nhận biết Người như là “Đấng cứu độ trần gian” (c. 42); Người đã đến để ban sự sống đời đời (c. 14) và dạy cho biết nền phụng tự chân thật (cc. 23-24).

– Đối thoại với các môn đệ (cc. 27-38). Trong khi các hiệu quả của cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari còn đang triển nở như thế, Đức Giêsu lại đi vào một cuộc đối thoại khác bên bờ giếng (Ga 4,31-38). Sau những lời nói với Nathanaen, đây là lần đầu tiên Người quan tâm rõ ràng đến các môn đệ Người. Các ông này đã cùng đi đường với Người và liên tục được Người nhắc nhở, nhưng rất hiếm khi Người ngỏ lời riêng với các ông. Chỉ các diễn từ cáo biệt mới trọn vẹn được ngỏ với các ông thôi. Với người phụ nữ đã đến kín nước, Đức Giêsu nói về ân huệ của Người, nước vô song; với các môn đệ vừa về tới nơi sau khi đã mua thực phẩm, Người nói về lương thực mà chính Người nhờ đó mà sống. Cuộc đối thoại có hai đề tài: Đức Giêsu nói cho các môn đệ biết công việc của Người có những nét tiêu biểu nào (c. 34) và lần đầu tiên Người khẳng định rằng họ được tham dự vào sứ mạng của Người và cách thức tham dự (c. 38). Chính Người cũng không đến nhân danh chính mình, cũng không làm việc theo ý riêng, nhưng đến như là sứ giả của Chúa Cha và tất cả cuộc đời Người nhắm thi hành ý muốn của Chúa Cha. Tất cả những gì Người loan báo và cống hiến đều góp phần vào công trình mà Chúa Cha đã khởi sự (x. 3,16) và nay Đức Giêsu là Chúa Con đưa đến chỗ hoàn tất. Điều này cũng đúng cho công việc Đức Giêsu đang làm nơi người Samari, mà bây giờ người ta đã thấy kết quả. Đến lượt Người, Đức Giêsu lại sai phái các môn đệ, để họ tham dự vào công việc của Người và tiếp tục công việc đó. Nhưng nỗi mệt nhọc thật là của Đức Giêsu. Những gì các môn đệ làm hoàn toàn lệ thuộc vào những gì Đức Giêsu đã làm trước đây.

* Kết luận: Gặp gỡ với dân Samari (39-42)

Sau khi đối thoại với Đức Giêsu, các môn đệ lại bị bỏ rơi trong bóng tối một lần nữa. Được đánh động bởi lời chứng của người phụ nữ, dân Samari đã đến gặp Đức Giêsu. Bây giờ họ muốn trực tiếp nghe Người. Thế là các môn đệ đầu tiên đã ở lại với Đức Giêsu (Ga 1,39), còn những người Samari này đã xin Người ở lại với họ. Nhưng dù thế nào, chỉ nhờ tiếp tục mở ra hiệp thông với Người, người ta mới có thể có kinh nghiệm về Người là ai và Người ban tặng điều gì. Được Đức Giêsu nhận cho ở lại với Người, các môn đệ đầu tiên đã khám phá ra Người là “Đấng Mêsia” (1,41); được Đức Giêsu chấp nhận ở lại với họ, người Samari đã nhìn nhận Người như là “Đấng Cứu độ trần gian” (4,42), như là Đấng đã được Chúa Cha ban vì lòng yêu thương và được sai phái đến để cứu độ trần gian (3,16-17). Nay họ tin là nhờ chính tương quan trực tiếp với Đức Giêsu chứ không dựa vào lời chứng của người phụ nữ nữa. Lời chứng ấy đưa họ đến chỗ nghe Đức Giêsu để đào sâu đức tin, và bây giờ đức tin đó có thể thực sự bắt đầu triển nở.

+ Kết luận

Bằng cách dùng nhiều danh hiệu cách tiệm tiến, mỗi danh hiệu lại như mộtlời mời gọi tin vào Đức Giêsu, bản văn này vén mở cho thấy mầu nhiệm Đức Giêsu. Lúc đầu, Người chỉ là mộtngười lữ khách vô danh. Sau đó, Người đã được coi là mộtngười Do Thái (c. 9). Dần dần Người xuất hiện ra như nhân vật còn cao trọng hơn tổ phụ Giacóp (c. 12). Thêm mộtbước nữa, Người được được gọi là ngôn sứ (c. 19). Và cuối cùng, người phụ nữ linh cảm Người là Đấng Mêsia (c. 29). Nhưng lại chính là những người Samari, hoa trái đầu mùa của Dân ngoại, mới tuyên xưng niềm tin của họ vào Đức Giêsu, “Đấng Cứu độ trần gian” (c. 42). Quả thật, Đức Giêsu chính là ánh sáng thế gian (Ga 8,12; 12,46), Đấng mạc khải và Đấng Mêsia, là Con Một Thiên Chúa được Ngài cử đến cứu trần gian. Bất cứ người nào tin vào Người thì được sống đời đời (3,16-18). Người là Ngôi Lời đang thực hiện điều mà Lời Tựa đã nói: “Những ai đón nhận (Người), tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (1,12).

Ngoài ra, có một ý nghĩa khác của bản văn, ý nghĩa biểu tượng, cũng có thể nêu ra. Trong truyền thống Kinh Thánh, cái giếng đã là nơi khởi đầu của nhiều cuộc tình duyên. Vậy “cái giếng Xykha” này gợi nhớ đến cuộc “tình duyên” nào? Trong Cựu Ước, Israel thường được giới thiệu là hôn thê của Đức Chúa (Yhwh). Israel-hôn thê thường thất trung, ngoại tình với các thần Ai Cập, Átsua, Babylon, Ba Tư, Rôma. Câu truyện người phụ nữ Samari hẳn là câu truyện của dân Israel mà Đức Giêsu đến gặp và muốn dẫn về với Đức Chúa. Hơn nữa, TM IV còn giới thiệu Đức Giêsu như chàng rể và nhân loại như một hôn thê tội lỗi, mà Người đến để đưa về sống trung thành.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Qua cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari, chúng ta nhận ra cả mộtkhoa sư phạm Đức Giêsu đã vận dụng để đưa bà đến đức tin. Trước tiên, Người khơi lên sự tò mò để bà tìm hiểu, qua việc nhắc đến mộtcông việc tầm thường làm mỗi ngày, là đến giếng kín nước để giải tỏa cơn khát thể lý. Từ đó, Người gợi đến mộtthực tại khác, nước hằng sống. Thế rồi câu chuyện lại chuyển sang mộthướng khác khi Đức Giêsu đề cập đến đời sống riêng tư nhất của bà, cơn khát tình yêu dường như vẫn chưa được đáp ứng thỏa đáng. Mục tiêu của Đức Giêsu không phải là đưa bà đến chỗ nhìn vào mình, nhưng là nhìn vào Người để nhận biết Người là ai.
  2. Là con người, với sức riêng, chúng ta không thể đạt tới Thiên Chúa và nhận biết Ngài trong thực tại của Ngài. Chúng ta là “xác thịt”, những hữu thể yếu đuối, mỏng manh, tạm bợ; ngược lại, Thiên Chúa là “Thần Khí”, đầy sức mạnh ban sự sống vô biên và bất khả kháng. Bằng sức riêng, chúng ta không thể đạt đến bất cứ sự hiểu biết chân thật nào về Thiên Chúa, hoặc mộttương quan đúng đắn nào với Ngài. Chỉ Đức Giêsu mới chỉ cho chúng ta và giúp chúng ta thờ phượng Thiên Chúa đúng đắn, bởi vì Người ban Thần Khí và Chân Lý cho chúng ta, Người là Đấng Mêsia, Đấng Cứu độ trần gian (Ga 6,42).
  3. Đức Giêsu là Đấng có khả năng giúp chúng ta khám phá ra mọi chiều kích và ý nghĩa đích thực của cơn khát đang dày vò lòng dạ chúng ta. Người là Đấng duy nhất có thể tố giác những phương tiện tạm bợ chúng ta vẫn đang vận dụng để đánh lừa cơn khát ấy hoặc thỏa mãn nó cách rẻ tiền. Người sẽ dạy chúng ta biết cách sống và làm cho từ lòng chúng ta trào vọt ra dòng suối ân huệ của Thiên Chúa.
  4. Các môn đệ được Đức Giêsu sai đi, tiếp nối công việc của Người (là công việc Chúa Cha giao phó). Họ được thu hoạch hoa trái là công việc mệt nhọc của Đức Giêsu; những gì các môn đệ làm tùy thuộc hoàn toàn vào những gì Đức Giêsu đã làm trước. Đến lượt họ, họ cũng phải tận tình gieo vãi, để những người đến sau họ được gặt hái hoa trái. Người này gieo, người kia gặt. Đó chính là sự hiệp thông liên đới trong sứ mạng chung mà Đức Giêsu đã để lại cho các môn đệ Người cho đến tận thế. Khi làm như thế, họ cũng luôn cần ý thức họ làm ý muốn của Chúa Cha.

 

53.             Chú giải của Noel Quession

Đức Giêsu đến một thành xứ Samari, tên là Xy kha gần thửa đất ông Giacóp đã cho ông là ông Giuse. ở đấy có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ, trưa. Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước.

Những trang viết lớn của Gioan thì không ai quên được. Ta có thể đọc chúng ở nhiều mức độ không đối lập nhau: 1. Một báu vật văn chương và thi ca. 2. Một ý nghĩa nội sinh từ diễn tiến kịch tính của các màn diễn. 3. Một sự nêu bật giá trị tâm lý tinh tế của Đức Giêsu. 4. Một sự phong phú những kỷ niệm Kinh Thánh được sử dụng lại. 5. Một cách sử dụng các ý nghĩa biểu tượng sâu xa của loài người. 6. Và, bên trong tất cả những thứ đó, một nền thần học nhiệm tích và Kitô học cực kỳ cụ thể.

Vâng hãy nếm trước hết ý nghĩa hiện thực của cảnh tượng: Đức Giêsu mệt nhọc, vật vã, kiệt sức vì một chuyến đi dài dưới ánh nắng ban trưa. Người lại ăn chay, ngay trước bữa ăn không thể làm được gì nữa, Người ngồi xuống đất, lưng tựa vào thành bờ giếng. Người khát nhưng không có thùng múc nước. Một phụ nữ tới, đội một vò nước, theo kiểu phương Đông. Khi tôi kiệt lực, và tôi không thể làm được gì nữa, tôi có thể cầu ông Giêsu này, Người biết chuyện đó là gì.

Đức Giêsu nói với chị ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống”. Lúc đó các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. Người phụ nữ Samari liền nói: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao?”. Quả thế người Do Thái không được giao thiệp với người Samari, Đức Giêsu trả lời: “Nếu chị nhận ân huệ của Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị xin cho tôi chút nước uống thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống”.

Đức Giêsu, con người tự do, ở đây vi phạm ba điều cấm kị: về chủng tộc, về tôn giáo, về giới tính. Ở Phương Đông, người ta cấm nói với với một người đàn bà ở chỗ công khai.

Những tín đồ Do Thái tốt đều khinh miệt những người Samari; cho là những kẻ rối đạo và sùng bái thần tượng. Từ tám thế kỷ, người Samari và Do Thái đã hết sức thù hằn nhau một cách dữ tợn. Nhưng Đức Giêsu tự do Người không tin vào những cấm cản dứt khoát, những nhãn hiệu nẩy lửa, những khẩu hiệu quá đơn giản của những cách phân loại chính trị hay tôn giáo giữa người tốt và kẻ xấu.

Người phụ nữ ấy nói: “ Thưa ông, ông không có gầu mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy”. Đức Giêsu trả lời: “Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi đến đây lấy nước”.

Chúng ta bắt đầu đoán về tất cả nghệ thuật tâm lý của Đức Giêsu (và của Gioan). Đây không phải chỉ là một ngụm nước mà một người nước ngoài đầy bụi bặm xin Đức Giêsu mang đến, ở chỗ sâu thẳm nhất của sinh thể mình, một thứ khát khao khác. Người đốt cháy lên nỗi khát khao làm cho những nguồn nước chảy vọt lên ở trong lòng những người đàn ông và đàn bà… Nước! Nước là một thực tại của sự sống. Không có một sự sống nào mà không có nước! cái yếu tố xem ra tầm thường và quá đơn giản này, lại là quí giá nhất. Ngay trong những vùng trên địa cầu mà ở đó có nước dồi dào, thì ngày nay, người ta lại phát hiện được giá trị thiết yếu của nó: người ta bảo vệ, người ta để nó sang bên cạnh để nó không thiếu, người ta thanh lọc nó. Thế thì chẳng ngạc nhiên gì khi nước đã có một giá trị biểu tượng phổ biến trong tất cả mọi nền văn minh và tôn giáo trong Kinh Thánh. “Nước hằng sống” là chính hình ảnh Thiên Chúa ban sự sống (Gr 2,13; Is 12,3; 55,1; Ed 47,1; Dc 14,8). Biểu tượng nước đầy dẫy trong sách Tin Mừng Gioan; nước hóa rượu của Cana (Ga 2,7); nước mà trong đó người ốm muốn lặn xuống ở chỗ giếng Bết-da-tha (Ga 5,7); nước mở mắt cho người mù ở giếng Si-lô-ê (Ga 9,7), con sông nước hằng sống chảy từ ngực Đức Kitô được loan báo trên bậc thềm của Đền Thờ (Ga 7,38), nước của sự sống cho những ai muốn sinh lại bởi nước và Thánh Linh, được loan báo cho Ni-cô-đê-mô (Ga 8,5), sau cùng, nước chạy vọt ra từ cạnh sườn của Đấng chịu khổ hình thập giá (Ga 13,39). Bạn có một nguồn nước nơi bạn, bạn biết đó, từ ngày bạn chịu phép Thánh Tẩy.

Đức Giêsu bảo chị ấy: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây”. Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng”. Đức Giêsu bảo: Chị nói tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.

Biểu tượng miền Samari “bán mình làm đĩ” cho các thần tượng… mà cũng là người phụ nữ có thật. Đó là thân bèo giạt hoa trôi, cái đồ thừa thãi đáng thương, bị chìm xuống vực thẳm làm một thứ đồ chơi cho cả một nửa lố đàn ông. Thế thì ông là ai, anh chàng nước ngoài mệt phờ này, cái anh chàng Do Thái bị tẩy chay này, mà lại đoán ra vết thương lòng của tôi? Thế thì ông là ai, cái anh chàng dò xét cõi lòng phụ nữ với một sự tế nhị đến độ không làm người ta phải ngượng ngùng? ông là ai, cái người mà đã đoán được cả lòng tôi khát khao hạnh phúc mà những thứ tình qua đường của tôi không làm nguôi được ông là ai, cái anh bạn vô danh có vẻ muốn chìa tay cho tôi biết rằng, dù kinh nghiệm tôi trải qua có đau đớn thật, nhưng cuộc đời tôi có lẽ không phải là một thất bại?

Người phụ nữ nói với Người: ‘Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ… Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này còn các anh lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi thờ phượng Thiên Chúa”. Đức Giêsu nói: “Này chị, hãy tin tôi. Đã đến giờ các người thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ phượng Đấng các người không biết, còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến và chính lúc này đây giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế Thiên Chúa là Thần Khí và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí vô sự thật”. Người phụ nữ thưa: tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự Đức Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”.

Ôi đàn bà, cuộc đời của chị không phải đã hết, đã hỏng. Ôi, loài người, nỗi khát khao của người còn xâu xa hơn người tưởng. Ôi tội nhân, sự thất bại của người có lẽ sắp trở thành một nguồn suối.

Thờ phượng! Đấy là mục tiêu của Người! Ngươi không nghĩ đủ đâu. Nhưng tôi, tôi nhắc lại mười lần tiếng này: Thờ phượng. Ngươi được tạo thành cho Thiên Chúa. Ôi, đàn bà, tấm lòng ngươi quá lớn lao, nên không chỉ bằng lòng với những hạnh phúc rời rạc và tạm bợ! Tất cả những gì tận cùng đều ngắn ngủi.

Thờ phượng! Dù muốn hay không, con người đã được lập trình cho chuyện này. Chỉ một mình Thiên Chúa mới thanh thỏa được nhu cầu về vô hạn nơi chúng ta. Nỗi khát không những tái phát.

Thờ phượng! Thái độ huyền nhiệm của người đứng trước mặt Thiên Chúa, cõi lòng được ngoạm vào, hít vào, xoa dịu, no thỏa bởi Đấng trên cao!

Người phụ nữ Samari vẫn còn có nhiều vấn đề tôn giáo có tranh cãi: phải thờ phượng Thiên Chúa ở đâu?… trên núi Garizim, miền Samari, hay trên núi Si-on ở Giêrusalem? Câu trả lời của Đức Giêsu là một sự vi phạm Truyền Thống: dám nói rằng Đền Thờ và các nghi thức phụng vụ không còn quan trọng gì cả! Thật là phạm thượng! Sự thờ tự Thiên Chúa đích thực là điều đã được thúc đẩy trong cuộc đời chúng ta nhờ chính “Thần Khí”. Đền Thờ Thiên Chúa đích thực là đền thờ mà Chân lý của Chính Đức Kitô đến khánh thành: đó là thân xác Người; và Đức Giêsu nhận được sự đón tiếp tốt nhất không phải chính tại miền Giu-đê, nhưng tại ngay giữa miền Samari: “Các ông thờ phượng điều mà các ông không biết!”. Chính người “Do Thái” biết sự thật. Nhưng chính “anh rối đạo” lại được phụ quyền. Lạy Chúa, xin cho chúng con sự yêu thích thờ phượng trong Thần khí và trong sự thật.

Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế không ai dám hỏi Người “Thầy cần gì vậy?” hoặc “Thấy nói gì với chị ấy thế?”. Người phụ nữ ấy để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: “Đến mà xem, có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm, ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”. Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.

Tấm lòng của người phụ nữ đã được cứu thoát. Trong cuộc đời bị khô héo, một cuộc sống thấp lè tè dưới đất, hời hợt (tiêu thụ đủ loại), một nguồn nước đã vọt ra nơi chị ta. Chị không còn gì làm về cái giếng và cái vò nước này. Chị chạy đi thông báo về nước hằng sống mà chị vừa khám phá ra. Làm sao mà không kêu lên tin mừng cho cả làng nghe! Và chính cái quá khứ nặng nề tội lỗi của chị đã khiến cho chị thấy quá hợp để nói về Thiên Chúa: “Hãy đến xem có người đã yêu tôi với lòng xót thương”. Câu chuyện này không phải là câu chuyện của bạn sao?.

Trong khi đó các môn đệ thưa với Người rằng: “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa”. Người nói với các ông: ‘Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”. Các môn đệ mới hỏi nhau: “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?”. Đức Giêsu nói với các ông: lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt?” Nhưng này. Thầy bảo anh em: “Ngước mắt lên mà xem, đồng luá đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái. Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi đễ được sống muôn đời, và như thế cả người gieo lẫn người gặt đều hớn hở vui mừng. Thật vậy câu tục ngữ “kẻ này gieo người kia gặt” quả là đúng. Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em được vào hưởng công lao vất vả của họ.

Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: Ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. Vậy khi đến gặp Người dân Samari xin Người ở lại với họ và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: “Không còn phải lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật chính chúng tai đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian”.

Vâng, từng nấc một, Gioan đã đưa chúng ta xuốngchiếc giếng sâu, chính là huyền nhiệm về bản vị Đức Giêsu: một người nước ngoài đáng thương mệt nhoài và khát đến cháy cổ… một người Do Thái “biết Đấng mình thờ phượng” nhưng còn lớn hớn cả Giacóp, người sáng lập nước Israel, một ngôn sứ đọc được trong lòng người ta và đoán được những âu lo bị che khuất Đấng Mêsia được trông đợi đã làm chảy vọt lên nước hằng sống của cuộc sống muôn đời; và dạy cho loài người biết sự khát khao đích thực: Thờ phượng Thiên Chúa trong Thần khí và trong sự thật, tóm lại Đấng Cứu Độ trần gian.

Bao lâu còn chưa khám phá ra cái suối này, Đức Giêsu mà tất cả thức ăn của Người là thực hiện ý muốn của Chúa Cha, thì thế gian chết vì đói và khát cũng một thứ đồ ăn và thức uống đó luôn ở trong thực đơn nơi bàn tiệc của Giáo Hội. Phục sinh đến gần: phải chăng bạn sẽ ngã quỵ vì bệnh thiếu máu thiêng liêng ở gần ngay suối nước và bàn ăn? Và này bạn khát khao cái gì?

 

54.             Chú giải của Fiches Dominicales

TIẾN TRÌNH NHẬN RA ĐỨC KITÔ

 

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

  1. Cuộc gặp gỡ bên bờ giếng Samaria:

Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari, một trong những trang đẹp đẽ nhất của Phúc âm thánh Gioan, thuộc trong số những bài đọc quan trọng của vị thánh sử thường được Hội Thánh, ngay từ những thế kỷ đầu, dùng trong nghi thức khai tâm các dự tòng.

+ Sự việc xảy ra tại Samari. Miền đất này ngày xưa đã từng là đất thánh của các tổ phụ nhưng kể từ cuộc phân ly của người Samari, đã biếrl nên vùng đất bị thù ghét, tránh lai vãng.

 

Đức Giêsu bỏ miền Giuđê mà trở lại miền Galilê. Người có hai lối dể đi: một “nên đi”, khó khăn vất vả hơn vì nắng nóng; một “không nên đi”, không tốt cho những người Do Thái phải thường xuyên giữ mình sạch sẽ theo luật tế tự, thì lại qua ngã Samari.

Đức Giêsu cố tình chọn lối đi thứ hai này: “Người phải băng qua Samaria. Theo X. Dufour, có lẽ để chứng tỏ Người đến “để hoà giải các dân tộc, nối kết những anh em đã phân ly” (xem “Bài đọc Phúc âm theo thánh Gioan”, tập I, trang 342).

+ Sự việc diễn ra bên bờ giếng Giacob. Trong tất cả các nền văn minh Sêmít, giữa một thiên nhiên khắc nghiệt do hạn hán và sa mạc nóng cháy, giếng là chỗ duy nhất cung cấp nước, đã trở thành nơi có tính chất biểu tượng: nơi của sự sống, nơi để gặp gỡ, đối với những ai thông thạo Kinh Thánh, thì giếng nước còn là khung cảnh cho nhiều cuộc Giao ước, và là cái gợi nhớ lại ơn Thiên Chúa đã ban cho Dân Người trong thời xuất hành qua sa mạc.

 

  1. Tiến trình nhận ra Đức Kitô.

Qua bài tường thuật Phúc âm, thánh sử Gioan muốn đưa chúng ta vào hành trình nhặn biết Đức Kitô.

+ Những xê dịch đi lại trong không gian là hình ảnh biểu trưng cho những chuyến trở về nội tâm.

+ Những thay đổi trong danh xưng Đức Giêsu đánh dấu từng bước của sự nhận biết: lúc đầu chỉ là “người Do Thái”, rồi được tuyên bố là “lớn hơn tổ phụ Giacob là người đã cho chúng tôi giếng này, sau đó được gọi là “vị Tiên tri” trước khi xưng mình là “Đấng Messia” và được những người Samaria nhận là “Đấng cứu độ trần gian”.

+ Những ngộ nhận giữa đôi bên đối thoại chỉ cho chúng ta thấy những chặng đường phải vượt qua: Từ nước giếng đến nước Hằng Sống.

Từ nơi chân thờ phụng đến việc tôn thờ Thiên Chúa trong tình thần và chân lý.

Từ của ăn nuôi thân xác đến lương thực là thi hành ý Cha.

Từ chuyện mùa màng đến sứ mạng trên cánh đồng truyền giáo. Từ nước giếng đến Nước Hằng sống:

 

“Có một người phụ nữ Samaria đến lấy nước”. Chị cho tôi xin chút nước uống, Đức Giêsu xin với người phụ nữ ấy, như ngày xưa dân Israel cũng đã xin cho có nước uống trong sa mạc (Bài đọc I). Người phụ nữ bỡ ngỡ trước lời đề nghi khó hiểu của người đàn ông Do Thái qua đường này, bởi trải qua nhiều thế ky đã có quá nhiều hiểu lầm và thù ghét giữa người Do Thái và người Samari. Chị không ngại chấp nhận cuộc trao đổi: “Ông là người Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?”. Vô tình chị đang từng bước đi vào một cuộc mặc khải nhiệm mầu chưa từng có.

 

Đức Giêsu “xin người phụ nữ nước uống”. Vẫn theo X. Dufour, “Người ta có cảm tưởng là điều mà Người thực sự đang khát chính là cái khát, là nỗi ước ao của người phụ nữ làm sao có được thứ Nước Hằng Sống mà chỉ một mình Người có thể ban cho” (Sđd trang 354). Và quả thực, sau đó Đức Giêsu đã trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị Nước Hằng Sống? Là kẻ “không có thùng để múc nước”, giờ đây Người lại xưng mình sẽ ban Nước Hằng Sống, thứ nước sẽ làm thoả mọi cơn khát, thứ nước “sẽ trở thành nơi người uống ‘một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời’.

Câu chuyện chuyển dần theo nhận định của Alain Marchadour – từ cái giếng nước vật chất sang người đàn ông, một người Do Thái đã mệt lả và đói khát. Con người ấy, ngay trong tình thế thiếu thốn của mình, lại tự giới thiệu như một Đấng có quyền ban phát. Mà ân ban ở đây lại không có liên can gì tới thứ nước trong giếng cả, vòi từ nơi con người ấy, nó trở thành một nguồn suối mới ngàn trùng vượt xa cái giếng nước ban đầu Đức Giêsu đã đưa vào trong cuộc đối thoại một chiều kích mầu nhiệm từ chuyện một cái giếng nước vật chất mà Người ghé vào để xin nước uống, người đã huớng đến chính bản thân Người, là ân ban của Thiên Chúa, Đấng có quyền năng ban cho loài người Nước Hằng Sống” (“Phúc âm thánh Gioan”, Centurion, 1992, trang 76-77).

 

Từ nơi chốn thờ phượng đến việc tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý:

Đức Giêsu lúc này đặt người phụ nữ trở về đối diện trước chuyện đời tư của mình: một cuộc sống thiếu chung thuỷ chẳng khác gì biểu tượng về sự bất trung tôn giáo nơi những người dân Samari. Chúa nói với người phụ nừ: “Chị hãy gọi chồng chị rồi trở lại đây”. “Tôi không có chồng, chị ta đáp. Chúa không nhượng bộ: “Chị nói tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi (con số có thể khiến liên tưởng tới năm vị thần mà người Samari thờ), và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng. “Thưa ông tôi thấy ông thật là một ngôn sứ, người phụ nữ nói tiếp, thêm một bước khám phá về chân tính của người khách lạ. Sau đó chị lái câu chuyện sang một vấn đề đã từng là nguyên cớ gây chia rẽ giữa người Do Thái và người Samari: nơi phải thờ phượng Thiên Chúa. “Trên núi này (núi Garizim)?” hay “ở Giêrusalem?”. Đức Giêsu báo cho chị ta hay rằng từ nay, với Người, một thời cũ đã qua, một thời mới bắt đầu: không còn chỗ cho thứ thờ phượng gắn liền với một ngọn núi; đã hết thời cho những cái đã là đền thờ này hay đền thờ kia (D. Mollat). Kể từ bây giờ sự hiện diện của Thiên Chúa không còn lệ thuộc vào một nơi chốn hay một đền đài nào nữa, nhưng vào một con người: Đức Giêsu Kitô. Người loan báo: “Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật”. Họ sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Người, Đức Giêsu, Đấng là đền thờ mới (Ga 2,19-22), và nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng được ban cho họ để trở nên con cái Thiên Chúa trong Người Con.

 

Và khi người phụ nữ đề cập tới việc “Đấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, Đức Giêsu trả lời: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”.

Để vò nước lại, bởi nó chẳng còn dùng vào việc gì nữa, người phụ nữ chạy đi chia sẻ với bà con của mình niềm vui của cuộc gặp gỡ: người phụ nữ từng thèm khát được uống, được tồn tại, nay đã tìm ra được con người đã làm vọt lên trong chị một nguồn sống mới: “Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”

 

  1. Dẫn tới việc tuyên xưng đức tin:

Đang lúc đó thì các môn đệ trở về, mang theo đồ ăn thức uống. Người phụ nữ đã đi khỏi, các ông mời Chúa: “Rabbi, xin mời Thầy dùng bữa”. Lại một ngộ nhận nữa liền xảy ra về chuyện “lương thực”. Điều Đức Glêsu hằng tìm kiếm, cái là lương thực là sự sống của người chính là “thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và họàn tất công trình của Người”.

Rồi từ đề tài lương thực và sứ mạng dẫn tới đề tài “mùa gặt”. Thêm một ngộ nhận mới: các môn đệ chỉ nhìn thấy cánh đồng còn phải chờ bốn tháng nữa mới tới mùa gặt, còn Đức Giêsu lại mời gọi các ông “hãy ngước mắt lên mà xem” thấy những người Samari đang lại gần kia, họ chính là những hoa trái đầu tiên của mùa gặt truyền giáo. Bài tường thuật đạt tới đỉnh cao với lời tuyên xưng đức tin của những người Samari: chính chúng tôi đã nghe và biết rằng người thật là Đấng cứu độ trần gian. Lời tuyên xưng không trực tiếp nói với Đức Giêsu, nhưng với người phụ nữ. X. Dufour nhận xét: Ngay những kẻ đã được nghe Tin Mừng người phụ nữ loan báo, nay lại loan báo cho chị ta biết Đức Giêsu kia thực sự là ai: đúng là một trao đổi lạ lùng!, và kết luận: Qua phong cách và lời nói của người đàn ông Do Thái tên Giêsu đã đến ở giữa họ này, những người Samari đã được mở ra tới một chân trời mới vượt xa ranh giới mảnh đất của họ. Họ đã nhận ra con người này không chỉ là Đấng Messia cho một dân tộc mà họ mong đợi, nhưng là Đấng Cứu độ trần gian. (Sđđ, trang 39S và 395).

Đức Giêsu đã sẵn lòng ở lại với họ hai ngày, điều này làm sáng tỏ rằng đối với Người, không còn đâu là “miền đất được ưu tiên”, không còn đâu là “miến đất bị ghét bỏ” nữa, nhưng tất cả mọi người không phân biệt đều được mời gọi đến với ơn cứu độ.

 

BÀI ĐỌC THÊM:

  1. “Theo kiểu của họ, các anh chị tân tòng nói với chúng ta về tính chất muôn đời mới mẻ của Đức tin”.

“Người phụ nữ Samari”. Đối với nhiều người đó là tên một cửa tiệm lớn ở Paris mà người ta đôi lúc còn nhắc đến thời còn bán đồ cũ. Nếu từ này còn có thể khiến ai đó chú ý đến chương IV của Phúc âm thánh Gioan này, thì chúng ta tin chắc rằng phải có một cái gì đó đặc biệt có sức thu hút, “nói là thu hút”, nhưng trong câu chuyện Phúc âm không hề có vấn đề thu hút gì cả. Đúng hơn đây là một sự tiếp cận. Một sự khám phá và là một lời mời gọi không thể chối từ. Người phụ nữ Samari ở đây đúng là mẫu mực, là điển hình của người tân tòng đang dấn thân tìm gặp Đức Giêsu.

Chị ta lại chịu hai mặt bất lợi: là phụ nữ và là thành phần của một sắc dân bị người Do Thái miệt thị (bằng chứng về sự xuất hiện và có mặt của những cộng đoàn Kitô hữu tại Samari ngay vào thời Tin Mừng IV đang được biên soạn). Nhưng đó không thành vấn đề, Đức Giêsu vẫn tìm cách lôi kéo người phụ nữ này, nhưng một sức hấp dẫn vô hình. Cách tiếp cận thật lạ lùng: người khách lạ đã mỏi mệt dừng chân bên bờ giếng xin người phụ nữ chút nước uống. Đấng có quyền năng ban phát mọi sự, nay lại làm kẻ ngửa tay xin. Thiên Chúa luôn rộng ban ơn của Người cho tất cả những ai biết sẵn sàng cho đi chút của cải mình có. Người tân tòng sẽ tìm thấy không phải là một vị Thiên Chúa thích huỷ diệt để rồi lại ban phước, nhưng một Thiên Chúa nghèo, dường như phải cần đến loài người. Thế rồi câu chuyện bỗng đổi chiều, giờ đây cái nhìn của Đức Giêsu soi thấu vào ngõ ngách đời tư của người phụ nữ. Cái nhìn của loài người chỉ dừng lại ở bề ngoài, nhưng Thiên Chúa nhìn sâu vào cõi lòng. Người tân tòng phải chăng là kẻ mà Đức Giêsu đã trở nên thiết thân hơn chính bản thân họ?

Đến đây, người phụ nữ ngỡ ngàng nhận ra vị ngôn sứ Chị biết rằng giòng Nước Hằng Sống kia có thể rửa sạch mọi bất trung tội tình của chị. Kẻ sắp lãnh nhận phép Thánh Tẩy cũng thế, họ khát khao giòng nước rồi đây sẽ cho phép họ thầm thì kêu tên Thiên Chúa là Cha. Chưa hết, người phụ nữ còn bỏ lại tất cả, cả cái vò nước, cả những người tình, cả cuộc đời chị, để loan báo cho mọi người về cuộc gặp gỡ có tính chất quyết định cho chị. Chúng ta có khả năng để lắng nghe tiếng của những anh chị em tân tòng nói với chúng ta, theo cách của họ, sau khi đã giã từ cuộc đời dĩ vãng, về cái mới mẻ muôn thuở của Đức Tin?”.

 

  1. “Người phụ nữ bỏ quên vò nước bên bờ giếng”

“Bên bờ giếng, có một khánh bộ hành mỏi mệt dừng chân, chân lý đã vọt lên từ những lời ông ta nói. Cũng bên bờ giếng đó, người phụ nữ nọ đã để lại cái vò nước của mình, bởi từ nay nó những giúp gì cho chị đón nhận hồng ân Thiên chúa ban. Cái vò nước bỏ quên đó sẽ mãi mãi nói với chúng ta về một người phụ nữ mà số phận từng bị giam hãm trong đủ thứ công việc hằng ngày, trong những quan hệ không tới đâu với một loạt đời chồng, nay bỗng tìm thấy ý nghĩa cho đời mình qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, qua những trao đổi với Người. Cũng thế đối với những người Samari kia, những kẻ đã biết đón nhận người khách đường xa không hẹn mà đến này. Như thế, chính qua những chuyện của đời thường như ăn, uống, cuộc sống chung, cố gắng quay về với Thiên Chúa… mà con người nghe tiếng nói của Thánh Thần. Nhưng ở đây và lúc này, lại đến như một ân ban qua những bất trắc khôn lường của lời nói, qua thái độ chân thành của các bên đối thoại qua những khoảnh khắc thinh lặng để cho chân lý nói.

 

55.             Đàm thoại với thiếu phụ Samari

(Chú giải và Suy niệm của Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt)

 

CÂU HỎI GỢI Ý

  1. Đoạn văn này được xếp đặt thế nào trong bối cảnh chung của các chương 2- 4? Bố cục của nó ra sao?
  2. Hai ám dụ “ơn của Thiên Chúa” và “nước sống” tiêu biểu gì? Có phải là hai thực tại khác biệt nhau không?
  3. Trong chương 7, 38- 39, Chúa Giêsu đồng hóa nước sống với Chúa Thánh Thần. Nước sống này có phải là cùng một loại với nước mà Chúa Giêsu đề cập tới trong đoạn văn đây, ở câu 10- 12 và 13-15 không?
  4. “Năm người chồng” ở câu 18 có nhất thiết mang một ý nghĩa tượng trưng chăng?
  5. Câu 23 phải chăng đồng nghĩa với sự kết án việc phụng tự bên ngoài?
  6. Câu 34 có mặc khải điều gì về mối tử hệ thần linh của Chúa Giêsu không?
  7. Làm sao giải thích các câu 35-38 cho mạch lạc với nhau?

 

  1. Quang cảnh tại giếng Gia-cóp là một trong những cảnh đầy tình người và đẹp nhất của Tin Mừng thứ 4. Trang sách này của thánh Gioan để lại cho những ai đã đọc và suy niệm một cảm tưởng khó quên nhờ có nhiều hoài niệm Thánh Kinh; nhờ tính cách thi vị của khung cảnh, của những cuộc gặp gỡ bên bờ giếng, của hình ảnh nguồn suối lạ lùng, mạch nước trào phun, đồng lúa chín vàng; nhờ nét tế nhị và sâu sắc của câu chuyện giữa Chúa Giêsu và người thiếu phụ lúc đầu chỉ là một ngươi xa lạ nhưng sau đó đã thành một kẻ tin; nhờ những nhãn giới rộng rãi mở ra cho sứ mạng của Giáo Hội và cho việc tôn thờ Chúa Cha trong Thần khí và sự thật.

Tuy nhiên tầm quan trọng của đoạn văn này trước tiên nằm trong lãnh vực thần học. Đôi khi người ta muốn gán cho trình thuật một lối giải thích có tính cách tâm lý và mục vụ: chẳng hạn như bảo rằng Chúa Giêsu muốn chỉ dạy cho chúng ta phải ăn nói thế nào với một tâm hồn tội lỗi để kéo họ hối cải trở về. Số người khác thì đề nghị một cách chú giải thiên về bí tích; nước sống là nước rửa tội, của ăn mà Chúa Giêsu đề cập ở 4, 33-34 ám chỉ phép Thánh Thể. Nhưng cả hai cách giải thích trên đều không tôn trọng đủ các dữ kiện của bản văn. Quan điểm của tác giả chủ yếu là một quan điểm Kitô luận: ở đây ông trình bày một khía cạnh trong chủ đề cơ bản của Tin Mừng ông trả lời cho câu hỏi “Giêsu là ai” là con người đạt được niềm tin vào Người.

Ta chỉ hiểu được sự khai triển chủ đề này nếu biết đặt đoạn văn vào trong bối cảnh chung rộng lớn hơn của các chương 2- 4. Cả phần này được khai mào bằng hai trình thuật, hai “dấu lạ” có tính cách mặc khải Đấng Thiên sai, tạo thành một bức song bình: “dấu lạ” Cana (2, 1- 12) và “dấu lạ” Đền thờ Giêrusalem (2, 13-22). Trong các cuộc đối thoại theo sau, ba nhân vật đàm đạo với Chúa Giêsu tượng trưng cho ba hạng người đạt được niềm tin: Nicôđêmô (3, 1 -21); thiếu phụ mà Chúa Giê-su gặp bên bờ giếng Giacóp (4, 1 -42); viên quan chức thành Cana (4, 43-54). Cả ba nhân vật hình như đều mang một giá trị biểu trưng: Nicôđêmô, người Do thái gốc Giêrusalem và vị thầy trong dân Israel” (3, 10), dưới con mắt của Gioan, là hiện thân cho Do thái giáo chính thức; người thiếu phụ Sychar (4, 5) là hiện thân cho Do thái giáo ly khai của người Samari, và viên quan chức thành Cana, có lẽ là người ngoại giáo, tượng trưng cho thế giới ngoài Do thái.

Giai thoại người thiếu phụ Samari được bố cục rất kỹ lưỡng. Nó gồm hai cuộc đối thoại chính lồng vào trong những câu thuật sự:

  1. Nhập đề: Chúa Giêsu trở lại Galilê và băng qua Samari; người đến giếng Giacóp (1- 6)
  2. Đối thoại với thiếu phụ Samari (7- 26)

– Chúa Giêsu hứa ban nước sống (7-15)

– Chúa Giêsu là Ngôn sứ (16-19)

– Mặc khải của Giêsu Thiên sai (20-26)

  1. Chuyển đề: Các môn đồ trở về, thiếu phụ ra đi, dân thành Samari đến (27-30)
  2. Đối thoại với các môn đồ (31- 38)

– Lương thực của Chúa Giê-su (31 -34)

– Mùa gặt thiên sai (35- 38)

  1. Kết luận: Dân thành Samari tin vào Chúa Giêsu (39- 42)

Mỗi cuộc đối thoại được khai triển theo một lược đồ văn chương đặc biệt của Tin Mừng thứ 4: các lại mặc khải của Chúa Giêsu xen kẽ với những ngộ nhận của con người. Trong các câu 7-15, người thiếu phụ Samari chỉ nghĩ đến nước giếng trong lúc Chúa Giêsu cố gắng giải thích cho bà hiểu nước ban sự sống mà Người hứa là một loại nước khác: đó là thứ nước sẽ dập tắt vĩnh viễn cơn khát và sẽ trào phun trong chính con người, vọt đến sự sống đời đời. Trong phần cuối của màn đối thoại (20-26) người thiếu phụ chỉ nghĩ đến vấn đề gây chia rẽ giữa người Do thái và người Samari, tức vấn đề nơi chốn của việc phung tự đích thật: phải thờ phượng Thiên Chúa trên núi Garizim hay tại Đền thờ Giêrusalem? Nhưng Chúa Giêsu mặc khải cho bà biết việc tôn thờ Chúa Cha vào thời thiên sai sẽ được thi hành trong Thần khí và sự thật. Ngay các môn đồ cũng tỏ ra không hiểu tý gì. Từ thành trở về chỉ bận tâm lo lắng bắt Chúa Giêsu dùng lương thực vật chất. Nhưng Người trả lời với họ rằng thức ăn đích thật của Người là chu toàn sứ mệnh (31- 34). Sau hết, trong các câu 35- 38, Chúa Giêsu dựa vào một câu nói của các môn đồ về mấy tháng nữa mới tới mùa gặt để mở cho họ một cái nhìn về một mùa gặt khác: mùa gặt thiên sai, lúc mà thợ gặt sẽ thu lượm thóc lúa cho sự sống đời đời.

  1. Cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và người thiếu phụ Samari gợi nhớ các cảnh tượng khác trong Thánh kinh, mô tả cuộc gặp gỡ giữa người lữ khách mệt mỏi và những người đàn bà đến múc nước ( St 24, 11- 27 ; 29, 1- 21 ; Xh 2, 15-21). Chúa Giêsu, ngồi bên bờ giếng, nói với thiếu phụ xứ Sychar: “Cho tôi uống với” (c.7). Ngay từ đầu, chủ đề thứ nhất, chủ đề “nước”, đã được đề cập: Chúa Giêsu chụp ngay cơ hội để mặc khải cho thiếu phụ Samari mầu nhiệm nước sống. Nhưng bà vẫn ở trong bình diện các tương giao nhân loại sao? ông là người Do thái mà lại xin với tôi là đàn bà Samari nước uống à? – Số là dân Do thái không liên lạc với dân Samari” (c.9). Trong câu trả lời, Chúa Giêsu cho bà hiểu là Người muốn nói tới một thực tại bí nhiệm mà nước giếng chỉ là biểu tượng thôi: “Nếu bà biết được ơn của Thiên Chúa và ai là người nói với bà: cho tôi uống với, thì chính bà sẽ khẩn xin và Người sẽ ban cho nước sống” (c . 10)

a- Có cần phải coi hai ám dụ “ơn Thiên Chúa” và “nước sống”: chỉ hai thực tại khác biệt nhau không. Một vài người đã nghĩ như thế (Euthymius, Tolet, Van den Bussche). Tuy nhiên số đông các nhà chú giải đều công nhận một cách hợp lý rằng ơn của Thiên Chúa chính là nước sống. Căn cứ vào câu song song ở 7, 37-39, nhiều tác giả quả quyết rằng ở đây Chúa Giêsu rnuốn nói tới Thánh Thần, nhưng có lẽ nào quan niệm được rằng Chúa Giêsu đã trù tính ban Thánh Thần cho người thiếu phụ này trước ngày sống lại! Với một số khác, thì ơn nước sống đúng hơn là chính sự mặc khải của Chúa Giêsu về bản thân mình. Có lẽ nên tìm câu giải đáp trong lối giải thích này, nhưng nên phân biệt hai giai đoạn liên tiếp trong nhiệm cục mặc khải như chúng ta đã thấy sau: thời gian của Chúa Kitô và thời gian của Thánh Thần. Chính bản văn cũng cho chúng ta một chỉ dẫn quý giá: theo lời tuyên bố của Chúa Giêsu với người thiếu phụ thì “biết ơn của Thiên Chúa” là biết Người là ai. Sự khám phá dần dần mầu nhiệm Giêsu, sự hiểu biết thâm sâu Người là ai, chính đó là ơn của Thiên Chúa, ơn nước sống vậy. Phân tích đơn giản hai chủ đề này, ta sẽ thấy rõ hơn.

b- Theo các sách của người Do thái, ơn tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa là luật Môisen, chẳng hạn như một đoạn văn của F.Josèphe, Ant. Jud. 4,8,47- 31, 8), có nói: Môisen, sau cuộc thần hiện ở Sinai, đã kêu mời dân thờ kính Thiên Chúa với những lời như sau: “Phận sự của các ngươi là tôn thờ Thiên Chúa và tuân giữ các giới luật của Ngài, hồng ân quý báu nhất trong tất cả mọi sự mà Ngài đã ban cho các ngươi và sẽ còn ban nữa, theo lòng nhân hậu trường cừu của Ngài”. Bài tựa của thánh Gioan đã vang vọng lại truyền thống ấy: luật được ban cho nhờ Môisen” (1, 17). Nhiều chỗ khác trong Tin Mừng thứ tư động từ “ban cho” rất được năng dùng. Chỉ một lần duy nhất, nó có túc từ là Đấng Bầu Chữa (14, 16): nhưng trong bài diễn từ sau Tiệc ly này, động từ ở thì tương lai và quy hướng về thời gian của Giáo Hội. Tuy vậy trong 3, 34, động từ lại ở thì hiện tại: có lẽ ám chỉ: Chúa Giêsu, Đấng Thiên Chúa sai đến kẻ “nói được lời của Thiên Chúa” và “ban cho Thần khí không giới hạn ” ơn Thần khí đã có cách nào đó trong các lời nói của Chúa Giêsu; nhưng việc làm cho lời đó ăn sâu vào tâm hồn nhờ Thánh Thần, thì sẽ chỉ được thực hiện sau ngày Phục sinh). Vậy câu 14,16 không thể dùng như một câu song song với câu của chúng ta đây được (4, 10). Còn theo 3,16, động từ “ban cho” có túc từ là Con Một Thiên Chúa. Thường thì động từ ấy được áp dụng vào những lời mà Chúa Cha đã ban cho Chúa Con và Chúa Con ban cho các môn đồ (17, 8.14), hoặc áp dụng vào huấn lệnh của Chúa Cha hay Chúa Con (12, 49 ; 13, 34 ; 14, 31). Kiểu nói ở 4,10 tổng hợp các dữ kiện trên. “Ơn của thiên Chúa” không còn là Luật Môisen như trong Do thái giáo nữa, song là Luật Mới, là mặc khải tối hậu trong Chúa Giêsu. Lời ấy của Chúa Giêsu, lời mặc khải chung quyết của thời đại thiên sai, đã kiện toàn mặc khải bất toàn của Sinai. Theo 1, 17, cái từ nay sẽ thay thế luật Môisen, chính là mặc khải do Chúa Giêsu đem tới, chính là sự thật, chính là Người (14, 6). Vì thế, khi hứa ban ơn Thiên Chúa cho thiếu phụ Samari, Chúa Giêsu ngầm cho hiểu là Người sắp tỏ mình cho bà; và thực sự để tiếp nối lời hứa còn mơ hồ của câu 10: “Nếu bà biết … ai là người nói với bà …”, câu kết luận xác quyết rõ ràng: “(Đấng Messia) Chính là Ta, người đang nói với bà đây” (26).

  1. Biểu tượng “nước sống còn quan trọng hơn biểu tượng trước, vì Chúa Giêsu sẽ dùng lại nó ở câu 14, rồi sau này một lần nữa, trong mặc khải long trọng vào dịp lễ Lều trại (7, 38t). Theo nghĩa vật chất, nước sống chỉ nước chảy, đối nghịch với nước tù (St 26, 19 ; Lv 2, 13). Nơi các ngôn sứ, thì nước sống trở thành một trong các biểu tượng lớn về những hồng ân của thời đại thiên sai. Trong ngày đó, nước sống sẽ vọt lên từ Giêrusalem” (Dcr 14, 8 ; x. Ed 47, 1; Gr 4, 18). Nhưng trong các sách khôn ngoan, ý nghĩa của hình ảnh này trở nên rõ hơn: nước sống chỉ làn sóng của sự khôn ngoan, hoặc chỉ giáo huấn rút ra từ Lề Luật (Cn 13, 14; 16, 22: 18, 4 ; Hc 24, 30t). Một vài văn phạm Do thái theo lối giải thích này khi chú giải cách ẩn dụ các giếng nước đề cập trong Thánh Kinh (nhất là Ds 21, 17- 19): theo truyền thống ấy thì một giòng nước bí nhiệm đã được ban cho Israel, giéng mà từ đó phát xuất làn nước sống; giếng là Lề Luật, nước sống tuôn tràn) ra là giáo thuyết khôn ngoan mà người ta tìm được khi nghiền ngẫm Lề luật. Hãy để ý là trong các bản văn tiền-Kitô giáo này. Nước sống không bao giờ là biểu tượng trực tiếp của Thần khí, cả trong các sách mà chúng ta vừa nêu ra, nước sống chỉ sự khôn ngoan, sự thật, sự phong phú chứa đựng trong mặc khải.

Đó là cách giải thích ám hợp hơn hết đối với lời của Chúa Giê-su nói với thiếu phụ Samari (Ga 4, 10: nước sống tượng trưng chỉ giáo thuyết đầy sức tác sinh mà Chúa Giêsu Đấng Khôn ngoan mang lại (x. 4, 25) cho sự thật mà Người tuyên bố (1, 17), cho mặc khải mà Người đem tới trong chỉnh bản nhân người (14, 6). Thế là chúng ta gặp lại cách chú giải đưa ra trên đây về ám dụ “ơn của Thiên Chúa”; điều đó xác nhận rằng hai ám dụ trên cùng chỉ một thực tại duy nhất mà thôi.

  1. Dầu sao cũng còn một vấn nạn. Trong 7, 38- 39, Chúa Giêsu tự áp dụng cho mình một lời Kỉnh thánh: “Tự lòng Người, có những sông tuôn chảy nước sống”. Và thánh sử ghi thêm: người nói về Thần khí mà các kẻ tin vào Người sẽ lĩnh lấy vì Thần khí chưa có, bởi Chúa Giêsu chưa được tôn vinh”. Nhiều nhà chú giải xét rằng cần phải lấy cách giải thích như thế để áp dụng cho nước sống mà Chúa Giêsu đề cập ở chương 4, trong cuộc đối thoại với thiếu phụ Samari: nghĩa là Nước sống chỉ Thánh Thần.

Tuy nhiên, nhãn giới của hại đoạn văn rất khác biệt. Trong 7, 38-39, theo chính thánh Gioan, thì Chúa Giêsu muốn nói tới ơn Thần khí mà các kẻ tin sẽ lãnh nhận sau khi Người được tôn vinh. Còn lúc đầu buổi đàm thoại với thiếu phụ Samari, Chúa Giêsu nói ở thì hiện tại: trong nhãn giới của Gioan, không thể có chuyện Thần khí ở đây. Gioan phân biệt rõ ràng hai thời gian liên tiếp trong tiến trình mặc khải. Trong mạch văn của cuộc đàm thoại ở giếng Giacóp, nước sống mà Chúa Giêsu đề cập tại là một sự “vén màn” tiệm tiến mầu nhiệm của chính Người. Nhưng ngay sau đó, Người mở rộng nhãn giới rất nhiều; bắt đầu câu 13, không còn nói đến người thiếu phụ nữa, mà “bất cứ ai” muốn uống; và ở câu 14 thì các động từ đều ở thì tương lai: hai sẽ uống nước Ta sẽ ban cho, sẽ không bao giờ khát: nước sẽ trở nên trong nó mạch suối nước vọt đến sự sống đời đời”. Ở đây và chỉ ớ đây mà thôi, nhãn giới mới trùng hợp với nhãn giới trong câu tuyên bố của Chúa Giêsu vào dịp lễ Lều trại (7, 38- 39), nghĩa là từ chỗ này mới đến cái thời gian bắt đầu với giờ của Chúa Giêsu, cái thời gian mà Người sẽ không ngừng được mặc khải nhờ Thánh Thần trong Giáo Hội.

Thành ra nơi thánh Gioan, chúng ta chứng kiến một sự đào sâu ý nghĩa của ám dụ nước sống. Đầu cuộc đối thoại với người thiếu phụ, nước bí nhiệm kia, đúng theo nghĩa có sẵn trong truyền thống tiền kitô giáo, chỉ tượng trưng cho lời của Chúa Giêsu, cho sự thật của Người. Nhưng lời đó, sự thật đó, không thể ở ngoài con người: như sự khôn ngoan, nước sống cần phải được người tin sống (4, 14t ; 7, 37 ; x. Cn 9, 18, bản 70 ; Hc 15, 3); chỉ với điều kiện đó nó mới trở thành “trong ngươi ấy” (Ga 4.14b) một suối nước vọt lên. Điều đó muốn nói rõ rằng lời mặc khải của Chúa Giêsu cần phải được thấm nhuần sâu thẳm trong tâm hồn của người môn đồ (5, 38). Và đó chính là hoạt động của Thần khí Sự thật vậy (14, 26).

Như thế, ám dụ nước sống mang một âm hưởng cố chiều kích Giáo Hội, chính điều này cho ám dụ một tầm quan trọng thật đối với đời sống của Kitô hữu: nước sống mà họ phải uống chính là sự thật của Chúa Giêsu, chính là sứ điệp được lãnh hội trong thần khí, chính là Chúa Giêsu, Đấng tỏ lộ dần dần mầu nhiệm của người qua Tin Mừng cho các kẻ tin để thông ban cho họ sự sống thần linh. Đó cũng là cách chú giải của thánh Thomas. Đối với ngài nước sống chỉ một trật giáo thuyết của Chúa Giêsu và ơn của Thánh Thần: “Ơn Thánh Thần thật đúng là nước sống” (Super vang. S.Joann. số 577) ; nhưng (Chúa Giêsu cũng) muốn chỉ rằng giáo thuyết của Người là nước tốt lành nhất” (số 585); “nước được hiểu là “trí khôn ngoan có sức cứu rỗi” (số 634).

  1. Lần này cũng thế, phản ứng của người thiếu phụ Samari chứng tỏ bà hoàn toàn không hiểu gì: bà xin Chúa Giêsu cho bà thứ nước ấy đè khỏi phải đến giếng múc nước nữa (c.15). Chúa Giêsu không kéo dài vấn đề thêm và đột nhiên hướng câu chuyện qua một lối khác: “Hãy về gọi chồng bà đến đây.” (c.16). Và khi thấy thiếu phụ bảo là không có chồng, Chúa Giêsu bắt bẻ: bà đã có 5 chồng rồi, nhưng bà nói phải, vì người đang sống với bà không phải là chồng bà thật.

Nhiều tác giả nghĩ rằng phải giải thích câu trả lời của Chúa Giêsu như một ẩn dụ: ngươi đàn bà với “năm ông chồng” tượng trưng cho xứ Samari, nơi quy tụ các bộ lạc khác nhau của dân Babylon, mỗi bộ lạc có một vị thần riêng (tiếng hy bá baal, “chủ”, có thể chỉ một vị thần ngoại giáo cũng như chỉ một người chồng). Năm ông chồng nhắc đến việc người Samari tôn thờ 5 thần minh, là những vị thực sự không phải là thần chính thức; người chồng thứ sáu, cũng bất chính thức, có lẽ ám chỉ việc phụng thờ Giavê cách hỗn hợp và sai lầm. Lối chú giải ấy dựa vào 2V 17, 24- 42 là đoạn kể ra 5 bộ lạc Babylon di cư đến Samari, mỗi bộ lạc du nhập vào đó thần tượng của mình. Nhưng lối giải thích này cũng không phải là không gặp khó khăn.

Trước tiên người ta sẽ chất vấn rằng 2V 17, 30- 32.41 kể đến bảy vị thần giả tạo của người Samari chứ không phải là năm để trả lời vấn nạn, các nhà chủ trương lối giải thích ẩn dụ bảo rằng bốn vị thần sau cùng trong số 7 vị kia được liên kết thành từng đôi, nên chỉ còn năm việc phụng tự ngẫu tượng mà thôi. Hơn nữa, chính F. Josèphe, một sử gia đương thời với Chúa Giêsu cũng đã hiểu như thế (Ant. Jud. 9, 288).

Dầu vậy, cách giải thích ẩn dụ này, cho dù có thể được, vẫn không có tính cách bắt buộc, vì chứng cớ dựa vào Cựu ước quá yếu. Tác giả Tin Mừng không cho một dấu gì chứng tỏ ông liên tượng đến Cựu ước. Trái lại, lời ám chỉ ở câu 29: Tất cả những gì tôi đã làm” hình như quy về tác phong cụ thể của người thiếu phụ. Hơn nữa ta không hiểu được tại sao một lời ám chỉ khó hiểu đến các thần minh Samari như vậy lại có thể giúp người thiếu phụ nhận ra Chúa Giêsu là một ngôn sứ; trong lúc đó giả thuyết trái ngược lại có vẻ thật hơn: Chúa  Giêsu đã dò thấu tâm can của người đàn bà và đã cho bà biết, như trước đây đã cho Nathanael biết (1, 47- 49), rằng dưới mắt Người bà không phải là một kẻ xa lạ vô danh. Ngẩn ngơ sững sờ, người đàn bà kết luận Chúa Giêsu là một ngôn sứ, một người biết rõ các bí mật trong quá khứ và tương lai (x. 2, 25). Trong khi mặc khải cho thiếu phụ Samari biết đời tư của bà, Chúa Giêsu đã tự mặc khải chính mình. Mục đích của người không phải là đem người đàn bà thống hối trở lại cho bằng là chuẩn bị cho bà khám phá mầu nhiệm của chính Người. Đó là chủ đề của những câu tiếp theo.

  1. Nhận thấy người đối thoại với mình sáng suốt, thiếu phụ Samari liền nêu ra vấn đề lâu đời chia rẽ người Do thái với người Samari: Phải thờ phượng Thiên Chúa trên núi này hay tại Đền thờ Giêrusalem? đối với người Samari, núi Garizim là núi thánh: sau trận đại hồng thủy, Noê đã dựng ở đó một bàn thờ; cũng chính đấy là nơi mà họ cho là Abraham dâng hy tế; theo sách Ngũ kinh của người Samari (Đnl 27,4-8), thì người Hy bá đã dâng tại đây hy tế đầu tiên của họ, sau khi vào Đất hứa. Đền thờ do người Samari xây trên núi Garizim đã trở nên đối thủ của đền thờ Giêrusalem. Nhưng theo sách Đệ nhị luật (12, 1- 14), thì trong Israel, chỉ có một đền thánh độc nhất mà thôi. Nên câu hỏi do bà Samari đặt ra rất hiện thực: nơi thờ phụng đích thật là nơi nào?

Chúa Giêsu trả lời với một giọng điệu trịnh trọng: “Này bà, hãy tin Ta …”. Qua câu đó, người không chỉ muốn nói với kẻ đối thoại là hãy tin vào lời Người, song còn gởi đến bà một lời kêu mời đức tin thực sự. Người xin bà tiếp nhận mặc khải mà Người sắp ban cho về việc phụng tự đích thực của thời đại thiên sai: “Sẽ đến giờ (c.21) … Sẽ đến giờ, và là lúc này đây …” (c.23). Với Người, một thời kỳ đã chấm dứt, một thời kỳ khác bắt đầu: thời mà việc phụng lự gắn liền với ngọn núi đã trôi qua, việc tranh chấp giữa các đền thờ cũng xưa rồi. Từ nay, những kẻ thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Cha trong Thần khí và sự thật ” (c.23).

Từ thời Cải cách (Tin lành), người ta đã lạm dụng kiểu nói này dễ sợ, làm như đó là một lời kết án mọi việc phụng tự bên ngoài. Nhưng đây không phải là điều mà bản văn Tin Mừng muốn nói. Trong Thần khí “chẳng có nghĩa là một cách thiêng liêng, không cần hình hài ” như các giáo phụ Hy-lạp đôi khi đã tưởng, vì chịu ảnh hưởng của thuyết nhị nguyên Platon; thần khí lại càng không chỉ tinh thần con người hoặc linh hồn nhân loại. Chúa Giêsu chẳng muốn nhấn mạnh ở đây về đặc tính nội tâm của việc cầu nguyện (đó chỉ là cách chú giải tâm lý của trường phái Augustin). Tiếng Pneuma mà người nói đây là Thần khí của Thiên Chúa (x. câu 24), Thần khí là một lời cầu do Thánh Thần gợi hứng trong tâm hồn tín hữu (x. Rm 8, 26- 27). Các nhà chú giải Tin Mừng thứ 4 thời Trung cổ dã không nhầm lẫn về điểm này, chẳng hạn như J. Scot Erigène: “Những ai được Thánh Thần soi sáng, sẽ thờ phụng trong Thần khí” (Pl 122, 339a).

Phần thứ hai của công thức trên cũng thường bị xuyên tạc ý nghĩa còn hơn phần thứ nhất nữa. Nhiều người cho đó là một trạng từ có ý nghĩa tĩnh từ như trong các sinh ngữ hiện đại: việc thờ phượng “trong Sự thật” là việc thờ phượng “đích thật”. Nhiều kẻ khác, nhất là các giáo phụ, thì cho sự thật” chính là thực tại của phụng tự Kitô giáo, đối nghịch với các tiền- trưng của nó trong Lề luật cũ. Nhưng đối với thánh Gioan thì từ ngữ  “sự thật” chẳng có nghĩa là thực tại”, song chỉ sự mặc khải thời thiên sai, thứ mặc khải đồng hóa với sứ điệp là con người Chúa Giêsu (14, 6 ; x. de la Poterie, “Je suis la voi, la Vérité ét la Vie”, Nouvelle Revue Théologique 88 (1966) tr. 907- 942). Dưới tác động của thần khí, sự thật của Chúa Ki-tô hiện diện là sinh hoạt trung tâm hồn người tín hữu (2 Ga 2): sự thật trở thành nguồn mạch bí mật của đời sống Kitô hữu: nó gợi hứng cho việc thực thi bác ái (lửa 3,18-19 ; 2 Ga 1- 2), cho ước muốn nên thánh (Ga 17, 17-19), cho việc thờ phượng Chúa Cha (4, 22- 23). Phần cuối của cuộc đối thoại, như thế, gắn liền với phần đầu: “Thần khí và Sự thật” không gì khác hơn là nước sống mà Chúa Giêsu đề cập trước đó.Việc phượng thờ của thời đại thiên sai được khơi nguồn và được nuôi dưỡng bằng mặc khải của Chúa Kitô dưới tác động của Thần khí Sự thật: việc thờ phượng Chúa Cha ấy, ngọn lửa của lời kinh ấy, vọt lên một cách tự nhiên từ mọi tâm hồn Kitô hữu, nơi có Sự thật bừng cháy.

Thành ra chủ đề do thiếu phụ Samari nêu lên ở câu 20 không bị bỏ rơi: vấn đề luôn xoay quanh nơi chốn của việc phụng tự đích thật. Nhưng Chúa Giêsu mặc khải cho thiếu phụ Samari biết rằng vào thời thiên sai, nơi ấy sẽ có tính cách thiêng liêng: dưới tác động của Thánh Thần, từ nay phải cầu nguyện Chúa Cha “trong sự thật” nghĩa là trong chính Chúa Giêsu. Người ta thường chú trọng đến chữ “trong Thần khí”, nhưng theo cách dùng của gian, khi nào hai thành ngữ được nối ghép vào nhau bởi liên tự “và”, thì thành ngữ thứ hai quan trọng hơn; chẳng hạn như 20, 8: “ông thấy và ông tin”. Việc thờ phượng Chúa Cha được thực hiện “trong Thần khí”, dưới sự linh ứng của Ngài, và “trong sự thật”, trong sự hiệp thông với Chúa Giêsu. Sự kết hiệp ấy với Chúa Kitô tạo thành không gian bên trong của lời cầu nguyện Kitô giáo; lời cầu nguyện được thực hành “in Christo”; Chúa Giêsu là Đền thờ mới, từ nay sẽ thay thế Đền thờ trên núi Garizim lẫn đền thánh Giêrusalem. Ngoài ra, việc cầu nguyện này còn mang chiều kích Ba Ngôi: được linh ứng, do Thần khí Sự thật, nó được thực hành trong sự thông hiệp với Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, và dâng lên Chúa Cha. Đó là lời cầu có tính cách hiếu thảo nhất, lời cầu đặc biệt của con cái Thiên Chúa.

Thiếu phụ Sychar chả hiểu gì mấy về tất cả diễn từ này “tôi biết rằng Đấng Messia, tức là Chúa Ki-tô sẽ đến; khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự” (c.25). Dù không bắt được ý nghĩa các câu nói của người đối thoại với mình, bà ta cũng đã bắt đầu quan tâm đến các vấn đề tôn giáo; hy vọng của bà bây giờ hướng về Đấng Messia, như hướng về một người sẽ mang lại ánh sáng mặc khải giải phóng. Không cần đợi gì hơn nữa, Chúa Giêsu giờ có thể nói với bà lời tuyên bố quyết định: “Chính Ta đây, người đang nói với người”. Sứ điệp ánh sáng, mà thiếu phụ Samari mong đợi, được ban cho bà cách đột ngột: Giêsu Messia tỏ mình cho bà; thời gian đã hoàn tất; giờ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và Sự thật” đã đến.

  1. Sau khi người thiếu phụ đi về thành, các môn đồ liền bắt chuyện với Thầy. Họ trình cho Người thực phẩm kiếm được và giục Người ăn (31). Ở câu sau (35) khi ám chỉ đến các cánh đồng mà họ vừa băng qua để trớ lại bên bờ giếng, các môn đồ sẽ nói về mùa gặt sắp đến. Mấy lời bày tỏ có tính chất thường tình ấy trở nên cơ hội để Chúa Giêsu nâng cao bình diện của diễn từ và hướng cái nhìn của các môn đồ về thời gian sắp đến.

Ta gặp lại ở đây, với một chút thay đổi, cái phương pháp hành văn đã đề cập lúc đầu, là xen kẽ mặc khải của Chúa Giêsu với những ngộ nhận của con người. Đó là lược đồ hai thì của việc mặc khải: mặc khải lần thứ nhất (bí nhịệm) – ngộ nhận – mặc khải lần thứ hai rõ rệt).

Để bắt đầu cuộc đàm thoại với thiếu phụ Samari, Chúa Giêsu đã xin nước uống. Đó là dịp để Người hứa ban cho thiếu phụ ơn nước sống (c. 10). Ở đây thì trái lại, chính các môn đồ khơi mào cuộc đối thoại: “Rabbi, mời Thầy ăn”. Chúa Giêsu trả lời một cách khó hiểu: “Có thứ lương thực Thầy phải ăn mà các con không biết”.

Theo truyền thống các sách Khôn ngoan bánh cũng như nước và rượu, là biểu tượng cho ân huệ của Đức Khôn ngoan và của Lề luật. Đức Khôn ngoan mời con người đến dự tiệc như sau: “Hãy đến, hãy ăn bánh và uống rượu mà ta đã dọn” (Cn 9,5); Đức Khôn ngoan “cho con người ăn bánh tinh khôn” (Hc 15, 3 ; 24, 21). Nhưng sự khôn ngoan theo người Do thái không chỉ là lý thuyết, mà còn quy hướng về hành động và phải biến đổi đời sống. Thành ra, ta hiểu được rằng Chúa Giêsu. Ở đây muốn lấy ám dụ lương thực áp dụng vào việc chu toàn sứ mạng của người: “Lương thực của Ta, là làm theo ý Đấng đã sai Ta và chu toàn công việc của Ngài” (c.34). Hai phần của câu trả lời này không phải đồng nghĩa đầu; phần thứ hai nói lên nhiều hơn phần thật nhất.

Chúa Giêsu từ trời xuống dể thực hiện thành ý của Đấng đã sai Người (6,38). Người hằng “tìm kiếm” thánh ý của Thiên Chúa (5,30) như tìm kiếm lương thực mà Người không thể nào bỏ qua; tương tự như thế, người chỉ tìm kiếm vinh quang của Đấng đã sai Người (7, 18 ; 8, 50). Động từ “tìm kiếm” và ám dụ lương thực này nói lên khía cạnh cơ bản trong cuộc đời của Chúa Giêsu, cho thấy động lực thâm sâu thúc đẩy mọi hoạt động của Người. Thành ra không phải là không mỉa mai mà tác giả Tin Mừng đã ghi chép câu 27: Sau khi nhận xét rằng các môn đồ ngạc nhiên vì thấy Chúa Giêsu nói chuyện với một người đàn bà, tác giả ghi tiếp: “Tuy vậy không có ai nói “Thầy tìm gì” hay “nói gì với bà ấy”. Tính cách lạ lùng của câu hỏi thứ nhất (ti zêteis) đã làm cho nhiều dịch giả bối rối, khiến họ thường dịch là: “Thầy xin gì” hay “Thầy muốn gì nơi bà ấy? ” … Nhưng thánh Gioan đâu quan tâm đến điều Chúa Giêsu chờ đợi nơi người đàn bà, ông chỉ muốn cho chúng ta tự hỏi Chúa Giêsu. Tìm kiếm gì khi nói chuyện với bà ấy thôi; nên phải cùng với TOB dịch từng chứ như thế này: “Thầy tìm gì?”. Đó là câu hỏi thiết yếu, song lại chẳng có môn đồ nào đặt ra với Chúa Giêsu. Họ không hiểu được điều Chúa Giêsu tìm kiếm thật sự. Bằng câu chuyển mạch đó, Gioan đã khéo léo nối kết cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu cùng thiếu phụ Samari với cuộc đối thoại cùng các môn đồ. Ý nghĩa thâm sâu của câu chuyện thứ nhất nằm trong câu chuyện thứ hai: khi đàm đạo với thiếu phụ Sychar, bất chấp dư luận bàn tán, Chúa Giêsu đã thực thi ý muốn của Cha, đã tìm cách chu toàn công việc của Ngài vậy.

Chúa Giêsu thường nói về các “công việc” Người phải hoàn thành; khi hạn từ được dùng ở số ít (c.34), thì nó chỉ toàn thể hoạt động của Chúa Giêsu, toàn thể công việc mặc khải và cứu rỗi: công việc này là của Chúa Cha; vì thế, nó nói lên sự hiệp nhất giữa Chúa Giê-su với Cha Người (10, 38). Việc đề cập đến “công việc” chỉ gặp lại trong lời nguyện tế hiến, trong bối cảnh trực tiếp của “Giờ “: “Con đã tôn vinh Cha dưới đất, đã chu toàn công việc Cha giao phó cho Con làm” (17,4). Trong 4,34, khi nói với các môn đồ về công việc của Thiên Chúa mà Người muốn hoàn tất, Chúa Giêsu đã mở một viễn tượng về Giờ Khổ nạn Phục sinh và về thời gian của Giáo Hội.

Ga 4,34 là một trong những bản văn chủ chốt của Tin Mừng 4 bàn về sự vâng phục hoàn toàn của Chúa Giêsu đối với Đấng đã sai Người. Chúa Giêsu chẳng có gì là của riêng mình: người chỉ là kẻ Thiên Chúa sai đến; tư tưởng, và dự phóng của Người là tư tưởng và dự phóng của Chúa Cha; các lời người thông truyền không phải của người, song là lời Chúa Cha (3, 34 ; 7, 16 ; 8, 26. 38. 40 ; 14, 10. 24 ; 17, 8. 14). Người không hoàn tất các công việc của Người, nhưng của Chúa Cha (5,17. 19- 20. 30, 36 ; 8, 28 ; 10, 25. 37; 14, 10 ; 17, 4), Người chẳng thi hành ý muốn riêng tư, song ý của Đấng đã sai mình (4, 34 ; 5, 30 ; 6, 38). Sự khuất phục triệt để như thế cho thấy phần nào mầu nhiệm của Chúa Giêsu. Dĩ nhiên sự vâng phục ấy là của con người Giêsu. Nhưng như Origène và thánh Cyriile thành Alexandrie đã hiểu đúng, sự hiệp nhất tuyệt diệu giữa ý muốn của Chúa Giêsu vì Chúa Cha cuối cùng chỉ có thể giải thích là vì Người là Con của Thiên Chúa và đồng bản thể với Chúa Cha. Theo Origène, sở dĩ ý muốn của Chúa Cha là lương thực đích thực đối với Chúa Giê-su, là vì Người đã lấy ý muốn của Thiên Chúa làm của mình đến nỗi kể như không còn ý muốn riêng nữa: sự hiệp nhất hoàn hảo giữa ý muốn nhân loại của Chúa Giêsu với ý muốn của Thiên Chúa tỏ lộ một sự hiệp nhất sâu xa hơn: hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con, vì ý muốn của Chúa Con và ý muốn của Chúa Cha là một; bởi thế nên Người có thể bảo: “Cha và Ta, Chúng Ta là một” (10, 30) (PG 14, 460.1). Thánh Cyrille còn nói mạnh dạn hơn: “Chúa Con là ý muốn sống động và có bản thể của Chúa Cha” (PG 73, 324c).

Nhưng khi nhấn mạnh ước muốn chu toàn công việc của Đấng đã sai Người, Chúa Giêsu đi vào phần cuối của bài diễn từ và hướng lòng trí các môn đồ về sứ mạng Kitô hữu.

  1. Các câu tiếp theo (35-38) có phần nào tối nghĩa và đã gây ra nhiều lối giải thích khác nhau. Phải chăng Chúa Giêsu trích hai lần (c.35a và 37b) một câu tục ngữ, hay là Người chỉ nhắc lại một câu nói của các môn đồ, ít nhất trong trường hợp thứ nhất? Người muốn ám chỉ ai khi nói đến kẻ gieo (36c) người gặt (37b), khi nói đến “những kẻ khác” đã vất vả khó nhọc trước lúc các môn đồ thừa hưởng hoa quả do công lao của họ? (38c). Chắc chắn phải bảo “người gieo” của câu 36 với “người gieo” của câu 37 là một. Về điểm này cũng như các điểm khác, chúng ta sẽ làm nổi bật sự nhất thống sâu xa của bốn câu văn, nhưng chúng ta cũng sẽ minh chứng rằng công việc Chúa Giêsu chu toàn được mô tả ở đây trong viễn ảnh việc tông đồ mà các môn đồ sẽ phải hoàn tất khi đến phiên họ.

“Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt” (35). Người ta đôi lúc giát thích lời này như một câu tục ngữ nông thôn (Bốn tháng có qua, mùa màng mới đến). Nhưng câu dẫn nhập trước đó (“Các người lại chẳng nói thế này sao gần giống như câu dẫn nhập vào cc. 31 và 33 (“môn đồ nói nằng với Người mà rằng”, các môn đồ mới nói”), cho phép ta giả thiết rằng các tiếng báo trước như thế có một phận vụ giống nhau trong cuộc đối thoại. Điều Gioan muốn ở đây, không phải là trích dẫn một câu ngạn ngữ quen thuộc (mà chẳng đâu khác nói đến), song là ghi lại một nhận định riêng của chính các môn đồ, để làm sáng tỏ thêm một lần nữa óc chậm hiểu của các ông. Phải bốn tháng nữa mới tới mùa gặt” các ông nhìn những cánh đồng xung quanh và nói như thế. Nhưng Chúa Giêsu đã dùng một công thức Kinh Thánh cổ xưa để mở đầu câu trả lời của mình: “Hãy ngước mắt lên mà nhìn”. Trong Cựu ước, đó là tiếng mời gọi chiêm ngắm sự cao cả của Thiên Chúa (Is 40, 26), sự phổ quát của những lời hứa cho Abraham (St 13, 14) và nhất là sự quy tụ các dân nước (Is 49,18 ; 60, 4 ; Br 5, 5- 6).

Trong Ga 4, 35, việc áp dụng các tiếng này thật rõ ràng.  Chúa Giêsu đặt mình ngay vào bình diện thiêng liêng. Trái ngược với điều các môn đồ nghĩ, ngay bây giờ đồng lúa đã chín vàng chờ gặt rồi: dân thành Samari, đang tới gần và trong chốc lát sẽ tin vào Người (41), là những hoa quả đầu tiên của mùa gặt thiên sai đối với Chúa Giêsu; việc muôn dân nước quy tụ mà các ngôn sứ tiên báo đã bắt đầu thực hiện với họ. Trong Thánh Kinh, mùa gặt có hai nghĩa: nói thì chén lúa chí sự phán xét của Thiên Chúa; chỗ khác mùa gặt tượng trưng, niềm vui ơn cứu độ (Is 9, 2 ; Am 9, 13 ; Tv 126, 5), sự trở về của những người tản mác tha hương (Is 27, 12- 13) và trong Tân ước, tượng trưng cho hoa quả của việc truyền giáo (Mt 9, 37). Đó là trường hợp nêu ra ở đây: Chúa Giêsu gợi lên niềm vui của thợ gặt, phần thưởng của họ, hạt lúa mà họ thâu lượm cho sự sống đời đời. Thường thường là vậy trong Tin Mừng Gioan, các thực tại thời cánh chung được xảy ra trước trong sứ vụ của Chúa Giêsu.

Ta tự hỏi ở đây người gieo và kẻ gặt tượng trưng cho ai? Phải chăng họ chỉ là những yếu tố mô tả dùng để khai triển đề tài mùa gặt? Khuynh hướng dừng biểu tượng của Tin Mừng thứ tư mời gọi chúng ta nên hiểu kẻ gieo người gặt theo nghĩa ám dụ; việc chú giải cũng phái lưu ý đến cái nguyên tắc được nhắc lại ở câu 37 trong ngạn ngữ: “Kẻ gieo khác, người gặt khác”. Kẻ gieo không chỉ những người đi trước Chúa Giêsu (các ngôn sứ hay Gioan Tẩy giả), cũng chẳng chỉ Chúa Cha, nhưng chỉ chính Chúa Giêsu mà lời nói, theo Tin mừng, là một hạt giống (Lc 8, 11); thực vậy, cuộc đàm thoại với thiếu phụ Samari đã mang lại những hoa trái đầu tiên. Do đó, hình ảnh người gặt chỉ có thể áp dụng cho các môn đồ; mặc dầu chưa sai họ đi truyền giáo, nhưng Chúa Giêsu đã thấy việc rao giảng của Người được nối tiếp trong việc rao giảng của họ (x. câu 38): “Kẻ gieo cùng người gặt đều hoan hỉ” (c.36): ngay từ bây giờ,  Chúa Giêsu và các môn đồ đều vui sướng nhìn hoa quả của công việc truyền giáo.

“Ta sai các ngươi đi gặt nơi các ngươi đã chẳng vất vả làm ra” (c.38). Tin Mừng thứ 4 không hề nói đến một cuộc truyền giáo nào của các môn đồ khi Chúa Giêsu còn tại thế cả: việc sai đi truyền giáo chỉ xảy ra vào ngày Phục sinh (20,21). Thành ra, để có thể hiểu 4,38, phải cùng với tác giả đặt mình trong quan điểm của việc rao giảng thời đầu Giáo Hội: các người truyền giáo phải luôn nhớ rằng mình đã được Chúa Kitô sai đi. Họ sẽ gặt nơi “họ không vất vả làm ra”. Ở đây cũng còn phải coi nhứ một lời ám chỉ đến công việc của Chúa Giêsu. Vẫn biết động từ “làm vất vả” (kopiân) thường diễn tả công việc tông đồ khó nhọc, nhất là trong khung cảnh truyền giáo của thánh Phaolô (1Cr 15, 10 ; 16, 16 ; Gl 4,11 ; Pl 2, 16 ; Cl 1, 29 ; 1Tm 5, 17), và Gioan cũng áp dụng động từ này cho các môn đồ (với thể phủ quyết ở câu 38: ou kekopiakate), nhưng lúc đầu câu chuyện, ông đã áp dụng động từ cho Chúa Giêsu: người mệt mỏi (kekopiakos) vì đường sá (c.6). Ta có thể nghĩ rằng, đối với tác giả, đó là người “mệt mỏi” vì gieo hạt. Công khó của Chúa Giêsu đưa người đến thánh giá, sẽ mang lại hoa quả trong sứ vụ của các môn đồ; cái chết của Người là hạt giống (12, 24. 32- 33); nhưng các môn đồ sẽ cảm nếm niềm vui của mùa gặt.

Ở cuối câu 38, việc đồng hóa các nhân vật trở nên rắc rối, vì chủ từ của động từ là số nhiều: “Những người khác đã vất vả rồi, còn các ngươi đến thừa hướng công lao của họ”. Những “người khác” này không thể hiểu là một mình Chúa Giêsu được. Theo cách chú giải thông thường của các tác giả xưa thì từ ngữ chỉ những người đi trước Chúa Giêsu: các Tổ phụ và các ngôn sứ; một vài kẻ lại cho là Gioan tẩy giả và môn đồ của ông. Nhưng sự song đối giữa “gieo” và “vất vả làm ra” không cho phép chúng ta nghĩ đến một thời đại trước Chúa Giêsu. Bản văn làm nổi bật nét tương phản giữa việc rao giảng đầu tiên (“gieo” “vất vả”) và sự phong phú hoa quả trong Giáo Hội (“gặt”). Chúa Giêsu là người đầu tiên giữa “những kẻ khác” này, nghĩa là người đầu tiên trong các người thợ đã vất vả khó nhọc để rao giảng Lời. Nhưng viễn ảnh mở rộng ra ngay lập tức, như cách thay đổi thì của các động từ cho thấy: từ việc rao giảng của Chúa Giêsu (xem cuộc đối thoại với thiếu phụ Samari), tất cả chú ý đều chuyển qua sứ mệnh truyền giáo của Kitô hữu. Có lẽ Gioan liên tưởng đến sứ vụ truyền giáo đầu tiên tại Samari, có kể lại trong sách Công vụ (8,4- 17): tại đây Tin Mừng được rao giảng trước tiên do những người Do thái hy hóa, nhất là do Philipphê, nhưng ơn Thần khí chỉ được ban cho người Samari do các sứ đồ Phêrô và Gioan những kẻ khác từng vất vả trước các sứ đồ là tất cả những ai đã rao truyền Tin Mừng trước họ, đầu tiên là chính Chúa Giêsu, và sau Người là các nhà rao giảng Tin Mừng tiên khởi. Bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã xây nền móng cho sứ vụ truyền giáo của Kitô hữu vậy.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Người phải băng qua Samari”. Lộ trình ngắn nhất và dễ nhận từ Giuđê đến Galilê chạy ngang qua miền Samari. Edei, “Người phải “, diễn tả một sự bắt buộc hay một sự tiện lợi về địa dư? Động từ dei, trong Tin Mừng Gioan (3, 7.14. 30 ; 4, 20. 24 ; 9, 4 ; 10, 16 ; 12, 34 …) cũng như trong các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 8, 31 ; 9, 11) thường có nghĩa một sự bắt buộc phát xuất từ ý định cứu rỗi của Thiên Chúa. Có thể bảo edei vừa xác định thêm chi tiết địa dư, vừa đặc biệt ám chỉ rằng Thiên Chúa muốn có câu chuyện này xảy ra ở Samari để mặc khải tính cách phổ quát của ơn cứu độ do Con Ngài mang đến.

“Lúc ấy chừng giờ thứ sáu”. Những lối xác định thời gian loại đó ta còn gặp thấy trong 1, 39 ; 4, 52 và 19, 14. Trong 19, 14, cũng một thành ngữ như ở đây tái hiện trong bối cảnh vụ xử án Chúa Giêsu: có thể Gioan đã muốn dùng cùng một cách nói như vậy để ngụ ý là tính cách phổ quát của ơn cứu rỗi, được tỏ lộ trong câu chuyện hôm nay, tùy thuộc vào cái chết cứu chuộc của Chúa Kitô.

“Cho tôi uống với”: Như trong mọi trình thuật của Gioan, chính Chúa Giêsu là người khởi xướng. Lời xin của Người có vẻ tự nhiên, vì lúc đó là buổi trưa, sau khi đi đường xa mệt mỏi. Nhưng đối với độc giả của Gioan, thì một lời xin như thế có vẻ lạ thường, vì người xin uống nước là chính người phải ban cho nước sống dư tràn.

“Trong Thần khí và sự thật”. Một lối chú giải rất được phổ biến cho đây là lời ám chỉ việc phụng tự thiêng liêng, nội tâm, loại bỏ mọi hy tế và mọi nơi thờ phượng. Việc phụng tự hoàn toàn nội tâm này được khơi nguồn do sự hiểu biết đích thực về Thiên Chúa và do lòng sùng kính thành thật đối với chân lý. Song một lối giải thích như vậy vẫn còn thiếu sót, vì không lưu ý tới tính cách mới mẻ của việc phụng tự do Chúa Kitô thiết lập. Thật vậy, các ngôn sứ đã đòi hỏi việc phụng tự nội tâm nhiều lần rồi (Am 5, 20- 26 ; Is 1, 11- 20 ; 29, 13 ; Tv 50, 7- 23; 51, 18tt). Vào thời Chúa Giêsu, người Do thái cũng như dân ngoại đều biết rằng phụng tự nội tâm trồi vượt phụng tự bên ngoài. Việc phụng tự mới được Chúa Kitô trình bày ở đây không thể chỉ là lặp lại lý tưởng các ngôn sứ rao giảng; nó phải được đặt vào trong bối cảnh chung của khởi điểm mới trong Chúa Kitô. Việc phụng tự Chúa Cha đích thực phải đáp ứng với địa vị mới của người tín hữu là được trở thành con Thiên Chúa: “Những kẻ thờ phượng đích thật” là những kẻ “sinh bởi Thiên Chúa” (1, 13) bằng nước và Thần khí (3, 5) và được hiến thánh nhờ sự thật (17, 17. 19). Thành ra việc phụng tự mới là việc phụng tự khơi nguồn bởi nguyên lý sự sống của các Kitô hữu.  Đây là phụng tự trong sự thật”, vì được thành hình do mặc khải vẹn toàn của Chúa Giêsu.

“Thiên Chúa là Thần khí”. Xác quyết này là một trong ba xác quyết quan trọng của Gioan về Thiên Chúa (“Thiên Chúa là ánh sáng ” 1Ga 1, 5; “‘Thiên Chúa là Tình yêu” 1Ga 4, 8- 16). Nó có vẻ như là một định nghĩa về Ngài. Nó gần giống như phản ứng của các người Do thái hy hóa và các triết gia ngoại giáo chống lại những lối trình bày nhân hình về Thiên Chúa. Với lại ta không thấy một giáo huấn nào tương tự trong Cựu ước cả. Vì vậy có kẻ nghĩ rằng lời xác quyết của Gioan ở đây mang nguồn gốc Hy lạp. Tuy nhiên, không nên giả thiết một sự vay mượn như thề vì giáo thuyết của Gioan về Thần khí nối dài giáo thuyết của Cựu ước, theo đó thì Thần khí không phải là cách hiện hữu đối nghịch với vật chất, nhưng là hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa nhằm phát sinh sự sống. Đó cũng là ý nghĩa cơ bản mà ta thường gặp nơi Gioan (3, 5-8 ; 6, 63 ; 7, 38 ; 14, 17- 19). Thành ra phải kết luận rằng ớ đây Gioan không có ý chống lại những cái nhìn vật chất, như nhìn về Thiên Chúa, song chỉ muốn xác nhận quyền năng đáng tạo sự sống của Ngài.

KẾT LUẬN

Qua việc dùng các tước hiệu khác nhau, những tước hiệu mời gọi niềm tin dần dần, trang sách này của thánh Gioan đã mặc khải một khía cạnh cơ bản trong mầu nhiệm Chúa Giêsu. Lúc đầu, Người chỉ là một lữ khách vô danh. Sau đó, thiếu phụ Samari khám phá ra Người là một người Do thái (c 9). Khi nghe lời hứa kỳ lạ về một thứ nước sống, bà hỏi Người: “Dễ chừng Ngài lại lớn hơn Giacóp cha chúng tôi sao?” (c. 12). Lúc nhìn thấy là Người đã thấu rõ bí mật đời tư của mình, bà mới nhận ra Người là một ngôn sứ (c. 19). Sau cùng, khi Chúa Giêsu đã mặc khải cách hoàn toàn rồi, bà phỏng đoán Người có lẽ là Đấng Kitô (c.29). Nhưng chính dân thành Samari, hoa quả đầu mùa của các dân tộc, mới tuyên xưng đức tin của họ vào Chúa Giêsu “Đấng Cứu Thế” (c.42). Từ đầu đến cuối, việc mặc khải vẫn nằm trong viễn ảnh lịch sử cứu độ. Các chương Tin Mừng khác mặc khải Chúa Giêsu là Đáng Thiên Chúa sai đến và là Con Chúa Cha. “ki tô ” và “Con Thiên Chúa” là hai tước hiệu căn bản của bản tuyên tín theo thánh Gioan (20, 31). Còn “Đấng Cứu Thế” là tước hiệu tổng hợp: Kẻ đã đến như ánh sáng trần gian (8, 12; 12, 46), như Người mặc khải, như Đấng Kitô, là chính Con Một được Thiên Chúa sai đến để cứu rỗi thế gian và cho mọi người có sự sống vĩnh cửu trong mình (3, 16- 18) .

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Chúa Giêsu khai mào câu chuyện với thiếu phụ Samari bằng cách khêu gợi tính tò mò của bà. Người tự đặt mình vào thực tế tầm thường của đời sống thường nhật, vào hoàn cảnh của kẻ phải mệt mỏi kín nước đều đều, để rồi làm cho bà cảm thấy không phải chỉ cần có thứ nước ấy mới sống được, không phải chỉ có những thực tại vật chất là đáng kể trong đời sống. Hôm nay đây, Chúa còn hiện diện trong cuộc sống thường ngày của ta. Ta có biết nhận ra Người chăng? Có chấp nhận đối thoại với Người? Có đồng ý là không phải chỉ những thực tại vật chất mới đáng kể trong đời sống của ta, có cố gắng để đừng bị vật chất chi phối chăng? Vì không chỉ có thứ nước tự nhiên mà thôi, song còn thứ nước siêu nhiên vọt đến sự sống vĩnh cửu. Cuộc đời của ta còn phải được nuôi dưỡng bằng việc cầu nguyện và tôn thờ Thiên Chúa.
  2. “Ai uống nước giếng này, sẽ còn khát lại” (c. 13). Nước này không giải khát thật sự, nó vừa tạm thời xoa dịu cơn khát, vừa duy trì và kích thích cơn khát. Ai lại không biết cái chu kỳ quỷ quái của dục vọng, luôn luôn tái phát, chẳng bao giờ nó thỏa; ai mà không cảm thấy các nhu cầu được thỏa mãn cứ trào lên vô tận, thúc đẩy mình hưởng thụ cách nào đó: càng khát, lại càng uống, càng uống lại càng khát! Và luôn luôn theo lối lý luận ích kỷ ấy mà người thiếu phụ Samari đón nghe những lại của Chúa Giêsu về nước sống và tìm cách lợi dụng cơ hội: xin Ngài ban cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát và khỏi đến cây múc nước” (c.15). Một ngộ nhận như thế cũng gặp thấy nơi người Do thái trong diễn từ Bánh sự sống: thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy” (6, 34). Theo bản năng tự nhiên, ta có khuynh hướng muốn chụp lấy ơn Thiên Chúa như một thứ bảo hiểm sinh mạng khả dĩ miễn cho mình lăn lộn với đời, như một số vốn mang lại nhiều lợi giúp mình mãi mãi an cư, muốn thứ bánh, thứ nước Ngài ban cho ấy trở thành kho vô tận, dùng mãi không bao giờ cạn. Nhưng ơn Thiên Chúa đâu có muốn giản lược ta vào trong sự thỏa mãn cái tính cách dinh dưỡng đó: “Ai uống nước Ta sẽ ban, thì đời đời sẽ không khát nữa” Chúa Giêsu bảo vậy (c.14). người không giữ nước ấy trong một bình đóng kín, bưng bít một cách ích kỷ. Trái lại, nước Ta sẽ ban cho nó sẽ trở nên trong nó một suối nước vọt đến sự sống đời đời” (c.14). Nước sống ấy có sức giải khát vì, vượt ra ngoài bản năng bảo tồn, nó làm phát sinh trong ta chính nguồn sống, và dạy chúng ta rằng sống chính là trao ban, là chia sẻ không tính toán, là phun trào ra mà không giữ lại.
  3. Cuộc đối thoại chuyển qua hướng mới với mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Hãy đi gọi chồng bà …”. Để cho thiếu phụ Samari hiểu và đón nhận ơn Thiên Chúa, Chúa Giêsu đột ngột đề cập đến bí mật đời tư của bà. Trong lãnh vực này, cơn khát của người đàn bà, cơn khát tình yêu, cũng chẳng được thỏa mãn; thiếu phụ đã có năm đời chồng và người đang sống với bà hiện giờ không phải là chồng đích thực (c. 18). Giống như nước mà bà phải đến múc uống luôn song chẳng đã khát, những nỗ lực tình yêu liên tiếp của bà đã làm bà thất vọng và đẩy bà vào nỗi cô đơn. Mục đích của Chúa Giêsu không phải là đem người thiếu phụ trở về thái độ sám hối song là cho bà thấy, như đã cho Nathanael thấy (1, 47- 50). Người thông suốt lạ lùng, là khiến bà cúi đầu trước uy nhan của vị Ngôn sứ và từ đó chuẩn bị cho bà lãnh hội mặc khải của Thần khí. Thực vậy, không một tiếng quở trách, không một lời khuyến khích nào trên môi miệng Chúa Giêsu; không một tâm trạng tội lỗi, không một giọng thống hối nơi người đàn bà; nhưng chỉ có một lời khen ngợi đầy vẻ ngạc nhiên: thưa Ngài, tôi thấy Ngài là một ngôn sứ (c.19), và sau đó, trong câu nói với dân làng: một người đã bảo cho tôi biết mọi sự tôi đã làm (c. 9). Nếu có chuyện tội chăng nữa, thì vấn đề không phải chỗ đó, hoặc hình như bị gác ngay qua một bên. Với ánh mắt nhân từ và sáng suốt, Chúa Giêsu cũng mời gọi ta hãy nhìn thăng mình không chút tự mãn song cũng chẳng chút xấu hổ, cay đắng và thất vọng. Đặc biệt Người muốn dẫn đưa ta đến chỗ nhìn nhận Người là vị “Ngôn sứ Thiên Chúa sai đến, là Đấng mặc khản về bản tính nhân loại đích thực của ta, là Đấng giúp ta khám phá ý nghĩa và không chiều kích của cơn đói khát trong ta, là Đấng tố cáo những mưu kế mà ta dùng để đánh lừa hoặc thỏa mãn cơn khát ấy một cách rẻ tiền. là Đấng dạy cho ta biết sống và trào dâng nước sống của ơn Chúa.

 

56.             Gặp gỡ Chúa Giêsu

(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)

Tin mừng Ga 4: 5-42: Đức Giê-su trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát.14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên…

Mặc dù vào lứa tuổi thanh thiếu niên, Juan Jose Martinez đã mang trong lòng mối thù hận chống lại Giáo Hội, nhưng hôm nay Juan Jose Martinez đã trở thành một linh mục và nói rằng mình đã khám phá ra “Thiên Chúa thật sự hiện hữu và muốn trở thành một linh mục của Chúa.”

Hiện nay cha Juan Jose đang phục vụ tại Giáo Phận Almeira, Tân Ban Nha, nhớ lại rằng “Vào những buổi sáng Chúa Nhật tôi thường đứng ở hành lang trên lầu nhà mình và nhổ nước miếng xuống những người đi lễ. Tôi nói với họ rằng Giáo Hội là một giáo phái chỉ muốn tiền.”

Cha mẹ của Juan Jose không phải là người Công Giáo và cũng chẳng bao giờ dạy dỗ con mình về tôn giáo cả. Cha Juan Jose đã nói rằng thực ra mình cũng chẳng biết tại sao lại ghét đạo như vậy dựa trên cái ý niệm là Giáo Hội và Thiên Chúa chỉ là “một tổ chức đa quốc gia với nhiều chi nhánh ở khắp mọi nơi để kiếm tiến, giống một giáo phái vậy.” “Tôi nhất định chống đạo. Tôi là học sinh đầu tiên trong trường tôi và trong thành phố Carboneras, thị trấn Almeria không bao giờ chịu học về tôn giáo và môn thay thế tôn giáo của tôi là môn Đạo đức. Cuối cùng cả lớp đều học môn Đạo đức, không còn ai học môn Tôn giáo cả.”

Cha Juan Jose đã không thể ngờ được rằng mình lại chính là người giúp các bạn cũ trở về với Giáo Hội. Cha nhớ rất rõ cái ngày đầu tiên cha tới một nhà thờ Công Giáo với ý định là đến để diễu cợt những người đã mời mình.“Một ngày vào tháng Giêng năm 1995, một số bạn cùng lớp rủ tôi tham dự một buổi cầu nguyện Canh Tân Đặc Sủng. Dĩ nhiên tôi nói với họ là tôi không đi vì tôi không muốn họ tẩy não tôi. Nhưng họ cứ kiên trì mời tôi mãi cả tháng trời, cuối cùng thì tôi nể tình mà đi theo họ. Tôi nhớ hôm đó là vào ngày Thứ Năm của Tháng Hai, năm 1995, lần đầu tiên tôi bước vào nhà thờ.”

Và chính khi đối diện với Thánh Thể, cha Juan Jose đã cảm nhận: “Mắt tôi được mở ra và tôi đã thấy Thiên Chúa không phải là truyện thần thoại, nhưng Chúa hiện hữu, Ngài nâng đỡ và hướng dẫn tôi. Tôi cảm nghiệm rằng Thiên Chúa yêu tôi rất nhiều và chính Ngài đã gọi tôi.”

Cha Juan Jose đã được rửa tội và rước lễ lần đầu theo mong ước của ông bà nội nhưng mà vẫn chưa cảm thấy gắn bó với Chúa nhiều. Cho mãi đến khi được chịu phép Thêm Sức thì “tôi mới cảm thấy có sự hoán cải và đó chính là món quà tuyệt vời Chúa ban. vào tháng Chín, năm 2000, Jose đi vào chủng viện.

Vào năm 2006, cha Juan Jose đã được thụ phong Linh Mục tại nhà thờ chính tòa Almeria,

“Khi có ai đó nói với tôi là họ không tin vào Thiên Chúa, tôi luôn nói với họ rằng cả tôi cũng đã không tin vào Ngài. Nhưng đó là sự sai lầm của tôi bởi vì tôi đã khám phá ra niềm hạnh phúc tuyệt vời mà Thiên Chúa ban cho tôi. Nếu bạn cảm thấy không hạnh phúc, thì hãy xin Chúa giúp bạn bởi vì chỉ có Chúa mới ban cho bạn niềm hạnh phúc thật mà thôi.” (Giuse Nguyễn Thẩm, Một người đã từng khinh miệt những người đi lễ nhà thờ – bây giờ trở thành linh mục. Nguồn: http://vietcatholic.com/News/Html/216599.htm)

Cha Juan Jose được hoán cải chính là nhờ cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, một cuộc gặp gỡ giữa một người có ý định phỉ nhổ đức tin với chính Đấng là đối tượng của đức tin. Juan jose được hoán cải không bởi tự chính mình, nhưng chĩnh bởi Đấng là yêu thương, Đấng đến để đi tìm kẻ tội lỗi để đưa họ trở về. Đấng yêu thương tự có sáng kiến để đến gặp gỡ, và làm cho cuộc gặp gỡ trở thành biến cố hồng ân cứu độ. Sáng kiến gặp gỡ của Đấng yêu thương vượt qua mọi định kiến, mọi trở ngại để làm sao cho chân lý được rọi soi vào bóng tối, cho hy vọng được bừng lên nơi chán chường thất vọng.

Nếu như không vượt qua mọi định kiến của luật lệ, của truyền thống thì làm sao có cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samarie, để có thể giúp cho không những một mình chị mà cả làng nơi chị cư ngụ nghe được Tin Mừng?

Mùa chay là thời gian không chỉ là mời mời gọi người Kitô hữu chúng ta hoán cải, nhưng còn là kêu mời chúng ta giúp người khác hoán cải. Điều đó cũng có nghĩa là nhắc nhở chúng ta không mải lo đóng của phòng để cầu nguyện, để chay tịnh, nhưng còn là lên đường tìm kiếm những kẻ đang lạc lối trên con đường tìm kiếm chân lý được nhận ra con đường dẫn tới sự sống đích thật. Con đường đó không gì khác chính là Đức Kitô. Bởi đó, sống tâm tình Mùa chay cũng là làm cho người khác gặp được Đức Kitô qua chính đời sống Kitô hữu của chúng ta. Như là một phần chi thể của Nhiệm Thể Chúa Kitô chúng ta phải thực sự trở thành dấu chỉ làm cho Đức Kitô được hiện diện trong môi trường chúng ta sống.

Để được như thế, trước tiên chúng ta  “đổi mới cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa Kitô, Đấng đang sống trong lời của Người, trong các bí tích và nơi người thân cận của chúng ta”. Chúng ta phải thanh luyện chính bản thân qua “một cuộc hành trình thực sự của hoán cải, để chúng ta có thể tái khám phá hồng ân lời Chúa, được thanh tẩy khỏi tội lỗi đã làm cho chúng ta ra mù loà, và phục vụ Chúa Kitô hiện diện trong những anh chị em của chúng ta đang túng thiếu” (x. Sứ Điệp Mùa Chay 2017 của Đức Phanxicô).

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn nỗ lực tìm đến với mọi người đang sống trong tình trạng xa cách được khám phá ra chân lý hằng sống, qua việc chúng con thành khẩn thanh luyện bản thân ngày càng trở nên giống Chúa, để những ai gặp chúng con là họ gặp được chính Chúa, và nhở đó họ được hoán cải. Amen.

 

57.             Cầu xin ân huệ từ Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

 

Hơn một tháng đã trôi qua kể từ thời điểm tin tức về bệnh dịch Corona được loan đi từ thành phố Vũ Hán. Cả thế giới vẫn còn bàng hoàng, thì đại dịch ập đến một cách nhanh như vũ bão. Mọi người không trở tay phòng vệ kịp thời. Trong chớp mắt, dịch bệnh đã lây lan khắp nơi và đã không còn là chuyện riêng của người dân Vũ Hán. Tổ chức Y Tế Thế Giới đã phải thông báo tình trạng khẩn cấp tình trạng bệnh dịch lang tràn toàn cầu. Virus Corona gây bệnh dịch viêm phổi cấp thì vô hình, nhưng nỗi hoang mang lo sợ đã thành hình trong ánh mắt, trong tâm hồn và trên gương mặt con người. Những xáo trộn đã hiển hiện trong nhịp sinh hoạt tâm lý, thiêng liêng và đời sống xã hội của con người ở rất nhiều thành phố và quốc gia trên khắp thế giới.

 

Trước tình hình đó, các Đức giám mục nhiều Giáo phận mời gọi anh chị em hãy kiên trì cầu nguyện, tín thác vào Lòng thương xót Chúa, nhất là hy sinh, hãm mình để cầu xin Thiên Chúa, Đấng có quyền năng chữa lành anh chị em bị nhiễm bệnh, ban cho các nhà khoa học sớm tìm ra phương thuốc chữa trị dịch bệnh này, cho các y bác sĩ tận tình chữa trị bệnh nhân, ban bình an và sự an ủi cho các bệnh nhân và thân nhân của họ, nhất là cho nạn dại dịch sớm chất dứt. Rõ ràng, hơn bao giờ hết trong thời gian dịch bệnh đang hoành hành, mọi người chúng ta ai cũng kháo khát được Chúa ban cho mạnh khỏe, gìn giữ khỏi nhiễm bệnh và cho lành bệnh mọi bệnh dịch kể cả thân xác và tâm hồn. Niềm khao khát đó trong lúc này cũng giống như người nữ Samari, chúng ta đang khao khát một Dòng Nước Hằng Sống  mà Chúa Giêsu ban cho bà trong Tin Mừng hôm nay. Nước và Máu cứu độ từ cạnh sườn chảy ra trên cây thập tự.

 

Nước là ân huệ, là quà tặng, là dấu chỉ của Chúa ban. Thiên Chúa săn sóc dân Ngài qua hình ảnh ban nước cho dân và đàn súc vật của họ. Nước nói lên ý nghĩa biểu chưng cho sự sống, nó còn ám chỉ chúng ta phải hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài về vật chất cũng như tinh thần. Không được Ngài liên tục nâng đỡ, dân Chúa sẽ héo khô như cây cỏ thiếu nước dưới ánh nắng mặt trời gay gắt như lưả đốt. Bài đọc 1, sách Xuất hành hôm nay đặt dân Do thái vào giữa hoang địa khô cằn dưới chân núi Horeb. Họ phàn nàn vì thiếu nước. Horeb có nghĩa là “Khô”. Xét về phương diện tinh thần thì ở giai đoạn này đúng là họ đang “khát” Thiên Chúa. Họ cần Ngài để đủ can đảm tiến bước vào sa mạc, lang thang suốt 40 năm trong hoang địa.

 

Cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng có những giây phút đầy thử thách bệnh dịch như thế này. Chúng ta bắt buộc phải “ra đi” vào những hành trình dài thăm thẳm về tinh thần cũng như vật chất. Cụ thể cuộc sống đầy lo âu sợ hãi hay khó khăn hàng ngày, chúng ta cần phải thay đổi liên tục để có thể thăng tiến: vừa tìm kiếm cơm áo gạo tiền vừa sợ bệnh dịch lây nhiễm; sợ bệnh dịch nhưng không bỏ tính hư tật xấu ăn chơi đi khắp tới phương thiên hạ; vừa lo sợ dịch bệnh vừa bỏ giữ lễ Chúa Nhật nếu có đi cũng vì bổn phận sợ tội chứ tâm trí và niềm tin sao lãng và lung lây… Dẫu rằng đứng trước muôn vàn khó khăn, bấp bênh và sợ hãi nhưng nhìn lại dân Israel, con đường thoát khỏi nô lệ của họ muôn vàn khó khăn chồng chất nhưng nhờ đức tin vào Thiên Chúa quyền năng, họ vững tin dấn bước, chấp nhận gian nan để vượt qua khó khăn thử thách. Vì vậy, Thánh Phaolô đã nhắc nhớ chúng ta trong bài đọc 2: “Anh em đã được công chính hóa nhờ đức tin”. Ðối với người Do thái, đức tin đó là của Abraham. Còn với các tín hữu là của phép rửa tội. Nó là khởi đầu của đời sống mới, không phải do sức riêng mình, mà đến từ Thiên Chúa như Chúa Giêsu tuyên bố trong Phúc Âm hôm nay: “Nếu chị biết nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban”. Tất cả đều là ân sủng. Chúng ta chẳng thể ép buộc ân sủng xảy đến cho mình, chúng ta cũng chẳng thể sản xuất ra nước trong hoang địa. Nhưng chúng ta cần ân sủng để sống còn. Nước – hình ảnh nhắc nhớ về Thiên Chúa – chúng ta đói khát, nhưng chẳng thể nào tự liệu được cho mình mà chỉ có Thiên Chúa ban cho mà thôi. Như Chúa Giêsu nói: “Ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”.

 

Nhìn chung quanh thế giới chúng ta đang sống thời bệnh dịch này hầu như thấy lo âu, sợ hãi cho nên trong tình hình này, cơn khát cùng cực về tình người hiệp lòng một ý chống dịch và nhất là khát quyền năng Thiên Chúa xoa dịu cơn đại dịch luôn là cần được thỏa khát mong chờ của từng người. Xin hãy nhớ lại Thiên Chúa của Xuất hành: Bờ biển sậy và vua quan Ai cập sau lưng! Ðột nhiên biển mở ra – Họ băng qua biển khô chân. Họ chết đói khát trong sa mạc – Chúa ban Manna bởi trời và Chúa truyền lệnh cho Môsê dùng gậy đập đá, và nước vọt ra. Chính Thiên Chúa chịu trách nhiệm trên dân Ngài và Ngài đã ra tay cứu dân Ngài trong cơn hoạn nạn.

 

Hôm nay chúng ta vẫn kêu xin Chúa dủ lòng thương chúng ta như dân tộc Israel xưa. Thánh Phaolô nói rằng chúng ta đã được nên công chính nhờ đức tin. Thì chúng ta tin vào Thiên Chúa và chúng ta cần ân huệ hằng sống của Ngài vì chưng ân huệ của Chúa vượt ngoài khả năng của chúng ta. Thiên Chúa như người cha săn sóc con cái trên mỗi chặng đường khó khăn để chúng ta được giải cứu với điều kiện chúng ta hãy tin tưởng vào quyền năng của Thiên Chúa, hy sinh, hãm mình, sám hối, yêu thương xây đắp tình người và đặc biệt cầu nguyện thật nhiều trong cơn dịch bệnh này. Đúng như Lời Chúa trong bài đọc 2, Thánh Phaolô xác tín: “một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”.

 

58.             Chúa là nguồn nước hằng sống

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

 

Lời Chúa trong Bài đọc 1 nói đến một vị lãnh đạo tài ba của dân Israel ra khỏi Ai cập về lại miền đất Hứa và ông cũng là người đại diện cho tất cả lề luật Cựu ước, đó là ông Môsê. Xuyên qua cuộc đời và những biến cố của Môsê, chúng ta khám phá ra khuôn một người được Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc, gìn giữ ông thoát mọi hoàn cảnh nguy nan đưa ông đến nguồn sự sống đời đời đồng thời giải thoát con người khỏi tội lỗi. Ông Môsê sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm. Khi sinh ra, ông được đặt trong cái thúng thả trôi sông, sự sống của ông đúng ngàn cân treo sợi tóc. Thế nhưng chính trong hoàn cảnh đấy Chúa đã ra tay che chở. Cô gái con gái của vua Pharaon tắm sông, thấy và vớt đem về nuôi cho ăn học văn võ song toàn dù là ông người  là Do thái hầu chuẩn bị cho ông lãnh đạo dẫn dân Chúa ra khỏi Ai cập. Khi giải thoát dân Israel ra khỏi Ai cập, ông Môsê và dân Chúa phải trải qua 40 năm trong sa mạc biết bao nhiêu khó khăn gian khổ đói và khát. Chính lúc ấy dân Do thái đặt câu hỏi với ông Môsê có Chúa ở với chúng tôi không? Chúa trả lời bằng hành động, bảo ông Môsê lấy gậy đập vào tảng đá nước vọt ra và dân đến múc uống đả cơn khát. Rồi Thiên Chúa tỏ danh của Ngài cho Môsê là Ta là hằng hữu, rồi chính Ngôi hai Thiên Chúa xuống thế làm người có tên là Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

 

Quả thế, hôm nay Thiên Chúa ở với chúng ta để chia sẻ cơn khát và đói với chúng ta. Cụ thể, Tin Mừng chúng ta vừa nghe kể rằng có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Đức Giêsu nói với người ấy: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” Rồi trên cây thập giá, Chúa Giêsu kêu than rằng: Ta khát. Rõ ràng Chúa Giêsu là Chúa xuống thế làm người để chia sẻ những cơn khát nước, khát cơm áo của chúng ta và còn hơn thế nữa Ngài khơi dậy cơn khát sâu thẳm đó là: khát tự do, khát công bằng, chân lý, yêu thương, khát hạnh phúc và sự sống đời đời. Vì thế, mà Người phụ nữ Samari liền nói: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao? Đức Giê-su trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.” Đức Giê-su nói tiếp: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”

 

Mùa chay Giáo hội mời chúng ta ăn chay, cầu nguyện, hy sinh và hãm mình để giúp chúng ta khám phá ra mình cơn đói và khát thể xác thật khổ sở biết bao và chỉ trong cơn đói và khát ấy mình lại khám phá ra rằng nếu mình đói khát Thiên Chúa và đói khát sự sống đời đời, thì cuộc đời này và đời sau mình sẽ khốn khổ biết mấy. Cho nên, chỉ có Chúa Giêsu mới có khả năng thoả mãn cơn khát trong sâu thẳm này. Ngày xưa, ông Môsê lấy gậy đập tảng đá nước vọt ra dân uống, đả khát; ngày nào đó người lính cầm đòng đâm vào cạnh sườn Chúa Giêsu nước và máu chảy ra. Người Công giáo tin rằng dòng nước và máu đó là dòng máu sự sống làm đả cơn khát sâu nhất trong lòng con người, quả đúng như lời Chúa Giêsu quả quyết: “Ai uống nước này sẽ còn… không khát bao giờ…”.

 

Cuộc sống của chúng ta là hành trình đi trong sa mạc. Một khi đã ra đi là giả từ cái gì trong quá khứ, đồng thời dấn bước vào hành trình của tương lai có nhiều nguy hiểm và thiếu thốn đủ điều nhưng điều quan trọng là Chúa đi với chúng ta, Chúa ở trong mọi bước đường của cuộc sống. Chúa Giêsu chia sẻ với chúng ta tất cả: cô đơn, đói, khát, ngược đãi, đau khổ… kể cả những hoàn cảnh bi đát nhất, Chúa ở với chúng ta và ơn Chúa luôn đủ cho ta. Vì chưng, Lời Chúa trong bài đọc hai xác quyết: “Một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giê-su đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa. Nhưng không phải chỉ có thế; chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng: ai gặp gian truân thì quen chịu đựng; ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên; ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy. Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta”.

 

Vì vậy, điều quan trọng là chúng ta có chấp nhận để Chúa ở với mình hay mình để Chúa ở với chúng ta không? Giống vợ chồng ở với nhau: mình với ta tuy hai mà một ta với mình tuy một mà hai, tình yêu nối kết chúng ta, ta thương nhau quá nên hai hóa ra thành một. Cho nên, ở với Chúa có nghĩa là trung tín, chung thủy với Chúa trong từng bước đi của cuộc sống; dám tin vào Chúa ngay cả những cái xem ra mau thuẫn, nghịch thường, khó khăn nhất, đau khổ nhất. Nếu chúng ta chấp nhận để Chúa ở với mình chắc hành trình của chúng ta sẽ đi về sự sống đời và ở nơi đó cơn khát sâu xa nhất của lòng người được thoả mãn. Cụ thể là ông Môsê mà chúng ta vừa mới chiếm ngắm. Rồi, Thánh Augustinô, sau một khoảng đời đi tìm kiếm danh vọng, địa vị, tiền tài, tình yêu, hạnh phúc, cuối cùng đã chán ngán, ăn năn sám hối trở lại với Chúa và ngài đã thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, thế mà bấy lâu nay con chỉ mải mê tìm kiếm cái gì khác ở ngoài Chúa. Vì vậy lòng con luôn băn khoăn thao thức mãi cho đến khi được an nghỉ trong Chúa. Lạy Chúa, con đã biết Chúa quá muộn! Con đã yêu Chúa muộn quá rồi!”. Người thiếu phụ Samari hôm nay khi gặp được Đức Giêsu – nguồn mạch nước hằng sống – đã phải thốt lên với mọi người: “Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi mọi việc tốt đã làm. Phải chăng ông ấy là Đấng Kitô”. Sau khi dân thành Samari kéo đến gặp Chúa Giêsu và xin Ngài ở lại, họ đã hân hoan tuyên xưng rằng: “Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng Cứu Thế”.

 

Lạy Chúa, chúng con tin và tôn thờ Chúa là nguồn Nước Hằng Sống và chỉ có Chúa mới đem lại sự sống đời đời. Amen.

 

59.             Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

  1. Có thực tại trần gian nào thỏa mãn được những khát vọng vô hạn của con người không? Những thực tại siêu nhiên thì sao? Thực tại nào có thể thỏa mãn những khát vọng của con người để họ được hạnh phúc?
  2. Người ta có luôn luôn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa trong kinh nguyện, trong thánh lễ, trong các bí tích không? Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa phải có những yếu tố nào?
  3. Thế nào là thờ phượng, gặp gỡ Thiên Chúa “trong thần khí và sự thật”?

 

Suy tư gợi ý:

  1. Khát vọng của con người không bao giờ được thỏa mãn

Khát nước, đó là tình trạng thiếu thốn mà ai cũng đều kinh nghiệm hằng ngày. Khát nước đòi người ta phải uống nước để thỏa mãn cơn khát. Nếu không thỏa mãn, con người sẽ bị cơn khát dằn vặt rất đau khổ. Uống rồi thì hết khát, nhưng chỉ một thời gian (một tiếng hay hai tiếng sau) cơn khát lại trở lại, và cứ thế mãi. Đói cũng tương tự như khát. Ngoài nước uống và thức ăn, con người còn đói khát nhiều chuyện khác: tình cảm, tình yêu, tình dục, tiếng khen, tiền bạc, địa vị, quyền lực, hiểu biết, trở nên hoàn hảo… Nhưng tất cả những thứ ấy, dù đạt được như lòng mong ước, thì con người cũng chỉ thỏa mãn một thời gian rất ngắn, để rồi lại tiếp tục cảm thấy thiếu thốn. Nếu không tiếp tục thỏa mãn, con người cảm thấy đau khổ. Khi không có chiếc xe đạp, ta cảm thấy thiếu và mong có được chiếc xe đạp. Khi đã có chiếc xe đạp, ta lại thấy thiếu và mong có chiếc gắn máy… Cứ thế, chẳng bao giờ ta hết thiếu thốn, ết đói khát, hay hết khát vọng cả. Hạnh phúc của con người vì thế chỉ luôn luôn tạm thời: được no đủ trong giây lát để rồi lại đói khát triền miên.

Như vậy, con người cứ phải nô lệ cho những cơn khát đủ loại của mình, cứ phải vất vả để tìm đủ cách thỏa mãn chúng. Trong khi tìm cách thỏa mãn chúng, nhiều khi con người phải hy sinh cả gì mình quí nhất: mạng sống, lương tâm, tình cảm vợ chồng, tình nghĩa anh em… Vì thế, cơn khát này chưa được thỏa mãn thì mình lại gây nên những cơn khát loại khác. Cứ thế mà con người lâm vào vô số những vòng luẩn quẩn trói chặt con người vào đau khổ.

 

  1. Làm sao để hết khát vọng? để khỏi đau khổ?

Đức Giêsu nói: “Ai uống nước này, sẽ lại khát”. Thật vậy, những cách thỏa mãn khát vọng của con người đều chỉ là tạm thời. Được thỏa mãn rồi lại tiếp tục khát vọng. Khát vọng siêu đẳng nhất của con người là muốn có một giải pháp để thỏa mãn vĩnh viễn mọi khát vọng, và không còn phải khát vọng nữa. Làm sao có được giải pháp đó trên đời? Đức Giêsu đã cho ta biết Ngài có giải pháp đó: “Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Ngài cho biết giải pháp của Ngài sẽ trở thành “một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” nơi người dùng giải pháp ấy. Có sẵn trong người một mạch nước thì ta sẽ không bao giờ khát nữa, mà trái lại còn có thể làm thỏa mãn cơn khát của người khác. Mạch nước ấy “đem lại sự sống đời đời”. Mạch nước ấy là gì? Là chính Thiên Chúa, được hiện thân thành Đức Kitô. Chỉ cần thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Kitô, ta sẽ có được mạch nước đem lại sự sống ấy ở trong ta. Lịch sử Giáo Hội cho thấy nhờ thật sự gặp được Thiên Chúa, các vị thánh đã được biến đổi hoàn toàn, các ngài cảm thấy hạnh phúc vô biên bất chấp nghịch cảnh, đã yêu thương và có một sức mạnh tinh thần rất lớn để dấn thân và hy sinh cho Thiên Chúa và đồng loại không mệt mỏi. Vậy vấn đề mấu chốt là thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Kitô.

 

  1. Làm sao để thật sự gặp gỡ Thiên Chúa?

Nhiều khi ta đến để gặp Chúa – trong nhà thờ, bằng đọc kinh cầu nguyện, bằng việc dâng thánh lễ, v.v… – nhưng ta lại không thật sự gặp được Chúa. Ta cầu nguyện, đi lễ theo thói quen, theo giờ giấc, theo luật buộc, một cách hoàn toàn hình thức. Ta đối diện với Chúa trước nhà tạm, ta rước Chúa vào tận trong lòng mình, nhưng ta vẫn không thật sự gặp Chúa. Cũng như các kinh sĩ Do Thái xưa, họ nói chuyện với Chúa, ở bên cạnh Chúa, đối diện với Chúa, nhưng không gặp Chúa. Cổ nhân có câu: “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng” (Có duyên với nhau thì dù xa ngàn dặm cũng vẫn gặp được nhau, không có duyên với nhau thì dù có mặt đối mặt cũng không gặp nhau). Như thế, sự gặp gỡ thật sự đòi hỏi phải có “duyên” với nhau, có sự đồng cảm, sự giống nhau nào đó. Cổ nhân còn nói: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” (Cùng âm thanh thì phụ họa nhau, cùng tính tình, khuynh hướng, tài năng thì tìm gặp nhau). Bản chất của Thiên Chúa là tình yêu, nên chỉ những ai biết yêu thương – nghĩa là giống Thiên Chúa – mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa một cách đích thực: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa” (1Ga 4,7a-8). Chữ “biết” ở đây có nghĩa là cảm nghiệm, gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế, kẻ gian ác, kẻ ghen ghét, người không biết yêu thương thì không thể gặp được Thiên Chúa.

Đức Giêsu nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem”. Như vậy, để gặp gỡ Thiên Chúa, thì không gian – tức chỗ này chỗ kia – không phải là chuyện quan trọng: “Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm làm ra” (Cv 7,48). Đức Giêsu cũng nói: “Giờ đã đến – và chính là lúc này đây – những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật”. Như vậy, muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, ta cũng phải gặp gỡ Ngài trong thần khí và sự thật.

  1. Gặp gỡ Thiên Chúa trong thần khí và sự thật

Để giải thích điều này, Đức Giêsu nói: “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”. Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để gặp Ngài, con người cũng phải dùng thần khí của mình – tức tâm hồn mình – để gặp Ngài. Vì chỉ có thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như vậy nghĩa là phải gặp Ngài trong chính tâm hồn mình. Thật vậy, nơi dễ gặp gỡ Thiên Chúa nhất, chính là cung lòng của mỗi người chúng ta. Không gì linh thánh bằng con người, hay tâm hồn con người, vì “con người là hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6; Kn 2,23). Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng cung lòng con người: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,17; x. 6,19). Có gặp được Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình, mình mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa ở nơi khác, trong Thánh Thể, trong nhà thờ, trong tha nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình mà mình không gặp được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên ngoài. Thánh Âu-Tinh đã từng than thở: “Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp được Chúa của lòng con” (Confession, cuốn VI, chương 1).

Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài trong sự thật. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, người gian dối, không thành thật với lòng mình, với mọi người, và với Thiên Chúa, thì không thể gặp được Ngài. Như vậy để thật sự gặp được Thiên Chúa, cần phải có một tâm hồn ngay thẳng, thành thật, chân chất, “có nói có, không nói không” (Mt 5,36), không quanh quéo, uẩn khúc. Không thể gặp được Thiên Chúa những người nghĩ một đằng, nói một ngả, hay nói một đằng, làm một nẻo.

Cầu nguyện

Tôi nghe thấy tiếng Chúa: “Đã đến lúc trình độ tâm linh con người phải tiến cao hơn một bậc nữa. Con người không nên thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu vụ hình thức, vụ không gian, vụ thời gian, vụ vật chất nữa. Con người cần thờ phượng và gặp gỡ Thiên Chúa bằng thần khí chứ không phải qua vật chất, qua hình thức nữa. Con người cần gặp gỡ Thiên Chúa ngay trong bản thân mình hơn là ở một nơi nào bên ngoài. Con người cần hiểu biết Thiên Chúa theo sự thật, bằng chính bản chất của Ngài hơn là bằng những hiện tượng, danh từ, ngôn ngữ hay cách diễn tả đặc thù của mỗi tôn giáo, mỗi nền văn hóa. Có gặp gỡ Thiên Chúa đích thực, con người mới được biến đổi để trở nên hoàn hảo và hạnh phúc hơn”

 

60.             Suy niệm của JKN-2

Câu hỏi gợi ý:

  1. Các cụm từ “đã đến giờ” và “giờ đã đến – và chính là lúc này đây” trong bài Tin Mừng có ý nghĩa gì? Giờ đó là giờ nào?
  2. Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí”? Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật”? Trái ngược với hai kiểu thờ phượng ấy là thờ phượng thế nào? Chúng ta đang thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu nào: kiểu lỗi thời của các kinh sư Do Thái hay kiểu “mới” của Đức Giêsu?
  3. Có cần thiết phải sửa đổi cung cách thờ phượng của chúng ta không? Nếu không thì sao? Việc thờ phượng kiểu lỗi thời có còn giá trị không?

 

Suy tư gợi ý:

  1. Việc thờ phượng Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước

Vào thời Cựu Ước, trình độ tâm linh của con người còn non kém, đầu óc con người thường chỉ hướng về những gì cụ thể, hữu hình, dễ thấy, nghĩa là họ hướng ra ngoài hơn là vào nội tâm. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa chủ yếu gồm những việc cụ thể, thấy được, được thực hiện trong thời gian và không gian rõ rệt. Từ bản chất, thờ phượng Thiên Chúa chính là nhìn nhận Thiên Chúa là chủ tể vũ trụ, có toàn quyền trên tất cả mọi sự, trong đó, con người coi mạng sống và của cải của mình là quí giá nhất. Để biểu lộ sự nhìn nhận quyền chủ tể đó của Thiên Chúa, đúng ra con người phải sát tế chính mạng sống mình; nhưng làm như thế, con người sẽ dần dần chết hết, là điều mà Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người bèn sát tế những con vật như chiên bò làm của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa thay cho mạng sống của mình (x. St 4,3; 8,20; Xh 20,24; 29,18; Lv 1,14; v.v…). Có lần, để thử thách niềm tin và tinh thần hy sinh hiến dâng ấy, Thiên Chúa yêu cầu A-bra-ham sát tế đứa con trai duy nhất của mình là I-sa-ác làm lễ vật toàn thiêu: khi thấy A-bra-ham không tiếc với mình đứa con duy nhất, Thiên Chúa đã ra tay cứu I-sa-ác (x. St 22,1-14). Đó là cách thờ phượng Thiên Chúa thời Cựu Ước.

 

Đến thời Đức Giêsu, Ngài đã khai mở một kỷ nguyên mới, thích hợp với trình độ tâm linh con người vốn đã lên cao hơn. Vì càng về sau, con người càng có khả năng tư duy trừu tượng hơn, biết hướng vào nội tâm hơn. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa phải mặc lấy một hình thức mới hợp với trình độ mới: tức cao hơn, mang tính nội tâm hơn. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chủ trương một cách thờ phượng Thiên Chúa mới mẻ hơn, cao cấp hơn. Ngài nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem (…) Giờ đã đến – và chính là lúc này đây – những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật. (…) Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”.

 

  1. Thời Tân Ước: thờ phượng trong thần khí và sự thật

Đức Giêsu nói khi Ngài còn sống: “Đã đến giờ”, “Giờ đã đến – và chính là lúc này đây”. Như vậy, Đức Giêsu yêu cầu con người thay đổi cách thờ phượng Thiên Chúa cho xứng hợp với trình độ mới của con người đã được 2000 năm, một thời gian rất dài! Nhưng ta thử xét lại xem, cách thờ phượng của chúng ta trong thế kỷ 21 này đã thay đổi và tiến bộ đúng như yêu cầu của Đức Giêsu cách đây 2000 năm chưa? Sau 20 thế kỷ tiến bộ về vật chất đến mức chóng mặt, con người đã tiến bộ về tâm linh thế nào, đặc biệt trong cách thờ phượng Thiên Chúa? Chúng ta đã nội tâm hóa việc thờ phượng ấy chưa, hay vẫn còn mang nặng tính bề ngoài, tính vật chất, tính câu nệ hình thức, và vẫn còn lệ thuộc nặng nề về thời gian lẫn không gian? Việc thờ phượng Thiên Chúa của chúng ta hiện nay đã đúng với tinh thần Tân Ước của Đức Giêsu chưa, hay vẫn theo tinh thần Cựu Ước của đám kinh sĩ và biệt phái Do Thái xưa, vốn đã bị Đức Giêsu coi là lỗi thời từ 2000 năm nay?

 

Thiết tưởng chúng ta nên đặt lại vấn đề này một cách nghiêm chỉnh, và sửa đổi lại những gì chưa đúng. Điều quan trọng chúng ta cần tìm hiểu là: Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật”?

 

  • Thờ phượng trong thần khí

Đức Giêsu nói: “Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí”. Thần khí (pneuma – esprit – spirit) là tinh thần, tâm linh, thuộc thế giới nội tâm, không thấy được. Thần khí thì ngược với vật chất, thể lý, thuộc thế giới bên ngoài, cụ thể, thấy được. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa hữu hình, nên việc thờ phượng Thiên Chúa không nhất thiết phải xảy ra ở bên ngoài, trong không gian và thời gian. Theo Đức Giêsu, Ngài là thần khí, là tinh thần, là thiêng liêng, nên việc thờ phượng Ngài cũng phải thực hiện trong thần khí, trên bình diện tinh thần, nghĩa là một cách thiêng liêng, trong nội tâm con người. Hành vi thờ phượng phải là hành vi của tâm hồn, là thái độ của nội tâm, hơn là hành vi của thể xác. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa cứ phải nghe ta nói, nhìn ta biểu lộ ra ngoài mới hiểu được ta; trái lại, Ngài biết hết, thấu hiểu hết những gì ta nghĩ, ta cần, ta muốn nói: “Cha trên trời thừa biết anh em cần những gì rồi” (Mt 6,32; Lc 12,30). Vì thế, xét về phía Thiên Chúa, việc thờ phượng Ngài không cần thiết phải biểu lộ ra bên ngoài bằng lời nói, bằng lễ nghi, bằng những biểu hiện bên ngoài: “Khi cầu nguyện, anh em đừng nhiều lời như dân ngoại; họ tưởng cứ nói cho nhiều là được nhận lời” (Mt 6,7). Điều Ngài mong muốn nằm trong thái độ nội tâm của chúng ta: tinh thần từ bỏ, tự hủy, lòng quảng đại, biết ơn, khâm phục, nhất là tình yêu dành cho Ngài. Nếu Giáo Hội chủ trương phải biểu lộ việc thờ phượng ra bên ngoài thì không phải là vì Thiên Chúa mà vì con người: để việc thờ phượng mang tính cộng đoàn, tính Giáo Hội, hay để biểu lộ vinh quang Thiên Chúa cho con người, v.v…

 

Ngày nay, cần phải thay thế việc thờ phượng Thiên Chúa qua những hình thức bên ngoài bằng việc thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí. Lễ vật dùng để sát tế, để toàn thiêu không còn là chiên, bò, hay bất kỳ một vật nào khác, mà phải là “cái tôi” ích kỷ và kiêu căng của ta, là ý riêng của chúng ta, là những dự định dù tốt hay xấu nhưng không phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Bàn thờ hay đền thờ – nơi sát tế – là chính tâm hồn ta. Thời điểm sát tế không còn là một thời điểm cố định nào do con người qui định, mà phải là thời gian liên tục. Vì sát tế không còn là một hành động xảy ra vào những thời điểm nhất định nào đó, cho bằng một thái độ nội tâm thường hằng trong đời sống ta, thậm chí trở thành một yếu tố cố định trong bản tính của ta. Cầu nguyện cũng không còn là một hành động cho bằng một trạng thái thường hằng của nội tâm. Một biểu hiện lý tưởng của việc thờ phượng trong thần khí đã được Đức Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. Việc quan tâm thi hành thánh ý Thiên Chúa phải thay thế cho việc quan tâm thực hiện ý riêng mình, phải trở thành lương thực nuôi sống đời sống tâm linh của ta.

 

  • Thờ phượng trong sự thật

Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật khác với thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối. Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật đòi hỏi những gì mình nói với Thiên Chúa phải phản ảnh đúng những tâm tình, ý nghĩ trong đầu óc mình, và đúng với thực tế của đời sống mình. Còn thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối là có sự khác biệt giữa điều mình cầu nguyện với tâm tư, tình cảm và đời sống thực tế của mình. Cầu nguyện như thế chẳng những hoàn toàn vô ích mà còn xúc phạm và tỏ ra coi thường Thiên Chúa nữa. Nếu không thể thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật, thì thà rằng đừng thờ phượng còn hơn là thờ phượng Ngài trong giả dối.

 

Ngày xưa, người ta có thể giết chết một con vật làm lễ toàn thiêu, để tượng trưng cho việc họ nhìn nhận quyền Chủ Tể trên mọi sự của Thiên Chúa. Hành động tế tự đó hoàn toàn xảy ra ở bên ngoài. Nhưng bên trong, người ta vẫn có thể tiếc với Thiên Chúa những chuyện rất nhỏ: chẳng hạn họ không thể từ bỏ một ý riêng, một sở thích, một vật đang muốn chiếm hữu, hoặc hoãn thi hành một dự định, hy sinh một cơ hội, v.v… để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Như vậy, hành động thờ phượng bên ngoài chẳng phù hợp chút nào với tâm trạng bên trong. Chính vì thế, có lần Đức Giêsu nói về việc thờ phượng của họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng trí chúng thì lại xa Ta. Việc chúng thờ phượng Ta thật là vô ích” (Mt 15,8-9; Mc 7,6-7; x, Is 29,13).

 

Ngày nay, có biết bao người khi cầu nguyện thì nói rằng mình yêu mến Chúa, sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa; nhưng trong đời sống thì chẳng thấy họ yêu mến Ngài ở chỗ nào. Họ thường nói với Chúa: “Xin tha cho con như con vẫn tha kẻ có nợ với con”, nhưng trong thực tế, họ chấp nhất và bắt bẻ lỗi người khác từng chút một! Điều tệ hại là người ta vẫn cảm thấy an tâm, họ tưởng rằng làm như thế là đã chu toàn bổn phận thờ phượng đối với Thiên Chúa! Thiên Chúa rõ ràng không ưa lối thờ phượng đó. Ngôn sứ I-sa-i-a diễn tả sự ngao ngán và dị ứng của Thiên Chúa đối với kiểu thờ phượng bên ngoài ấy: “Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm! Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm khói hương; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu” (Is 1,11b.13b-15). Thử đặt mình vào địa vị của Ngài xem ta có thể chấp nhận một cung cách thờ phượng như thế không? Tại sao ta lại có thể đang tâm tiếp tục thờ phượng Ngài theo kiểu ấy?

 

Cầu nguyện

Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Ta đã chán những lễ nghi rỗng tuếch, ghét những những nghi thức trang trọng mà người cử hành chẳng tỏ ra có chút tình thương nào trong lòng. Ta cần tình thương của con người, nhưng họ lại chỉ dâng lên Ta toàn những nghi thức, lời kinh trống rỗng!”

 

61.             Ta sẽ cho nước hằng sống- Lm. Lâm Thái Sơn

Ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa.

Bài Phúc Âm hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Samaria: Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng và xin nước uống v.v… Bài này ta đã từng nghe qua nhiều lần, nhưng để hiểu rõ tầm mức quan trọng, ta cầu đọc lại trong quan điểm lịch sử, biểu tượng và thực tiễn.

  1. Quan điểm lịch sử: Muốn biết tại sao cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bà xứ Samaria gây ra tai tiếng, chúng ta nên dựa vào biến cố lịch sử đã qua.

Mối bất hòa giữa người Do Thái và người Samaria đã xảy ra vào thế kỷ thứ 8 trước công nguyên, lúc mà người Axiri đến xâm chiếm đất Samaria, bắt đi lưu đày một phần lớn dân Samaria như một dân tộc tạp nhạp, lai căng lạc đạo; đã vậy, người Samaria không còn đi lễ ở Giêrusalem mà hành đạo ở đền núi Garidim… Vì không còn giao thiệp với Samaria, do đó bất cứ người Do Thái nào tiếp xúc với dân Samaria đều bị lên án, nặng nhất là người đàn ông Do Thái giao du với phụ nữ Samaria.

Trong tình thế đó, này đây Chúa Giêsu ngang nhiên nói chuyện với người đàn bà xứ Samaria mà không chút sợ sệt. Ngài còn tự do thoải mái ở lại thêm hai ngày nữa. Qua cuộc gặp gỡ và đối thoại này, Chúa Giêsu muốn cho ta thấy ý định của Ngài là dẹp thù hận. Vì đối với Thiên Chúa: không có ai là địch thù, không ai là người bị nguyền rủa và bị khai trừ, không ai mà không được tha thứ… Và Ngài còn ban phát Nước chảy ra sự sống đời đời cho tất cả mọi người, không phân chia giai cấp hoặc màu da sắc tộc, không phân biệt nguồn gốc xứ sở. Vì Thiên Chúa là Tình Thương cho tất cả.

  1. Quan điểm biểu tượng: Ao hồ hay giếng nước thường là nơi của sự gặp gỡ (từ khách lạ trở nên bạn hữu), nhưng cũng có thể là nơi tranh chấp (vì tranh giành miếng nước mà trở nên cừu địch).

Giếng nước hay vũng nước, trong sa mạc hoặc những vùng đất khô cằn, không chỉ là nơi mà người người đều dừng lại múc lấy nước để phục hồi sức khỏe sau những ngày đường mệt lả khát nước, mà còn là nơi để người người cùng gặp gỡ, trao đổi câu chuyện và làm quen. Trong Kinh Thánh có những đoạn kể qua cuộc gặp gỡ nơi giếng nước đưa đến chuyện hôn nhân: người đầy tớ của ông Abraham gặp cô Rêbêca (St 24:10-27) từ đó lo chuyện cưới hỏi cho con ông chủ mình là Ygiaác. Ông Giacóp và cô Rakên (St 29:1-14) cũng gặp nhau tại giếng nước và hai người đã trở thành vợ chồng.

Vậy thì giếng nước trong bài Phúc Âm hôm nay, nơi mà Chúa Giêsu gặp người đàn bà xứ Samaria, cũng có tính cách biểu tượng: vì tại giếng nước này phát hiện một giao ước thiêng liêng, một cuộc đính hôn giữa Đức Kitô với nhân loại, cho dù loài người có bất xứng, đầy tràn tội lỗi… Ngài hứa ban “nước hằng sống” cho bất cứ ai tìm đến giải khát nơi Ngài và Ngài còn tuyên bố “từ nay mọi người sẽ không còn hành đạo tại núi này hay đền thờ nọ, nhưng đã đến lúc phải tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý”.

Lời nói của Chúa Giêsu thật quá kỳ diệu, đánh động tâm hồn người đàn bà Samaria, khiến bà quên đi cả việc múc nước. Nước giếng không còn là mối bận tâm và không làm bà khao khát nữa, bà cũng không còn khao khát những mối tình trần tục (bà có sáu đời chồng), vì Lời Chúa vừa đem đến sự giải khát cho bà, và sau khi tin phục thì “nước Chúa (Lời Chúa) vừa ban cho bà thì nơi bà trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời”, từ một người đàn bà xa lạ, bà đã trở nên môn đồ của Chúa qua việc để lại vò và chạy về thành loan báo cho mọi người: “Mau hãy đến xem… người đó là Đấng Kitô”.

  1. Quan điểm thực tiễn: Ta có thể khẳng định rằng đoạn Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta nhận rõ cuộc sống. Như xưa kia Chúa Giêsu đã làm phát sinh nước hằng sống nơi xứ Samaria, đất của dân ngoại, của những người bị miệt thị khinh chê… thì nay chúng ta cũng được mời gọi nên biết đón nhận những người Samaria, tức là những kẻ không cùng ý hướng tín ngưỡng với chúng ta và những kẻ bị người khác khinh thường loại bỏ, cũng như phải biết tôn trọng các giá trị của những người khác biệt với chúng ta.

Qua cuộc đối thoại với người phụ nữ Samaria, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta từ nay phải biết tìm đến uống nước Hằng Sống (các Bí Tích) phát sinh từ nơi Ngài: Lời Ngài tuôn chảy như một giòng suối đánh đổ những hiềm khích hận thù, tẩy sạch những kỳ thị bất công và loại bỏ việc sùng bái các tà thần ngẫu tượng (của cải tiền bạc, lợi danh quyền chức…) để chúng ta trở nên những con người hoàn toàn tự do, biết thật sự yêu thương tha nhân và “tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý”.

 

62.             Nước hằng sống – Lm. Hữu Độ

Nước là một quà tặng rất quan trọng Chúa ban cho thế giới. Con người, con vật, cây cối đều nhờ vào nước. Trong thân thể con người, nước chiếm 70%, nếu một ngùi cân nặng 100 lbs, thì nước chiếm 70 lbs. Người ta có chừng 4.5 lít máu thì nước chiếm 2.8 lít rồi. Người ta có thể sống 40 ngày không có đồ ăn, nhưng nếu không có nước thì chỉ 3 ngàysẽ chết.

Sau một tai nạn máy bay (loại nhỏ) rớt ở vùng rừng rậm của Gianãđại (Canada), vợ chồng Ralph và Helen đã sống sót nhờ vào số lượng nước chảy ra từ đống tuyết tan. Họ điểm tâm bằng nước, dùng bữa trưa bằng nước và bữa tối cũng là nước. Nhờ có nước mà họ sống 6 tuần lễ cho tới khi gặp người đến cứu. Ngày nay một trong những mối lo ngại nhất của con người là nước dơ, nhất là tại các quốc gia Phi Châu, vì trong nước dơ có chứa nhiều vi khuẩn sinh ra bệnh. Mỗi năm trên thế giới có khoảng 10 triệu người chết vì bệnh ruột vì dùng nước dơ.

Phúc Âm hôm nay nói về nước. Chúa Giêsu đi đường mỏi mết và khát nước đến ngồi nghỉ trên miệng giếng, gặp một chị xứ Samarita, Chúa xin “Chị cho tôi uống nước với.” Theo dõi Phúc Âm chúng ta thấy: Chúa Giêsu là một người khéo gợi chuyện và thu hút lòng người.

Thứ nhất người Do Thái và người Samarita vốn có sự bất hòa, thù ghét nhau, họ làm thành bức tường ngăn cách kiên cố lâu đời. Chúa Giêsu tới phá đổ bức tường ngăn cách đó bằng việc Ngài lên tiếng xin chị Samarita cho Ngài uống nước. Từ hình ảnh giếng nước tự nhiên cần thiết cho thân xác, Chúa đã dẫn chị tới nguồn nước siêu nhiên hằng sống cần thiết cho con người.

Thứ hai, đi sâu câu chuyện, mặc dầu Chúa biết chị đang sống bất hợp pháp với một người đàn ông, nhưng Chúa nói chuyện với một giọng nhân từ và yêu thương. Chính vì cách nói chuyện yêu thương, nhân từ đó mà Chúa đã giúp chị dần dần khám phá ra Chúa là ai? Phúc âm để lại, đầu tiên chị nhìn Chúa như một người Do Thái bình thường nào đó: “Ông là người Do Thái mà xin tôi là người Samarita nước uống.” Thế rồi chị nhận ra Chúa là một tiên: “Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri”. Bước sau cùng chị nhận ra Chúa là Đấng Kitô. Chị vào thành nói với người ta: “Đến mà xem, có một người đã nói cho tôi tất cả những gì tôi đã làm, ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”

Chị Samarita là người đến kín nước để thỏa mãn cơn khát tự nhiên của chị. Thế nhưng chị vẫn còn khát khao một thứ nào đó mà chị không được mãn nguyện. Ở với 5 đời chồng và bây giờ chung sống với một nguời đàn ông khác mà vẫn không thỏa mãn cơn khát của chị.

Cuộc đời mỗi người chúng ta cũng tương tự như vậy, 5 đời chồng đó là 5 thứ người ta khao khát trên đời: tiền bạc, danh vọng, chức quyền, tình yêu, kiến thức. Rồi người đàn ông bất hợp phát đó có thể là: thuốc phiện, rượu chè, cờ bạc, trai gái, lạc thú bất chính… Chúng ta tưởng những thứ đó đem lại hạnh phúc, thỏa mãn được cơn khát của chúng ta nhưng vô vọng, vì nó chỉ đem đến chán chường, trống rỗng.

Nước hằng sống Chúa muốn ban cho chúng ta đó chính là Ơn Thánh. Nghĩa là bình an khi sống thân mật với Thiên Chúa, nghĩa là tự do khi giữ Lề Luật Chúa, nghĩa là niềm vui khi chúng ta phục vụ tha nhân. Nước Hằng Sống hay Ơn Thánh đó chúng ta tìm thấy trong Thánh Thể trong các Bí tích, trong Lời Chúa, trong các việc lành, trong đời sống cầu nguyện, trong tình trạng ơn nghĩa với Chúa.

Hãy uống nước hằng sống là chính Ơn Thánh để sau này hiệp hoan với Chúa Kitô trên Thiên Đàng chúng ta không bao giờ khát nữa.

 

63.             Nước và sự sống – Phó tế Trần văn Nhật

Vào tháng Ba năm ngoái (2004), qua chương trình thám hiểm không gian mang tên “Mars Exploration Rover Mission” (Sứ Mệnh Rover Thám Hiểm Hoả Tinh), và sau 7 tháng bay từ trái đất đến hỏa tinh và đáp xuống an toàn, chiếc xe thám hiểm Rover đã chuyển các hình ảnh đầu tiên của hỏa tinh về trái đất, và mọi người đều bàng hoàng trước cảnh tượng của một hành tinh cách xa trái đất đến 35 triệu miles!

Một trong những điều quan trọng mà cuộc thám hiểm này muốn tìm kiếm là vết tích của sự sống, và muốn có sự sống thì phải có nước. Trong bản tin ngày 2-3-2004, các khoa học gia của cơ quan NASA cho biết họ đã tìm thấy chứng cớ rằng trước đây hành tinh này ẩm ướt đủ để có sự sống, nhưng hiện giờ xe thám hiểm Rover không tìm thấy vết tích nào của sinh vật.

Nước cần thiết cho sự sống, không những ở trên trái đất, mà nước còn cần thiết ở bất cứ đâu trong vũ trụ. Các phi hành gia Hoa Kỳ đã đặt chân lên mặt trăng vào năm 1969 để thám hiểm, và họ xác nhận một điều là trên mặt trăng không có sự sống, chỉ vì không có nước.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, sau một hành trình lâu dài và mệt mỏi, Đức Giêsu khát nước và đến bên cạnh giếng, và khi thấy có một phụ nữ đến múc nước, Người đã xin nước uống. Phản ứng tự nhiên của Đức Giêsu cho chúng ta thấy Đức Giêsu là một con người bình thường như chúng ta-đói thì muốn ăn, khát thì muốn uống.

Phản ứng của người phụ nữ, chúng ta thấy cũng là phản ứng của một con người bình thường, một con người sống theo bản năng tự nhiên-nói chung là ích kỷ, không muốn giúp đỡ người khác. Do đó, khi được xin nước uống, bà đã hỏi lại Đức Giêsu “Làm sao ông là người Do Thái mà lại xin tôi, một người đàn bà Samari, nước uống?” Bà đã đặt lại vấn đề thù hiềm giữa hai dân tộc để từ chối khéo. Nói cách khác, trong tâm hồn của bà không có tình thương, không có lòng bác ái để sẵn sàng giúp đỡ Đức Giêsu, bất kể những dị biệt. Có lẽ Đức Giêsu ngạc nhiên trước câu trả lời của bà và Người đã tiết lộ cho bà một sự thật: “Nếu bà đã biết ơn sủng của Thiên Chúa và nhận ra ai là người đang nói với bà, ‘Cho tôi uống nước’, thì có lẽ bà đã xin và người ấy sẽ ban cho bà nước hằng sống.”

“Nếu bà đã biết ơn sủng của Thiên Chúa” cũng là câu nói của Đức Giêsu cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có thực sự biết ơn sủng của Thiên Chúa như thế nào không? Ơn Chúa có phải là phép lạ hiển nhiên mà mắt phải thấy, tai phải nghe? Hay ơn Chúa nhẹ nhàng như cơn gió thoảng nhưng đủ xoá tan cái nóng giận khi chúng ta tha thứ cho ai đó xúc phạm đến chúng ta? Ơn Chúa có phải thay đổi chớp nhoáng toàn bộ con người chúng ta? Hay ơn Chúa có thể giúp chúng ta ngày càng chế ngự được bản tính thấp hèn của con người qua những cố gắng sống Phúc Âm? Ơn Chúa có phải trùm lấp sự tự do lựa chọn của chúng ta? Hay ơn Chúa có thể giúp chúng ta biết lựa chọn những gì là xứng hợp? Ơn Chúa có thể đem lại cho chúng ta ơn cứu độ nhưng đó có phải là điều chúng ta tìm kiếm?

Sự ích kỷ của người phụ nữ Samari đã trở nên như bức màn che khiến bà không hiểu được sự thật, không nhận ra được người đang xin bà chút nước uống là ai, bởi thế bà đã hỏi lại Đức Giêsu với giọng mỉa mai: “Này ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu; vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?”

Có lẽ Đức Giêsu thấy tội nghiệp cho bà vì chỉ nhìn đến những gì trước mắt mà quên đi một thực tại quan trọng hơn nhiều, nên Người trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát; còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa; nước tôi cho sẽ trở thành mạch nước đem lại sự sống đời đời nơi người ấy.”

Cái nhìn của người phụ nữ Samari có thể tiêu biểu cho quan điểm của chúng ta ngày nay. Trong một xã hội giầu sang đề cao sự hưởng thụ, điều mà chúng ta nhìn thấy trên truyền hình, nghe được trong các đài phát thanh là “hãy hưởng thụ tối đa” dù có phải nợ ngập đầu, “hãy sống cho riêng mình” dù có phải dứt bỏ tình nghĩa gia đình: vợ chồng, con cái. Và rồi chúng ta lao vào vòng lẩn quẩn của vật chất, của ích kỷ. Càng hưởng thụ chúng ta càng lệ thuộc, càng nô lệ cho vật chất. Càng ích kỷ chúng ta lại càng cảm thấy mình hèn kém, nhỏ mọn, tầm thường. Và càng tầm thường chúng ta lại càng bám víu vào vật chất để cố tạo cho mình một giá trị-dù là bề ngoài. Vòng lẩn quẩn đó nói lên một sự thật, đó là vật chất không thể thoả mãn những khao khát của con người. Và khao khát lớn lao nhất của chúng ta là phẩm giá đích thực của một con người.

Đức Giêsu đem lại gì cho chúng ta? Tại sao Đức Giêsu có thể giúp chúng ta khỏi khát?

Đối nghịch với ích kỷ là tình yêu, là bác ái. Nói đến tình yêu là nói đến hy sinh, tha thứ và quảng đại. Và sự hy sinh, tha thứ, quảng đại giúp chúng ta trở nên cao thượng. Một người cao thượng là một người đã tìm lại được phần nào phẩm giá đích thực của mình, và vì thế họ trở nên trọn vẹn, trở nên đầy đủ, và vì thế họ không còn thèm khát. Nói khác đi, Thiên Chúa là tình yêu và ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa. Và Thiên Chúa là tất cả, bởi đó ai có được Thiên Chúa là có được tất cả, là được no thỏa.

Trong chương trình “Good Morning America” của ABC News vào sáng thứ Tư 2 tháng Hai vừa qua (2005), có phần phỏng vấn những người trúng số độc đắc ở Hoa Kỳ. Sau đây là một vài trường hợp mà phóng viên Jonann Brady đã kể cho chúng ta nghe:

– Ông Billie Bob Harrel Jr. ở Houston, vào năm 1997 ông trúng xổ số $31 triệu của tiểu bang Texas. Hai năm sau, vì tiêu sài phung phí và hôn nhân đổ vỡ, ông đã tự tử bằng súng shotgun.

– Ông William “Bud” Post làm việc với một tổ chức du ngoạn và là một thợ sơn làm công nhật. Năm 1988, ông trúng xổ số $16.2 triệu của tiểu bang Pennsylvania. Chỉ trong vòng vài tháng, cô bạn gái của ông đã thắng kiện để lấy được 1/3 số tiền trúng số, và em trai của ông bị bắt vì tội thuê mướn du đãng để giết ông. Ông Post bây giờ sống với tiền trợ cấp xã hội $450 một tháng và “food stamp.”

– Gần đây nhất là trường hợp trúng số của ông Jack Whittaker, sống ở vùng West Virginia. Vào Giáng Sinh 2002 ông đã trúng xổ số lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ–$314.9 triệu-nhưng sau đó biết bao tai họa đã đổ xuống đời ông.

Lần đầu, ông mất trên $500,000 tiền mặt và ngân phiếu khi bị ăn cắp từ chiếc xe của ông đang đậu ở bên ngoài câu lạc bộ vũ khoả thân Pink Pony; lần sau, $100,000 đô la khác cũng bị lấy trộm từ chiếc xe của ông đậu ở trước nhà. Sau đó cuộc đời ông ngày càng xáo trộn. Ông bị bắt giam nhiều lần vì tội đánh người ta. Kế đến, người ta tìm thấy thi hài người bạn trai của đứa cháu gái ông-chết vì sử dụng ma tuý quá liều–ngay trong nhà của ông trong khi ông đi vắng. Và sau hai lần bị bắt về tội say rượu lái xe, ông bị giam trong trung tâm chừa rượu 28 ngày. Gần đây, hai năm sau ngày trúng số, cô cháu gái 17 tuổi của ông là Brandi Bragg, bị chết vì sử dụng ma tuý quá độ.

Trong cuộc phỏng vấn với phóng viên đài ABC, ông Whittaker và luật sư của ông không cho biết gì thêm, nhưng vợ của ông, bà Jewel đã nói với tờ The Charleston Gazette rằng: “Phải chi tôi đã xé tấm vé số ấy thì giờ đây đâu có khổ như thế này!”

Ông Stephen Goldbart là một tâm lý gia và đồng sáng lập viên của tổ chức “Money, Meaning and Choices Institute” ở San Francisco, tổ chức này cố vấn cho những ai bỗng dưng trở nên giầu có, và ông cho biết “Trong xã hội Hoa Kỳ, chúng ta có khuynh hướng đánh giá quá cao vai trò của đồng tiền. Ước mơ của người Hoa Kỳ là thành công tài chánh. Đó là liều thuốc vô bổ, nhưng hầu hết ai cũng muốn.”

Lời nhận định của ông thật đáng cho chúng ta suy nghĩ.

Đức Giêsu đã xuống thế cách đây 2000 năm, và tất cả những giảng dậy của Người vẫn còn có giá trị. Hơn bao giờ hết, ngày nay chúng ta phải cần đến ơn Chúa để có thể nhận ra được những gì là chân lý và vượt qua được những thử thách trong một đời sống thật phức tạp. Chúa vẫn sẵn sàng ban ơn cho chúng ta trong các bí tích. Qua bí tích rửa tội và thêm sức chúng ta được gia nhập vào cộng đồng của những người theo Chúa Kitô. Và Chúa Kitô đã không bỏ rơi chúng ta ở trần thế mà Người vẫn hiện diện và nuôi dưỡng chúng ta với Mình và Máu, là sự sống của Người. Vấn đề còn lại là chúng ta có cho đó là quan trọng để tìm kiếm ơn Chúa, để thay đổi đời sống cho xứng đáng với Mình và Máu Chúa mà chúng ta lãnh nhận trong mỗi Thánh Lễ.

Hãy nhớ rằng, khi chúng ta có sự sống của Chúa Kitô thì “nước ấy sẽ trở thành mạch nước đem lại sự sống đời đời” cho chúng ta.

 

64.             Chúa Giêsu nguồn nước hằng sống

Các Chúa nhật 3 và 4 mùa Chay đặt trước mắt tín hữu 3 biểu tượng lớn về đức tin. Đó là nước, ánh sáng và sự sống. Các biểu tượng này được thánh Gioan ưa thích sử dụng để miêu tả đời sống thiêng liêng trước ơn thánh của Thiên Chúa trong linh hồn chúng ta. Chúa nhật hôm nay là về nước, trong một dụ ngôn hết sức sống động: Câu chuyện Chúa xin nước uống nơi người phụ nữ Samaria ở giếng ông Gia-cóp. Có lẽ đó là câu truyện của một bài giáo lý dự tòng thời Giáo hội sơ khai. Hội thánh sửa soạn họ để chịu phép rửa tội trong đêm vọng Phục sinh. Tuy câu truyện đơn giản nhưng ý nghĩa hết sức thâm thúy, nói về cuộc sống mới của người tín hữu, nhất là đời sống nội tâm của các tu sĩ, linh mục, hàng giáo phẩm. Càng suy ngẫm chúng ta càng thấm thía. Trước hết, chúng ta có thể đồng hóa với Chúa Giêsu trong cơn khát của Ngài, khi Ngài tiến gần giếng ông Gia-cóp. Rõ ràng Ngài cũng ở trong điều kiện hoàn toàn nhân loại như chúng ta: Chịu đói khát, nhọc nhằn vì hành trình xa xôi. Đường đi của Ngài là từ miền nam (xứ Giudea), ngang qua xứ Samaria (miền trung) về miền bắc (xứ Galilea), quê hương của Ngài, sau dịp lễ Vượt qua thứ nhất. Thánh Gioan viết: “Biết thế, Đức Giêsu bỏ miền Giudea mà trở lại miền Galilea. Do đó, Người phải băng qua Samaria (4,3)”. Người Do thái đạo đức thường tránh con đường này vì coi là đất lạc đạo. Họ đi đò vượt qua sông Giođan sang bờ phía đông, rồi lại đi đò lần nữa trên miền bắc để vào xứ Galilea. Con đường xa hơn nhiều so với đường tắt Samaria, nhưng tránh được đi vào đất thù địch. Chúa Giêsu chọn con đường tắt này và gặp chị phụ nữ Samaria ở giếng Gia-cóp vào buổi trưa, lúc vắng người. Đích thực là Chúa Giêsu đói và khát. Thánh Gioan kể tiếp: “Các môn đệ trở về … thưa với Người rằng Rabbi, xin mời Thầy dùng bữa.” (4, 31) Câu truyện thật hấp dẫn, nhiều độc giả ưa thích nó, lấy làm mẫu mực cho văn chương nhân loại. Chúng ta cũng không tránh khỏi sự thu hút của nó, và có cảm tưởng như được đặc ân tham gia vào tính cách riêng tư của hai nhân vật đàm thoại, coi như chuyện của linh hồn mình (mà thực đúng là như thế).

Đối với những ai có đức tin thì đây không phải cuộc trò chuyện giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ Samaria mà thôi. Nhưng là của bất cứ linh hồn đói khát đời sống tâm linh nào. Chúng ta được chứng kiến một phụ nữ không tin đã thay đổi nếp sống một cách ngoạn mục để trở nên một tông đồ nhiệt thành rao giảng về Chúa Kitô. Điều xảy ra cho chị khi xưa cũng là điều chúng ta được hưởng bây giờ, nếu chúng ta thành tâm phục thiện như chị. Tai hại thay, thực tế không được như vậy, bởi những bức tường tâm lý kiên cố mà chúng ta dựng nên chung quanh mình. Nhưng xin suy nghĩ lại, giữa sức nóng khủng khiếp trưa hè của cuộc sống, chúng ta cần đến “nước giải khát” để có thể sống đức tin trung thành. Chúng ta cần đến Chúa Giêsu. Nhiều khi phải vật lộn với hoàn cảnh để giữ vững lý tưởng, giống như các lữ khách sa mạc trên con đường khô khan nóng cháy. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta chẳng mấy được nâng đỡ về lòng đạo đức. Ngược lại bị “thập diện mai phục” bởi các cám dỗ xa lìa Thiên Chúa. Vậy thì tìm đâu được nước canh tân đức tin? Chúng ta sẽ chạy đến với ai? Các bài đọc hôm nay cho câu trả lời.

Trước hết, bài đọc Cựu ước trình thuật về cơn khát của dân tôc Israel. Họ khát và Thiên Chúa đã cho nước uống. Nếu câu chuyện đơn giản như thế thì chẳng có chi đáng nói. Đằng này, họ gây sự với Môsê và đe dọa ném đá ông: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải để chúng tôi, con cái chúng tôi và súc vật của chúng tôi bị chết khát không? ông Môsê kêu lên cùng Đức Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con.” Trong cơn khát, dân Do thái nổi loạn và trâng tráo đặt câu hỏi: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” trả lời bằng cách cho họ uống nước thỏa thuê từ một tảng đá giữa sa mạc. Tảng đá này chính là Đức Kitô của giao ước mới. Tuy nhiên, những người nổi loạn bị Thiên Chúa giáng phạt chết hết cả đám trong 40 năm lang thang ở hoang địa (Tv 95, 11). Phần các tín hữu, thánh Phaolô nói cho hay Thiên Chúa giải khát chúng ta bằng cách thức khác, qua Bí tích Thánh tẩy. Ngài tuyên bố với giáo đoàn Rôma rằng họ được công chính hóa nhờ Đức tin. Nghĩa là được Thiên Chúa cho no thỏa cơn khát thiêng liêng do Đức tin Ngài ban cho. Chúng ta cần nước rửa tội để tẩy sạch lỗi lầm khỏi linh hồn mình, khỏi lạc xa Thiên Chúa và chia lìa tha nhân. Trên “hoang địa” của cuộc đời mình, chúng ta chẳng thể nào tự cung cấp thứ nước ấy. Phải tuyệt đối cậy nhờ vào bàn tay Thiên Chúa. Thực tế, Ngài đã ban cho mỗi người khi lãnh nhận phép Thanh tẩy. Trong bài đọc 2, thánh Phaolô công bố rõ như vậy khi nói về tình yêu Thiên Chúa dành cho các tội nhân: “Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” Cho nên, ơn Đức tin hoàn toàn là nhưng không do Đức Kitô mang lại cho mỗi tín hữu. Trong “sa mạc” cuộc đời, nhiều lúc chúng ta cũng tự hỏi: “Có Thiên Chúa không?” Thánh Phaolô trả lời “Có” bằng những chứng cớ rất cụ thể: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” Cái công thức ông dùng: “Công chính hóa nhờ Đức tin” nói lên một điểm hết sức cơ bản: Ngay từ khởi đầu cuộc sống tâm linh, khi chịu phép Thánh tẩy, ơn Đức tin là một quà tặng miễn phí Thiên Chúa ban cho mỗi người. Không ai có quyền đòi hỏi hay mua sắm được bởi công nghiệp riêng. Chúa Giêsu cũng nói rõ trong Tin mừng: “Nếu chị nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban.” Cho nên, chúng ta không thể nào sản xuất được nước giải khát trong “sa mạc” đời mình, cũng chẳng thể làm cho ân huệ Chúa xuất hiện trên mình. Vì tất cả đều đến từ Thiên Chúa. Chúng ta cần ơn Ngài để sống sót về tâm linh và mỗi ngày tiến dần đến tự do đích thực. Như vậy, cố gắng sống đạo đức thánh thiện trong mùa chay này để được Thiên Chúa xót thương là điều cần thiết.

Hằng ngày, chúng ta có nhiều cuộc trò chuyện. Có những câu chuyện không quan trọng. Chẳng hạn, nói chuyện để giết thời gian khi chờ đợi tàu xe, chuyện tầm phào trong quán xá, tửu lầu. Có những cuộc trò chuyện cần thiết như hỏi thăm đường xá, đi khám bệnh, mua bán, hàn huyên gia đình, đưa đón con cái học hành. Có những cuộc trò chuyện tối cần thiết như giáo huấn, bán tính làm ăn, sữa chữa lỗi lầm. Hôm nay, chúng ta có cuộc trò chuyện tối cần thiết giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samaria, liên quan đến phần rỗi của chị. Bởi vì, vai trò của chị và tầm quan trọng của Chúa Giêsu nên câu chuyện trở nên căn bản cần thiết. Nó là vấn đề sinh tử: Con người là gì? Tôi đang làm chi? Rồi sẽ đi về đâu? Tôi cần phải thay đổi như thế nào để cuộc đời có ý nghĩa? Ngoại cảnh có làm cho tôi hạnh phúc không? Đại loại như vậy và là những vấn đề thiết yếu. Tuy không phải lúc nào chúng ta cũng đưa ra bàn luận. Nhưng thỉnh thoảng người ta vẫn đề cập đến. Bởi chúng gây nên nhiều lo âu. Nên ngừng lại những bận rộn thường ngày, ngồi bên những giếng mát, như chị phụ nữ hôm nay, để tư lự về ý nghĩa cuộc đời. Thánh Gioan có thói quen ghi rõ ngày tháng và nơi chốn các biến cố và cho nó một ý nghĩa biểu trưng. Giờ thứ 6 tức phỏng 12 giờ trưa, lúc mà thiên hạ ít đến giếng kín nước. Vì tự cảm thấy nếp sống không tốt đẹp của mình, người phụ nữ lợi dụng lúc vắng vẻ để ra giếng, tránh những con mắt khinh bỉ của hàng xóm láng giềng. Người Do thái coi giờ này như giờ hoàng đạo của âm lịch, tức giờ xấu. Quý vị hiểu ra ý nghĩa thánh Gioan muốn chuyển tải! Ngược lại, giếng Gia-cóp danh tiếng về lịch sử, chiều sâu và sự ngọt ngào mát mẻ của nước, ý nói đến nội dung tôn giáo của sấm truyền cũ. Chúa Giêsu đến thay thế cho giếng nước và chuyện vãn với một linh hồn tội lỗi để ban cho chị mạch nước vọt lên sự sống đời đời.

Tuy nhiên, tôi không muốn quá đi sâu vào chiều kích tâm linh, rời xa hoàn cảnh cụ thể hằng ngày. Gần đây tôi phải chịu đựng một trong những chuyến bay gồ ghề nhất, đến mức phải tự hỏi tại sao lại dại dột đến vậy. Số là vì nhỡ chuyến bay đi thành phố Dallas, tôi phải thu xếp chuyến bay khác và gọi điện thoại nhắn tin người đón tôi ở phi trường. Tôi tìm mua một bữa ăn Trung hoa đông lạnh. Nhưng có lẽ, người Tàu chính hiệu cũng không thể nhận ra nó. Tôi ngồi nhấm nhí bữa ăn trong khi chờ đợi chuyến bay tiếp. Rồi mở lá thư cũ ra đọc. Ông bạn viết thư cho tôi cũng là một thương gia bận rộn. Ông đi làm ăn khắp đó đây. Lá thư là một bài báo cắt từ tuần san sức khỏe, nhan đề: “Làm thế nào điều khiển được căng thẳng trí óc?” Đúng là chuyện hợp thời. Tôi thích thú đọc lại. Tác giả khuyên: Hãy tìm những chuyện làm cho tinh thần bạn bay bổng. Và đề nghị: âm nhạc, đọc sách, giã ngoại sinh thái, suy ngẫm và cầu nguyện. Tuy không phải là tờ báo tôn giáo, nhưng tác giả thêm: “Hãy thường xuyên dành thời gian cho các hoạt động tinh thần.” Dưới ánh sáng Tin mừng hôm nay, tôi xin phép mở rộng: Và tìm thời gian cho các cuộc chuyện trò ý nghĩa nữa.

Câu chuyện Phúc âm là về một tâm hồn đang bị căng thẳng. Cô ra giếng một mình vào giờ vắng vẻ có thể cô cảm thấy tủi phận vì sống ngoải lề. Cô cần được cứu giúp và Đức Kitô đã nhận ra nỗi thống khổ của cô. Cô khao khát thứ nước làm cho linh hồn mình yên ổn. Cái giếng cô kín nước không có khả năng ấy. Cho nên cô dừng lại suy nghĩ, đợi chờ một sự giải thoát khác, một cuộc trò chuyện đầy ý nghĩa như tuần san sức khỏe trên đề nghị. Ngõ hầu tinh thần cô bay bổng khỏi tình trạng nặng nề hiện tại. Chúng ta được phép tham dự vào câu chuyện riêng của cô đúng theo bản chất của nó. Và ngay cả trước khi cô chạy về thành phố loan báo cho dân chúng biết câu chuyện của mình, thì chúng ta đã khám phá ra Đức Kitô là ai. Kỳ thực chính cô đã giúp đỡ chúng ta tìm hiểu về Ngài. Liệu chúng ta có đủ cam đảm thú nhận cơn khát của mình giống như của cô? Liệu chúng ta dám dấn thân vào câu chuyện “ý nghĩa” với Chúa Giêsu? Liệu chúng ta dám bộc bạch tâm tư với Ngài, để được lột xác như cô? Vần đề đòi hỏi câu trả lời thành thực. Người phụ nữ Samaria nêu gương cho các tín hữu phải đối diện với Thiên Chúa ra sao? Cô chỉ dẫn chúng ta lắng nghe Chúa dạy bảo, nhất là trong những dịp hội họp như Thánh lễ hôm nay. Cũng như cô, chúng ta phải sẵn sàng thay đổi. Cố chấp chẳng được lợi ích chi và đi tham dự Thánh lễ như vậy chỉ tốn thời gian vô ích.

Người phụ nữ bên giếng nước sẵn lòng đổi thay nếp sống của mình bằng cách đặt câu hỏi, lắng nghe và trả lời Chúa Giêsu ngay thật, để có cơ hội điều chỉnh lại hạnh kiểm của mình. Trong xóm làng, cô bị mang tiếng xấu vì có tới năm đời chồng. Có thể do lỗi của cô, nhưng cũng có thể cô gặp toàn bất hạnh vì các người đàn ông không trung thành, kiểu ăn bánh trả tiền, nhanh chóng phụ bạc cô. Chúng ta không có quyền xét đoán. Tuy nhiên, sự kiện không làm cho Chúa Giêsu từ chối trao đổi với cô. Đúng là do lòng thương xót của Chúa. Ngài sẵn sàng hiện diện trước mặt cô để ban ơn thay đổi. Chúng ta có thể mường tượng người phụ nữ này là lời an ủi khích lệ cho toàn nhân loại. Bởi tất cả đều là tội nhân, đều rụt rè trước tôn nhan oai nghiêm Thiên Chúa để thú nhận tội lỗi mình. Chúng ta không dám mở lòng mình ra và chuyện vãn với Chúa Kitô về tình trạng linh hồn. Gương can đảm của người phụ nữ thúc đẩy chúng ta mạnh dạn tiến đến cùng Chúa. Cô kích thích Đức tin của chúng ta đến hành động. Cho nên, Mùa chay này câu chuyện của cô sửa soạn chúng ta thành thực tuyên hứa lại lời thề Bí tích rửa tội trong đêm vọng Phục sinh tới. Chúng ta thâm tín rằng nước thanh tẩy sẽ rửa chúng ta khỏi mọi tội khiên, ban ơn tha thứ và giải phóng tín hữu khỏi các hình thức nô lệ. Chúng ta sẽ cùng nhau tụ họp bên giếng nước trong lành lắng nghe và trả lời những điều Thiên Chúa muốn dạy bảo mình.

Riêng trong buổi phụng vụ này, Thánh thể chính là giếng nước chúng ta cần phải uống. Giếng nước ban sự sống đời đời. Chúng ta có cơ hội tốt để lặp lại câu chuyện người phụ nữ Samaria. Chúng ta hồi tâm đàm đạo với Chúa Giêsu về câu chuyện ý nghĩa đời mình. Chúng ta đang ở giai đoạn nào của cuộc sống? Dự tính đi về đâu? Chúa Thánh thể sẽ ban hành lý thế nào để tiếp tục tiến bước? Chúng ta cần mạch nước trong lành nào hiện giờ? Gợi lại bài báo tôi đọc ở phi trường, chúng ta cùng với cộng đoàn giáo xứ lắng nghe rõ Lời Chúa trong các bài đọc, lãnh nhận sốt sắng đời sống của Ngài trong Bí tích Thánh thể. Đó là cơ hội tốt nhất để làm cho tinh thần mình “bay bổng”. Amen.

Fr. Jude Siciliano, OP.

* Thuật chuyện người phụ nữ với năm đời chồng có lẽ thánh Gioan muốn ám chỉ tình trạng tôn giáo tại xứ Samaria. Họ lập đền thờ riêng trên núi Ga-ri-zim và tuân giữ năm cuốn sách đầu của Cựu ước, tức lề luật Môsê. Vì thế, thánh nhân tuyên bố Chúa Giêsu cao trọng hơn ông Gia-cóp, tổ phụ họ. Kỳ thực cuối cùng người phụ nữ (đại diện cho dân tộc Samaria) phải công nhận Chúa Giêsu là Ngôn sứ, là Đấng Thiên sai (Messia). Như vậy, toàn bộ câu chuyện là lịch sử biểu trưng (allegoria) của Hội thánh tại Samaria.

 

65.             “Nước Hằng Sống” chính là Đức Giêsu

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

 

Trong kiếp nhân sinh của con người, phát sinh từ sự thiếu thốn, thèm muốn, mong mỏi và hy vọng được thỏa mãn, nên người ta thường khao khát một điều gì đó tốt hơn những gì đang sở hữu. Có những khát khao làm cho cuộc sống của con người tốt hơn sau khi đạt được. Nhưng cũng không thiếu gì những thỏa mãn làm cho tình trạng của con người trở nên tồi tệ hơn.

 

Trình thuật của thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe cho thấy có một thứ khát khao mà theo lẽ thường thì ít ai nghĩ tới, đó là khát khao “Nước Hằng Sống”. Một khi đã được thỏa mãn niềm khát khao quan trọng nhất này, thì mọi khát khao khác cũng được trở nên dư đầy.

 

  1. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu

Bài Tin Mừng hôm nay gợi lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari. Một cuộc gặp gỡ hiếm có và xem ra rất bất thường, hy hữu và đặc biệt giữa một bên là người Dothái, bên kia là người Samari.

 

Hy hữu, bất thường, bởi vì từ trước đến nay giữa người Samari và người Dothái không hề có sự liên lạc, giao thương và luôn trong trạng thái nghi kỵ, khinh khi lẫn nhau. Ấy vậy mà hôm nay, Đức Giêsu là người Dothái, người phụ nữ là người Samari lại có buổi gặp nhau thân tình.

 

Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu rời Giuđê để đi Galilê. Trên hành trình đó, Ngài đã chọn con đường tắt, nhanh nhất để đi. Con đường đó phải băng qua làng Samari. Chính khi băng qua đây, mà Ngài gặp gỡ người phụ nữ Samari. Đây là cuộc gặp hy hữu và bất thường.

Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc gặp gỡ đặc biệt vì: ban đầu, Đức Giêsu là người chủ động xin nước nơi chị phụ nữ Samari từ giếng Giacóp, Ngài lên tiếng: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4,7). Người phụ nữ quá ngỡ ngàng bởi lẽ giữa người Dothái và Samari đã từ lâu, họ không đội trời chung, và người Samari luôn bị người Dothái khinh miệt, không thèm tiếp xúc… Nhưng Đức Giêsu đã đi bước trước để phá vỡ rào cản mà lâu nay vẫn trói buộc giữa hai bên, bằng việc Ngài bắt chuyện và chủ động xin nước uống. Hành động này của Đức Giêsu làm cho người phụ nữ không khỏi ngạc nhiên, vì thế, chị ta thốt lên: “Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” (Ga 4,9). Nhưng Đức Giêsu đã trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4, 10); và như một sự tiệm tiến, Đức Giêsu đã nói trực tiếp chính Ngài là nguồn mạch nước hằng sống, thứ nước ấy uống vào sẽ không còn khát nữa. Khi nghe thấy thế, Người đàn bà đã tha thiết xin Đức Giêsu:”Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga 4, 15).

 

Thật vậy, qua cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng. Cách mạng về khoảng cách địa lý, về vai vế để đi đến một cuộc cách mạng vĩ đại, đó là cách mạng tâm hồn. Nhờ cuộc cách mạng tâm hồn này, mà từ nay, giữa người Dothái và người Samari được sống và sống dồi dào khi thờ phượng Chúa không chỉ ở trên núi này hay núi nọ, mà ngay tại trong tâm của mình qua Thần Khí và sự thật.

 

  1. Đức Giêsu là Nước Hằng Sống

Khi nói về cuộc cách mạng tâm hồn nơi chị phụ nữ trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, tưởng cũng nên nhắc lại: trước kia giữa người Dothái và người Samari, họ có chung một nguồn gốc. Nhưng do cuộc sống thay đổi và vì thời cuộc…, nên người Samari có những giao thương với ngoại bang, từ đó người Do thái cho là lai căng, thậm chí là bội giáo, và thường khinh thị, không muốn giao tiếp.

 

Nhưng hôm nay, Đức Giêsu đã vượt qua ranh giới của cái gọi là “ta và địch”, trong truyền thống để đến với anh chị em của mình.

 

Khi Ngài chủ động đến với chị ta như thế, Đức Giêsu đã cải hóa tâm hồn chị. Tâm trạng và thái độ của người đàn bà này có thể nói là một cuộc diễn biến tiệm tiến trong ân sủng và đức tin.

 

Thật vậy, thoạt tiên, sự xuất hiện của Đức Giêsu trước mặt chị chẳng hơn gì một “tên Dothái”. Đây là lối nghĩ miệt thị nhau, vì đã có mâu thuẫn từ nhiều thế hệ. Nhưng sau đó, chị ta đã “thưa ông”. Tiếp theo, khi được Đức Giêsu mặc khải cho biết chị ta đã 5 đời chồng rồi, lúc đó, chị đã gọi Ngài là một vị “ngôn sứ” là Đấng “Mêsia”. Cuối cùng, chị đã tôn vinh Ngài là Đấng Cứu Độ trần gian.

 

Qua câu chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã mặc khải hai điều:

 

Trước tiên, Đức Giêsu mặc khải cho người phụ nữ biết rằng: Ngài chính là Đấng Kitô, là Mêsia mà muôn dân mong đợi từ lâu. Ngài chính là nguồn mạch phát sinh sự sống, nên gặp được Ngài là gặp được chính nguồn sự sống bất diệt.

 

Thứ đến, Đức Giêsu mặc khải thêm: đã đến lúc không còn chuyện phân biệt rằng Thiên Chúa của tôi và Thiên Chúa của chị nữa. Không còn chuyện cùng một Thiên Chúa chúng ta thờ, nhưng lại chỉ thờ ở đây mà không thờ chỗ khác.

 

Như vậy, điều mà Đức Giêsu đã mặc khải cho người phụ nữ khi xưa, cũng chính là điều mà Ngài muốn mặc khải cho chúng ta ngày hôm nay.

 

  1. Sứ điệp Lời Chúa

Chúng ta đang sống trong một xã hội đề cao nhu cầu hưởng thụ. Thượng tôn vật chất… Tuy nhiên, vẫn còn đó những thiếu thốn khi trong nhà có nhiều tiền. Vẫn còn đó sự bất an, khi quyền lực có trong tay. Và, vẫn còn đó, một khoảng cách giữa người với người ngay trong cùng một căn nhà…

 

Vì thế, trong cuộc sống hiện thời, con người luôn khắc khoải và có những khát vọng như:

 

Khát vọng chân lý, công bằng khi phải đối diện với sự gian dối, bất công. Hoặc sống trong cảnh thù hận, ích kỷ…người ta khao khát tình thương, lòng bao dung, sự tha thứ. Còn sống trong chiến tranh, loạn lạc, đau khổ và bất an, thì người ta mong muốn có hòa bình, hạnh phúc và an vui…

 

Như vậy, con người vẫn luôn mong được hạnh phúc. Nhưng có biết bao người càng tìm càng mất. Tại sao vậy? Thưa, vì họ tìm và gắn bó vào những thực tại trần thế như: quyền, tiền, danh vọng, nhục dục… nên không bao giờ họ được khỏa lấp nỗi khát vọng trong sâu thẳm nơi tâm hồn của mình. Tình trạng của người phụ nữ bên bờ giếng là một minh họa. Chị ta ngồi ngay bên miệng giếng, nhưng tâm hồn vẫn khát. Chị ta cứ ngỡ rằng khi lao mình vào những thú vui nhục dục… thì sẽ được hạnh phúc. Không phải thế! Chị ta đã lầm khi đặt lý tưởng, mục đích của cuộc đời chị sai chỗ, nhầm đối tượng. Chỉ khi gặp được Đức Giêsu, chị ta mới hết khát và thỏa mãn. Thật vậy: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Hay như thánh Augustinô cũng phải thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.

 

Cũng vậy, khi chưa cảm nhận được Chúa thực sự, con người luôn sống hình thức và phụ thuộc vào những chuyện bên ngoài. Vì thế, vẫn còn đó những anh chị em sốt sắng đi lễ nhà thờ, nhưng sẵn sàng cãi vã to tiếng với những người sống chung quanh chỉ vì con chó, con mèo, hay mấy đứa trẻ chơi với nhau… Cũng vẫn còn đó khi làng này và làng bên kia có những khúc mắc từ lâu, nên hôm nay có lễ ở làng bên thì bên này làng tỏ vẻ ngần ngại không muốn đi, chỉ vì sự nghi kỵ trước kia lại nổi lên.

 

Mong sao, với sứ điệp Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta sẽ khao khát đi tìm chân lý, sự sống. Đi tìm chính Chúa và sống với Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng bỏ qua khoảng cách kỳ thị để đến được với nhau. Bởi vì Chúa là Chúa của mọi người chứ không chỉ riêng ta.

 

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết vượt lên trên những rào cản của kỳ thị, ghét ghen, để xây dựng sự hiệp nhất. Luôn biết mở lòng ra để đón nhận chính Chúa vào trong cuộc đời, hầu chúng con đáng được hưởng hạnh phúc viên mãn. Amen.

 

66.             Suy niệm của Lm. Đan Vinh

ĐÓN NHẬN ĐỨC GIÊSU LÀ NƯỚC HẰNG SỐNG

ĐỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ

  1. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc đối thoại của Đức Giêsu với một phụ nữ dân Sa-ma-ri. Người đã từng bước đưa chị ta đón nhận mặc khải quan trọng: Người chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng đến ban Nước Hằng Sống là ơn cứu độ cho những ai biết mở lòng đón nhận và đặt trọn niềm tin cậy vào Người.

CHÚ THÍCH:

C 5-9: + Đến một thành xứ Sa-ma-ri: Từ Giê-ru-sa-lem về Ga-li-lê ngang qua xứ Sa-ma-ri, Đức Giêsu đã tới giếng Gia-cóp gần thành Sy-kha (hay Si-khem) tại đất Ca-na-an (x. St 33,18; 48,22). Đây là đất mà tổ phụ Gia-cóp đã cho Giu-se và con cháu làm gia nghiệp (x. Gs 24,32). + Khoảng giờ thứ sáu: Tức khoảng mười hai giờ trưa. Người Do thái tính thời gian như sau: ban ngày có 12 giờ và ban đêm có 4 canh giờ. Ngày bắt đầu từ giờ Thứ Nhất (6g sáng) lúc mặt trời mọc, và kết thúc vào giờ Thứ Mười Hai (18g00) lúc mặt trời lặn. + “Chị cho tôi xin chút nước uống!”: Đức Giêsu chủ động xin nước uống để có cơ hội bắt chuyện, giúp người phụ nữ dần dần nhận ra Người là Đấng ban Nước Hằng Sống, đem lại ơn cứu độ cho loài người. + “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?”: Người Sa-ma-ri là con cháu của hai nhóm người: Một là những người không phải đi lưu đày khi Vương quốc Ít-ra-en phía Bắc bị tiêu diệt vào năm 722 trước CN. Hai là những người dân Ba-by-lon và Mê-đi-a do các đoàn quân xâm lược Át-sua đưa vào (x. 2 V 17,24tt). Có một sự đối lập về thần học giữa những người Sa-ma-ri này với người Do Thái phía Nam, bởi vì người Sa-ma-ri không chịu thờ phượng Thiên Chúa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Tình trạng này lại trầm trọng thêm vì người Sa-ma-ri đã gây thêm khó khăn cho người Do Thái hồi hương trong việc tái thiết Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, rồi đến thế kỷ II trước CN, người Sa-ma-ri lại giúp các vua Sy-ri trong các cuộc chiến chống người Do Thái. Vào năm 128 trước CN, thượng tế Do Thái đã ra lệnh đốt phá Đền Thờ Sa-ma-ri trên núi Ga-ri-dim. Đối với người Do Thái, dân Sa-ma-ri là dân tội lỗi ô uế. Do đó hai dòng giống Do thái và Sa-ma-ri tuy cùng một tổ tiên, sống sát bên nhau, nhưng lại có ác cảm và không giao tiếp với nhau. Ở đây, người phụ nữ Sa-ma-ri này đã nhận ra Đức Giêsu là người Do thái qua giọng nói và cách ăn mặc nên đã tỏ ra ngạc nhiên và từ chối giúp đỡ như vậy.

C 10-15: + “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị Nước Hằng Sống”…: Nhân dịp này, Đức Giêsu cho người phụ nữ kia biết Người là Đấng Cứu Thế, đến để ban Nước Hằng Sống. Trong Tin Mừng Gio-an, chúng ta thường gặp tình trạng các người đối thoại với Đức Giêsu hiểu lầm những kiểu nói của Người. Như ở đây, hai kiểu nói là “nước hằng sống” của Đức Giêsu và của người phụ nữ nói không mang cùng một ý nghĩa. + “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra Nước Hằng Sống?…: Người phụ nữ này chỉ hiểu lời Đức Giêsu theo nghĩa thông thường là “nước giếng” tự nhiên, đang khi Đức Giêsu lại có ý nói đến Nước Hằng Sống là Ơn Cứu Độ. + “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”: Đức Giêsu so sánh nước giếng tự nhiên chỉ làm đã khát cho thân xác nhất thời, với Nước Hằng Sống là ơn cứu độ mới là nguồn nước mang lại sự sống đời đời cho loài người mà chính Người mang đến. + “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”: Đức Giêsu dẫn dắt người phụ nữ từ thái độ thù nghịch đến chỗ thân thiện với Người. Đức Giêsu từ vai trò một người khách bộ hành xin nước uống đến vai trò là Đấng Thiên Sai ban Nước Hằng Sống và người phụ nữ xin Người ban cho thứ Nước cứu độ ấy.

C 16-22: + “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây”: Đức Giêsu tỏ ra là người lịch sự khi Người muốn nói chuyện với người phụ nữ trước mặt người chồng của chị ta, đồng thời cũng muốn cho chị ta ý thức về thân phận tội nhân của mình. + “Chị nói: Tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng”: Đức Giêsu cho người phụ nữ ý thức tình trạng hôn nhân bất hợp pháp của mình. Một số nhà chú giải còn nhìn thấy 5 đời chồng là hình ảnh tượng trưng dân Sa-ma-ri vừa kính sợ Đức Chúa, lại vừa phụng thờ 5 vị thần khác (x. 2 V 17,29-34.41). + Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ: Người phụ nữ sửng sốt trước việc Đức Giêsu thấu suốt đời tư của mình, và tôn xưng Người là một vị ngôn sứ. Đồng thời, chị ta xin Đức Giêsu cho chị lời khuyên cần tôn thờ Thiên Chúa trên núi Ga-ra-dim như người Sa-ma-ri (x. Đnl 27,4) hay thờ Chúa tại Đền Thánh Giê-ru-sa-lem như người Do Thái? + Đã đến giờ: Đức Giêsu dạy chị phụ nữ với tư cách vị ngôn sứ: Đã đền giờ Người xuất hiện để thực hiện chương trình cứu độ. Người cho biết: việc thờ phượng tại núi này hay tại Giê-ru-sa-lem chỉ là hình bóng và đã bị vượt qua rồi. Bây giờ là thời của Đấng Thiên Sai, nên cần chầm dứt việc thờ phượng cũ để bắt đầu cách thờ phượng mới nơi Người. + Thờ Đấng mà các người không biết: Người Sa-ma-ri chỉ công nhận bộ sách Ngũ Kinh và không biết đến các sách khác, nhất là sách của các ngôn sứ mặc khải về Thiên Chúa. + Còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết: Người Do thái tuân giữ toàn bộ Sách Thánh. Sau này, thánh Phao-lô cũng nhấn mạnh đặc ân này của dân Do thái (x. Rm 9,4).

C 23-29: + Thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí: là tôn thờ Thiên Chúa dưới sự soi sáng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. + Trong Sự Thật: Thờ Thiên Chúa trong Đức Giêsu, Đấng là “đường, sự thật và sự sống” (Ga 14,6). Tóm lại, từ nay Đức Giêsu trở nên Đền Thờ mới sẽ thay Đền Thờ cũ trên núi Ga-ra-dim hay tại thủ đô Giê-ru-sa-lem. + Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật”: Đức Giêsu đã nêu ra một điều được cả dân Do thái và dân Sa-ma-ri chấp nhận là lời khẳng định: “Thiên Chúa là Thần Khí, và người ta phải thờ Người ở khắp mọi nơi, thờ chính Thiên Chúa chứ không phải thờ hình bóng của Người. Thiên Chúa là Đấng vô hình, nên Người đòi người ta phải thờ phượng Người trong tâm hồn. Một số người dựa vào câu này để từ chối thờ Chúa bằng những hình thức lễ nghi bên ngoài. Thực ra Đức Giêsu vẫn thường xuyên lên Đền thờ dự lễ (x. Ga 2,13; 7,14; 11,55) và đến hội đường Do thái nghe giảng dạy và cầu nguyện chung tôn thờ Thiên Chúa (x. Mt 1,21; Mt 13,54). Qua câu nói này, Người chỉ chống lại những nghi lễ vụ hình thức mà thôi (x. Mt 15,7-9; 21,12-13). + Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô sẽ đến: Dù chưa hiểu được ý nghĩa về lời giải thích trên đây, người phụ nữ này cũng quan tâm đến tôn giáo. Bà hy vọng Đấng Thiên Sai sẽ đến loan báo mọi sự. + Đấng ấy chính là tôi: Đây là công thức bằng tiếng Hy Lạp “egô eimi” (I am; Je suis). Công thức này là chính danh xưng Thiên Chúa đã tỏ ra cho Mô-sê. Tác giả muốn ngầm giới thiệu thần tính của Đức Giêsu. Bình thường, Người không muốn tỏ ra là Đấng Thiên Sai vì sợ dân Do thái hiểu vai trò Thiên Sai theo nghĩa chính trị. Còn ở đây nói với người phụ nữ Sa-ma-ri, Người không sợ bị hiểu lầm nên đã tỏ mình chính là Đấng Thiên Sai. + Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ: Phong tục Do thái không cho phép đàn ông nói chuyện với phụ nữ nơi công cộng. Làm như vậy, Đức Giêsu đã bãi bỏ tục lệ này vì sứ mệnh rao giảng Tin Mừng quan trọng hơn thói tục của người đời. Người đến với tha nhân, bất kể họ là ai hay thuộc phái tính nào, dân tộc nào, để đem Tin Mừng cứu rỗi cho họ. + Đến mà xem: có một người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm: Thực ra Đức Giêsu mới chỉ nói về những người chồng của người phụ nữ này chứ chưa nói về tất cả những gì chị đã làm. Nhưng khi nói với dân chúng, chị ta đã phóng đại lên để cho người ta dễ tin mà thôi.

C 30-38: + “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết”: Đức Giêsu muốn dựa vào của ăn phần xác mà các môn đệ mời Người để nói về của ăn thiêng liêng mà các ông chưa biết. + Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy: Đức Giêsu coi việc làm theo ý Chúa Cha là đồ ăn của Người. + Đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!: Đức Giêsu dựa vào câu tục ngữ người nông dân thường nói: “Bốn tháng có qua, mùa gặt có tới”. Qua đó Người nói đến mùa gặt thiêng thiêng là cánh đồng truyền giáo đã chín vàng, chính là dân thành Sa-ma-ri đang kéo tới gặp Người. Đây là hoa trái đầu mùa của mùa gặt Thiên Sai. Trong Cựu Ước, mùa gặt tượng trưng sự phán xét của Thiên Chúa, hoặc niềm vui ơn cứu độ (x. Is 9,2; Am 9,13, Tv 126,5). Trong Tân Ước, mùa gặt tượng trưng cho hoa quả của việc truyền giáo (x. Mt 9,37). Đức Giêsu gợi lên niềm vui và phần thưởng của thợ gặt là các tông đồ, khi các ông giúp nhiều người tin để được hưởng hạnh phúc Nước Trời. + Câu tục ngữ “Kẻ này gieo, người kia gặt” quả là đúng!: Câu tục ngữ này được hiểu như sau: Người gieo chính là Đức Giêsu và hạt giống là Tin Mừng (x. Lc 8,11). Thợ gặt là các môn đệ. Mặc dù các ông chưa được sai đi, nhưng Đức Giêsu đã thấy trước viễn ảnh tốt đẹp là hoa quả của việc truyền giáo mang lại. Đức Giêsu muốn nói lên rằng: công khó của Người sắp chịu chết trên thập giá như là hạt giống, hạt giống ấy phải chết đi mới sinh ra nhiều hoa trái (x. Ga 12,24). Còn các môn đệ sẽ cảm mến được niềm vui của mùa gặt. Công việc truyền giáo là một việc mang tính tập thể: “Người gieo kẻ gặt”, mỗi người mỗi nhiệm vụ. Do đó khi việc tông đồ đem lại nhiều kết quả thì người ta đừng tự mãn cho rằng kết quả đó hòan tòan do công sức riêng của mình, nhưng còn có công sức của nhiều người khác cộng tác nữa.

C 39-42: + Ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm: Lời chứng của người phụ nữ được coi là dấu chỉ, là bước khởi đầu đưa dân thành tin vào Đức Giêsu. + Dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa: Đức tin phải được tiếp tục triển nở nhờ nghe lời giảng dạy của Đức Giêsu. + “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian”: Qua lời của dân thành Sa-ma-ri, ta thấy đức tin trưởng thành phải bắt nguồn từ thực tế, chứ không chỉ dựa vào đức tin của người khác như cha mẹ, vợ chồng, người thân hoặc theo số đông nơi mình đang sống mà thôi.

CÂU HỎI: 1) Cách tính giờ của người Do thái thế nào? 2) Đức Giêsu chủ động xin nước uống với người phụ nữ Sa-ma-ri nhằm mục đích gì? 3) Nước Hằng Sống mà Đức Giêsu hứa ban là thứ nước gì? 4) Lời Đức Giêsu dạy thờ Thiên Chúa vô hình trong Thần Khí và Sự Thật phải chăng là Người đã bãi bỏ tất cả các lễ nghi thờ phương bề ngoài? 5) Câu chuyện người phụ nữ Sa-ma-ri hôm nay dạy ta bài học gì về sứ mạng phải đi loan báo Tin Mừng? 6) Câu nói của dân làng cho thấy tầm quan trọng của Lời Chúa ra sao trong viẹc tăng thêm đức tin của người tín hữu đến mức trưởng thành?

  1. SỐNG LỜI CHÚA
  2. Lời Chúa: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4,13-14a).
  3. Câu chuyện:

1) Lời Chúa chính là nguồn nước hằng sống:

Cách đây ít lâu, một số chị em người Bỉ khi suy niệm đoạn Tin mừng này, đã cùng nhau lập một tu hội tên là “Ô Vi” (Eau Vive) dịch là “Nước Hằng Sống”. Ngoài việc cầu nguyện trước Chúa Thánh Thần mỗi ngày, chị em còn mở quán ăn phục vụ khách. Trong quán, các chiêu đãi viên chính là các nữ tu. Châm ngôn của tu hội là “Phục vụ Chúa trong các thực khách”. Mỗi buổi tối vào giờ đóng cửa, chị em biến quán ăn trở thành nhà nguyện. Các thực khách được mời ở lại tham dự giờ chia sẻ Lời Chúa. Mọi người sẽ được nghe Lời Chúa trong Thánh Kinh là Nước Hằng Sống mà Đức Giêsu đã ban cho người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp xưa.

2) Phải tìm gặp Chúa nơi tha nhân:

Vào một đêm trăng, khi nhìn qua cửa sổ, vị tu sĩ già thấy một thiên thần đang ngồi viết vào một cuốn sách vàng. Lòng tràn ngập hân hoan, vị tu sĩ liền rón rén đến gần hỏi thiên thần:

– Ngài đang viết gì vào quyển sách vàng này thế?

– Ta đang ghi tên những người có lòng yêu mến Thiên Chúa thực sự.

Trong tâm trạng vừa lo lắng lại vừa hồi hộp, vị tu sĩ đã yêu cầu thiên thần tìm trong cuốn sách xem đã có tên mình hay chưa. Thiên thần liền chiều ý để lần giở từng trang sách ra tìm, nhưng tìm từ đầu đến cuối cuốn sách vàng mà không thấy có tên ông ta. Vị tu sĩ vẫn không thất vọng, ông tiếp tục yêu cầu thiên thần:

– Vậy xin ngài hãy ghi tên tôi là kẻ luôn yêu mến phục vụ tha nhân.

Thiên thần liền ghi tên ông vào sổ vàng những người yêu mến Chúa.

Sau khi vị tu sĩ già qua đời, người ta đã tìm thấy quyển nhật ký hằng ngày của ông. Trong đó ngay trên trang đầu tiên ông dã ghi Lời Chúa phán: ”Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa, mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu mến người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1 Ga 4,20). Tiếp theo lời Chúa này, vị tu sĩ còn giải thích thêm: ”Tôi đã đi tìm linh hồn tôi, nhưng tôi không tìm thấy vì linh hồn có đặc tính thiêng liêng; Tiếp đến tôi đã đi tìm Thiên Chúa, nhưng tôi cũng không tìm thấy vì Ngài vô cùng siêu việt; Mãi đến khi tôi quyết định đi tìm tha nhân thì tôi lại gặp được cả Thiên Chúa và linh hồn mình nơi những người này” (Trích «Mỗi ngày một tin vui»).

  1. Suy niệm:

Mùa Chay là thời kỳ thuận tiện để giúp chúng ta tìm gặp Đức Giêsu là nguồn nước đem lại sự sống đời đời. Qua Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp. Người đã từng bước mặc khải Sự Thật về Người cho chị ta: Người là Đấng ban Nước Hằng Sống, là một Ngôn Sứ, là Đấng Mê-si-a đến ban ơn cứu độ mọi người.

1) Học tập Đức Giêsu trong việc loan báo Tin Mừng:

Đức Giêsu đã hướng dẫn người phụ nữ theo một tiến trình đức Tin như sau:

– Người đi bước trước để ngỏ lời xin người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống nước giếng tự nhiên:

Đức Giêsu chủ động đi bước trước làm quen, vượt qua rào cản giữa hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri để ngỏ lời xin một người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống nước như sau: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4,7). Đây là phương pháp loan báo Tin Mừng hữu hiệu giúp các tín hữu chúng ta tiếp cận anh em lương dân để nói chuyện về tôn giáo với họ.

– Người đòi người phụ nữ phải tin vào Người để được Người ban cho Nước Hằng Sống là ơn cứu độ:

Từ việc xin nước uống tự nhiên, Đức Giêsu đề cập đến thứ Nước Hắng Sống là đức tin siêu nhiên đem lại sự sống đời đời cho những ai đón nhận: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: Cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy sẽ ban cho chị Nước Hằng Sống” (Ga 4,10). Phải biết bắt đầu từ những điều vật chất cụ thể để sẽ đề cập đến mầu nhiêm đức tin siêu vật chất. Đức Giêsu cũng nhiều lần đã dung các hình ảnh cụ thể vật chất đời thường trong các dụ ngôn để trình bày về Nước Trời.

– Người đòi người ta phải thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật:

Đức Giêsu cho chị phụ nữ kia biết chính thái độ ich kỷ tự mãn và khinh thường lẫn nhau đã tạo ra bức tường ngăn cách về đức tin giữa hai dân tộc Do thái và Sa-ma-ri: Người Do thái đòi phải thờ Thiên Chúa tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, còn người Sa-ma-ri lại đòi phải thờ Thiên Chúa trên núi Ga-ri-dim! Đức Giêsu đã giải đáp về sự thờ phượng đích thực như sau: “Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga 4,24). Cần tập cầu nguyện với Chúa mọi lúc và mọi nơi chứ không nhất thiết phải có nhà thờ hay bàn thờ mới cầu nguyền được.

– Người mặc khải về sứ mạng Thiên Sai của Người:

Người phụ nữ Sa-ma-ri cho biết quan niệm về Đấng Thiên Sai của người Sa-ma-ri như sau: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô sẽ đến. Khi Người đến, người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Đức Giêsu liền mặc khải cho chị ta biết về vai trò Thiên Sai của Người như sau: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Ga 4,26). Tất cả sự thờ phượng Thiên Chúa đều qui vè Chúa Giêsu, để nhờ Người mà tạ ơn Thiên Chúa Cha.

– Người phụ nữ thể hiện đức tin bằng việc nhiệt thành làm chứng cho Người:

Sau khi đã tin Đức Giêsu là Ngôn Sứ và là Đấng Thiên Sai, người phụ nữ đã phấn khởi vào trong thành báo tin như sau: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi về tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” (Ga 4,29). Nhờ lòng tin yêu Chúa mà người phụ nữ này đã nhiệt thành loan báo Tin Mừng cho đồng bào của mình. Thực như lời thánh Phao-lô đã nói: “Tinh yêu Chúa Ki-tô thôi thúc tôi” (2 Cr 5,14).

– Nhờ gặp gỡ và nghe lời Chúa mà dân làng Sa-ma-ri đã đạt đến một đức tin trưởng thành:

Lúc đầu dân làng Sa-ma-ri đã ra gặp Đức Giêsu theo lời người phụ nữ kêu gọi. Rồi họ đã mời Đức Giêsu ở lại để được nghe loan báo Tin Mừng. Nhờ đó họ đã có đức tin vào Đức Giêsu chính là “Đấng Cứu Độ trần gian”. Cuối cùng họ đã khẳng định với người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng: Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian” (Ga 4,42). Đây cũng là tấm gương cho những anh chị em tân tòng theo đạo để lập gia đình với người bạn công giáo. Họ phải làm thế nào để đạt tới đức tin trưởng thành như dân làng Sa-ma-ri nói trên.

2) Phải gặp gỡ Chúa là điều kiện để có đức tin trưởng thành?:

Ngày nay chúng ta có thể gặp gỡ Chúa bằng nhiều hình thức như sau:

– Gặp Chúa trong tình yêu tha nhân: “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4,8), nên chỉ những ai có tình yêu thương tha nhân mới gặp được Thiên Chúa. Còn những kẻ ganh ghét, để lòng thù ghét anh em thì thuộc về ma quỷ và sẽ không gặp được Thiên Chúa đời này và đời sau như thánh Gio-an đã viết: “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân” (1 Ga 3,15).

– Gặp Chúa trong Thần Khí là Chúa Thánh Thần: Đức Giêsu nói: Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4,23). Vì “Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm làm ra” (Cv 7,48). Do đó muốn gặp gỡ Thiên Chúa thực sự, ta cũng phải gặp Ngài trong Thần Khí là Chúa Thánh Thần.

– Gặp Chúa trong tín thác vào Chúa Giêsu “là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6): Nhờ đức Tin, chúng ta sẽ gặp gỡ Chúa qua Lời Chúa và Thánh Thể tại nhà thờ; Gặp Chúa khi đọc Lời Chúa giờ kinh tối gia đình hằng ngày hay các buổi sinh hoạt Hiệp Sống Tin Mừng hằng tuần: “Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đất, giữa họ” (Mt 18,20)

– Gặp Chúa trong những người đang sống chung trong một mái nhà hay đang ẩn mình nơi những người đau khổ, nghèo khó, bệnh tật và bị bỏ rơi… Ngoài ra để gặp được Chúa, chúng ta cần phải ăn ở thành thật “có nói có, không nói không” (Mt 5,36). Tránh ăn nói quanh co, lừa đảo, vì đó là hành vi của ma quỷ là kẻ dối trá và hay đánh lừa con người (x. Ga 8,44).

3) Làm gì để sống và truyền bá đức tin trong thế giới hôm nay?:

– Trong những ngày Mùa Chay này, chúng ta cần dành nhiều thời gian để đến gặp gỡ Chúa Giêsu trong thánh lễ, qua các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, các giờ kinh tối gia đình… Nhờ đó chúng ta sẽ có một nguồn suối làm thỏa mãn cơn khát nội tâm, và làm cho lòng chúng ta trở thành một mạch nước mới dẫn đến ơn cứu độ như lời Chúa dạy hôm nay: “Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga 4,14a).

– Cần hãm mình ăn chay để có điều kiện làm nhiều việc bác ái yêu thương như phương thế truyền giáo hữu hiệu trong hoàn cảnh xã hội hôm nay: Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Trong thế giới hôm nay người ta cần những chứng nhân hơn là thầy dạy và nếu họ có nghe thầy dạy thì thầy dạy đó cũng là chứng nhân”. Câu chuyện sau đây chứng minh điều này: “Có một người đàn ông nọ mới theo đạo. Một hôm có người muốn thử đức tin của ông liền hỏi: “Anh theo đạo nhưng có biết Đức Giêsu là ai không?” Người tân tòng trả lời: “Dĩ nhiên là biết chứ”. Người kia hỏi tiếp: “Thế Đức Giêsu sinh ra tại đâu?” Người tân tòng im lặng không trả lời được. Người kia hỏi tiếp: “Thế Đức Giêsu chết khi được bao nhiêu tuổi?” Một lần nữa, người tân tòng lại không biết. Người kia liền nói: “Anh chẳng biết gì về đạo. Vậy tại sao anh lại theo đạo?” Bấy giờ người tân tòng mới nói: “Thú thật với anh: tôi biết rất ít về giáo lý. Nhưng điều tôi biết rất rõ là: Cách đây hai năm, do nợ ngân hàng mất khả năng chi trả, nên gia đình tôi lâm vào hoàn cảnh khốn cùng bị đuổi ra khỏi nhà để sống lang thang nay đây mai đó. Trong thời gian ấy, tôi buồn chán đi uống rượu và trở thành một kẻ luôn say xỉn và khi về đến nhà là lại la mắng vợ con. Vợ tôi lúc nào cũng buồn rầu khóc lóc. Các con tôi thì luôn sợ phải nhìn thấy mặt ba của chúng. Nhưng sau đó. tôi rất may đã gặp được một linh mục tốt bụng. Ông đã tận tình giúp đỡ gia đình tôi vượt qua cơn khó khăn: Ông giúp tôi có được một công việc thu nhập ổn định, và giúp gia đình tôi trở thành con Thiên Chúa. Ông còn giúp bản thân tôi trở thành một con người sống tiết độ và có trách nhiệm hơn đối với gia đình của mình. Hiện nay tôi đã đòi lại được căn nhà cũ trước kia. Vợ chồng tôi sống với nhau rất hòa hợp hạnh phúc. Các con tôi đều khỏe mạnh, học hành tiến bộ và luôn ngoan ngoãn hiếu thảo. Tôi xác tín rằng: “Chính Đức Giêsu đã biến đổi gia đình tôi từ khi tôi gặp được Người qua trung gian một vị linh mục!” Quả thật đúng như lời Đức Giêsu đã phán trong Tin Mừng hôm nay: “Ai uống nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14b).

III. THẢO LUẬN:

1) Chúng ta thường mong ước những điều gì và cảm thấy thế nào khi chiếm hữu được chúng? 2) Bạn có cảm nghĩ gì về Lời Chúa hứa sẽ ban Nước Hằng Sống cho những ai tin và uống nước ân sủng của Người?

  1. NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu. Xin hãy biến đổi chúng con trong Mùa Chay này. Xin cho chúng con gặp Chúa trong thánh lễ, những buổi tĩnh tâm sám hối… để biết rõ con người thật của mình. Xin cho chúng con năng uống Nước Hằng Sống là Lời Chúa dạy và Thánh Thể Chúa, nhờ đó, cuộc đời chúng con sẽ tươi vui hơn. Xin cho chúng con sẵn sàng loại trừ những thành kiến với tha nhân, để quảng đại tha thứ, quên mình phục vụ và luôn đi bước trước đến với tha nhân, như Chúa đã nêu gương trong Tin Mừng hôm nay. Xin cho chúng con luôn cầu nguyện như thánh Au-gút-ti-nô: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con hướng về Chúa, và tâm hồn con vẫn còn xao xuyến mãi cho đến khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”; Xin giúp chúng con luôn thực hành Lời Chúa như Mẹ Ma-ri-a đã căn dặn các người giúp việc yại tiệc cưới Ca-na xưa: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5b).- Amen.

 

67.             Kỳ thú – Như Hạ

Nhân loại có cần đươc cứu độ không? Hình như nhu cầu hằng ngày đã lấn lướt mọi nhu cầu khác và nhất là không liên quan gì tới ơn cứu độ. Nhưng chính từ những nhu cầu ăn uống tầm thường hằng ngày, Đức Giêsu đã mạc khải chân lý vĩ đại.

TỪ ĐỘC THOẠI TỚI ĐỐI THOẠI

Thật là thú vị khi theo dõi cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và phụ nữ Samari tại bờ giếng Giacóp. Bình thường không thể có cuộc đối thoại như thế, vì “người Do thái không được giao thiệp với người Samari.” (Ga 4:9) Nhưng một ranh giới đã vượt qua, khi Đức Giêsu khéo léo bắt chuyện: “Chị cho tội xin chút nước uống!” (Ga 4:7) Thường người ta chỉ ra kín nước ban sáng hay chiều. Chị đã cố ý ra giếng buổi trưa để tránh né những cái nhìn xăm xoi vào đời tư, vậy mà cũng không thoát khỏi. Nhưng cuộc gặp gỡ vượt quá sức tưởng tượng ban đầu.

Cuộc đối thoại nhiều lần như bị khựng lạiNhiều lần có nguy cơ trở thành độc thoại. Vừa mở miệng, Đức Giêsu đã bị người phụ nữ “kê tủ đứng” rồi: “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” (Ga 4:8) Nhưng Đức Giêsu đã khai thông bế tắc một cách dễ dàng. Trước tiên, Người muốn cho chị khám phá con người đang đối diện với chị không phải chỉ là một tập hợp những yếu tố vật chất với những nhu cầu tầm thườngNhưng đó là “ân huệ Thiên Chúa” (Ga 4:10) vô cùng vĩ đại mà chị không nhận ra Vĩ đại vì từ nơi Người mạch “nước hằng sống” (Ga 4:10) sẽ tuôn trào cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu muốn chứng tỏ mình là Thiên sai. Vì “chỉ có Thiên sai mới có thể làm cho con người thỏa niềm ước mong.” (Life Application Study Bible 1991:1880) Cựu Ước từng tôn xưng Thiên Chúa là mạch nước hằng sống (Tv 36:9) và là suối nước trường sinh (Gr 17:13). Trong khi phụ nữ đó đề cao tổ phụ Giacóp như ân nhân của dân làng vì đã cung cấp nguồn nước cho bao thế hệ, Đức Giêsu lại muốn cho chị thấy mình trổi vượt hơn tổ phụ, vì “ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa.” (Ga 4:14)

Nói đến thế mà chị vẫn chưa hiểu! Đúng là cảnh “ông nói gà, bà nói vịt” Đức Giêsu tìm cách tháo gỡ dần dần cái vòng luẩn quẩn đóChị giật mình khi tất cả đời tư bị phơi bày ra ánh sáng. Làm sao một người xa lạ như Đức Giêsu có thể biết được chuyện chồng con của chị?! Cứ tưởng Người như tất cả thanh niên khác, chị lấm lét thở dài: “Tôi không có chồng.” (Ga 4:17). Chị muốn làm một lá chắn thật dầy để che đậy tất cả bí mật màn the. Đức Giêsu cảm thấy thương hại cho người phụ nữ SamariNgười không kết án chị là người dối tráTrái lại, Người dựa ngay vào lời chị để mạc khải một sự thật khiến chị phải thốt lên: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ …” (Ga 4:19) Câu truyện đi vào khúc rẽ quan trọng. Một mạc khải lóe lên ngay trong đời thườngPhải lên núi cao biến hình, Đức Giêsu mới có thể mạc khải cho các môn đệ sự thật về mình. Ngay cả khi vào sa mạc chịu cám dỗ, phải có Thánh Linh hướng dẫn, Đức Giêsu mới xác định được căn tính giữa những tương quan chằng chịt trong trời đất

Mỗi mạc khải đều kèm theo một lời mời gọiKhi nhận ra Đức Giêsu là ngôn sứ, chị được kêu mời trở về với Thiên Chúa thật, một Thiên Chúa không lệ thuộc vào nơi chốn hay con ngườiQuả thực, “giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật vì Thiên Chúa là thần khí” (Ga 4:23-24) Những đầu óc đặc sệt vật chất không thể hiểu nổi Thiên ChúaBởi vậy, họ đóng khung Thiên Chúa trong những phạm trù hoàn toàn trần tụcNhững tâm trí đó không thể thấy những nét kỳ diệu trong cuộc đối thoại vô cùng lý thú bên bờ giếng Giacóp hôm nay

Nhờ sống lâu trong truyền thống tôn giáo, chị đã hiểu ngay được vấn đề khi nhìn nhận Đức Giêsu là ngôn sứ. Ngay từ nhỏ chị đã được nghe mạc khải về thời kỳ cứu độ: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đếnKhi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” (Ga 4:25) Chụp ngay cơ hội, Đức Giêsu nói tất cả sự thật về mình: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” (Ga 4:26) Niềm tin lên tới tột đỉnh khi chị nghe thấy trong lời Đức Giêsu vang vọng tiếng Giavê tự xác định chính mình với ông Môsê bên Ai cập (x. Xh 3:14) Tới đây chị không thể kìm hãm nổi tiếng thôi thúc trong tim nữaVô cùng kinh ngạc và sung sướng, “người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: ‘Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làmÔng ấy không phải là Đấng Kitô sao?'” (Ga 4:28-29) Phải chăng chị đã bỏ lại đằng sau tất cả biểu tượng của niềm tin cũ (vò nước bên bờ giếng Giacóp) để lao tới trước theo tiếng gọi của niềm tin mới vào Đức Giêsu? Chị đã trở thành người loan báo Tin Mừng đầu tiên cho dân làngThực vậy, “có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng.” (Ga 4:39) Dầu sao, người rao giảng Tin Mừng cũng chỉ đóng vai trung gian. Muốn được cứu độ, người ta phải đích thân băng qua cầu đó. Sự thật ấy đã được các dân làng Samari chứng minh: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.” (Ga 4:42)

Bên cạnh cuộc đối thoại thú vị với phụ nữ Samari, Đức Giêsu còn lợi dụng mấy giây phút ngắn ngủi hàn huyên với các môn đệ để mạc khải một chân lý vĩ đại. Cũng như phụ nữ Samari, đầu óc các ông chỉ “sà sà ngọn cỏ” Từ chủ đề “nước”, Đức Giêsu đã nói về “nước hằng sống” là Thánh Linh, mạc khải về bản chất Thiên Chúa là “thần khí”, và chính mình như “một ngôn sứ”, “Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô” và “Đấng cứu độ trần gian”. Còn chủ đề “lương thực” đưa tới một sự thật: “lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4:34). Như thế Người đã mạc khải về bản chất và sứ mạng của Ba Ngôi trong công cuộc cứu độ toàn thể nhân loại. Nhờ kiên nhẫn, Đức Giêsu đã biến phụ nữ Samari và các môn đệ thành những chứng nhân và sứ giả Tin Mừng.

CHỨNG TỪ SỐNG ĐỘNG.

Những sứ giả đó không được huấn luyện trong các trường đại học, nhưng ngay giữa chợ đời với những câu chuyện hằng ngày xoay quanh vấn đề ăn uống. Cơm áo là tầm thường! Nhưng dưới cái nhìn của Đức Giêsu, chẳng có gì tầm thường đến nỗi không thể vận dụng vào việc mạc khải những chân lý cao siêuNhiều lần người môn đệ cũng đã đối thoại với Thày chí thánh ngang qua những thực tế tầm thường trong cuộc sống. Nếu không, làm sao những anh chị em Đa Minh Việt Nam, chẳng hạn, có thể đem niềm an ủi đến cho đồng bào đau khổ trong các trại phong, khuyết tật, ung bướu hay đến các em kém may mắn không được cắp sách đến trường, những đồng bào thiểu số trên cao nguyên? Khi cung cấp lương thực hay nguồn nước trong lành cho đồng bào, anh chị em đã gieo Tin Mừng hi vọng vào hoàn cảnh tăm tối của họ.

Những nỗ lực như thế vô cùng cần thiết để xoay đổi cục diện thế giới hôm nay. Các nhà lãnh đạo Công giáo và Hồi giáo Sunni đều cho rằng “lúc nào cũng cần phải chú ý tới các phương diện cơ bản của xã hội: đời sống gia đình, giáo dục, phát triển xã hội, ảnh hưởng thông tin đại chúng, cổ động công lý và tình liên đới trong những quốc gia và trên một tầm mức quốc tế.” (Zenit, Feb. 27, 2002) Có những hạng người cực đoan không bao giờ lắng nghe lẽ phải. “Đối thoại không đủ để chinh phục, nhưng cần phải cổ võ việc phát triển toàn diện” (Zenit, Feb. 27, 2002) mới lôi kéo những con người đóĐó là đường lối Đức Giêsu chinh phục chị Samari và các môn đệ.

 

68.             Nếu chị biết ân huệ Thiên Chúa ban

(Suy niệm của Fr. Jude Siciliano)

Thưa quý vị.

Mấy tháng nay ở vùng Bắc Carolina nước Mỹ trời hạn hán nặng. Vài cơn mưa rào tháng Giêng vừa qua được đón nhận như các trận mưa giải thoát. Hạn hán có các mức độ khác nhau tùy theo vùng. Vào thập niên 80 của thế kỷ trước, tôi sống ở bang California, trời làm hạn tới 7 năm liền. Các hồ chứa nước báo động từng ngày. Khách sạn không được phép đặt nước trên bàn ăn, trừ phi có yêu cầu đặc biệt. Cả bang không được rửa xe. Người ta chỉ được tắm bông sen thật nhanh. Cấm tắm bồn. Radio và Tivi liên tục nhắc nhớ tiết kiệm nước. Nhưng vì sức khỏe, cả bang North Carolina và bang California đều cho phép uống nước từ vòi chảy tùy thích. Tuy vậy, nhiều hộ vẫn lén lút tưới trộm các thảm cỏ xanh. Khí hậu ở các sa mạc còn tệ hại hơn, nhất là vào thời Kinh thánh chưa có kỹ thuật thủy lợi. Miền Palestine, nước không được chảy tự do. Nếu như thiếu nước hoặc bị phung phí thì có nghĩa là chết khát! Vì thế nước giữ vai trò nổi bật trong các trình thuật Thánh kinh. Từ Cựu ước hình ảnh nước đã được nhấn mạnh. Nước đại hồng thủy. Nước giải thoát khỏi cảnh nô lệ Ại Cập – Sang đến Tân ước, Gioan tẩy giả làm phép rửa thống hối bằng nước sông Giođano. Chúa Giêsu ban nước hằng sống cho người đàn bà Samaria trong Tin Mừng hôm nay. Nước và Máu cứu độ từ cạnh sườn chảy ra trên cây thập tự.

Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra mối liên hệ dân Kinh thánh đã mường tượng giữa nước và Thiên Chúa: Nước là ân huệ Chúa ban, là quà tặng, là dấu chỉ của người cha nhân lành. Thiên Chúa săn sóc dân Ngài qua hình ảnh ban nước cho dân và đàn súc vật của họ. Nước nói lên ý nghĩa biểu chưng cho sự sống, nó còn ám chỉ chúng ta phải hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài về vật chất cũng như tinh thần. Không được Ngài liên tục nâng đỡ, dân Chúa sẽ héo khô như cây cỏ thiếu nước dưới ánh nắng mặt trời gay gắt như thiêu như đốt. Bài đọc sách Xuất hành hôm nay đặt dân Do thái vào giữa hoang địa khô cằn dưới chân núi Horeb. Họ phàn nàn vì thiếu nước. Horeb có nghĩa là “Khô”. Xét về phương diện tinh thần thì ở giai đoạn này đúng là họ đang “khát” Thiên Chúa. Họ cần Ngài để đủ can đảm tiến bước vào sa mạc, lang thang suốt 40 năm trong hoang địa. Vậy mà họ chưa học được phải cậy trông Thiên Chúa ra sao! Họ nhìn khắp chung quanh chỉ toàn là đe dọa. Tai họa có mặt khắp mọi nơi. Khát là một từ đầu lưỡi, bởi làm gì có nước trong sa mạc? Vậy thì Thượng đế ở đâu? Cái gì đã lôi cuốn họ đi theo Môsê và Thiên Chúa vô hình vào cái nóng ghê hồn của hoang địa “Horeb”?

Cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng có những giây phút đầy thử thách như thế. Chúng ta bắt buộc phải “ra đi” vào những hành trình dài thăm thẳm về tinh thần cũng như vật chất. Cụ thể là cuộc sống khó khăn hàng ngày. Chúng ta cần phải thay đổi liên tục để có thể thăng tiến: Tìm kiếm tư vấn cho các nhu cầu của cuộc sống. Cần giúp đỡ để đối phó với tính hư nết xấu. Rời bỏ cương vị béo bở để có một nếp sống trong sạch và ý nghĩa hơn. Kiếm thêm thời giờ rảnh rỗi để giúp đỡ những kẻ bất hạnh. Chấm dứt đàng điếm với bạn bè xấu thói. Thôi không hút thuốc gây hại cho thiên hạ. Ở nhà để giáo dục con cái tốt hơn. Theo tiếng Chúa gọi đi truyền giáo miền đất xa lạ … Dẫu rằng bước ban đầu đầy khó khăn, bấp bênh và sợ hãi. Nó đòi hỏi bỏ lại đàng sau tiền tài, danh vọng, nếp sống ấm cúng cũ. Nhưng lời hứa hẹn những thứ tốt đẹp hơn thúc giục chúng ta tiến bước. Thí dụ kiêng ăn để được một thân hình mảnh dẻ cân đối hơn làm chúng ta khốn khổ, nhưng với hy vọng được thiên hạ khâm phục, chúng ta vẫn cứ tiến hành. Những điều quan trọng còn đòi hỏi hơn nhiều.

Vì thế con đường dẫn đến tự do tinh thần không thể không có khó khăn và hy sinh. Sự đổi thay có thể là rất dài, gập ghềnh và nhiêu khê. Thử hỏi dân Israel, con đường thoát khỏi nô lệ của họ lâu bao nhiêu? Không dưới 40 năm ròng. Khó khăn thì chồng chất. Cố gắng lắm họ mới theo được tiếng gọi của Môsê đi vào hoang địa, và trung thành với thuở ban đầu. Cuộc đời nào mà chẳng có khía cạnh sù sì của nó. Nhìn lại quá khứ là bước vào cảnh nô lệ một lần nữa. Đó là những cảnh nản chí, kêu ca của dân Do thái trong bài đọc một hôm nay. Chẳng lẽ chúng ta muốn lặp lại?

Thánh Phaolô đã ngăn cản được tín hữu thành Roma làm điều đó. Ngài nhắc nhớ họ: “Anh em đã được công chính hóa nhờ đức tin”. Đối với người Do thái, đức tin đó là của Abraham. Còn với các tín hữu là của phép rửa tội. Nó là khởi đầu của đời sống mới, không phải do sức riêng mình, mà đến từ Thiên Chúa. Hay như Chúa Giêsu tuyên bố trong Phúc Âm hôm nay: “Nếu chị biết ân huệ Thiên Chúa ban”. Tất cả đều là ân sủng. Chúng ta chẳng thể ép buộc ân sủng xảy đến cho mình, chúng ta cũng chẳng thể sản xuất ra nước trong hoang địa. Nhưng chúng ta cần ân sủng để sống còn. Nước – hình ảnh nhắc nhớ về Thiên Chúa – chúng ta đói khát, nhưng chẳng thể nào tự liệu được cho mình.Vậy mà chúng ta cần có nó hàng ngày để tiến thêm một bước trên con đường tiến đến tự do.

Thế thì, hiện thời chúng ta đang ở chặng nào trên con đường đó? Đói khát ra sao? Thỏa mãn với những điều kém hơn Thiên Chúa? Nhìn chung quanh toàn là bế tắc trong cơn khát cùng cực? Xin hãy nhớ lại Thiên Chúa của Xuất hành. Thiên Chúa đầy hai tay những bất ngờ cho Dân Ngài! Họ đang bị dồn vào điểm chết: Bờ biển sậy và vua quan Ai cập sau lưng! Đột nhiên biển mở ra – Họ băng qua biển khô chân. Họ chết đói trong sa mạc – Chúa ban Manna bởi trời. Và lúc này họ thiếu nước đến chết khát – Chúa truyền lệnh cho Môsê dùng gậy đập đá, đá vọt ra nước. Cây gậy giải phóng hay quyền năng Thượng đế? Chính Thượng đế chịu trách nhiệm trên dân Ngài và Ngài đã ra lệnh để dân Ngài được cứu thóat. Cho nên không phải những đe dọa vật chất mà là sự sợ hãi nội tâm, sự mất tin tưởng vào Thiên Chúa gây nên những lo lắng ghê gớm cho chúng ta.

Ngày nay Thiên Chúa còn ở với chúng ta nữa không? Hàng ngày chúng ta vẫn kêu ca như dân tộc Israel xưa. Liệu Chúa còn đáp lời, thực hiện những phép lạ? Liệu Ngài còn khả năng giải cứu? Thánh Phaolô nói rằng chúng ta đã được làm nên công chính nhờ đức tin. Chúng ta tin vào Thiên Chúa và ân huệ hằng sống của Ngài. Chính bởi vì chúng ta thiếu thốn mà ân sủng được ban. No đủ rồi thì cần chi nữa mà ban ơn? Cầu nguyện hoàn hảo rồi thì cần chi đến ơn lành? Chu toàn mọi lời giáo huấn rồi, trợ giúp làm chi? Cho nên ân ban là bởi vì nhu cầu. Vậy thì ân sủng vượt ngoài khả năng của chúng ta. Ai đó sẽ giơ gậy đập tảng đá và nước sẽ chảy ra. Truyền thuyết ngoài Kinh thánh kể rằng hòn đá Môsê lấy nước di chuyển với dân Do thái suốt hành trình sa mạc và ban nước khi dân cần. Truyện đó thật không? Có thể là thật cũng có thể là không. Điều muốn nói là Thiên Chúa luôn di chuyển với chúng ta, không phải như tảng đá lúc nào cũng sẵn sàng sản xuất nước. Mà như người cha săn sóc con cái trên mỗi chặng đường khó khăn để chúng ta được giải cứu. Câu truyện sau đây khó tin nhưng có thật. Bởi do chính nhân vật trong truyện nói ra: Một người bị ung thư khoe rằng nếu được cơ hội tránh bệnh, thì phản ứng của anh sẽ là không! Bởi lẽ nhờ mắc bệnh, anh đã tìm được đời sống mới! khó tin thật. Làm sao người ấy đủ can đảm nói như thế? Nhưng ai đó đã đập tảng đá cứng và nó đã vọt nước ra. Phép màu này có ngày nào đến với chúng ta không? Thánh Phaolô dạy rằng chúng ta được công chínhhóa nhờ đức tin. Bây giờ chẳng thể chứng minh được điều đó. Nhưng khi cần, Chúa sẽ thực hiện. Bởi Ngài là đá tảng di chuyển với chúng ta luôn mãi trong hoang địa trần gian. Amen.

Ý KIẾN MỚI VỀ EVA

(của một độc giả nhân dịp mùa Chay).

Xưa nay vẫn có ý kiến rằng: Evà vì yếu đuối nên đã sa ngã.

Tôi nghĩ không phải vậy. Tư cách bà ta rất mạnh. Bà là người duy nhất được dựng nên không trực tiếp từ bụi đất mà từ xương thịt Ađam. Nói theo kiểu tân thời, nhân bản Ađam. Bà là người trước nhất tranh luận, suy tư và trả lời cho câu hỏi Thiên Chúa đã truyền dạy cái gì.

Như vậy bà là người đầu tiên làm thần học! Lệnh cấm ăn trái cây biết lành, biết dữ đã ban cho Ađam khi bà chưa được “sinh” ra! Con rắn hỏi: Các ngươi không được phép ăn hết mọi trái cây trong vườn sao? Evà sửa lưng con rắn: Mọi trái cây trong vườn chúng tôi được ăn trừ trái cây ở giữa vườn thì không được, bởi Thiên Chúa đã bảo: Khi nào các người ăn hoặc động tới, các người phải chết. Chỉ người trực tiếp nghe lệnh truyền mới có thể thêm vào lệnh cụm từ “đụng vào trái hay cây”. Người nghe gián tiếp thì thêm thế nào được. Trừ phi lệnh đó lại ban ra lần nữa cho Evà, ngoài ra là suy luận.

Con rắn hợp lý hóa lời dối trá: Chẳng chết chóc gì đâu. Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra và sẽ nên như những vị thần biết điều thiện, ác.

Evà suy nghĩ: ăn trái thì có 3 lợi ích, bổ dưỡng, đã thèm và khôn ngoan. Bà hái ăn, rồi đưa cho chồng cùng thưởng thức. Ađam chẳng cần suy nghĩ: ăn liền. Ai có cá tính mạnh mẽ hơn? Sau đó Ađam hèn nhát đổ lỗi Thiên Chúa vì đã cho ông Evà. Evà đổ lỗi cho con rắn … Coi chừng chúng ta là Ađam khi không đắn đo phải trái và là Evà khi tra xét lời Chúa. Làm thần học mà!

 

69.             Chúa Giêsu, nguồn nước hằng sống

(Suy niệm của Fr. Jude Siciliano)

Thưa quý vị,

Các Chúa nhật 3 và 4 mùa Chay đặt trước mắt tín hữu 3 biểu tượng lớn về đức tin. Đó là nước, ánh sáng và sự sống. Các biểu tượng này được thánh Gioan ưa thích sử dụng để miêu tả đời sống thiêng liêng trước ơn thánh của Thiên Chúa trong linh hồn chúng ta. Chúa nhật hôm nay là về nước, trong một dụ ngôn hết sức sống động: Câu chuyện Chúa xin nước uống nơi người phụ nữ Samaria ở giếng ông Gia-cóp.

Có lẽ đó là câu truyện của một bài giáo lý dự tòng thời Giáo hội sơ khai. Hội thánh sửa soạn họ để chịu phép rửa tội trong đêm vọng Phục sinh. Tuy câu truyện đơn giản nhưng ý nghĩa hết sức thâm thúy, nói về cuộc sống mới của người tín hữu, nhất là đời sống nội tâm của các tu sĩ, linh mục, hàng giáo phẩm. Càng suy ngẫm chúng ta càng thấm thía. Trước hết, chúng ta có thể đồng hóa với Chúa Giê-su trong cơn khát của Ngài, khi Ngài tiến gần giếng ông Gia-cóp. Rõ ràng Ngài cũng ở trong điều kiện hoàn toàn nhân loại như chúng ta: Chịu đói khát, nhọc nhằn vì hành trình xa xôi. Đường đi của Ngài là từ miền nam (xứ Giudea), ngang qua xứ Samaria (miền trung) về miền bắc (xứ Galilea), quê hương của Ngài, sau dịp lễ Vượt qua thứ nhất. Thánh Gioan viết: “Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giudea mà trở lại miền Galilea. Do đó, Người phải băng qua Samaria (4,3)”. Người Do thái đạo đức thường tránh con đường này vì coi là đất lạc đạo. Họ đi đò vượt qua sông Giođan sang bờ phía đông, rồi lại đi đò lần nữa trên miền bắc để vào xứ Galilea. Con đường xa hơn nhiều so với đường tắt Samaria, nhưng tránh được đi vào đất thù địch. Chúa Giê-su chọn con đường tắt này và gặp chị phụ nữ Samaria ở giếng Gia-cóp vào buổi trưa, lúc vắng người. Đích thực là Chúa Giê-su đói và khát. Thánh Gioan kể tiếp: “Các môn đệ trở về … thưa với Người rằng Rabbi, xin mời Thầy dùng bữa.” (4, 31) Câu truyện thật hấp dẫn, nhiều độc giả ưa thích nó, lấy làm mẫu mực cho văn chương nhân loại. Chúng ta cũng không tránh khỏi sự thu hút của nó, và có cảm tưởng như được đặc ân tham gia vào tính cách riêng tư của hai nhân vật đàm thoại, coi như chuyện của linh hồn mình (mà thực đúng là như thế).

Đối với những ai có đức tin thì đây không phải cuộc trò chuyện giữa Chúa Giê-su với người phụ nữ Samaria mà thôi. Nhưng là của bất cứ linh hồn đói khát đời sống tâm linh nào. Chúng ta được chứng kiến một phụ nữ không tin đã thay đổi nếp sống một cách ngoạn mục để trở nên một tông đồ nhiệt thành rao giảng về Chúa Ki-tô. Điều xảy ra cho chị khi xưa cũng là điều chúng ta được hưởng bây giờ, nếu chúng ta thành tâm phục thiện như chị. Tai hại thay, thực tế không được như vậy, bởi những bức tường tâm lý kiên cố mà chúng ta dựng nên chung quanh mình. Nhưng xin suy nghĩ lại, giữa sức nóng khủng khiếp trưa hè của cuộc sống, chúng ta cần đến “nước giải khát” để có thể sống đức tin trung thành. Chúng ta cần đến Chúa Giê-su. Nhiều khi phải vật lộn với hoàn cảnh để giữ vững lý tưởng, giống như các lữ khách sa mạc trên con đường khô khan nóng cháy. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta chẳng mấy được nâng đỡ về lòng đạo đức. Ngược lại bị “thập diện mai phục” bởi các cám dỗ xa lìa Thiên Chúa. Vậy thì tìm đâu được nước canh tân đức tin? Chúng ta sẽ chạy đến với ai? Các bài đọc hôm nay cho câu trả lời.

Trước hết, bài đọc Cựu ước trình thuật về cơn khát của dân tôc Israel. Họ khát và Thiên Chúa đã cho nước uống. Nếu câu chuyện đơn giản như thế thì chẳng có chi đáng nói. Đằng này, họ gây sự với Môsê và đe dọa ném đá ông: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải để chúng tôi, con cái chúng tôi và súc vật của chúng tôi bị chết khát không? ông Môsê kêu lên cùng Đức Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút nữa là họ ném đá con.” Trong cơn khát, dân Do thái nổi loạn và trâng tráo đặt câu hỏi: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” trả lời bằng cách cho họ uống nước thỏa thuê từ một tảng đá giữa sa mạc. Tảng đá này chính là Đức Ki-tô của giao ước mới. Tuy nhiên, những người nổi loạn bị Thiên Chúa giáng phạt chết hết cả đám trong 40 năm lang thang ở hoang địa (Tv 95, 11).

Phần các tín hữu, thánh Phaolô nói cho hay Thiên Chúa giải khát chúng ta bằng cách thức khác, qua Bí tích Thánh tẩy. Ngài tuyên bố với giáo đoàn Rôma rằng họ được công chính hóa nhờ Đức tin. Nghĩa là được Thiên Chúa cho no thỏa cơn khát thiêng liêng do Đức tin Ngài ban cho. Chúng ta cần nước rửa tội để tẩy sạch lỗi lầm khỏi linh hồn mình, khỏi lạc xa Thiên Chúa và chia lìa tha nhân. Trên “hoang địa” của cuộc đời mình, chúng ta chẳng thể nào tự cung cấp thứ nước ấy. Phải tuyệt đối cậy nhờ vào bàn tay Thiên Chúa. Thực tế, Ngài đã ban cho mỗi người khi lãnh nhận phép Thanh tẩy. Trong bài đọc 2, thánh Phaolô công bố rõ như vậy khi nói về tình yêu Thiên Chúa dành cho các tội nhân: “Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.” Cho nên, ơn Đức tin hoàn toàn là nhưng không do Đức Ki-tô mang lại cho mỗi tín hữu. Trong “sa mạc” cuộc đời, nhiều lúc chúng ta cũng tự hỏi: “Có Thiên Chúa không?” Thánh Phaolô trả lời “Có” bằng những chứng cớ rất cụ thể: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” Cái công thức ông dùng: “Công chính hóa nhờ Đức tin” nói lên một điểm hết sức cơ bản: Ngay từ khởi đầu cuộc sống tâm linh, khi chịu phép Thánh tẩy, ơn Đức tin là một quà tặng miễn phí Thiên Chúa ban cho mỗi người. Không ai có quyền đòi hỏi hay mua sắm được bởi công nghiệp riêng. Chúa Giê-su cũng nói rõ trong Tin mừng: “Nếu chị nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban.” Cho nên, chúng ta không thể nào sản xuất được nước giải khát trong “sa mạc” đời mình, cũng chẳng thể làm cho ân huệ Chúa xuất hiện trên mình. Vì tất cả đều đến từ Thiên Chúa. Chúng ta cần ơn Ngài để sống sót về tâm linh và mỗi ngày tiến dần đến tự do đích thực. Như vậy, cố gắng sống đạo đức thánh thiện trong mùa chay này để được Thiên Chúa xót thương là điều cần thiết.

Hằng ngày, chúng ta có nhiều cuộc trò chuyện. Có những câu chuyện không quan trọng. Chẳng hạn, nói chuyện để giết thời gian khi chờ đợi tàu xe, chuyện tầm phào trong quán xá, tửu lầu. Có những cuộc trò chuyện cần thiết như hỏi thăm đường xá, đi khám bệnh, mua bán, hàn huyên gia đình, đưa đón con cái học hành. Có những cuộc trò chuyện tối cần thiết như giáo huấn, bán tính làm ăn, sữa chữa lỗi lầm. Hôm nay, chúng ta có cuộc trò chuyện tối cần thiết giữa Chúa Giê-su và người phụ nữ xứ Samaria, liên quan đến phần rỗi của chị. Bởi vì, vai trò của chị và tầm quan trọng của Chúa Giê-su nên câu chuyện trở nên căn bản cần thiết. Nó là vấn đề sinh tử: Con người là gì? Tôi đang làm chi? Rồi sẽ đi về đâu? Tôi cần phải thay đổi như thế nào để cuộc đời có ý nghĩa? Ngoại cảnh có làm cho tôi hạnh phúc không? Đại loại như vậy và là những vấn đề thiết yếu. Tuy không phải lúc nào chúng ta cũng đưa ra bàn luận. Nhưng thỉnh thoảng người ta vẫn đề cập đến. Bởi chúng gây nên nhiều lo âu. Nên ngừng lại những bận rộn thường ngày, ngồi bên những giếng mát, như chị phụ nữ hôm nay, để tư lự về ý nghĩa cuộc đời. Thánh Gioan có thói quen ghi rõ ngày tháng và nơi chốn các biến cố và cho nó một ý nghĩa biểu trưng. Giờ thứ 6 tức phỏng 12 giờ trưa, lúc mà thiên hạ ít đến giếng kín nước. Vì tự cảm thấy nếp sống không tốt đẹp của mình, người phụ nữ lợi dụng lúc vắng vẻ để ra giếng, tránh những con mắt khinh bỉ của hàng xóm láng giềng. Người Do thái coi giờ này như giờ hoàng đạo của âm lịch, tức giờ xấu. Quý vị hiểu ra ý nghĩa thánh Gioan muốn chuyển tải! Ngược lại, giếng Gia-cóp danh tiếng về lịch sử, chiều sâu và sự ngọt ngào mát mẻ của nước, ý nói đến nội dung tôn giáo của sấm truyền cũ. Chúa Giê-su đến thay thế cho giếng nước và chuyện vãn với một linh hồn tội lỗi để ban cho chị mạch nước vọt lên sự sống đời đời.

Tuy nhiên, tôi không muốn quá đi sâu vào chiều kích tâm linh, rời xa hoàn cảnh cụ thể hằng ngày. Gần đây tôi phải chịu đựng một trong những chuyến bay gồ ghề nhất, đến mức phải tự hỏi tại sao lại dại dột đến vậy. Số là vì nhỡ chuyến bay đi thành phố Dallas, tôi phải thu xếp chuyến bay khác và gọi điện thoại nhắn tin người đón tôi ở phi trường. Tôi tìm mua một bữa ăn Trung hoa đông lạnh. Nhưng có lẽ, người Tàu chính hiệu cũng không thể nhận ra nó. Tôi ngồi nhấm nhí bữa ăn trong khi chờ đợi chuyến bay tiếp. Rồi mở lá thư cũ ra đọc. Ông bạn viết thư cho tôi cũng là một thương gia bận rộn. Ông đi làm ăn khắp đó đây. Lá thư là một bài báo cắt từ tuần san sức khỏe, nhan đề: “Làm thế nào điều khiển được căng thẳng trí óc?” Đúng là chuyện hợp thời. Tôi thích thú đọc lại. Tác giả khuyên: Hãy tìm những chuyện làm cho tinh thần bạn bay bổng. Và đề nghị: âm nhạc, đọc sách, giã ngoại sinh thái, suy ngẫm và cầu nguyện. Tuy không phải là tờ báo tôn giáo, nhưng tác giả thêm: “Hãy thường xuyên dành thời gian cho các hoạt động tinh thần.” Dưới ánh sáng Tin mừng hôm nay, tôi xin phép mở rộng: Và tìm thời gian cho các cuộc chuyện trò ý nghĩa nữa.

Câu chuyện Phúc âm là về một tâm hồn đang bị căng thẳng. Cô ra giếng một mình vào giờ vắng vẻ có thể cô cảm thấy tủi phận vì sống ngoải lề. Cô cần được cứu giúp và Đức Ki-tô đã nhận ra nỗi thống khổ của cô. Cô khao khát thứ nước làm cho linh hồn mình yên ổn. Cái giếng cô kín nước không có khả năng ấy. Cho nên cô dừng lại suy nghĩ, đợi chờ một sự giải thoát khác, một cuộc trò chuyện đầy ý nghĩa như tuần san sức khỏe trên đề nghị. Ngõ hầu tinh thần cô bay bổng khỏi tình trạng nặng nề hiện tại. Chúng ta được phép tham dự vào câu chuyện riêng của cô đúng theo bản chất của nó. Và ngay cả trước khi cô chạy về thành phố loan báo cho dân chúng biết câu chuyện của mình, thì chúng ta đã khám phá ra Đức Ki-tô là ai. Kỳ thực chính cô đã giúp đỡ chúng ta tìm hiểu về Ngài. Liệu chúng ta có đủ cam đảm thú nhận cơn khát của mình giống như của cô? Liệu chúng ta dám dấn thân vào câu chuyện “ý nghĩa” với Chúa Giê-su? Liệu chúng ta dám bộc bạch tâm tư với Ngài, để được lột xác như cô? Vần đề đòi hỏi câu trả lời thành thực. Người phụ nữ Samaria nêu gương cho các tín hữu phải đối diện với Thiên Chúa ra sao? Cô chỉ dẫn chúng ta lắng nghe Chúa dạy bảo, nhất là trong những dịp hội họp như Thánh lễ hôm nay. Cũng như cô, chúng ta phải sẵn sàng thay đổi. Cố chấp chẳng được lợi ích chi và đi tham dự Thánh lễ như vậy chỉ tốn thời gian vô ích.

Người phụ nữ bên giếng nước sẵn lòng đổi thay nếp sống của mình bằng cách đặt câu hỏi, lắng nghe và trả lời Chúa Giê-su ngay thật, để có cơ hội điều chỉnh lại hạnh kiểm của mình. Trong xóm làng, cô bị mang tiếng xấu vì có tới năm đời chồng. Có thể do lỗi của cô, nhưng cũng có thể cô gặp toàn bất hạnh vì các người đàn ông không trung thành, kiểu ăn bánh trả tiền, nhanh chóng phụ bạc cô. Chúng ta không có quyền xét đoán. Tuy nhiên, sự kiện không làm cho Chúa Giê-su từ chối trao đổi với cô. Đúng là do lòng thương xót của Chúa. Ngài sẵn sàng hiện diện trước mặt cô để ban ơn thay đổi. Chúng ta có thể mường tượng người phụ nữ này là lời an ủi khích lệ cho toàn nhân loại. Bởi tất cả đều là tội nhân, đều rụt rè trước tôn nhan oai nghiêm Thiên Chúa để thú nhận tội lỗi mình. Chúng ta không dám mở lòng mình ra và chuyện vãn với Chúa Ki-tô về tình trạng linh hồn. Gương can đảm của người phụ nữ thúc đẩy chúng ta mạnh dạn tiến đến cùng Chúa. Cô kích thích Đức tin của chúng ta đến hành động. Cho nên, Mùa chay này câu chuyện của cô sửa soạn chúng ta thành thực tuyên hứa lại lời thề Bí tích rửa tội trong đêm vọng Phục sinh tới. Chúng ta thâm tín rằng nước thanh tẩy sẽ rửa chúng ta khỏi mọi tội khiên, ban ơn tha thứ và giải phóng tín hữu khỏi các hình thức nô lệ. Chúng ta sẽ cùng nhau tụ họp bên giếng nước trong lành lắng nghe và trả lời những điều Thiên Chúa muốn dạy bảo mình.

Riêng trong buổi phụng vụ này, Thánh thể chính là giếng nước chúng ta cần phải uống. Giếng nước ban sự sống đời đời. Chúng ta có cơ hội tốt để lặp lại câu chuyện người phụ nữ Samaria. Chúng ta hồi tâm đàm đạo với Chúa Giê-su về câu chuyện ý nghĩa đời mình. Chúng ta đang ở giai đoạn nào của cuộc sống? Dự tính đi về đâu? Chúa Thánh thể sẽ ban hành lý thế nào để tiếp tục tiến bước? Chúng ta cần mạch nước trong lành nào hiện giờ? Gợi lại bài báo tôi đọc ở phi trường, chúng ta cùng với cộng đoàn giáo xứ lắng nghe rõ Lời Chúa trong các bài đọc, lãnh nhận sốt sắng đời sống của Ngài trong Bí tích Thánh thể. Đó là cơ hội tốt nhất để làm cho tinh thần mình “bay bổng”. Amen.

 

70.             Xin ban cho con Nước Hằng Sống!

(Suy niệm của Fr. Jude Siciliano)

Thưa qúi vị

Từ “di dân” (immigrant) ngày nay quen thuộc với hết mọi người, mọi quốc gia. Nhưng cách đây không lâu thị còn là ngôn ngữ lạ tại vì những người mới đến thường được ta gọi bằng từ khác: dân ngoại cư (alien). Phong trào di dân bây giờ cũng là chuyện thường tình. Lý do thì vô số: kinh tế, chính trị, tôn giáo, sắc tộc…

Ông tổ tôi là người miền nam nước Ý đại lợi. Tên họ chúng tôi chứng minh điều ấy. Cư dân nước Mỹ bây giờ đều như thế cả: Anh, Pháp, Đức, Ai nhĩ lan, Phi châu, Á châu. Ngay cả dân da đỏ, tự nhận mình là dân bản địa (native). Nhưng thực ra thì cũng từ nơi khác đến. Có thể là 20, 30 ngàn năm về trước. Chẳng cần khảo cổ, cứ tra cứu tên gốc của họ, tự khắc biết. Thời còn trẻ, dưới con mắt của tôi, ông bà cha mẹ tôi là những old folks (dân kỳ cựu) họ bỏ quê hương tìm đến “đất hứa”. Họ đã chịu đựng nhiều thiệt thòi, gian khổ, rét mướt, khinh dễ, thành kiến, ghét ghen, kỳ thị… và họ cam chịu để con cháu được hưởng phúc lộc hôm nay. Ông bà tôi kể, lúc mới đến người ta ghê tởm họ vì lầm tưởng họ là những kẻ ăn giun (trùng). Thực ra họ ăn spaghetti một đặc sản của nước Ý, nổi tiếng bây giờ, nhưng lúc ấy còn rất nghèo, nên spaghetti có màu xám. Ngoài ra họ thường bị hiểu lầm về nhiều chuyện khác do ngôn ngữ bất đồng. Về phần ông bà tôi thì cũng nhớ quê hương da diết bởi phải gánh chịu những nặng nhọc, khó khăn mới.

Vậy thì chúng ta hiểu tâm lý của dân tộc Israel trong bài đọc 1 hôm nay trích từ sách Xuất hành:”Trong sa mạc, dân chúng khát nước đã kêu trách ông Môsê rằng: ông đưa chúng tôi khỏi Ai cập để làm gì? Có phải để chúng tôi, con cái chúng tôi và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay sao?” Tuyển dân cũng đang trên đường di cư. Họ rời bỏ kiếp nô lệ ở Ai Cập, nơi mà tổ tiên họ đã cư ngụ 400 năm, để về đất hứa. 400 năm là thời gian dài, họ đã cắm rễ sâu vào mảnh đất ấy, quen thuộc với phong tục, tập quán, nếp sống củ hành củ tỏi Ai Cập. Lúc này phải bỏ lại tất cả để ra đi, thì thật là khó, rồi phải đương đầu với những gian nan nhọc nhằn mới ở đất lạ quê người, chiến đấu với thiên nhiên, thú dữ, thổ dân. Cho nên tâm lý bất an, chao đảo là điều không thể tránh được. Như xuất hành thuật lại: Tác giả dùng hai từ cụ thể làm bằng cớ: Massah: thử thách và Meriba: chịu đựng. Cuộc hành trình thật dài, thật gian khổ, thất bại và thất vọng triền miên. Sách kể tiếp: Họ nghi ngờ kêu lên: Có Đức chúa ỏ giữa chúng ta hay không?

Chúng ta có thể đồng hóa với tuyển dân trong mùa chay này, khi mà hằng ngày cũng gặp những giây phút tương tự, hoàn cảnh tương tự, trên con đường thiêng liêng, với bao cám dỗ của đồng đạo, đồng bào và thế giới chung quanh. Chúng ta than: Ích chi những khổ chế trong khi thiên hạ ngày ngày yến tiệc linh đình, ích chi khó nghèo, khiêm nhường, vâng phục; trong khi nhung lụa ê hề, kiêu căng tự khẳng định khắp hang cùng ngõ hẻm: Ti vi, báo chí, xã hội, kinh tế, chính trị, giáo hội, nhà tu? Liệu tôi chịu đựng được bao lâu? Liệu Chúa còn ở với tôi không? Kết thúc rồi thế nào? Điều chi ở phía trước? Từ chối mình để làm chi? Tốt nhất là người ta sao mình vậy? Thử xem ai đã hơn ai? Trăm nghìn cám dỗ ở chân núi Horeb như tuyển dân vậy.

Hiểu thế để chúng ta thấy rằng muốn trung thành với ơn gọi chúng ta phải khao khát Chúa. Chúng ta cần đến Ngài từng giây từng phút. Chúng ta phải thay đổi não trạng thế tục để có thể tiếp tục đi tiếp con đường đã “trót chọn” theo tiếng Chúa gọi. Chúng ta luôn cảm nghiệm sa mạc trong cõi lòng mình, cho nên luôn cần nước trong lành của Ngài để giải khát, chứ đừng thắc mắc: Tôi vào nhà dòng để làm gì? Để rồi cố gắng thu tích sung sướng cho riêng mình.

Bởi lẽ, cứ như câu truyện hôm nay Chúa sai Môsê đập đá tảng cho chúng ta có nước uống. Chính từ những gian khổ hàng ngày, những vật lộn với các cám dỗ mà ơn thánh sẽ vọt ra làm đỡ cơn khát cho các môn đệ trung thành. Điều này không phải là khuyên nhủ ăn bánh vẽ. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samaritana ở giếng Giacóp là bằng chứng chân lý. Câu truyện dài và quá quen thuộc. Nhưng hoàn cảnh hơi khác thường. Cứ theo thói tục. Thì phân biệt giới tính thời Chúa Giêsu rất nặng nể trong các xã hội Palestine. Đàn bà, con gái, trẻ em lúc ấy chẳng có chút địa vị và nhân phẩm nào. Họ thuộc “sở hữu” của đàn ông. Luật lệ do đàn ông ban hành. Phụ nữ chỉ có bổn phận vâng theo mù quáng và tuyệt đối. Chỗ của họ là ở nhà, bếp núc, con cái. Chỗ của đàn ông là đồng ruộng, nơi công cộng, chợ búa và cổng làng. Giếng nước là chung nhưng khác thời gian: Buổi sáng và chiều, đàn bà con gái. Đàn ông, các lúc còn lại. Nhưng người phụ nữ hôm nay ở giữa trưa vắng vẻ. Các chú giải bảo rằng vì chị ta nổi tiếng xấu, nên tránh đàm tiếu của dân làng. Không hiểu thực hư thế nào. Nhưng rõ ràng câu chuyện chỉ xẩy ra giữa hai người: Một, đàn ông Do thái, kẻ thù của dân tộc Samaritanô. Hai, phụ nữ trắc nết, thuộc cư dân rối đạo.

Chắc quí vị đoán ra ngụ ý của Gioan: Ông muốn đưa vào Tin mừng một cuộc cách mạng: xã hội, tôn giáo và chủng tộc. Một con đường tinh thần hoàn toàn mới: Xóa bỏ mọi ranh giới ngăn cách. Khơi dây trong lòng người ta nội lực vô tận. Xin đọc kỹ Phúc âm. Tác giả John P. Pilch đếm được 7 lần Đức Giêsu cất tiếng nói và 7 lần người phụ nữ ngỏ lời. Đó là điều mới lạ trong cộng đồng Gioan, nơi chỉ có đàn ông được phép nói. Người ta miệt thị phụ nữ, coi họ như nô lệ. Ngày nay cũng vẫn vậy, mặc dù lý thuyết có đổi khác.

Chính các tông đồ đi chợ về chứng kiến quang cảnh cũng lấy làm gương mù. Rồi thì chị ta lại dám đi vào thành loan tin cuộc trò truyện của mình với một đàn ông lạ mặt. Đúng là Đức Kitô đang thực hiện một cuộc “tạo dựng” mới. Tạo dựng bình đẳng giữa người và người tại một nơi rất tầm thường “giếng nước”. Nhưng ý nghĩa thật là sâu sắc. Giống như Thiên Chúa ngày thứ nhất dựng nên ánh sáng. Đức Giêsu cũng kéo người phụ nữ ra khỏi tối tăm của tâm hồn, khỏi nếp sống sa đọa của chị, ban cho chị dần dần ý thức được tình trạng nô lệ của mình và căn cước của người nóí chuyện với chị. Thoạt đầu, chị gọi Ngài là dân Do thái, sau đó tiến lên Đấng tiên tri, rồi Đấng thiên sai, cuối cùng Cứu Chúa của thế gian. Thì ra chị đã hiểu Đức Giêsu hơn ai hết trong giai đoạn này.

Phần Đức Kitô lại còn sâu sắc hơn. Ngài tế nhị xin nước của chị, rồi dần dần dẫn chị đến lòng khao khát “nước” Ngài ban cho chị, nước ấy vọt ra từ tâm hồn chị vươn đến sự sống muôn đời. Đó là nội lực của mỗi linh hồn. Ngôn ngữ võ nghệ gọi là thế công. Chúng ta nên suy nghĩ sâu xa hơn về biến cố này và áp dụng cho linh hồn mình. Kẻo cứ vô tâm chạy theo thế gian maõi.

Riêng đối với những ai làm việc truyền giáo, cũng nên học nơi bài đọc 3 hôm nay nghệ thuật thu hút linh hồn người ta. Không bằng tiền tài, danh vọng hoặc cưỡng chế thuyết phục, học thức hào nhoáng. Nhưng bằng kỹ thuật của Đức Kitô. Kỹ thuật đó cũng là “nội lực” của linh hồn Ngài, rồi tiếp đến xin người ta cho nước ưống, tức tài năng trí tuệ hiện trạng mà họ đang có, rồi dẫn đến sự thiếu thốn trong con người họ. Từ đấy nảy sinh lòng khao khát sự thật. Đức Kitô không dùng áp lực để tiến vào tâm hồn chị phụ nữ. Nếu như Ngài làm như vậy chị sẽ lập tức đóng cửa linh hồn chị lại, chứ không mở toang ra cho Ngài. Đây là sự khác biệt to lớn giữa những người tự nhận là thông thái, là độc quyền chân lý và Đức Giêsu, nhà truyền giáo thật sự và vĩ đại. Ngài khơi đầu câu chuyện bằng cách bày tỏ “nhu cầu” của mình: Ngài đang khát khao linh hồn người đối diện. Chị liền mở lòng ra ban tặng “nước” cho Ngài. Câu truyện tiến hành hết sức tự nhiên. Người đàn bà từ từ nhận ra “nhu cầu” của mình và tình nguyện xin “nước hằng sống”. Xin tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng lạ lùng thay Chúa bảo chị “nước” đó đang nằm sẵn trong trái tim chị. Chị chỉ cần khơi dậy và được uống thỏa thuê.

Than ôi, xưa nay chúng ta kiêu căng và ngu tối biết bao! Cho nên chẳng lạ gì thế giới vẫn đi trong đêm tối âm u. Bao nhiêu lần chúng ta rao giảng về Chúa, khoe mình là thông thạo về Ngài. Nhưng kỳ thực chưa bao giờ được gặp Ngài. Vì nếu gặp thì đã nên giống chị đàn bà Samaritana hôm nay. Vội vàng chạy vào thành báo tin và cả thành ùa ra đón Chúa và mời Chúa ở lại với chúng ta. Phúc âm kể rằng Ngài đã ở lại đó hai ngày. Sau cùng họ nói với chị: không phải vì lời chị mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người là Đấng cứu độ trần gian.

Chúng ta dâng cho Chúa phần nhỏ nhất mình có, phần còn lại dành cho vinh quang mình. Ăn chay, đánh tội, khổ chế cũng vậy thôi, chứ chưa nói đến việc dung dưỡng xác thịt. Chúng ta quên rằng hy sinh cho Chúa, sẽ nhận lại gấp trăm. Ở Cana Chúa xin mấy người phục vụ đổ nước lã đầy các chum và kết quả là 6,7 trăm lít rượu ngon. Trên núi em bé cho Ngài năm cái bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ , vậy mà hàng vạn người ăn no nê. Hôm nay chị đàn bà cho Ngài uống chút nước và chị được nguồn suối tình yêu vọt lên đến sự sống muôn đời. Chúng ta nghĩ sao về mùa chay này, hy sinh cho Chúa hay tiếp tục gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Cái đó tùy lòng đạo đức mỗi người. Amen.

 

71.             Vị Cứu Tinh nhân hậu – Lm. Nguyễn Cao Luật

Đến với miền đất bị xa lánh

Sau những công việc tại Giêrusalem -xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, đàm đạo với Nicôđêmô về cuộc sống mới-, Đức Giêsu lên đường trở lại miền Galilê.

Trong cuộc hành trình này, Đức Giêsu đã không theo con đường người Do-thái vẫn đi là tránh băng qua miền Samari. Từ thời đế quốc Át-xy-ri, người Do-thái và người Samari vẫn kình địch nhau, không giao du với nhau, mmỗi miền có đền thờ riêng. Đức Giêsu biết điều đó và việc Người có mặt tại miền Samari không phải là chuyện tình cờ. Người có sứ mạng đến với mọi dân, mọi nước để đưa họ về với Thiên Chúa. Người là Đền Thờ mới, và Đền Thờ này được dành cho tất cả mọi người. Người là Đấng quy tụ nhân loại, nên chính Người sẽ phá vỡ những rào cản đang phân rẽ nhân loại. Tình yêu cao cả đã buộc Đức Giêsu phải có mặt tại Samari, miền đất thù nghịch với người Do-thái.

Đức Giêsu đã đến Samari như một người thừa sai, một người luôn có những ý nghĩ tốt đẹp về người khác. Như vậy, không một miền đất nào bị bỏ quên ; không một người nào lại không được Người nhớ đến, dù kẻ đó có thế nào chăng nữa.

Để hiểu rõ điều này, có thể so sánh thái độ của Đức Giêsu với thái độ của các môn đệ. Một làng thuộc Samari từ khước tiếp nhận Đức Giêsu vì Người đang hành hương lên Giêrusalem. Thấy thế, Gia-cô-bê và Gio-an đã bày tỏ phản ứng của “con sấm sét”: “Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?” (Lc 9,54). Đức Giêsu lập tức quay lại và khiển trách các ông. Người đã tránh sang một làng lân cận. Người muốn đánh dấu lần Người đi qua cõi thế này bằng những hành vi nhân hậu, chứ không phải bằng những lần nỗ bùng lòng báo thù, và Người tìm cách ghi khắc cách xử sự này vào lòng các môn đệ.

Quả thế, Đức Giêsu đã đến trần gian để tạo nên một sự gắn bó, để kéo nhân loại và vũ trụ đến với Người. Đức Giêsu đi bước trước, nhưng Người không xuất hiện với những nét của một kẻ chinh phục đến thiết lập sự thống trị của mình, hoặc của một kẻ tuyên truyền rêu rao để áp đặt những ý tưởng của mình. Điều Đức Giêsu trao ban trước tiên, đó là trái tim và Người muốn nhận lại trái tim của người khác. Người đến với tư cách là một người bạn, một Đấng Cứu Thế, chứ không phải với tư cách quan toà đến xử án (xem Ga 3,17; 12,47).

Những tiến trình gặp gỡ

Cuộc nói chuyện dài giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari là những cấp độ tiến triển về mặc khải, về thiêng liêng mà điểm kết thúc là người phụ nữ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh.

Phản ứng đầu tiên của người phụ nữ khi nhìn thấy Đức Giêsu bên bờ giếng, nghe Người xin nước uống, là câu nói về dòng giống. Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu cho chị hiểu rằng, ngay vào lúc này, Người là Đấng ban ơn chứ không phải là người nhận ơn. Chính chị mới là kẻ cần đến sự giúp đỡ của Người (x. Ga 4,10-11).

Khởi đầu, người phụ nữ chỉ coi Đức Giêsu như một người bộ hành mệt nhọc, đang cần nước uống, chứ không thấy được con người sâu xa của Người: chị thấy Đức Giêsu là người Do-thái, không biết Người là Con Thiên Chúa ; chị thấy một con người mỏi mệt chứ không phải là người nâng đỡ những tâm hổn yếu nhược ; chị nhìn thấy con người đang cần nước chứ không biết rằng chỉ mình Người có khả năng làm dịu cơn khát của trần gian.

Sau khi nghe câu trả lời của Đức Giêsu, tuy chưa hiểu rõ hơn về Người, nhưng chị cũng tỏ lòng kính trọng. Chị đỗi cách xưng hô: “Thưa Ngài”. Tâm trí chị chưa vượt qua khỏi những quan niệm bình thường, chị vẫn nghĩ đến thứ nước uống tự nhiên, và mong muốn người đang đối thoại với chị cho chị thứ nước ấy, để chị khỏi phải đi múc.

Đến đây, Đức Giêsu đề cập đến điều bí ẩn nhất của tâm hổn chị. Người gợi lại đời sống của chị, không phải với cái nhìn từ trên cao hay với ánh mắt coi rẻ như một số người đàng hoàng trong đám dân Samari vẫn dành cho chị, nhưng là với tấm lòng muốn hoà giải chị với người chổng và giúp chị tiếp tục lại cuộc sống chung với chổng. Chỉ khi ấy chị mới có thể lãnh nhận nước trường sinh, và thay vì phải nô lệ một tình yêu bị cấm đoán, chị dấn thân vào tình yêu cao cả, và nhận được vẻ kiều diễm Đức Giêsu muốn ban cho chị. Cần phải thay đỗi nếp sống, phải dẹp bỏ mọi trở ngại, phải chân thành mới có thể đón nhận ơn cứu độ.

Một lần nữa, người phụ nữ lại đỗi cách xưng hô với Đức Giêsu ; chị coi Người là ngôn sứ. Đổng thời, chị đỗi sang đề tài tôn giáo. Và với vấn đề này, Đức Giêsu cũng đưa chị đến nguổn mạch sâu xa, đến vương quốc sự thật rất rộng lớn. Để đáp lại câu nói của người phụ nữ về Đức Mê-si-a, Đức Giêsu đã xác nhận: “Đấng ấy chính là Ta, người đang nói với chị đây.” (Ga 4,26).

Từ nay, trung tâm của việc tế tự không phải là Giêrusalem, cũng không phải là núi Ga-ri-zim, nhưng chính là Đức Kitô.

Và giai đoạn cuối cùng đã đến. Người phụ nữ nói với người khác về Đức Giêsu, chị nhận Người là Đức Kitô. Chị không hề kể cho những người đổng hương về vấn đề thờ phượng Thiên Chúa, nhưng chị nói rõ những điều Người đã nói về đời sống của chị, cả những tội lmỗi còn giấu kín. Chị nói lên điều mà người ta nghĩ rằng chị nên giấu đi. Người phụ nữ Samari thực là một trong những người truyền giáo đầu tiên của Kitô giáo. Nhiều người đã tin lời chị.

Người phụ nữ đến giếng để múc nước, nhưng khi tìm được Nguổn mạch đích thực, chị đã bỏ lại vò nước, như các môn đệ đã từng bỏ lại lưới và thuyền.

Từ một người xa lạ, chị đã trở thành môn đệ của Đức Kitô. Từ nhận xét ban đầu: người ngổi bên bờ giếng là người Do-thái, chị đã nhận ra người ấy là Đức Kitô, là Đấng Cứu Tinh.

Một kinh nghiệm cho mọi người

Người phụ nữ Samari đã nhận ra Đức Giêsu. Ở đây không phải là một phép lạ có tính cách hữu hình ; không là việc chữa lành bệnh, không là việc làm cho sáng mắt. Điều kì diệu đã xảy ra nơi tâm hổn tội lmỗi của người phụ nữ. Qua việc giải thoát tâm hổn khỏi tội lmỗi, Đức Giêsu đã nhận được tước hiệu vinh quang, mặc dù Người chưa chịu treo trên thập giá.

Tước hiệu vinh quang: “Vị Cứu Tinh của trần gian “không phải chỉ là cảm nghiệm riêng của người phụ nữ, nhưng còn là của cả một đám đông dân chúng. Họ đã nghe câu chuyện người phụ nữ thuật lại và họ đã đến gặp Đức Giêsu, đã nghe lời Người giảng dạy và đã tin.

Như vậy, cây thập giá vẫn hiện diện trong suốt cuộc đời Đức Giêsu, và đã đem lại hậu quả trước khi Người bị treo lên.

Và Đức Giêsu đã quên hẳn cơn khát, quên cả sự mệt nhọc. Người đã bắt đầu chu toàn sứ mệnh của Người khi hướng dẫn người phụ nữ tội lmỗi đến đức tin, thay đỗi lối sống: đưa về cho Chúa Cha những người biết thờ phượng theo thần khí và sự thật. Hình ảnh đám đông người Samari đến gặp Đức Giêsu lại không phải là hình ảnh báo trước rằng Tin Mừng sẽ được loan báo đến tận cùng cõi đất?

Đức Giêsu đã có mặt tại Samari với tư cách của một Vị Cứu Tinh đầy nhân hậu. Người đã đến để cứu vớt, để xoá bỏ những hận thù, để mặc khải những điều sâu xa. Tại đó, Người đã kiên nhẫn thuyết phục người phụ nữ phóng túng về hạnh kiểm. Trong câu chuyện này, lòng nhân hậu của Người thật là một an ủi, một nguổn mạch dịu mát tất cả những ai đang mang trong lòng những phiền muộn, những thất bại và cay đắng.

Hãy đến gặp Đức Giêsu

hãy thưa chuyện với Người

để thấy rằng mình được yêu thương.

Người đang chờ…

Hãy nghe lời Người nói:

Nếu anh, nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban

 

72.             Gặp gỡ Đức Kitô

(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng)

“Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình.

Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh.

Gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình.

Gặp gỡ Đức Kitô nảy sinh tình đệ huynh”.

Có lẽ tất cả chúng ta đều thuộc những lời ca trên đây của bài hát “Gặp gỡ Đức Kitô”. Những lời ca này có thể áp dụng rất thích hợp vào bài Tin Mừng hôm nay: Người phụ nữ Samari gặp gỡ Đức Kitô. Cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời của chị. Chuyển biến như thế nào?

Hôm ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đi bộ từ miền Giu-đê trở về miền Ga-li-lê, có lẽ đã qua mấy ngày đường dưới nắng hè gay gắt. Trên đường đi, Chúa và các môn đệ đi qua thị trấn Xy-kha, thuộc lãnh thổ Samari, ở đó cố một cái giếng mà tổ phụ Giacóp đã đào dưới chân núi Ga-ri-dim. Giếng này sâu khoảng 39 m nên muốn uống nước, phải có gầu và dây dài thì mới kín múc được.

Khi tới đây, các môn đệ rẽ vào chợ để mua thức ăn trưa, còn Chúa Giêsu tới ngồi nghỉ chân bên bờ giếng. Cùng lúc ấy có một phụ nữ đội vò tới kín nước. Như vậy, người phụ nữ Samari này đi kín nước thì tình cờ gặp Chúa, chứ chị không hay biết gì và cũng không có ý định gặp Chúa. Chúa đang ngồi nghỉ chân bên bờ giếng, chị tới kín nước thì gặp Chúa, và Chúa đã gợi chuyện với chị bằng việc xin nước. Nhưng không phải Chúa khát mà xin nước uống, Chúa muốn dùng việc xin nước để nói về một vấn đề quan trọng hơn, có thể nói Chúa giả vờ xin nước để gợi chuyện. Ngài muốn nói cho chị biết: chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị biết Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” tức là gặp được Chúa là có tất cả, không còn khát mong gì khác nữa.

Chúa nói vậy, người phụ nữ không hiểu gì hết, nên Chúa đi thêm bước nữa, Ngài nói với chị về cuộc đời riêng tư của chị, khi đó chị nhận ra Ngài là một tiên tri, một ngôn sứ. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không kết án, cũng không trách chị đã có đến năm đời chồng rưỡi. Đó không phải là điều Chúa muốn nói, điều Chúa muốn là chị nhận ra Ngài là ai, và Chúa đã thành công. Từ không biết đến nghi ngờ, từ nghi ngờ đến nhận biết. Chị nghi ngờ người đang nói với chị không phải là bất cứ ai, và chị đã nhận ra khuôn mặt mới: không phải chỉ là một ngôn sứ mà là Đấng Mê-si-a, Đấng Thiên Sai mọi người đang mong đợi.

Như vậy, người phụ nữ Samari gặp gỡ Đức Kitô, cuộc gặp gỡ đã biến đổi cuộc đời chị. Chị đã nhận được ơn tái sinh, tức là ơn đổi mới cuộc đời. Và chị cũng gặp được chính mình. Tin Mừng không cho chúng ta biết chị đã có quyết định thế nào, đã tổ chức lại cuộc sống của chị ra sao. Nhưng chúng ta có quyền tưởng tượng rằng: khi về nhà, chị không còn có thể sống như trước khi xảy ra cuộc kỳ ngộ này, chị không thể tiếp tục sống như trước mà cần phải đổi thay: chị sẽ sống đàng hoàng hơn, ít ích kỷ hơn, có thể yêu thương sâu xa hơn vì tim chị đã đổi thay. Thực vậy, muốn cho con tim biến đổi, cải hóa, thì phải đi vào tận chiều sâu của tâm hồn, phải đối diện, phải giáp mặt, phải chạm trán với chính cõi lòng mình, đúng như bài ca chúng ta hát: “Gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình”.

Đàng khác, cuộc gặp gỡ của chị Samari với Đức Kitô cũng nảy sinh tình đệ huynh: hai dân tộc Do Thái và Samari có một mối thù truyền kiếp. Mặc dầu xưa kia họ cùng một dòng tộc Giacóp, nhưng họ đã chia rẽ nhau từ năm 935 trước công nguyên, khi vua Sa-lô-môn băng hà. Người miền bắc là Samari xây đền thờ riêng tại núi Ga-ri-dim, còn miền nam là Giu-đa, vẫn chọn Giêrusalem làm chính. hai bên kình địch nhau, cuộc bất hòa kéo dài đã hơn 400 năm, nhưng họ vẫn hoặc công khai, hoặc ngấm ngầm thù ghét nhau và tìm cách hại nhau. Cho nên lúc đầu chúng ta thấy người phụ nữ Samari ngạc nhiên, khi thấy Chúa Giêsu là một người Do Thái, lại nói chuyện với chị ta. Nhưng đối với Chúa Giêsu, Ngài biết tất cả, Ngài vượt trên tất cả, với lòng nhẫn nại và một chút khéo léo về tâm lý, Chúa đã chinh phục được lòng người và Ngài đã thực hiện việc hòa giải và hòa hợp trong dân tộc Ngài. Người phụ nữ đã hòa giải được sự rạn nứt, giằng co trong chính tâm hồn chị, hòa giải với Thiên Chúa, và hòa giải với đồng bào, hòa giải giữa hai dân tộc Do Thái và Samari.

Nói đến kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta hãy nhớ đến ông Gia-kêu lùn trong Tin Mừng, chính ông đã thú nhận: “Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô của tôi rất độc đáo, phải thú thực rằng: tôi là một người thu thuế không mấy liêm chính, thế nhưng từ lúc gặp Đức Kitô, cuộc đời tôi đã thay đổi hẳn”. Như vậy, chúng ta có thêm bằng chứng về kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô. Và đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.

Thực vậy, chị Samari gặp Đức Kitô, ông Gia-kêu gặp Đức Kitô, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến, đã làm đổi thay cuộc đời của hai người ấy. Đúng vậy, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai khát vọng tìm Ngài, tình thương của Ngài cao vượt trên muôn ngàn tội lỗi hư hèn của con người.

Như người phụ nữ Samari, như ông Gia-kêu, chúng ta cũng cảm nhận được sự yếu đuối tội lỗi của chúng ta, nếu chúng ta đến với Chúa bằng lòng ăn năn sám hối, chúng ta sẽ gặp Ngài, chúng ta sẽ nhận được tình yêu thương khoan dung của Ngài. Tóm lại, nếu chúng ta muốn thay đổi hay đổi mới cuộc đời mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy gặp gỡ Ngài, bởi vì chỉ có Ngài mới làm cho cuộc đời chúng ta đáng sống, sống vui, sống mạnh, và sống có ý nghĩa.

 

73.             Gặp gỡ Đức Kitô

(Suy niệm của Lm Giac. Phạm văn Phượng, OP)

 

Bài Tin Mừng thuật lại một trong những cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu. Đây là cuộc gặp gỡ một phụ nữ ở Samari, và cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời của người phụ nữ ấy.

 

Người phụ nữ nầy đi kín nước thì tình cờ gặp Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ chân bên bờ giếng, chứ chị ta không hay biết gì và cũng không có ý định gặp Chúa, Chúa đã gợi truyện với chị bằng việc xin nước uống. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt mỏi, Chúa Giêsu khát nước, gặp giếng nước và người kín nước, Ngài xin nước uống là một điều tự nhiên bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước uống mà chỉ là dịp để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Có thể nói Chúa giả vờ xin nước để gợi truyện, Ngài muốn nói cho chị ta biết: Chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị ta biết: Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”.

 

Khựng lại ở mức độ cụ thể của đời thường, người phụ nữ Samari không hiểu gì hết, nên Chúa đi thêm một bước nữa, Ngài nói với chị về đời tư của chị, khi đó chị nhận ra ngay Ngài là một ngôn sứ. Chúng ta thấy Chúa không kết án, cũng không trách chị ta đã có đến năm đời chồng rưỡi. Đó không phải là vấn đề. Điều Chúa muốn là chị ta nhận ra Ngài là ai, và Chúa đã thành công. Từ không biết đến nghi ngờ, từ nghi ngờ đến nhận biết. Chị nghi ngờ người đang nói với chị không phải là bất cứ ai, và chị đã nhận ra một khuôn mặt mới: không phải là một ngôn sứ mà là Đấng Mêsia mọi người đang mong đợi.

 

Thế là giếng đó, vò đó, người phụ nữ không còn quan tâm nữa, chị chạy ngay đi thông báo nước hằng sống vừa khám phá. Chính cái quá khứ không ra gì của chị đã làm cho chị trở thành có khả năng nói về Chúa: “Đến mà xem: Có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”. Mọi người tin lời chị, họ đến gặp Chúa Giêsu và họ cũng tin Chúa. Như vậy, sau khi gặp Chúa Giêsu, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Chúa giữa những người Samari trong thành, và những người này, sau khi gặp Chúa, đã xin Chúa ở lại với họ, và hân hoan tuyên xưng rằng: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.

 

Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của người phụ nữ Samari là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta hãy cố thực hiện một cuộc gặp gỡ như thế trong Mùa Chay. Sống kinh nghiệm gặp gỡ Chúa không phải chỉ là một may mắn tình cờ mà là điều ai cũng có thể tìm gặp được. Muốn gặp gỡ Chúa là điều rất dễ, bởi vì chính Chúa yêu thương chúng ta, ngày ngày đi tìm và đến gõ cửa tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúng ta đang muốn gặp gỡ Chúa ư? Hãy nhớ lời Chúa nói: “Này Ta đang đứng ngoài cửa và gõ, ai nghe tiếng Ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà kẻ ấy”. Như vậy có nghĩa là cuộc gặp gỡ hoàn toàn tùy thuộc nơi chúng ta, tùy thuộc vào thái độ sẵn sàng của chúng ta. Có thể Chúa Giêsu đã tìm đến gõ vào cánh cửa của tâm lòng chúng ta nhiều lần rồi, nhưng chúng ta say ngủ hay bận bịu trăm công ngàn việc hoặc trong tâm lòng chúng ta có quá nhiều tiếng ồn ào và quá nhiều khách khứa nên chúng ta đã không nghe thấy tiếng Ngài và không mở cửa cho Ngài. Nếu thế thì cần phải có những quyết định cụ thể và thay đổi ngay thế nào để khi Chúa đến gõ cửa, chúng ta sẵn sàng mở ngay. Có thể Chúa đang gõ cửa tâm lòng chúng ta ngay trong lúc này, chúng ta đừng bõ lỡ cơ hội. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều sẵn sàng mở cửa để Chúa đến gặp gỡ và ban nhiều hồng ân cho chúng ta trong Mùa Chay.

 

Người phụ nữ Samari gặp Chúa Giêsu, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời chị. Nếu chúng ta muốn thay đổi hay đổi mới cuộc đời mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy gặp gỡ Ngài, bởi vì chỉ có Chúa mới giải đáp được những băn khoăn, những ưu tư của chúng ta, chỉ có Ngài mới làm cho cuộc đời chúng ta đáng sống, sống vui, sống mạnh, sống hạnh phúc và có ý nghĩa.

 

74.             Chính chúng ta đã nghe và tin lời Chúa

(Suy niệm của Jos. Nguyễn Văn Thuần)

 

Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta tiến vào Chúa Nhật III Mùa Chay. Mùa Chay là mùa hồng ân Chúa ban cho mỗi người chúng ta có thời gian thuận tiện để tĩnh tâm, suy nghĩ và hoán cải… nhằm xây dựng đời sống thiêng liêng ngày một thăng tiến hơn. Qua đó, chúng ta có thể phát triển đến độ viên mãn hồng ân trọng đại mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội, để trở nên những phần tử sống động hơn của Giáo hội và ngày càng trở nên những người con đích thực của Thiên Chúa. Hôm nay chính chúng ta đã nghe và tin lời Chúa. Hơn thế nữa, chúng ta thực sự đã gặp được Đức Giêsu Kitô, Đấng luôn ban cho chúng ta nước hằng sống là Mình và Máu Thánh Ngài. Chúng ta hãy noi gương Ngài để chia sẻ những gì chúng ta đã lãnh nhận từ Thánh Thể mà trao ban cho tha nhân.

 

Trên con đường dẫn dân Ít-ra-en về đất hứa, Giavê Thiên Chúa đã dùng sa mạc làm trường học để huấn luyện, thanh tẩy và để hội tụ niềm tin của họ vào một mình Thiên Chúa duy nhất. Và ở giữa sa mạc, thỉnh thoảng người lữ hành có thể tìm một vùng cây cối xanh tươi, dịu mát để múc lấy sức sống từ mạch nước quí giá là Đức Giêsu Kitô. Theo một ý nghĩa nào đó, tiến vào bốn mươi ngày của Mùa Chay là chúng ta đang nối gót dân Ít-ra-en xưa kia trong cuộc hành trình xuyên qua sa mạc trần gian để tiến vào Đất hứa. Hơn nữa, chúng ta dõi theo bước chân của Đức Giêsu Kitô đi vào hoang địa để ăn chay và cầu nguyện. Qua đó, đào sâu thêm ý nghĩa của cuộc sống và nhận định lại bậc thang giá trị của đời sống chứng nhân.

 

Bài Tin Mừng hôm nay dẫn chúng ta đến bên giếng nước trong lành để mời gọi chúng ta dõi theo bước chân của người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng. Bà đến để xách nước, nhưng lúc rời khỏi nơi đây bà đã bỏ chiếc vò đựng nước lại. Bởi lẽ, nơi giếng nước bà đã gặp gỡ một nhân vật có khả năng giải thích những vấn nạn mà bà hằng ôm ấp bấy lâu nay. Nhân vật ấy có khả năng giúp bà thoả mãn mọi khát vọng cũng như mở ra cho bà một chân trời mới, một hướng đi mới. Chính qua cuộc đối thoại với người lữ hành, bà đã cảm nhận được niềm vui chân thật chan chứa trong tâm hồn. Vậy, trên hành trình xuyên qua sa mạc của Mùa Chay, Đức Giêsu cũng đang ngồi bên bờ giếng để mời gọi chúng ta đến kín múc nguồn nước hằng sống là chính Ngài. Chính nhờ nguồn nước hằng sống ấy giúp chúng ta không bao giờ khát nữa.

 

Cũng như người phụ nữ Sa-ma-ri, hôm nay chúng ta đang quây quần bên Thánh Thể Chúa Giê-su để gặp gỡ và lắng nghe lời Ngài nói. Và chúng ta đã mang chính nguồn sống mà chúng ta đã lãnh nhận là Chúa Giêsu Thánh Thể, để từ nguồn sống cao quí thiêng liêng này, chúng ta có thể hướng dẫn tha nhân đến với Ngài, hay ít ra là cố gắng thể hiện thực tại Nước Trời trong gia đình, lối xóm và chính trong môi trường chúng ta đang sống và làm việc. Một Nước Trời của công lý, hoà bình và là nơi tình yêu chân thật được thể hiện qua sự hiệp nhất, cảm thông, liên đới và sẻ chia. Có như thế nguồn sống và lương thực mà Đức Giê-su thông ban cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể mới trở nên như những nguồn nước trong lành, mang sức sống mãnh liệt cho xã hội. Bởi vì xã hội còn đầy dẫy những ích kỷ, ghen ghét, hận thù, độc tài, mưu sát, hối lộ, tham nhũng và những hành động bất công như sự chà đạp lên các quyền lợi chính đáng của con người.

 

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, trong Mùa Chay và Phục Sinh sắp tới, lời giảng dạy của Chúa, nhất là cuộc khổ nạn và cái chết thảm thương của Ngài, đã nói lên quá đủ về sự nặng nề của tội lỗi, về sự cao trọng quý báu của ơn Chúa, nhất là ơn thánh hóa. Xin cho chúng con biết cố gắng tìm cách xác tín mạnh mẽ vào giá trị của ơn Chúa, hay đúng hơn của sức sống siêu nhiên thần linh mà Chúa đã ban; sau đó xin cho chúng con biết sống theo những gì mình đã xác tín và làm hết sức mình để bảo vệ và toả lan sự sống ấy cho những người chưa nhận biết nguồn nước hằng sống là chính Đức Giê-su Kitô. Amen.

 

75.             Chúa Kitô biết rõ đời tôi

(Suy niệm của Đaminh M. Cao Tấn Tĩnh)

Theo tinh thần của phụng vụ Mùa Chay, qua việc Giáo Hội sắp xếp biến cố Chúa Giêsu chịu cám dỗ ở Chúa Nhật tuần thứ nhất Mùa Chay ngay trước biến cố Chúa Giêsu biến hình ở Chúa Nhật tuần thứ hai Mùa Chay, chúng ta thấy ý định của Thiên Chúa trong việc Ngài muốn tỏ mình ra nơi Chúa Giêsu Kitô cho nhân loại là để họ có thể tin vào Ngài mà được sự sống đời đời. Mà tuyệt đỉnh mạc khải của Thiên Chúa là ở Biến Cố Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô, một biến cố vô cùng mầu nhiệm được Giáo Hội long trọng cử hành trong Tuần Thánh và Đại Lễ Phục Sinh, Biến Cố Khổ Nạn, Tử Giá và Phục Sinh của Người. Đúng thế, chỉ qua Biến Cố Vượt Qua của Chúa Giêsu Kitô, tuyệt đỉnh của “tất cả sự thật” (Jn 16:13) Thiên Chúa muốn tỏ ra cho loài người, con người mới có thể được “sự sống đời đời là nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là Chúa Giêsu Kitô” (Jn 17:3).

Thế nhưng, theo Lịch Sử Cứu Độ và Đường Lối Cứu Độ, Thiên Chúa không mạc khải cho con người “tất cả sự thật” ngay từ ban đầu hay cùng một lúc, mà là từ từ cho tới khi “thời gian viên trọn” (Gal 4:4), lúc “Thiên Chúa nói với chúng ta qua Con của Ngài” (Heb 1:2), Đấng “là đường lối, là sự thật và là sự sống” (Jn 14:6). Nếu “không ai đến được với Cha mà không qua Thày” (Jn 14:6), thì quả thực Thiên Chúa đã từ từ tỏ mình ra cho con người nơi Đấng Thiên Sai Con Ngài theo tiến trình tam đoạn: “đường lối”, “sự thật” và “sự sống”. Nhóm 12 Vị là một trường hợp điển hình: đầu tiên các vị được kêu gọi “hãy theo Thày” (Mt 4:19; 9:9), như đi vào một “đường lối” chật hẹp khó bước lại ít người đi (x Mt 7:14); sau đó các vị mới được từ từ tỏ cho biết “sự thật” về “Thày là ai?” (Mt 16:15); và sau cùng các vị đã được hoàn toàn “thông phần với Thày” (Jn 13:8), khi Người sống lại từ trong cõi chết để làm cho các vị được “sự sống” khi “Người thở hơi trên các vị mà nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Linh”” (Jn 20:22).

Ba tuần (III, IV và V) giữa của Mùa Chay Năm A, Phúc Âm theo Thánh Gioan được Giáo Hội cố ý chọn đọc, cũng cho chúng ta thấy tiến trình tam đoạn mạc khải này: Trước hết, ở tuần thứ ba, Chúa Giêsu “là đường lối” tỏ mình ra qua việc làm cho người đàn bà ngoại lai Samaritanô thấy rằng Người quả thực “là Đấng Thiên Sai” (Jn 4:26,29); thứ đến, ở tuần thứ bốn, Chúa Giêsu “là sự thật” tỏ mình ra qua việc làm sáng mắt người mù từ lúc mới sinh, để anh ta có thể thấy Người “là ánh sáng thế gian” (Jn 8:12); sau hết, ở tuần thứ năm, Chúa Giêsu “là sự sống” tỏ mình ra qua việc làm cho Lazarô hồi sinh để anh ta có thể tự động bước ra khỏi mồ, đúng như lời quyền năng của Đấng tự xưng mình trước khi ra tay “Thày là sự sống lại và là sự sống” (Jn 11:25).

Nơi tiến trình tam đoạn mạc khải này, ngoại trừ ý nghĩa của việc mạc khải liên quan đến tiến trình “đường lối”, “sự thật” và “sự sống” như thế, chúng ta còn thấy một điều đáng chú ý nữa, đó là đối tượng được mạc khải, những đối tượng từ xa tới gần và bao giờ cũng là đối tượng kép: đối tượng mạc khải thứ nhất là một con người ngoại lai tội lỗi ở Samaria vùng đất hoang đàng, và qua con người này mạc khải chiếu tới cả dân làng của chị; đối tượng mạc khải thứ hai là một con người Do Thái thuần túy ở Giuđêa vùng đất chính giáo, và qua con người này mạc khải chiếu tới cả dân chúng, nhất là nhóm Pharisiêu; đối tượng mạc khải thứ ba là một con người thân thiết chí tình ở Bêthania gần Giêrusalem thành thánh, và qua con người này mạc khải chiếu tới cả dân chúng lẫn Hội Đồng Do Thái (x Jn 12:9-11).

Chưa hết, về tính cách của tam đoạn mạc khải theo Phúc Âm Thánh Gioan này, chúng ta thấy việc mạc khải hình như đi ngược với đường lối nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Mathêu, lời loan báo cho thấy yếu tố nhân sinh (“hãy cải thiện đời sống”) đi trước yếu tố thần linh (“Nước Thiên Chúa đã đến”). Bởi vì, qua tiến trình mạc khải tam đoạn này, Chúa Giêsu, là tất cả “Mạc Khải Thần Linh” hay “Nước Thiên Chúa”, lại tự động tỏ mình ra trước, tự ý đến với con người trước, nhất là ở trường hợp thứ nhất và thứ hai, để nhờ đó, nhờ việc Người tỏ mình ra đó, con người có thể tin Người. Tuy nhiên, nếu để ý kỹ, chúng ta thấy đường lối nơi lời loan báo tiên khởi của Chúa Giêsu theo Phúc Âm Thánh Mathêu vẫn còn hiện tỏ qua cả ba trường hợp. Bởi vì, ở vào chính giây phút quyết liệt nhất và tột đỉnh nhất của mạc khải, nghĩa là giây phút con người sửa soạn để thấy được Nước Thiên Chúa, để đi sâu vào Thực Tại Giêsu, họ cần phải “cải thiện đời sống”, như Moisen cần phải bỏ dép ra trước khi tiến gần đến bụi gai cháy mà không bị thiêu rụi vậy (xem Ex 3:5). Giờ đây chúng ta cùng nhau khảo sát từng mạc khải một.

Mạc Khải “Thày Là Đường Lối” cho người đàn bà ngoại lai Samaritanô.

Ở đoạn mạc khải thứ nhất trong tiến trình mạc khải tam đoạn này: Chúa Giêsu quả thực đã tự động đến gặp người đàn bà ngoại lai ấy với chủ đích tỏ mình ra cho chị. Người biết được hằng ngày vào giờ nào chị vốn ra kín nước, và giờ kín nước của chí ấy lại là giờ vắng vẻ không có ai, (chắc có thể vì chị mặc cảm bởi đời sống bê tha tội lỗi của mình nên muốn tránh mặt mọi người chăng?). Và chị phụ nữ ngoại lai tội lỗi diễm phúc ấy, dù có ý trốn lánh mọi người ấy, vẫn không thoát được ánh mắt của “Thiên Chúa là thần linh” (Jn 4:24), do đó, chị đã không biết được Vị Thần Linh này vẫn đang theo dõi chị từng giây từng phút, cho đến lúc Ngài thực sự tỏ mình ra cho chị, vào chính ngày giờ (buổi trưa), địa điểm (bờ giếng), hoàn cảnh (kín nước) và cách thức (xin nước), chị không thể nào ngờ được.

Giây phút quan trọng nhất, quyết liệt nhất, trong đoạn mạc khải thứ nhất trong tiến trình mạc khải tam đoạn này là lúc Chúa Giêsu, sau khi đã khơi động được lòng khao khát chân thiện mỹ vốn nằm ở tận đáy cuộc đời tội lỗi của chị, như chị lên tiếng xin Người ban nước của Người cho chị, Người bảo chị “hãy về gọi chồng chị”. Phải, ở đây, ngay tại chỗ này, vẫn chưa phải là tuyệt đỉnh của mạc khải thần linh, một tuyệt đỉnh chỉ xuất hiện khi nào yếu tố nhân sinh “cải thiện đời sống” nơi con người được tỏ ra, như trường hợp chị phụ nữ Samaritanô này đã tỏ ra, ở chỗ, chị đã thú thật là “tôi không có chồng”.

Chính nhờ yếu tố nhân sinh vừa khao khát chân thiện mỹ, dù chưa biết rõ thực tại này ra sao, vừa thành thật không giấu diếm như thế, chị phụ nữ này đã thấy được sự thật về mình, khi nghe Người nói trúng tim đen cuộc đời quá khứ của chị. Nhờ đó, sau cùng chị đã lờ mờ được thấy sự thật về Người “Tôi biết có Đấng Thiên Sai sẽ đến. Khi Người đến Người sẽ nói cho chúng tôi biết hết mọi sự”.

Nhất là sau khi Người tỏ mình ra cho chị: “Chính Tôi là Đấng đang nói với chị đây”, nghĩa là sau khi mạc khải đã lên đến tuyệt đỉnh, chị đã chẳng những hoàn toàn nhận biết Người mà còn loan báo về Người nữa: “Hãy ra mà xem có người đã nói cho tôi biết mọi sự tôi đã làm! Người này không phải là Đấng Thiên Sai hay sao?”.

Nội dung của đoạn nhất trong tiến trình mạc khải tam đoạn này là vai trò Chúa Kitô “là đường lối” mà con người phải theo để có thể đến cùng Thiên Chúa chân thật duy nhất, bằng không sẽ dễ bị rơi vào tình trạng ngẫu tượng (tin tưởng giả tạo), để rồi hậu quả là sẽ đi đến chỗ ngoại tình (tôn thờ ngẫu tượng, hiến thân phụng sự ngẫu tượng). Như trường hợp của dân Samaria bấy giờ, điển hình là trường hợp của chị phụ nữ tội lỗi ngoại tình này. Do đó, ngay sau giây phút quyết liệt của mạc khải, và trước khi mạc khải tiến đến chỗ tuyệt đỉnh, Chúa Giêsu liền kêu gọi chị “Chị hãy tin Tôi đi”, nghĩa là Người kêu gọi chị ta hãy đi theo Người, vì, như Người khẳng định với chị rằng: “Các người tôn thờ những gì các người chẳng hiểu gì cả, còn chúng tôi biết những gì chúng tôi tôn thờ”.

Vấn đề thực hành sống đạo: Bài Phúc Âm Chúa Giêsu tỏ mình cho người phụ nữ Samaritanô hôm nay cho thấy, tự mình, con người vốn “chuộng tối tăm hơn ánh sáng” (Jn 3:19) không thể nào biết “Thiên Chúa là thần linh” (Jn 4:24), nếu Ngài không tự tỏ mình ra cho họ nơi Đấng Thiên Sai Con Ngài. Vì “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý”(1Tim 2:4), nên Ngài luôn tỏ mình ra cho mọi người và từng người tùy theo hoàn cảnh của họ. Thậm chí cuộc đời tội lỗi của họ càng là cớ mạnh để Ngài đặc biệt đi tìm họ như mục tử đi tìm con chiên lạc duy nhất vậy. Thế nhưng, con người chỉ nghe thấy tiếng chủ chiên của mình, chỉ nhận ra Người “là Đấng đang nói với” mỗi người chúng ta (Jn 4:26; 9:37), khi nào chúng ta, ít là còn khao khát chân thiện mỹ, còn thành tâm nhìn nhận con người mê lầm tội lỗi của mình mà thôi. Ý nghĩa căn bản nhất của thống hối trong Mùa Chay chính là ở chổ này và bắt đầu từ chỗ này, nhờ đó chúng ta mới có thể tham dự vào Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô.

 

76.             Duyên Kỳ Ngộ – Đỗ Lực

Có một tình yêu không bao giờ “vẹn câu thề”, nhưng đã lưu lại những khúc ca chơi vơi như biển tình lai láng.

Ngày mai em đi

Biển nhớ tên em gọi về

Gọi hồn liễu rũ lê thê

Gọi bờ cát trắng đêm khuya

Ngày mai em đi

Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ

Sỏi đá trông em từng giờ

Nghe buồn nhịp chân bơ vơ… [1]

Trịnh Công Sơn đứng ở đâu để “gọi bờ cát trắng đêm khuya” mà thấy “sỏi đá trông em từng giờ”? Riêng Chúa Giêsu đến bên bờ giếng Giacóp để gợi lên những giá trị lớn lao và sâu thẳm trong lòng thiếu phụ Samari. Không phải sỏi đá, nhưng ngay trong tâm hồn em, Thiên Chúa đang trông em từng giờ. Cuộc trao đổi thật kỳ thú và mở ra nhiều chân trời mới.

TRỞ LỰC PHẢI VƯỢT QUA

Hôm đó, giữa trưa hè nóng cháy, sau một chặng đường dài mỏi mệt, Chúa Giêsu đến bên bờ giếng Giacóp. Lúc này, chắc chắn các môn đệ nhìn Chúa không giống trên núi hiển dung chút nào. Như thế mới thật là “người” chứ! Không còn cái gì trong thế giới loài người Chúa không chia sẻ! Càng chiêm ngưỡng Chúa trong thực tại con người, càng thấy Người gần gũi trong những mỏng giòn, lo lắng, đau khổ.

Cơn đói khát càng làm tăng vẻ mệt mỏi. Các môn đệ vội vào chợ mua ít thực phẩm ăn trưa. Giữa lúc môn đệ ra đi, tình cờ một thiếu phụ đến kín nước và bắt gặp Chúa đang ngồi chờ… Nếu là một chàng thanh niên Do thái khác, Chúa đã phải tránh ra một nơi, trước khi cô ấy đến bờ giếng. Nhưng không, Chúa vẫn ngồi đó như hẹn hò từ lâu.

Mở đầu câu truyện là một lời van xin: “Chị cho tôi xin chút nước uống!” (Ga 4:7) Thật ngược đời! Chúa là nguồn của mọi nguồn suối lại phải xin một chút nước uống cho đỡ khát. Thiên Chúa không bao giờ đến với chúng ta như một ân nhân. Trước hết Người đến với chúng ta như một hành khất van xin tình yêu. Toàn bộ Tin Mừng đều cho thấy rõ điều đó. Chúa Giêsu không bao giờ có thái độ kênh kiệu như một người có quyền thống trị. Trước những người môn đệ như Giakêu và Phêrô, Chúa luôn tỏ ra nhỏ bé đợi chờ câu trả lời, van xin tình yêu: “Ông có muốn không?”, “Anh có yêu mến tôi không?”

Thực tế, trong mối tương giao nhân loại, một tình yêu đích thực bao giờ cũng phải van xin. Chính từ giây phút biết người ta cần mình, một sinh vật mới bắt đầu sống hay sống lại. Chúa Kitô luôn là người ăn mày tình yêu chúng ta. Từ thái độ khiêm tốn đó, Chúa đã đi sâu vào tâm hồn con người. Nhất là khi gặp phụ nữ Samari, một người ngoại bang và tội lỗi, Người cũng không thay đổi giọng điệu hành khất đó, dù biết rõ mình là một người Do thái. Có nhiều hàng rào ngăn cản phụ nữ này tiếp xúc với Chúa. Chính cô cũng lên tiếng cảnh giác Chúa điều đó. Nhưng Chúa vẫn cương quyết vượt qua những rào cản về xã hội và chủng tộc. Nhờ đâu?

Trước hết, nhờ Thánh Linh, Chúa thấy tất cả những rào cản đó hoàn toàn bất công vì đã bóp nghẹt tự do và sự sống con người trong những truyền thống phi lý. Chúa tuyệt đối tự do, nên không thể chấp nhận những bất công đó. Chính vì muốn mạc khải mầu nhiệm Nhập thể sâu nhiệm, rao giảng sứ điệp tình yêu và lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã được sai đến với mọi người nam nữ, nhất là những người nghèo khổ, bị tước đoạt, bị mất mát nhiều nhất.

Nếu Chúa Giêsu vượt qua mọi công ước và rào cản, chính vì trước mắt Người, không có ai bị loại trừ. Dù hoàn cảnh xã hội, đạo đức, hay tôn giáo, dù quá khứ có ra sao, ai cũng có thể gặp gỡ Chúa, miễn bằng lòng chấp nhận ân huệ Thiên Chúa đang hiện diện giữa tâm hồn và cuộc sống. Không có gì ngăn trở con người đến với Chúa.

Vấn đề chính yếu là làm sao gặp gỡ Thiên Chúa, khám phá ra tình yêu quảng đại của Người. Nhưng cuộc gặp gỡ này luôn đòi hỏi sự thật. Tình yêu không thủ đoạn. Không thể đóng kịch với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã bắt vào cuộc đối thoại với thiếu phụ Samari và dựa trên những nền tảng sâu xa, vì Người bắt nàng phải nhìn sâu vào tâm hồn. Người nói: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.” Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng.” (Ga 4:16.17) Qua cuộc trao đổi này, Chúa không muốn bắt tội để hạ nhục nàng, nhưng muốn giúp nàng lớn lên và biết mở tâm hồn đón nhận sự thật. Từ trước tới nay, nàng sống trong sự dối trá, nên hoàn toàn mất tự do. Dối trá trong cuộc đời tư riêng cũng như trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Sự thật không biết nghiêng về đâu.

Sự thật chưa xuất hiện vì những tranh chấp tôn giáo giữa Do thái và Samari hầu như bất tận. Họ tưởng có thể nhốt Thiên Chúa vào một nơi mình mong muốn. Người Do thái muốn Chúa chỉ ngự trong đền thờ Giêrusalem. Trái lại, người Samari muốn trên núi Garizim. Nơi thờ phượng, Kinh thánh, truyền thống đều khác với Do thái, đến nỗi người Samari bị khinh miệt như dân ngoại đạo và bị loại trừ. Thật là một bất công quá sâu xa.

Làm sao giải quyết mối bất công tệ hại này? Nếu đứng về phía Do thái, chắc chắn Chúa sẽ bị người Samari căm thù và ghét bỏ. Nếu đứng về phía Samari, người Do thái sẽ không để Chúa yên. Không phải bị giằng co mà Chúa tìm lối thoát qua một lập luận siêu thực. Chúa đã bắt đầu cho nàng biết một sự thật cốt yếu: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa” (Ga 4:11) trong tâm hồn chị, thì chính Thiên Chúa sẽ đến cư ngụ trong chị! Đó là điều cơ bản, là khởi điểm và đích điểm của toàn thể cuộc sống.

Như thế Chúa đã đánh thức ý thức chị về sự hiện diện của Thiên Chúa ngay trong tâm hồn mình và làm cho chị có thể chia sẻ sự hiện diện ấy với người khác bằng một việc thờ phượng đích thực. Người đánh thức chị về ân sủng đã có sẵn trong chị. Vấn đề không phải là nơi thờ phượng, nhưng là phải thờ phượng bằng cách nào. Thờ phượng trong Thần khí và sự thật nghĩa là thờ phượng nhờ ý thức Thánh Linh đang nằm sâu trong con người. Chính Thánh Linh làm cho chị có thể ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa. Thờ phượng đích thực là tôn kính Thiên Chúa bằng cách quảng đại cống hiến tất cả những gì mình đang có cho vị Đại Ân Nhân của đời chị. Thế là một phép lạ đã xảy đến với chị. Nàng không thể đứng yên. Thoát khỏi những ràng buộc của tâm địa hẹp hòi, nàng đã lao mình vào vòng đam mê cứu rỗi toàn thể nhân loại. Thế là nàng đã chạy vô làng để loan báo cho dân chúng. Chúa đã ném lửa vào tâm hồn nàng. Toàn thể xóm làng đã cháy sáng trong Thần Khí và sự thật! Từ nay dân làng sẽ trở thành những người thờ phượng đích thực. Tự do tôn giáo chính là đây! Giêrusalem hay Garizim mất hẳn hấp lực. Từ nay trung tâm thu hút mọi người sẽ là chính Đức Kitô, như dân làng tuyên xưng (x. Ga 4:42).

LÀM NGƯỜI TỰ DO

Nhờ gặp gỡ Chúa Kitô, thiếu phụ Samari đã trở thành con người tự do đích thực về ba mặt cá nhân, xã hội và tôn giáo. Nàng không còn mặc cảm làm người phụ nữ Samari nữa. Những tội lỗi quá khứ cũng không cầm chân được nàng. Nàng hoàn toàn làm người tự do, không còn lệ thuộc vào truyền thống, đẳng cấp xã hội và nơi chốn thờ phượng Thiên Chúa nữa. Từ nay nàng sẽ chỉ có một nơi thờ phượng duy nhất là trong Thần Khí và sự thật.

Bình thường, thiếu phụ Samari không dám xuất hiện trước đám đông, vì đời tư không được dân chúng tán thành.[2] Nhưng sau khi tiếp xúc với Chúa, tất cả con người nàng đã thay đổi. Nàng đã có đầy đủ sức mạnh để quy tụ mọi người về bên Chúa. Nàng nhận thức rõ ràng “trong và nhờ ĐứcGiêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, thế giới và con người nắm bắt chân lý đích thực và toàn vẹn.”[3] Qua cuộc trao đổi, nàng mới nhận ra Thiên Chúa gần mình hơn mình tưởng. Người hiện diện ngay trong tâm hồn con người. “Càng sống hiệp thông với Thiên Chúa, con người càng được tăng cường sức mạnh và được giải thoát ngay trong bản tính đặc biệt và tự do nổi bật của họ.”[4] Nếu không nhờ Người, làm sao nàng có thể nhận ra hồng phúc được hầu truyện với Đấng Thiên Sai (x. Ga 4:39)? Làm sao tâm hồn nàng được đánh thức để cảm thấy Thiên Chúa đang hiện diện? Làm sao nàng được giải thoát khỏi mặc cảm thân phận phụ nữ Samari? Làm sao nhận ra cách thờ phượng đích thực, không lệ thuộc Giêrusalem và Garizim? Từ nay Do thái không còn lấy lý do gì áp chế người Samari nữa! Bất công sẽ chẳng còn!

Muốn đạt đến tình trạng tốt đẹp đó, cần phải nỗ lực nhìn mọi sự trong ánh sáng đức tin. Chỉ đức tin mới cho chúng ta thấy “trong Đức Kitô, chính Thiên Chúa được mạc khải như một ngươi Cha và phú ban sự sống cho chúng ta. Trong Đức Kitô, con người lãnh nhận mọi sự như ân huệ từ Thiên Chúa một cách tự do và khiêm tốn. Con người sở hữu vạn vật khi nhận biết và nhờ kinh nghiệm biết vạn vật đều lệ thuộc Thiên Chúa, phát xuất từ Thiên Chúa và hướng về Thiên Chúa.”[5] Phải mất bao nhiêu thời gian và công sức, Chúa Giêsu mới có thể thuyết phục thiếu phụ Samari nhận ra chân lý đó? Một khi đã thấy rõ thực tại ấy, nàng cảm thấy như bay trên mọi thứ biên giới trần gian. Không còn ngăn trở nào khiến nàng chùn bước trong công cuộc rao giảng Chúa Kitô cho mọi người.

Khi đã nhận ra chân lý đó, những tranh chấp về con người, xã hội và tôn giáo không còn ý nghĩa gì nữa. Chỉ Thiên Chúa mới có quyền trên mọi sự. Chỉ Thiên Chúa mới liên kết tất cả. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa không phá hủy tự do của con người. Nói khác, “vì con người là một thụ tạo, nên không có gì mâu thuẫn giữa tự do và sự lệ thuộc vào Thiên Chúa.”[6]

Bởi thế, khi được mạc khải về sự thờ phượng đích thực trong Thần Khí và sự thật, thiếu phụ Samari mới cảm thấy hết căng thẳng và nhận ra giá trị cao cả nơi con người Chúa Giêsu và chính mình. Quả thực, tự do tôn giáo là “quyền sống trong sự thật của niềm tin và phù hợp với nhân phẩm cao cả.”[7] Hơn nữa, “sự tôn trọng nhân phẩm đòi người khác phải nhìn nhận chiều cạnh tôn giáo của con người.”[8] Khi áp đặt niềm tin của mình trên người khác, rõ ràng con người không còn tôn trọng “quyền tự do lương tâm và tự do tôn giáo là một trong những điều tốt đẹp nhất của mỗi người.”[9]

Chính vì lệ thuộc vào truyền thống và đền thờ cũng như Kinh thánh mỗi bên, cả Do thái lẫn Samari không thể thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật. Dựa vào lề luật và phong tục riêng, họ còn định đoạt cái gì tốt xấu cho chính mình và người khác. Trước khi gặp gỡ Chúa, chắc chắn thiếu phụ Samari và dân làng đã sống trong sự hậm hực vì bị người Do thái chèn ép, khinh thị và lên án như loài quỷ sứ xấu xa, mặc dù họ cùng chung một lời hứa về Đấng Cứu Thế như dân Do Thái. Đó là một bất công nghiêm trọng nhất.

KHÔNG HẸN MÀ HÒ

Nếu không gặp được Đức Giêsu, thiếu phụ và dân làng Samari mãi mãi sống sau những ranh giới phân chia con người với nhau và với Thiên Chúa. Quanh năm suốt tháng, họ chỉ biết những nhu cầu thường ngày và niềm tin cũ kỹ. Rất may, khi gặp Chúa, họ đã uống được nước “đem lại sư sống đời đời” (Ga 4:14) khiến cuộc sống họ thăng hoa trong thần khí và sự thật.

Bốn thế kỷ sau khi Chúa ra đời, giống như thiếu phụ Samari, thánh Augustinô cuối cùng cũng tìm được mạch nước hằng sống đó. Trong cuốn sách “Tự thuật,” viết giữa khoảng năm 397 và 400, thánh nhân cho thấy “trong ánh sáng Thiên Chúa, nỗi khốn cùng của con người trở thành lời ca tụng và tri ân Thiên Chúa, vì Thiên Chúa yêu thương và chấp nhận chúng ta. Người biến đổi và nâng chúng ta lên tới Người.”[10] Khác với thiếu phụ Samari, thánh Augustinô không chỉ làm cho một làng gặp gỡ Đấng Thiên Sai. Thực vậy, “khi qua đời, thánh Agustino đã không để lại gì, ngoại trừ thư viện có rất nhiều thủ bản quý hiếm gồm cả các bút tích của người, mà thánh nhân dặn dò phải bảo trì. Qua các bút tích đó thánh nhân vẫn sống động và hiện diện giữa chúng ta ngày nay và tín hữu thuộc mọi thời đại”[11] để mọi người có thể tìm thấy công lý đích thực cho cuộc sống.

Nếu không phát xuất từ Thiên Chúa và con tim nhân loại, công lý sẽ đánh mất sự ấm áp của tình người và trở thành vô tâm. Chỉ Chúa Kitô mới có thể công bố và thiết lập một nền công lý đem lại ấm no, hạnh phúc cho con người, vì Người là điểm gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Thế mới biết, vì không có Thần Khí và sự thật, bọn Pharisêu chỉ tập trung vào hình thức của tôn giáo và lề luật. Họ đã phá hủy công lý tận nền tảng.

Ngày nay, nhìn vào nền công lý trong xã hội Việt Nam, chúng ta thấy gì? Công lý đó có đem lại hạnh phúc, ấm no cho toàn dân không? Qua giọng điệu tiêu biểu của chế độ sau đây, chúng ta sẽ mới thấy công lý bị đảo lộn tới mức nào. “Ông Nguyễn Thế Doanh, Trưởng Ban Tôn giáo của Chính phủ,- cho rằng dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, tất cả đất đai đều quyền sở hữu của Nhà nước.”[12] Chỉ có xã hội chủ nghĩa mới có thứ công lý như vậy! Công lý đã bị phá hủy hoàn toàn. Thử bỏ súng xuống xem nhà nước có dám lý luận như vậy không? Có người còn nói nhà nước là cha mẹ nhân dân, nên có thể phân phát của cải cho ai tùy ý. Nếu đúng thế, “tại sao khi qui hoạch đất đai để mở rộng phố xá, đô thị, hay lập khu công nghiệp, chính phủ lại phải bồi thường giải tỏa làm chi? Đất của Nhà nước thì cứ sử dụng như “đất chùa”, đâu cần phải thương lượng với ai!”[13] Thế mới biết khi nào cần, người ta có thể xoay đủ chiều để cho vừa cái bụng tham và củng chế độ bất công thối nát của mình, mặc cho dân oan đang đang rên siết khắp nơi.

Tóm lại, nhờ gặp gỡ Chúa Kitô, thiếu phụ Samari đã được giải oan. Từ mặc cảm tội lỗi, nàng đã tìm được một chỗ đứng trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Những bất công về xã hội và tôn giáo cũng biến mất, vì Chúa đã chỉ cho nàng biết đường lối thờ phượng đích thực chỉ có trong Thần Khí và sự thật. Gặp gỡ Chúa Kitô là gặp con đường giải thoát và đưa tới công lý thực sự trên mặt đất.

Gặp gỡ Chúa Kitô là tìm thấy công lý, “vì công lý xây dựng mối tương quan ngôi vị vững chắc giữa Thiên Chúa và dân Người qua Giao ước và Luật. Nhờ đó, chúng ta biết đường đi nước bước của Thiên Chúa và lòng từ bi của Người. Nhưng công lý cũng thiết lập những mối tương quan vững chắc đó giữa con người, dạy chúng ta biết kính trọng nhau và phát triển những mối tương quan chính đáng đưa đến hòa bình và hòa hợp. ”[14] Chúa Kitô xứng đáng là Đấng cứu độ toàn thể nhân loại vì đã thiết lập được công lý trên trần gian.

Tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế là đi gặp gỡ mọi người, và xác tín rằng họ đang được Chúa Giêsu tìm kiếm, yêu thương và cứu độ, bất chấp hoàn cảnh và lai lịch họ ra sao.

Tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế là không bao giờ thất vọng về tình trạng thù nghịch và xung đột giữa chúng ta, nhưng tin tưởng Chúa Giêsu có thể bẻ gẫy mọi rào cản để quy tụ tất cả trong công lý và tình yêu duy nhất của Người.

Tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế là chiêm ngắm Chúa trong hình dạng mệt mỏi, nhưng lại là Đấng duy nhất có thể củng cố cuộc đời của những ai đang bị thương tổn, đổ vỡ và khai thác. Trên thập giá, một trong lời sau cùng cũng là lời đầu tiên Chúa đã ngỏ với thiếu phụ Samari: “Tôi khát!” Người sẽ ăn mày tình thương chúng ta. Nhưng từ trái tim Người, những mạch nước hằng sống tuôn ra cho tất những ai đang đói khát công lý và tình yêu trên mặt đất.

Lạy Chúa, ngày nay chúng con đang sống giữa bao nhiêu thành kiến và bất công. Xin Chúa sai Thần Khí đến để sự thật là Đức Kitô đem lại sự giải thoát và hạnh phúc đích thực cho chúng con. Amen.

 

77.             Xin cho được uống Nước Hằng Sống

(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)

 

Để hiểu rõ cuộc đấu lý của người phụ nữ xứ Samaria với Chúa Giêsu, cũng như đường lối Chúa dùng để đưa dẫn chị đến việc trao ban cho chị nước hằng sống, ta cần tìm hiểu sơ qua bối cảnh địa dư, lịch sử, chính trị và tôn giáo của dân Do thái thời bấy giờ. Nước Do thái thời Chúa Giêsu được chia thành ba miền giống như ba miền Trung, Nam, Bắc Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Từ thế kỷ thứ tám trước kỷ nguyên, miền trung của họ là đất Samaria, bị ngoại bang là người Átxiria chiếm đóng và đô hộ. Luật pháp Do thái cấm người Do thái kết hôn với người khác đạo, cũng như người ngoại bang. Tuy nhiên người Do thái ở Samaria cuối cùng đã chấp nhận dân đô hộ, lập gia đình với thực dân, rồi tiêm nhiễm những phong tục tập quán ngoại bang. Điều đó khiến người Do thái ở miền nam là Giuđê phẫn nộ, coi rẻ người Samari, cho họ là dân lai căng, không còn thuần tuý Do thái nữa.

 

Sau này miền Giuđê cũng bị đô hộ. Tuy nhiên người Do thái ở đây nhất định không chịu đồng hoá với dân ngoại bang. Khi người Do thái xây lại đền thờ Giêrusalem, người Samari ngỏ ý muốn giúp đỡ, nhưng người Do thái từ chối. Rồi một việc khác xẩy ra là một vị đại giáo trưởng Do thái còn âm mưu cho đốt đền thờ của người Samari. Những thái độ và hành động đó làm cho người Samari căm phẫn, khiến cho hai dân tộc, trước kia thuộc cùng dòng giống, càng ngày càng xa cách. Do đó mà người Do thái từ miền bắc là Galilê muốn xuống miền nam, và ngược lại người Do thái ở miền nam muốn lên miền bắc, không thèm đi qua đất Samaria, nhưng lại đi vòng xa hơn để đạt tới đích. Để giúp cho dễ hình dung, ta có thể tưởng tượng ra người Bắc Việt muốn vào Nam Việt, hay người Nam Việt ra Bắc Việt, không thèm đi qua Trung Việt, nhưng vòng qua đất Lào để tới đích. Vì thế mà hai dân Do thái và Samari thường không giao thiệp với nhau vì mang mối thù truyền kiếp này. Tuy nhiên người Samari vẫn nhận biết Thiên Chúa của người Do thái và họ tin theo bộ sách Ngũ kinh của người Do thái. Họ cũng trông đợi Đấng Cứu thế đến như người Do thái.

 

Phúc Âm hôm nay kể lại chuyến hành trình của Chúa Giêsu đến thành Xikha thuộc xứ Samaria. Chúa đã không đi vòng để tránh đặt chân lên đất Samaria như những người Do thái khác quen làm, nhưng đi thẳng vào đất Samaria. Và khi dừng chân nghỉ mệt bên bờ giếng Giacóp, Chúa đụng độ người phụ nữ xứ Samaria đi kéo nước. Nước mang hai ý nghĩa và công hiệu quan trọng. Người ta cần nước để rửa sạch. Loài người, loài vật và cả thực vật cần nước uống để sống. Người Do thái trong sa mạc khát nước nên kêu trách Môisê đã đem con đi bỏ chợ như bài trích sách Xuất hành hôm nay kể lại. Môisê xin Chúa can thiệp. Chúa bảo Môisê cầm gậy đập trên tảng đá đê nước chảy ra cho dân uống.

 

Đối diện với người phụ nữ có vẻ nghi kị và ác cảm, Chúa đành cố gắng phá tan bức tường vô hình ngăn cách bằng cách đặt mình vào thế yếu để xin chị cho nước uống. Phong tục Do thái thời bấy giờ không cho phép đàn ông nói chuyện với đàn bà nơi công cộng nhất là hàng giáo sĩ và những người có địa vị như Chúa Giêsu. Vì thế mà người phụ nữ bèn mỉa mai nói Chúa là người Do thái mà lại xin chị là người Samari cho nước uống sao? Để trả lời Chúa bảo nếu chị nhận ra ơn Chúa và người nói với chị là ai, chị sẽ xin người cho uống nước hằng sống. Chị liền bắt bẻ, nói Chúa không có gầu mà giếng lại sâu, sao lấy đâu ra nước hằng sống.

 

Chúa phán bảo chị: Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa (Ga 4:14). Chộp lấy cơ hội, người phụ nữ liền xin cho được nước hằng sống – mặc dù chị chưa hiểu là nước gì – để từ nay không phải đi xa múc nước nữa. Lúc này chị đã nhận ra Chúa Giêsu có gì để ban tặng cho chị. Đến đây Chúa đánh động một niềm thức tỉnh nơi chị bằng cách đưa ra ánh sáng cái thực tại của đời sống cá nhân chị, khi chị nói chị không có chồng. Chúa bảo chị đã có năm đời chồng và người đang sống với chị không phải là chồng chị. Lúc này người phụ nữ nhận ra nơi Chúa có cái tri giác luân lý, nên nói: Tôi thấy ông thật là một ngôn sứ (Ga 4:19).

 

Toan đổi đề tài, người phụ nữ hỏi Chúa xem người ta phải phụng thờ Thiên Chúa ở đâu? Chúa bảo chị không nên quan tâm đến việc tranh chấp về nơi thờ phượng vì sẽ đến giờ khi người ta không hẳn chỉ thờ phượng Chúa ở Giêrusalem hay ở Samaria, nhưng là thờ phượng Chúa ở khắp mọi nơi trên khắp mặt địa cầu. Chị cũng hiểu biết khi Đức Kitô đến, Người sẽ loan báo cho người ta mọi sự. Câu chuyện tiếp diễn đến đây, thì người phụ nữ vội vã trở về kể cho người làng xóm về những gì mà tai và mắt chị đã nghe và thấy và cảm nghiệm được. Người làng tuốn ra gặp Chúa. Cùng với chị, họ đặt tin tưởng vào Chúa Giêsu là Đấng cứu thế.

 

Cuộc đối chất giữa người phụ nữ với Chúa Giêsu cho thấy không những chị ta có vẻ lý sự, mà còn đanh đá là khác – đanh đá dễ sợ. Tuy nhiên xét cho cùng thì chị ta cũng không đến nỗi đáng sợ mấy vì chị biết phục thiện và biết mở lòng. Nếu thực sự đanh đá và cứng lòng, chị ta đã có thể nói với Chúa đừng có tò mò mà xía vô chuyện riêng tư của đời chị. Đứng trước một người nào đó có cái tri giác luân lý, người ta thường nể nang, không muốn chống đối. Đối diện với Đức Giêsu là người mà người phụ nữ nhận ra có tri giác luân lý, chị ta phải nhận cái thực tại về đời sống cá nhân của mình và để cho lòng mềm ra.

 

Từ câu chuyện xin nước uống, Chúa đưa chị đến việc dần dà mở tâm hồn chị. Chị ta đã nhận ra ơn cứu độ từ việc coi Chúa Giêsu chỉ là một người Do thái thường, qua việc xưng Chúa là ngài, đến việc nhận ra Chúa là một ngôn sứ và cuối cùng tin Chúa là Đấng Cứu thế: Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao (Ga 4:29)? Như vậy câu chuyện Phúc Âm cho thấy Chúa đến mang ơn cứu độ không những chỉ riêng cho người Do thái, nhưng còn cho dân ngoại qua việc ban tặng nước hằng sống cho người phụ nữ Samari. Nước hằng sống theo thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma chính là tìn yêu của Thiên Chúa đổ vào lòng ta, nhờ Thánh thần của Người (Rm 5:5).

 

Lạy Chúa, xưa kia một thời tổ tiên chúng con cũng là dân ngoại. Nhờ các nhà truyền giáo, mà tổ tiên con đã được ơn nhận lãnh đức tin. Do đó con cũng được thừa hưởng ơn được uống nước hằng sống. Nếu con đi lầm đường lạc lối về phương diện nào đó trong đời sống, xin cho con được ơn biết thức tỉnh tâm hồn như người phụ nữ Samari, để con được tiếp tục uống nước hằng sống. Amen.

 

78.             Suy niệm của Lm. Peter Hoàng Xuân Nghiêm

Ai là Người Đàn Bà Samaria, Ai là Chúa Giêsu Đối Với Tôi?

  1. Bờ giếng Gacóp là môi-trường sống riêng biệt của mỗi cá nhân.

Môi trường nầy có thể là gia đình, là một Phong trào tôi đang sinh hoạt, một Hội đoàn Công giáo tiến hành tôi đang tham dự, là môi trường giáo xứ, môi trường công tư sở mà tôi đang là một thành viên trực thuộc. Bờ giếng Giacóp như một quán nước bên đường, một Rest Area bên xa lộ cuộc đời cho người lữ khách đường xa dừng lại, nghỉ ngơi, bồi đưỡng để lên đường đi tiếp đích điểm cuối cùng của cuộc hành trình.

Tôi là một người đàn bà Samaria đang làm chủ hay đang tiếp xúc, tiếp cận với môi trường riêng tư hay công cộng mỗi ngày hay mỗi tuần khi có dịp.

Chúa Giêsu có thể hiện thân là một trong những thành viên của gia đình tôi, một người bạn đồng sở làm với tôi, một hội viên, một đoàn viên, một thành viên cùng giáo xứ với tôi.

  1. Người đàn bà Samaria đã cho Chúa Giêsu nước uống khi Ngài xin.

Muốn tặng nước cho Chúa Giêsu uống, người đàn bà Samaria phải có nước hay phải có gàu để múc nước từ dưới giếng Giacóp lên mà biếu tặng Chúa Giêsu. Muốn cho, muốn tặng thì phải có cái để tặng, để cho. Không ai cho cái mình không có bao giờ cả. Cái nguyên lý căn bản nầy ai cũng biết hết.

Tôi là một người Samaria mới trong vai trò làm vợ tại môi trường gia đình. Chồng tôi là một Giêsu đang tiến lại gần, tiếp cận với tôi và thành khẩn xin tôi thứ nước cảm thông, tha thứ để giúp anh bắt đầu làm tốt lại từ đầu vai trò của một người chồng, người cha mà cả hơn một năm nay đã bỏ bê không ngó ngàng tới. Anh rất ân hận, lúng túng. Anh muốn sửa lại mọi sự trong ngoài. Thứ nước cảm thông, tha thứ từ chị bên bờ giếng Giacóp là môi trường gia đình. Chị có sẵn sàng như người đàn bà Samaria làm cho Chúa Giêsu không?

Tôi là một người chồng trong một hoàn cảnh tương tự như trên đây, tôi có sẳn sàng ban tặng người số một của tôi thứ nước hòa giải để nối lại tình xưa nghĩa cũ đã một thời gián đoạn vì hiểu lầm, để vợ chồng, con cái cùng đoàn tụ trong một môi trường gia đình đấm ấm, hạnh phúc như xưa, được không?

Tôi là một đứa con trong một gia đình. Bố mẹ tôi đã luống tuổi, lại chịu ảnh hưởng của nền văn hoá lâu đời của Việt-Nam. Tôi sinh ra và lớn lên ở Mỹ, chịu ảnh hưởng một nên văn hóa và giáo dục sâu đậm của Hoa-Kỳ. Giữa tôi và bố có sự xung khắc, vì bố tôi chỉ nói tiếng Việt, còn tôi chỉ biết nói tiếng Anh. Hai bố con không gặp nhau trong quan niệm sống và không hoà hợp nhau trong đời sống gia đình. Tôi nghe cha sở của tôi giải thích rằng giưã bố mẹ và con cái có thể không hiểu và không thông cảm nhau vì khả năng ngôn ngữ. Cho nên bố mẹ cần cập nhật-hoá tiếng Anh và con cái cần trau dối thêm tiếng Việt để dễ dàng thông cảm với nhau, nhưng về tình yêu thương bố mẹ Việt-Nam dành cho con cái thì không cần “ấp đết”. Tôi đang ngồi bên giếng Giacóp của gia đình trong Mùa Chay như một cơ-hội. Chiếc gầu cảm thông tôi đang cầm trong tay. Tôi chỉ cần thả xuống… kéo lên nuớc “I’m sorry” và đổ vào thùng yêu thương của bố tôi có sẵn thì tôi sẽ trở thành một người Samaria thứ thiệt, bắt đầu từ Mùa Chay thánh năm nay

Tôi là một thành viên có hạng trong Phong Trào. Tôi đang ở trong Ban điều hành cuả Phong Trào. Nhưng tôi ghét cay ghét đắng những người không ủng hộ tôi trong những kế hoạch tôi đề nghị. Tôi muốn loại bỏ và khai trừ hết những người chống đối. Cha Sở của tôi và cũng là linh hướng của Phong Trào nói với tôi rằng ngày xưa tại Nam Việt-Nam, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương có nói mọt câu chua cay nhưng để đời: “Trong hoàn cảnh của xã hội Miền Nam hôm nay, nếu sa thải hết những người hối lộ thì lấy ai làm việc công”. Cha sở khuyên tôi hãy chấp nhận hợp nhất trong khác biệt và ngài thêm: Biết đâu nhờ những chống đối ấy mà người trong cuộc sẽ cẩn trọng hơn trong các phương án. Âu đó cũng là một điều hay. Bây giờ Mùa Chay là một cơ-hội. Hội Họp của Phong Trào như quán nước Giacóp bên đường. Giếng đây, gàu đây tôi có vui lòng cúi xuống… kéo lên để biến tôi thành một người Samaria mới ở dây và bây giờ không?

Tôi là một thành viên năng nổ của cộng đồng xứ đạo của tôi. Tôi đang giữ một vai trò tương đối có ảnh hưởng. Một ngày kia, có thể là Cha Sở, có thể là một thành viên khác vì thiếu tế nhị cũng có hay vô tình cũng có, đã nói một lời hay tỏ một thái độ… đụng chạm đến tôi. Thế là tôi buồn, tôi giận, tôi bỏ xứ và bỏ luôn cả việc đi lễ tại nhà thờ giáo xứ trong một thời gian dài. Mùa Chay là một cơ hội. Giếng Giacóp là quán nước bên đường mời tôi là một lữ khách dừng lại. Tự nhiên tôi suy nghĩ. Tôi giận người khác, tôi giận luôn cả Chúa được sao? Thiệt là vô lý. Tôi chỉ cần tra tay vào chiếc gầu cảm thông và thả xuống giếng rồi múc lên nước tha thứ là tôi có thể trở thành một người Samaria mới bên bờ giếng Giacóp của giáo xứ.

Người phụ nữ Samaria đã múc nước cho Chúa Giêsu uống khi Người ngồi bên bờ giếng Giacóp ngày xưa. Chúa Giêsu đang ngồi đấy bên bờ giếng Giacóp của cuộc đời. Ngài đang hiện thân trong những người khác đang có nhiều liên hệ đến cuộc đời bạn và tôi… và Ngài đang nói với mỗi chúng ta: “Cho tôi uống nước với”. Liệu chúng ta có sẵn sàng không?

 

79.             Lớn lên trong dòng Nước Hằng Sống

(Suy niệm của Lm Trương Đình Hiền)

Kính thưa ông bà anh chị em, cộng đoàn chúng ta đang tiến vào trung tâm điểm của Mùa Chay và các anh chị em Dự Tòng trên khắp thế giới đang có những ngày chuẩn bị gấp rút để tiến về Giếng Rửa Tội, tiến vào cuộc Tái Sinh thiêng liêng quan trọng nhất của cuộc đời sẽ được thực hiện trong mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Trong ý nghĩa ấy, phụng vụ Chúa Nhật III Mùa Chay, với sứ điệp Lời Chúa mang trọng tâm “Nước Hằng Sống” đang gọi mời dân Chúa khắp nơi hãy biến đức tin thành một cuộc “hội ngộ” với chính Thiên Chúa là nguồn mạch sự sống, biến việc sống đạo của mỗi người thành cuộc “gặp gỡ Đức Kitô” là “Đường, Chân lý và Sự sống” đích thật. Thánh lễ hôm nay cũng là một cơ hội để chúng ta một lần nữa đặt niềm tin vào Thiên Chúa, quay trở về với Thiên Chúa và tiến đến gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng đang hiện diện trong Thánh lễ nầy để ban chính sự sống thần linh cho ta.

Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi để xứng dáng cử hành Thánh lễ.

Giảng Lời Chúa:

Sống trên đời ai mà đã không một lần vật lộn với những cơn khát: khát nước, khát tình, khát tiền, khát thành công, khát hạnh phúc, khát bình an, khát yên lặng, khát cảm thông, khát gần gũi, khát sống, khát yêu, khát thù khát hận…Chính vì thế, nhà thơ Đình bảng đã nói lên nổi khát đó qua những câu thơ:

Hồn tôi một cánh đồng không

Lạy trời mưa xuống thành sông, thành ngòi…

Lạy trời mưa suốt đêm nay

Hồn tôi là những luống cày khô khan…

(Lời buồn thánh. Lê Đình Bảng, Hành Hương, thơ. 2006)

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay cũng muốn nói với chúng ta về những cơn khát. Đặc biệt, qua biến cố “cơn khát nước điên cuồng” của Ít-ra-en trong hoang mạc, và cuộc đàm thoại về Nước Hằng sống giữa Chúa Giêsu và người thiếu phụ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, Lời Chúa đã đưa chúng ta và các anh chị dự tòng đi vào các chiều kích sâu xa của cuộc hành trình đức tin mà bí tích Rửa tội chính là cửa ngỏ đầu tiên. Chúng ta hãy để Lời Chúa soi lòng mở trí chúng ta.

  1. Cuộc đời và những cơn khát:

Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, “nước” được nhiều lần nhắc đến: Ngay từ buổi khai thiên lập địa, nước đã có mặt trong công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa. Nước chảy nơi vườn Eden để biến nơi đây thành địa đàng trần gian. Nước dâng cao thành Hồng thủy để thanh tẩy địa cầu. Nước Biển Đỏ và sông Gio-đan dựng đứng như tường thành để dân Ít-ra-en đi bộ tiến vào Hứa đại. Nước làm cho muôn vật sinh sôi nẩy nở. Và người công chính được ví như cây dừa mọc bên bờ suối nước, trổ sinh hoa trái tốt lành. Trong khi đó, sứ ngôn Ê-dê-ki-en đã loan báo, vào thời Cứu Thế, nước sẽ chảy ra từ bên phải đền thờ để chữa lành và cứu sống muôn người…

Tuy nhiên, dụng ý của trích đoạn sách Xuất Hành được công bố nơi bài đọc 1 hôm nay, khi nhắc đến biến cố “khát nước” của dân Ít-ra-en trong hoang địa là muốn nhắc nhở chúng ta về những “cơn khát của thời đại hôm nay” và thái độ ứng xử của đức tin trước những cơn khát nầy.

Thật vậy, ngày hôm nay nhân loại cũng đang bị dày vò bởi nhiều cơn khát cháy bỏng: khát tiền, khát tình, khát hưởng thụ, khát tự do, khát cơm no áo ấm, khát danh vọng chức quyền, khát thành công, khát quyền lực, cũng không loại trừ những cơn khát hận thù, khát đam mê và dục vọng… Và để thỏa mãn những cơn khát đó, đã có không biết bao nhiêu những “mời chào, những giải pháp, những đề nghị”. Biết bao nhiêu người bỏ mạng trên Biển Đông khi khao khát đi tìm một “chân trời đất hứa tự do”; cũng không ít người chôn thây nơi rừng thiêng núi thẳm vì khao khát tìm vàng hay tìm trầm. Các phương tiện truyền thông hôm nay cũng đã báo động khi có không ít cô gái Việt nam vì khát khao một thiên đàng hạnh phúc nên chấp nhận xa quê lấy chồng Đài Loan hay Hàn Quốc, để cuối cùng ôm phận bạc lỡ làng…Ngày xưa, dân Ít-ra-en khi phải đối diện với cơn khát nước điên cuồng nơi hoang mạc, đã liều quay lưng chống đối Mô-sê, nghi ngờ sự hiện diện và đồng hành của Thiên Chúa, quên hết bao nhiêu ơn lành và kỳ công Chúa đã thực hiện trong biến cố Vượt Qua khai mạc cuộc Xuất Hành. Họ quên cả “chiếc gậy của Mô-sê” đã từng dương ra trên biển Đỏ để họ tiến bước ráo chân giữa hai bờ tường nước dựng. Quên cả manna, quên luôn chim cút, quên cột mây che mát, cột lửa dẫn đường, quên hết Thập điều trên núi Sinai…Ngày nay, trước những cơn khát của cuộc đời, chúng ta cũng đã bao lần dẹp Thiên Chúa sang một bên, hay chí ít, cũng hồ nghi về sự hiện hữu của Ngài, quên mình là Kitô hữu, quên dòng nước rửa tội, quên Chúa Giêsu đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể, quên các giới răn và các thực hành luân lý Kitô giáo, quên hết những lời dạy của tin mừng…

  1. Khi “chiếc gậy Thánh Thần” can thiệp:

Nhưng Thiên Chúa lại chứng tỏ quyền năng bằng lòng tha thứ; và Ngài lại một lần nữa ra tay. Chiếc gậy của Mô-sê có dịp được dương ra để đập vào tảng đá cho mạch nước tuôn trào. Trên “từng cây số của chiều dài lịch sử nhân loại”, Thiên Chúa nào chịu thua sự cứng lòng và yếu đuối của loài người! Kể từ những giọt máu và nước từ trái tim của Con một tuôn ra trên đồi Sọ, chiếc gậy Thánh thần đã dương ra trên khắp địa cầu để đập vào muôn vạn trái tim chai cứng, khô khan làm vọt lên dòng nước của ơn cứu độ, của tái tạo, của phục sinh. Ngay trong hoang mạc của tối tăm và sự chết trên đỉnh đồi Can-vê chiều thứ Sáu, dòng nước đó đó đã chạm đén trái tim của người trộm bên hữu để trong anh bừng lên niềm hy vọng đi vào hạnh phúc vĩnh hằng. Người phụ nữ Samari trong Tin mừng hôm nay đang khát tình với năm người đàn ông không chính thức, đang khao khát một niềm tin đúng nghĩa để thờ phượng Thiên Chúa, một khi được gặp gỡ Đấng là Đường, là Sự thật và Sự sống đã hân hoan trở nên một con người mới. Rồi tiếp nối những Maria Bêtania ngồi bên chân Chúa, Giakê cố nhìn Chúa trên cành cây sung hay Lê-vi nghe tiếng Chúa ngay nơi bàn thu thuế, người thiếu phụ ngoại tình đứng nhìn Chúa im lặng vẽ hình trên cát…tất cả đã đứng lên và làm lại cuộc đời trong niềm vui của một cuộc phục sinh, của một đời sống mới… Cứ thế, suốt hai ngàn năm nay, hàng hàng lớp lớp con người đã được chiếc gậy Thánh Thần chạm đến để tuôn đổ hồng ân, để nhận được dòng nước hằng sống tái sinh qua bí tích Rửa tội và được nuôi dưỡng lớn lên nhờThánh Thể. Đúng như lời Đức Kitô đã nới với người thiếu phụ Samari trong Tin mừng hôm nay: “và nước tôi cho sẽ sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”.

  1. Tắm gội trong dòng nước hằng sống

Như vậy điều quan trọng còn lại hôm nay chính là hãy mở lòng ra, hãy đến và hãy gặp. Chính người thiếu phụ Samari hôm nay đã chịu mở lòng ra đối thoại với Chúa, đã chấp nhận để Chúa truy vấn và đã để Lời Chúa xuyên thấu cõi lòng. Và từ đó lại một mạch nước hằng sống đã tuôn trào nơi trái tim tưởng đâu đã cằn khô nơi chị, biến chị trở thành chứng nhân, thành tông đồ để rao giảng đơn sơ chỉ một tin Mừng: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”. Quả thật, đức tin luôn là một cuộc khao khát vươn tới, là một sự khó nghèo để được lấp đầy, một niềm trông cậy để được đáp trả. Bởi vì Đức Kitô không bao giờ khước từ những ai đến cùng Ngài; lại càng không phải là kẻ dồn ta vào bước đường cùng để xô ta xuống vực thẳm. Hãy tự nhiên và bộc trực như người thiếu phụ Samari hôm nay, hay cứ huyên náo lăng xăng tiếp Chúa như cô Matta Bêtania, yên lặng nghe Chúa như cô Maria, tò mò trèo lên cây để được thấy Chúa như Giakê, đứng ngay lên bỏ tất cả theo Chúa như Matthêô, cả khi bất đắc dĩ vác đỡ thập giá như Simêon… Điều quan trọng là hãy đến, hãy tiếp cận, hãy gặp gỡ. Chúa nào có xa đâu.

Như vậy Mùa Chay phải chăng là Mùa để chúng ta mở rộng cõi lòng tập luyện sống niềm tin tích cực, sống cuộc gặp gỡ Đức Kitô, sống đối diện với cái tôi đích thực của mình để tìm gặp một sức sống mới, một nguồn nước mới. Chúng ta hãy bước ra khỏi cái ảo tưởng cho rằng: mình sống đạo như thế đủ rồi, đức tin như thế là tạm ổn. Hãy tỉnh táo. Coi chừng chúng ta đang trong “cơn thiếu nước trầm trọng”, đang trong thế “quay lưng lại với Thiên Chúa”. Hãy mạnh dạn quay lại ngõ lời với Đức Kitô như người thiéu phụ Samari: “Xin ban cho con thứ nước ấy”, và hãy để chiếc gậy Thánh Thần đập vào cõi lòng, vào tim óc và cuộc sống. Đó là chiếc gậy của tòa Giải tội, của Thánh Lễ, của việc cầu nguyện, của Tin mừng, của ăn chay và làm phúc, của tha thứ hòa giải với anh chị em xung quanh, của việc thực hành liêm khiết, thủy chung trong đời sống gia đình, trong sáng, trách nhiệm nơi công sở…Hãy để dòng nước của nhiệm tích Rửa tội vọt lên trong cuộc đời, hãy để dòng nước của Thánh Linh tuôn trào trong tim óc. Chắc chắn, chúng ta sẽ lớn dần lên trong tin yêu và niềm vui hạnh phúc thánh thiêng như cảm nghiệm của nhà thơ Đình bảng:

Cảm ơn Chúa đã cho tôi tắm gội

Lớn dần lên trong hương sắc của Người

Này lại ngày hoa trái cứ sinh sôi

Mỗi gieo vãi là một lần đẫy hạt..

(Giữa bao la đất trời. Lê Đình Bảng, Hành Hương, thơ. 2006)

Dòng nước đó chính là Đức Kitô đang có ở đây. Hãy hướng về Ngài. Hãy gặp gỡ Ngài.

 

80.             Sự tôn thờ đích thực

Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy Đức Giêsu là suối nước hằng sống. Chính Ngài mang lại sự sống vĩnh cửu cho tất cả những ai đón nhận Ngài. Đó chính là điểm chính yếu của Bài Tin mừng. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay còn có một điểm chính yếu quan trọng nữa. Đó là việc Đức Giêsu chỉ cho chúng ta thấy thế nào là việc tôn thờ Thiên Chúa cách đúng đắn và đích thực: “Giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những ngườI thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phương NgườI như thế. Thiên Chúa là thần khí và những kẻ thờ phương Người phải thờ phương trong thần khí và sự thật.’

 

  1. Thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí:

Dân Do thái quan niệm rằng: Thiên Chúa là của riêng họ, đứng về phía họ để chiến đấu chống lại các dân tộc khác. Họ cũng cho rằng: Thiên Chúa chỉ cư ngụ tại một nơi nào đó cụ thể, chẳng hạn như trong lều trại chứa Hòm Bia giao ước, hay trong Đền Thờ Giêrusalem. Với quan niệm như thế, Thiên Chúa của chúng ta mang đầy giới hạn. Ngài cũng giống như một con người biết yêu, giận, ghét, hữu hạn trong không gian và thời gian. Thiên Chúa đã chấp nhận tất cả những gì con người gán ghép cho Ngài như thế vì lòng yêu mến họ và Ngài muốn dẫn họ từng bước tiến đến chân lý đích thực qua thời gian.

Giờ đây, Đức Giêsu bắt đầu nâng tầm hiểu biết của họ về Thiên Chúa lên một tầm vóc mới. Họ phải tập nhìn và hiểu biết Thiên Chúa cách đúng đắn. Thiên Chúa chính là Đấng toàn năng, là Đấng sáng tạo muôn loài và là Cha chung của hết mọi người. Ngài là Thiên Chúa toàn năng tuyệt đối nhưng Ngài cũng rất gần gũi với con người và hết lòng yêu thương con người.

Chúng ta phải tôn thờ Thiên Chúa trong thần khí. Chúng ta hãy để cho Chúa Thánh Thần tự do hoạt động trong chúng ta, để Ngài giúp chúng ta hiểu biết đúng đắn về Thiên Chúa đúng như Ngài trong bản tính đích thực của Ngài… Một Thiên Chúa đích thực không thể bị giới hạn bất kỳ điều gì trong không gian hay thời gian; không thiên vị ai, nhưng yêu thương hết mọi người, muốn cho mọi người được sống và được cứu độ. Chúng ta không thể hiểu biết đúng đắn về Thiên Chúa nếu chúng ta không để cho Chúa Thánh thần hướng dẫn chúng ta. Chúng ta hãy phá tan những bức tường và rào cản nơi cõi lòng ta để Thần khí Chúa có thể đi vào và biến đổI lòng ta thành nơi tôn thờ Thiên Chúa đích thực.

 

  1. Tôn thờ Thiên Chúa trong sự thật

Có thể nói, tấ cả những hiểu biết tốt nhất của con người về Thiên Chúa cũng chỉ đúng một phần nhỏ về Ngài mà thôi. Thái độ khôn ngoan ngoan nhất của con người khi dùng ngôn ngữ của mình để nói về Thiên Chúa là phải chối ngay cách nói của mình sau khi nói về Ngài. Vì ngôn ngữ của con người vô cùng giới hạn. May ra có thể có thứ ngôn ngữ của con tim sâu kín và thinh lặng mới có thể diễn tả được nhiều điều về Thiên Chúa mà thôi. Một con tim không thiên vị, không thành kiến, không ích kỷ sẽ làm cho con người hiểu biết cách đúng đắn về Thiên Chúa.

Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi là chúng ta đang tôn thờ Vị Thiên Chúa nào không. Vì rất có thể chúng ta đang tôn thờ một vị thiên chúa là sản phẩm do tay con người làm ra. Hãy nhớ lại trong lịch sử dân Do thái: Khi Môsê ở trên Núi thánh với Thiên Chúa, thì dân chúng bảo Aharon đúc cho họ một Con Bê để họ tôn thờ như vị thần minh của họ. Hay chúng ta hãy nhìn lãi xem trong lịch sử: nhân danh Thiên Chúa nào để dân Do thái đóng đinh Đức Giêsu vào thập giá? Nhân danh Thiên Chúa nào để Giáo hội có một thời đã lập giàn hoả thiêu, thiêu sống những người bội giáo và ly giáo?… Khi chúng ta tôn thờ Thiên Chúa mà lòng chúng ta đầy dẫy những điều xấu, ích kỷ, tham lam, dâm ô… là chúng ta đang tôn thờ và chạy theo một vị thiên chúa do sản phẩm của con người làm ra; một vị thiên chúa giả tạo.

Vị Thiên Chúa đích thực phải là Vị Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô, một vị Thiên Chúa yêu thương hết thải mọi người và sẵn sang mở rộng vòng tay đón nhận tất cả mọi ngườI khi họ tìm đến với Ngài. Vị Thiên Chúa ấy là Cha của tất cả chúng ta, một người cha tuyệt hảo và quảng đại vô cùng. Vị Thiên Chúa đích thực được hoạ lại cách trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Nói cách khác, Đức Giêsu Kitô chính là hình ảnh trung thực nhất về Thiên Chúa Cha. Hãy tôn thờ Vị Thiên Chúa chân thật – Thiên Chúa của Đức Giêsu Kitô.

 

81.             Suy niệm Chúa Nhật 3 Mùa Chay

Nước là một trong những thứ cần thiết cho sự sống. Mọi nơi và mọi thời đều cần nước. Cỏ cây, sinh vật đều cần nước. Con người thì càng cần nước hơn. Sau không khí, nước là yếu tố quan trọng của đời sống. Có nước mới có rau cỏ, mới có sự sống. Đối với Ả Rập hay Tây Tạng, đối với khách bộ hành trong sa mạc thì mỗi giọt nước là một giọt máu trong thân thể. Trái lại, khi chúng ta sống ở ruộng đồng hay miền sông nước, chúng ta không thấy quý nước như những người ở trên vùng cao hay đi trong sa mạc. Có nhiều khi còn sợ nước gây úng thủy ngập lụt. Chúng ta là những người giàu có nước uống, nước giếng, nước sông, nước hồ, nước ao, nước mưa, nước trái cây và mỗi ngày chúng ta dùng từ 200 đến 500 lít nước để ăn uống, tắm giặt, tha hồ thoải mái.

Nước là tác phẩm do Thiên Chúa tạo dựng. Nước tạo nên sự tươi mát. Bất cứ nơi đâu, dù là sa mạc mà có nước chảy vào, tức thì có ngay mầu xanh của cây cối. Đứng trước một dòng nước, ai lại không muốn tâm hồn mình được tươi mới. Những ngày hè nóng bức, chúng ta uống nước đá, tắm nước sông hay gặp nước mưa thì quả thực là mát mẻ. Từ vạn vật cho đến lòng người,tất cả đều được đổi mới. Tiếp đến nước tinh luyện và tẩy sạch. Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ trong ý nghĩa thanh tẩy ấy và đã dùng dòng nước rửa tội để xóa bỏ mọi dấu vết của tội lỗi. Nếu như nước thường do Thiên Chúa dựng nên còn có ích cho việc dinh dưỡng, thì Chúa càng có quyền để làm nên một thứ nước trường sinh như chính Ngài đã quả quyết với ông Nicôđêmô và người thiếu phụ Samaria. Nước hằng sống của Chúa là nước cứu độ, ai uống vào sẽ không bao giờ khát và không còn mơ ước một thứ gì trên trần gian này nữa. Nước hằng sống này xuất phát từ trái tim ngập tràn yêu thương của Ngài, đã hoán cải được biết bao nhiêu người, không lẽ lại chẳng níu kéo được chúng ta ra khỏi vũng lầy tội lỗi.

Trong bài Phúc âm hôm nay khi mở đầu câu chuyện với người phụ nữ Samari, Đức Giêsu là những nhịp cầu nối liền những dòng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Người là nhịp cầu xóa đi biên giới ngăn cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Người chính là nhịp cầu đưa vào đời sống thần linh. Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng nước. Người phụ nữ nhìn Đức Giêsu bằng ánh mắt khinh miệt. Dưới mắt chị, đó chỉ là một người Do Thái đáng xa lánh. Còn tệ hại hơn nữa, anh chàng Do Thái này nghèo nàn, đang đói khát, mệt mỏi, chỉ chờ xin chút nước uống. Chị hơn Ngài vì chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với người Sêmít, có nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có nước là nơi ấy có sự sống. Vì nhờ nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có lương thực, con người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức trở nên giàu có. Không những người phụ nữ có giếng nước mà còn có cả bình múc nước. Chị còn có gia đình, còn có Đền Thờ vững chắc xây dựng trên núi Garizim.

Nhưng Đức Giêsu đã phá tan sự an thân giả tạo của chị. Người cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là phù du, vì giếng ấy không cho nước Hằng Sống. Người cho chị thấy hạnh phúc gia đình mà chị đang có chỉ là hư ảo, vì hạnh phúc ấy xây dựng trên một mối duyên hờ. Người cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là ngụy tín, vì Đền Thờ chỉ là gạch đá vô hồn không có Chúa ngự trong đó.

Trong phút chốc chị trở nên nghèo nàn. Trước kia chị tưởng mình có tất cả, nay chị chợt thấy mình trắng tay. Trước kia chị tưởng là mình giàu có, nay chị nhận thức rõ mình thật nghèo. Lấy đi tất cả những lớp vỏ phù du bọt bèo, chị thấy mình trơ trụi, khốn cùng. Nhưng từ đáy vực khốn cùng ấy, một niềm tin nhen nhúm, một mạch sối trào dâng… Chị chợt tỉnh ngộ. Những thứ mà trước kia chị tưởng là thành luỹ che chở cuộc đời, hóa ra chỉ là những tảng ngăn chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi mạch suối dào dạt trào tuôn.

Những thứ mà trước kia chị tưởng là nơi nương tựa êm ái hóa ra chỉ là tổ kén giam kín đời sâu. Trút bỏ được lớp vỏ xù xì cũ kỹ, sâu nay hóa bướm đẹp lộng lẫy, tự do bay tung tăng khắp chốn. Thì ra của cải, dục vọng, tôn giáo vụ hình thức, là những tấm màn che mắt chị, không cho chị nhận ra Chúa Giêsu Đấng Cứu thế. Ta hãy trở lại phút đầu tiên, khi Đức Chúa Giêsu ngỏ lời xin nước. Lúc ấy bị các tấm màn che mắt, chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái: “Ông là Do Thái mà lại xin nước tôi ư?”. Nhưng lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén, phá tan màn mây mù che mắt chị. Nhát gươm thư nhất vung lên, một mảnh vảy mắt rơi xuống chị nhìn ra người đối diện: “Cao cả hơn tổ phụ Giacóp”. Nhát gươm thứ hai vung lên, một mảnh vảy nữa rơi xuống, chị nhận ra Người là “một tiên tri”. Một nhát gươm nữa vun lên, mảnh vảy cuối cùng rơi xuống. Chị nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế và chị tin vào Người.

Niềm tin trào dâng. Hạnh phúc trào dâng. Chị quên cả bình múc nước, quên cả múc nước chạy về làng báo loan tin vui. Chị để quên chiếc bình, vì chiếc bình từ nay trở nên vô dụng. Cùng với chiếc bình, chị bỏ lại cả giếng nước, cả người chồng hờ, cả ngôi Đền Thờ trống rỗng.

Lời Chúa như lưỡi gương sắc bén chẻ đôi đời chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng kho tàng của trần gian. Mảnh đời mới ngụp lặn trong dòng suối đức tin, kho tàng thiên quốc. Lời Chúa là ngọn đèn soi đường, nên chị bước đi những bước lẹ làng vững chắc hướng về sự sống mới. Lời Chúa là chiếc cầu đưa chị vào đời sống thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu cái bình múc nước, vì bên kia cầu chị đã có mạch nước Trường Sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ, vì bên kia cầu chị đã gặp được tình yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu ngôi đền thờ trống rỗng, vì bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý. Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao vời những đường bay rất đẹp.

Người phụ nữ đã trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút trên trời cao. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những ảo tưởng, những thứ đạo đức vụ hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết chính mình, và vì thế, ta không bao giờ gặp được Chúa. Xin Lời Chúa như lưỡi gươm tách rõ trắng đen để ta dứt lìa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả tạo, thói đạo đức hình thức. Xin Lời Chúa tháo đi những tảng đá trì trệ để dòng suối tin yêu khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta, và để tình yêu bừng nở đem cho ta hạnh phúc chân thật.

Lạy Chúa, xin mở mắt tâm hồn chúng con để chúng con nhận ra Chúa để chúng con luôn làm theo điều Chúa muốn. Amen.

 

82.             Nước Tôi cho sẽ đem lại sự sống đời đời

(Suy niệm của Lm Augustine SJ.)

Nếu anh chị em biết tôi thương yêu anh chị em dường nào!

Hôm đó dân làng Cồn Cát (Kôn Kơ Xâm) uống rượu cần chung với nhau tại nhà rông, có một số dân làng bên cạnh cũng được mời. Ông Hồ Mua tới mời bốn vị thừa sai người ngoại quốc lên nhà rông uống rượu với ông, rượu riêng của ông. Mọi người đã tụ tập và trò chuyện ồn ào, hơi men bốc lên đầu. Ông Hồ Mua uống ít, gương mặt có vẻ lo âu.

Nhóm người ngoại quốc ngồi tại nhà rông khá lâu mới thấy ông Hồ Mua đứng phắt dậy, và bằng một giọng oang oang, ông nói:

“Tôi biết có nhiều người đã kết tội tôi vì làm bạn thân với những người Kinh xa lạ này, và tôi cũng nhận thấy người ta trách tôi tại sao lại mời họ đến dự buổi tiệc rượu này. Tại sao những người Kinh này lại có những kẻ thù ở giữa chúng ta? Họ đã làm điều gì xấu đối với chúng ta? Họ đã phạm điều bất công nào? Nếu họ đã ăn gạo của các người thì họ trả tiền sòng phẳng và không ai buộc các người phải bán cho họ thứ gì. Có ai trong các người, từ đứa bé cho đến ông già, đã bị họ làm điều gì xúc phạm? Hãy đứng lên xem nào, các người là những kẻ chỉ biết nói thầm nói lén và âm mưu ác đức trong bóng tối. Đồ hèn nhát, người nào dám trả lời tôi, hãy đứng lên xem! Phải, tôi nói thẳng trước mặt cả làng, tôi thương những người xa lạ này, bởi vì họ tốt lành, và chỉ mình tôi biết đối xử công bình với họ.”

Vừa dứt lời, ông Hồ Mua bỗng nhảy bổ tới cạnh bếp lửa, chụp lấy một thanh củi đang cháy và cắm ngay vào miệng, rồi gọi đích danh tên đầu đảng âm mưu sát hại nhóm thừa sai ngoại quốc và nói: “Nếu mày dám chống lại tao, thằng hèn nhát, thì hăy cắn vào thanh củi này tiếp theo tao. Hãy thề kết hận với tao như tao thề kết hận với mày.”

Tôi đã hứng chịu bao nhiêu nhọc nhằn vất vả!

Một sự im lặng căng thẳng đè nặng trên căn nhà trước đó vang lên tiếng chuyện trò huyên náo, đến độ người ta có thể nghe thấy tiếng ruồi bay giữa gian nhà đông đặc những người. Không ai dám đứng lên đối đáp với ông Hồ Mua. Tên đầu đảng bị gọi đích danh, run lên như tàu lá trước gió thổi. Chàng ta xin lỗi ríu rít. Và màn kịch chấm dứt ở đó.

Riêng cha Đỗ Đình Bộ (Dourisboure) và các bạn thừa sai người ngoại quốc chưa biết tiếng Bana, nên không hiểu gì về màn kịch nói trên. Ba năm sau tên đầu đảng trở lại đạo và được chịu phép rửa, các ngài mới rõ câu chuyện. Khi ấy nhớ tới tội tày đình anh suýt gây nên, anh vô cùng hối hận và đã sấp mình dưới chân cha Cung (Combes) và xưng thú. Anh nói với cha Cung: Thưa cha, khốn cho con là kẻ đã từng mưu sát cha. Nhưng bây giờ, nếu ai muốn tấn công cha, thì con sẽ sẵn sàng bảo vệ cha và chết vì cha. Người đó sẽ phải bước qua xác chết của con mới có thể làm hại được cha.”

Nhất là tôi đã phải xa lìa người mẹ tốt lành thánh thiện với biết bao đau lòng đứt ruột!

Quả thật, khác hẳn với bối cảnh ba năm về trước, khi cha Bộ và các thừa sai mới tới làng Cồn Cát, mọi người đều chạy trốn. Cha Bộ đã đau lòng ghi lại như sau: “Khi thấy anh chị em dân tộc chạy trốn chúng tôi, thì tim tôi như ứa máu, quặn đau không sao kể xiết! Chúa Giêsu nhân hậu đã nói với người đàn bà xứ Samari rằng: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10). Những lời dịu dàng này thường đến với tâm trí tôi. Đôi khi, vì không thể làm cho anh chị em dân tộc hiểu được mình; cũng không làm sao cho tiếng nói của mình đến tai họ được, tôi la lên từ xa, với những kẻ chạy trốn: Hỡi anh chị em dân tộc đáng thương và yêu quí! Ước gì anh chị em biết tôi thương yêu anh chị em dường nào và tôi muốn làm điều tốt lành cho anh chị em, tôi đã từng hứng chịu bao nhiêu nhọc nhằn vất vả, đã vượt biển cả, xem thường bão tố! Ước chi anh chị em biết được tổ quốc tôi như thế nào mà tôi đành lìa bỏ vì anh chị em! Nhất là anh chị em biết người mẹ tốt lành, thánh thiện của tôi ở nơi đó, cách xa đây hàng ngàn dặm, mà tôi phải xa lìa với biết bao đau lòng đứt ruột! Và tất cả những điều đó tôi chịu chỉ vì thương yêu anh chị em, thế mà anh chị em lại chạy trốn tôi, lại sợ tôi là người bạn tốt nhất của anh chị em!”

Trong câu chuyện vừa kể theo Dân Làng Hồ, Sàigòn 1972, cha Đỗ Đình Bộ ước ao biết bao để anh chị em dân tộc Bana nhận ra tình thương ngài dành cho họ: Còn trong Tin Mừng hôm nay, chính Đức Giêsu ước ao biết bao dân ngoại Samari nhận ra cái mới Người mang lại cho họ: Đó là suối nước vọt tới sự sống vô cùng vô tận; đó là nền phụng tự đích thực hợp với Đấng là Thần Khí. Cái mới ấy nối tiếp một loạt cái mới khác trong Tin Mừng Gioan dưới biểu tượng rượu mới tại Cana; Đền thờ mới chính là thân thể Đức Giêsu; cuộc tái sinh vượt bậc trong nước và Thần Khí. Đức Giêsu nhấn mạnh về của ăn Người dùng thường ngày là thể hiện ý của Thiên Chúa Cha. Ý ấy phần nào nhắm thẳng cánh đồng truyền giáo đã chín muồi cho việc gặt hái.

Khi ấy Đức Giêsu rời bỏ xứ Giuđê ở miền Nam, lên Galilê theo hướng Bắc. Người đi xuyên qua xứ Samari và vì mệt nhọc, Người ngồi nghỉ cạnh giếng nước do tổ phụ Giacóp đào, mà ngày nay người dân vẫn còn đến kín nước. Chính nơi đây diễn ra hai cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari (cc.7-26); giữa Đức Giêsu và các môn đệ (cc.31-38).

Với người phụ nữ Samari, Đức Giêsu cho biết chính Người mang lại suối nước vọt tới sự sống đời đời (c.14) vượt hẳn thứ nước từ giếng Giacóp. Kế đó, Đức Giêsu cho phụ nữ ấy nhận ra Người biết tất cả quá khứ của bà, đó là điều khiến bà đặt niềm tin vào Đức Giêsu (c.19).

Người phụ nữ Samari còn được cho biết về phượng tự trong thần khí và sự thật: “Giờ đã đến… những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (c.23).

+ Với các môn đệ, Đức Giêsu cho họ biết “Lương thực của Thầy là thi hành y muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người.” (c.34). Người còn gợi ý để họ phóng cái nhìn về cánh đồng truyền giáo đã chín vàng đang chờ đợi ngày gặt (c.35).

Kết luận: Nhiều người Samari tin Đức Giêsu thật là Đấng cứu độ trần gian (c.42).

 

83.             Ơn cứu độ chứa chan nơi Đức Kitô

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

Nước là nhu cầu không thể thiếu được trong sinh hoạt hằng ngày. Nếu biển, sông, hồ, suối mà cạn nước, cá và các vi sinh vật sẽ chết khô. Nước tự nhiên rất cần thiết cho con người.

Chúa Giêsu trong Tin Mừng Chúa Nhật thứ ba Mùa Chay năm A lại nói đến một thứ nước trường sinh, một loại nước vĩnh hằng, ai uống vào sẽ không bao giờ khát nữa. Chúa đã nói gì với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ thành giếng Gia-cóp? Qua lời của Chúa Giê-su, người phụ nữ Sa-ma-ri đã nhận ra Đức Tin đang tàng ẩn trong bà và chính Chúa Giê-su đã lấp đầy khát vọng sâu xa của bà.

  1. CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA CHÚA GIÊSU và NGƯỜI PHỤ NỮ SAMARI

Câu chuyện xẩy ra bên bờ thành giếng Gia-cóp, miền Sa-ma-ri của dân ngoại. Chúa Giê-su đi ngang qua vùng này để nói lên sự hòa giải của Người với dân ngoại. Giếng, giữa một sa mạc khô cằn, hạn hán là nơi gặp gỡ, trao đổi, nơi lãnh nhận sự sống do nguồn nước cung cấp. Giếng cũng gợi nhớ lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với Dân của Người trong thời Xuất Hành. Trong câu chuyện hôm nay, thánh Gio-an trình thuật lại một cách rất phong phú về phương diện Giáo Lý. Nhưng chúng ta hãy chú ý tới cuộc đối thoại đầy hứng thú giữa Chúa Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri.

Ở đây ta có cảm tưởng, người phụ nữ rất ngạc nhiên khi Chúa Giê-su đi bước trước, xin người phụ nữ ngoại giáo cho mình uống nước, vì đối với dân Do-thái lúc đó, điều tối kỵ nhất là một người có đạo trò chuyện với người ngoại giáo. Ở đây lại còn là giữa một người đàn ông và một người đàn bà. “Chị cho tôi xin chút nước”, lời thỉnh cầu này của Chúa Giê-su làm cho người phụ nữ Sa-ma-ri rất khó hiểu và kinh ngạc vì chị hiểu rất rõ mối thù hận lâu đời giữa hai bên.

Tuy nhiên, người phụ nữ đã chấp nhận đi vào cuộc: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông uống nước sao?” (Ga 4, 9). Người phụ nữ Sa-ma-ri vô tình đang đi vào một cuộc gặp gỡ nhiệm mầu mà bà không bao giờ ngờ trước! Chúng ta vẫn không khỏi khâm phục Chúa Giê-su đã rất tài tình khéo léo, đặt hết câu hỏi này tới câu thắc mắc khác hầu có thể kéo người phụ nữ đi vào con đường nhận ra Đấng đang nói với bà. Câu chuyện làm cho người nghe có lúc hiểu rằng Chúa Giê-su nói một chuyện, người phụ nữ nói một chuyện. Hai bên khó lòng hiểu nổi nhau. Người phụ nữ nói chuyện dưới đất, Chúa nói chuyện trời cao.

Nhưng cuối cùng, việc Chúa xin nước tự nhiên ở giếng Gia-cóp đã kích thích tính tò mò của người phụ nữ Sa-ma-ri khi Người xoay chiều nói về một thứ nước vĩnh cửu, thứ Nước Hằng Sống mà chỉ có Người mới có quyền ban cho con người. Nước tự nhiên làm cho con người vẫn mãi mãi khát. Còn thứ nước Người cho sẽ làm cho con người không bao giờ còn khát nữa và được sống đời đời. Tin Mừng cho hay: Dù người phụ nữ chưa hiểu ất giáp gì, nhưng bà đã quyết định xin thứ nước lạ lùng vô tiền khoáng hậu ấy.

Tin Mừng trong trích đoạn này càng làm ta ngạc nhiên khi thấy Chúa Giê-su chuyển đổi đề tài. Chúa Giê-su chiếu cố ngay tới đời tư của người đàn bà Sa-ma-ri. Người đã nói trắng ra tất cả đời tư của người đàn bà Sa-ma-ri. Bà ta đã ấp úng xưng Chúa Giê-su là một vị tiên tri, và ý thức tôn giáo đã trỗi dậy trong bà. Đức Giê-su là Đền Thờ Mới (Ga 2, 19 – 22). Vì thế, khi người phụ nữ Sa-ma-ri đề cập tới việc Đấng Mê-si-a mà người ta gọi là Ki-tô, thì chính lúc đó Chúa Giê-su đã có thể tự mạc khải mình cho người phụ nữ: “Đấng ấy, chính là Tôi, đang nói với chị đây” (Ga 4, 26).

Tuy lòng tin chưa sâu đậm bao nhiêu, nhưng người phụ nữ đã bỏ vò nước lại, chạy mau vào thành và loan báo với mọi người về một người đàn ông Do-thái đã biết tất cả dĩ vãng, cuộc đời không mấy tốt đẹp của bà, bà đã thuật lại cuộc gặp gỡ diệu kỳ này, rồi bà kết luận: “Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” Lời nói của bà lúc này đã dẫn bà tới gần chân lý lắm rồi!

Qua lời chứng của người phụ nữ, nhiều người Sa-ma-ri đã tới và gặp Đức Ki-tô. Bài tường thuật đạt tới đỉnh tuyệt vời với lời tuyên xưng của nhiều người: “…Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Vị Cứu Tinh của trần gian” (Ga 4, 42). Rõ ràng Chúa không phân biệt người có đạo và không có đạo, nhưng Ơn Cứu Độ của Người vẫn luôn được trao ban cho tất cả mọi người.

  1. CUỘC ĐỐI THOẠI GIỮA CHÚA GIÊSU và NGƯỜI PHỤ NỮ SAMARI NÓI GÌ CHO TA?

Qua cuộc đối thoại đầy hứng thú này, lồng trong khung cảnh Mùa Chay năm 2002, chúng ta hãy duyệt xét lại tiến trình Đức Tin của mỗi người chúng ta.

Đức Tin chúng ta có cần được củng cố hay tự nó có đó mà không cần phải cố gắng phấn đấu, hy sinh và canh tân vươn lên không ngừng?

Và như thế, chúng ta có biết mở rộng tâm hồn để đón nhận mặc khải của Chúa Giê-su như người nữ Sa-ma-ri hay không, có biết khao khát thứ Nước Hằng Sống của Người hay không?

 

84.             Nước Hằng Sống

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

Mùa chay giúp chúng ta nhìn lại cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Chúa nhật I Mùa chay, Chúa Giêsu đã vượt thắng tội lỗi, chiến thắng ma quỷ. Chúa nhật II Mùa chay, ba môn đệ thân tín của Chúa Giêsu Phêrô, Giacôbê và Gioan được chiêm ngưỡng sự biến hình của Chúa Giêsu. Chúa nhật hôm nay, Chúa Giêsu đem lại nguồn nước mới, nguồn sức sống cho bất kỳ ai, không phân biệt bất cứ ai, tin nhận Ngài là Đấng Cứu thế.

Câu chuyện người phụ nữ bên bờ thành giếng Giacop xưa là một áng văn quá tuyệt vời của thánh Gioan. Nó thi vị không phải người phụ nữ bên bờ thành giếng hằng ngày tới múc nước. Nhưng nó thật gợi cảm và thi vị khi người phụ nữ gặp được chính Chúa Giêsu, và Ngài đã làm cho người phụ nữ này tin và đón nhận Chúa. Đọc đoạn Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay tuy hơi dài nhưng quả thực câu chuyện và áng văn quá hấp dẫn đến nỗi đoạn Tin Mừng này làm cho chúng ta không hề chán. Chúa Giêsu đi đến một thành Samari, một thành của người ngoại. Câu chuyện được bắt đầu với việc một người phụ nữ Samari mang gầu đến giếng múc nước. Trông thấy chị, Chúa nói: ” Chị cho tôi xin chút nước uống! “… Người phụ nữ Samari rất ngạc nhiên vì người Do Thái không được liên lạc với người ngoại giáo. Tuy nhiên, Thiên Chúa có đường lối của Chúa, Ngài dẫn con người từ chỗ này tới chỗ nọ, từ đường này tới đường khác…Từ việc xin nước, Chúa Giêsu đã chỉ cho người phụ nữ Samari khao khát nước hằng sống: ” Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa.Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy vọt, mang lại sự sống đời đời ” (Ga 4, 14). Chị đã bị khuất phục và nằng nặc xin Chúa thứ nước hằng sống. Chúa Giêsu đã đưa chị từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Từ việc Ngài bảo chị gọi chồng chị đến cho tới việc Ngài nói với chị: ” Chị đã có năm đời chồng và người đang sống với chị không phải là chồng chị ” (Ga 4, 18). Sự ngạc nhiên đến thán phục, người phụ nữ Samari đã nhận ra Chúa và tin vào Ngài khi Đức Kitô xác nhận: ” Đấng Messia, Đấng ấy chính là ta, người đang nói với chị đây ” (Ga 4, 26).

Câu chuyện có hồi kết thật có hậu… Chị về kể lại cho mọi người trong làng nghe…mọi người đều thán phục Đức Kitô, tuy nhiên dân chúng không chỉ nghe người phụ nữ này kể lại sự việc Đức Kitô đã nói về mình rồi họ tin, nhưng chính họ lại làm chúng ta ngạc nhiên hơn khi xác định: ” Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin.Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng người thật là Vị Cứu Tinh của trần gian ” (Ga 4, 42).

Chúa Giêsu đã có mặt mọi nơi, mọi chỗ để tỏ lộ lòng thương xót của Ngài đối với con người, đối với mọi người. Xưa Chúa đến với người phụ nữ Samari để làm cho chị và nhiều người tin và nhận ra Người. Và như thế, khi đọc Tin Mừng của Đức Kitô, chúng ta bắt gặp Con Người thật: Đức Kitô đang mạc khải tình thương của Ngài cho nhiều người, đặc biệt Ngài đến với những con người tội lỗi, đến với những con người nghèo hèn, khốn khổ, thấp cổ bé họng… Chúa đến làm cho người mù được thấy, kẻ quẻ được đi, kẻ điếc nghe được, kẻ câm nói được, người chết sống lại. Lòng thương xót của Chúa thật bao la, vô biên… Do đó, chắc chắn Ngài vẫn tiếp tục đến với chúng ta để đem lại cho chúng ta tin vui cứu độ và giáo lý tình thương, để mọi người được chứa chan tình thương, được dòng suối ân sủng tưới gội, được lương thực thiêng liêng làm no thỏa tâm hồn… Nên, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari thúc bách chúng ta mau mắn tìm gặp Chúa, đặc biệt trong Mùa Chay. Chúng ta đừng chần chừ đi tìm gặp Người. Những thái độ nản chán, ích kỷ, ươn hèn là những thái độ không xứng đáng để con người có thể gặp Chúa. Khôn ngoan, chóng vánh, tỉnh thức là những thái độ cần thiết và thích hợp để đi tìm gặp Chúa. Hình ảnh năm cô trinh nữ khôn ngoan và năm cô trinh nữ khờ dại dạy chúng ta nhiều điều. Việc năm cô khôn mang đèn và mang dầu theo là thái độ chúng ta phải có. Chúa đã đi bước trước để gặp gỡ người phụ nữ Samari…Chúng ta có mắn đến với tha nhân hay chỉ ngồi chờ đợi người ta đến với chúng ta trước? Chúa sẵn sàng ban phát ơn lành, còn chúng ta có biết cho đi hay chỉ biết đón nhận? Chúa đã đi bước trước đến với người phụ nữ ngoại đạo và là một phụ nữ tội lỗi. Chúng ta có dám vượt qua những rào cản ích kỷ để đến với anh chị em đang cần sự giúp đỡ, chỉ bảo của chúng ta không?

Lạy Chúa, Chúa đã đến với người phụ nữ Samari để giúp chị nhận ra và tin vào Chúa, đồng thời nhận ra chính chị, nhận ra con người thật của chị. Chị đã được ơn sám hối và được biến đổi hoàn toàn. Xin Chúa hãy đến với chúng con trong mùa chay này để chúng con hiểu Chúa rõ hơn, và để chúng con hiểu chúng con hơn. Xin Chúa dùng lời Chúa để dạy dỗ chúng con, làm tươi lại cuộc đời xem ra khô cằn của chúng con. Xin Chúa biến đổi đời sống chúng con. Amen.

 

85.             Nước Hằng Sống

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT)

Chúa nhật thứ 3 mùa chay có thể nói gợi lên cho tất cả những ai theo Chúa về một cuộc gặp gỡ diệu kỳ giữa Đức Kitô và người phụ nữ ngoại giáo Samari. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu này làm cho mọi người chúng ta hiểu hơn về Đức Kitô, Đấng luôn tạo cho chúng ta cơ hội gặp gỡ Ngài…

Người phụ nữ Samari được gặp một Đấng mà chị không bao giờ ngờ tới. Bởi vì, Đấng ấy ngồi nghỉ bên bờ giếng và người nữ Samari đi kín nước bình thường như mọi ngày, chị không hề hay biết Đấng ngồi nghỉ bên chân giếng và chị cũng chẳng có ý định gặp Chúa Giêsu. Việc tình cờ của người phụ nữ Samari gặp Chúa Giêsu hôm nay làm cho chị hết sức ngạc nhiên. Chúa Giêsu không phải vì khát nước mà xin chị cho Ngài uống nước giếng tổ phụ Giacóp đã để lại, nhưng Chúa tạo cơ hội xin nước để gợi ý, trò chuyện và giới thiệu cho chị Samari một vấn đề hết sức quan trọng, một việc cao cả mà chị chưa bao giờ được nghe ai nói tới. Ngài muốn nói với người phụ nữ rằng chị là người đang khát và tỏ cho chị hay Ngài là ai, là Người sẽ làm cho chị hết khát, khỏi phải hằng ngày đi kín nước: ” Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa “.

Nước Chúa sẽ cho là nước hằng sống. Nước ấy chính là Lời của Chúa. Lời bầy tỏ sự kín nhiệm của Người và Lời ấy sẽ vạch rõ quá khứ, hiện tại và tương lai của con người. Chúa đã nói về quá khứ người phụ nữ Samari đã có năm đời chồng rưỡi. Do đó, chị đã nhận ra Ngài là một tiên tri. Và cuối cùng, chị đã nhận ra Ngài là Đấng Mêsia. Đây là một sự hết sức kỳ diệu, một phép lạ đã được tỏ lộ cho người phụ nữ Samari chứ không phải cho người Do Thái đồng hương, hay cho các môn đệ thân yêu của Ngài: ” Đấng ấy chính là tôi, Người đang nói với chị đây ” (Ga 4, 26). Chị nữ Samari đã có một niềm vui to lớn, một hạnh phúc lớn lao, chị nong nả, vội vã đi loan báo cho dân làng về một Đấng Mêsia mà chị vừa gặp gỡ. Đấng đã thấu suốt quá khứ và hiện tại của chị, Đấng hứa cho chị uống thứ nước không hề khát. Chị muốn uống thứ nước đó và đồng thời cũng muốn cho dân làng của mình được uống thứ nước tuyệt vời, diệu kỳ ấy. Đấng ấy chính là Đấng Mêsia đến cứu độ nhân loại và ban cho nhân loại hạnh phúc tuyệt vời nếu nhân loại tín thác vào Ngài. Đấng sẽ ban cho nhân loại nước hằng sống nếu nhân loại thật lòng khao khát muốn uống thứ nước ấy. Đấng sẽ ban Lời, nếu nhân loại sẵn sàng đón nhận Lời và thực thi Lời trong đời sống thì Chúa sẽ cho họ được sống và sống dồi dào (Ga 10, 10).

Chúa Giêsu đã không uống nước giếng, cũng chẳng vào ăn cơm với gia đình của người phụ nữ Samari. Nhưng điều các môn đệ của Người sẽ rất ngạc nhiên và thán phục đó là: ” Người luôn làm theo thánh ý Chúa Cha…và các linh hồn phải được cứu rỗi, là qua việc người nữ Samari kể lại với dân làng, là việc dân làng thấy Chúa và nghe Chúa nói, nhiều người đã tin vào Người ” (Ga 4, 35).

Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu của người phụ nữ Samari thúc bách chúng ta cũng mau mắn gặp gỡ Người…Gặp gỡ Đức Kitô không chỉ là may mắn tình cờ, nhưng mọi người đều có thể, có cơ hội đi tìm gặp gỡ Chúa, đặc biệt trong mùa chay. Chúng ta hãy bắt chước năm cô trinh nữ khôn ngoan mang đèn và mang theo dầu…Đức Kitô sẽ đến và chúng ta sẽ gặp được Người. Lời Chúa nói: “Này Ta đang đứng ngoài cửa mà gõ, ai nghe tiếng ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà kẻ ấy “. Chúa có thể đã nhiều lần đến gõ cửa tâm hồn của chúng ta, nhưng nhiều khi chúng ta say ngủ, hay quên mang dầu để mở cửa đón Chúa. Nên, gặp gỡ Chúa có thể nói là hoàn toàn tùy thuộc vào chúng ta, vào thái độ sẵn sàng của chúng ta. ” Hãy tỉnh thức và cầu nguyện ” để đón Chúa và gặp gỡ Chúa.

Chúng ta hãy bắt chước người phụ Samari mau mắn loan báo cho dân làng, cho muôn người biết Đấng Mêsia, như thế chúng ta đã làm thỏa cơn đói của Chúa: “Lúa chín đầy đồng…”.

Chúng ta hãy cùng với dân làng Samari và cùng với nhiều người loan báo Chúa Giêsu là Đấng cứu độ trần gian như thế là chúng ta làm thỏa cơn khát của Chúa.

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người nữ Samari đã làm thay đổi cả cuộc đời của chị như bài ca của Linh mục Giuse Tiến Lộc đã viết: “Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình…”.

Vâng, chỉ có Đức Kitô mới giải đáp được những ưu tư, băn khoăn, lo âu, những khúc mắc của mỗi người chúng ta. Chỉ mình Chúa mới ban niềm vui và hạnh phúc để chúng ta phấn khởi mà sống giữa cuộc đời đầy gian nan, thử thách.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con thứ nước chúng con uống vào sẽ không còn khát và thứ nước đem lại cho chúng con ơn cứu độ, đó là Nước Hằng Sống. Amen.

 

86.             Hạnh phúc thật – Lm Giuse Dương Hữu Tình

Như chúng ta biết mục đích đầu tiên của 40 ngày chay thánh được đặt ra là vì lý do mục vụ. Đó là thời gian cần thiết để chuẩn bị tâm hồn cho những người sẽ lãnh bí tích rửa tội vào lễ Vọng Phục sinh. Điều này thể hiện rất rõ trong phụng vụ Lời Chúa các Chúa nhật cuối Mùa chay, cụ thể là các Chúa nhật III, IV và V. Trong các Chúa nhật này, Giáo hội chọn những bài Phúc Am rất tiêu biểu và phù hợp với đề tài bí tích rửa tội. Chúa nhật III được gọi là Chúa nhật Nước vì cho ta suy ngắm đoạn Phúc Am kể lại sự kiện Chúa Giêsu gặp phụ nữ Samaria tại giếng Giacob. Chúa nhật IV được gọi là Chúa nhật Anh Sáng vì cho ta suy ngắm đoạn Phúc Am kể lại sự kiện Chúa chữa người mù từ khi mới sinh. Chúa nhật V được gọi là Chúa nhật Sự Sống vì cho ta suy ngắm đoạn Phúc Am ghi lại sự kiện Chúa cho ông Ladarô sống lại (các bài Phúc Am của Chúa nhật năm A luôn được ưu tiên và có thể sử dụng cho tất cả các năm khác).

Trong Chúa nhật III mùa chay này, Nước là chủ đề chính. Bởi thế ta thấy Chúa Giêsu xuất hiện trong Phúc Am bên cạnh một giếng nước có tên là Giacob. Một nhân vật nữa cũng xuất hiện bên cạnh giếng, đó là một thiếu phụ. Nhưng dường như thiếu phụ bên cạnh giếng nước chỉ để chúng ta hiểu rằng: cuộc đời của thiếu phụ gắn liền với giếng nước này, chị kéo dài cuộc sống là nhờ ở giếng vì ngày nào chị cũng phải đến giếng này để lấy nước. Chị với giếng như trở thành một, lòng giếng và tâm hồn của chị giống nhau. Nước giếng xoa dịu cơn khát nhưng chỉ xoa dịu trong chốc lát. Chị vẫn phải ngày ngày đến với giếng để cơn khát được xoa dịu và cuộc sống được kéo dài dù biết rằng nó chỉ có thể kéo dài trong chốc lát. Con người đói khát những nhu cầu vật chất mà dường như chẳng bao giờ thấy đủ. Hơn thế nữa, con người còn cảm thấy trong chính mình một cái đói khát khác, đó là đói khát hạnh phúc tinh thần. Người thiếu phụ kia, dù đã năm sáu đời chồng mà vẫn chưa hiểu hạnh phúc gia đình, hạnh phúc của hôn nhân là gì. Đói khát những nhu cầu vật chất, đói khát hạnh phúc tinh thần dường như chỉ có thể xoa dịu trong chốc lát mà thôi, vì con người mang trong mình cái đói khát khác thẳm sâu hơn, đó là đói khát tâm linh. Bên cạnh giếng nước của đời mình, người có thời gian để tâm suy nghĩ nhận ra rằng: chẳng gì có thể lấp đầy giếng nước của lòng mình. Chính vì thế, khuôn mặt hiền từ của Chúa Giêsu xuất hiện ngay bên giếng nước như một lời giải đáp hết sức diệu kỳ. Chỉ có niềm tin vào Ngài và yêu mến Ngài mới có thể lấp đầy những khát vọng đang cháy bỏng tận đáy giếng của lòng người. Ngài mới là Nước thật, Nước Hằng Sống, Nước Vĩnh Cửu.

Chúa Giêsu ngồi bên cạnh giếng nước tức là bên cạnh tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúng ta sẽ dễ nhận ra sự thật này: chúng ta sẽ chẳng bao giờ no thỏa nếu chỉ cậy vào nguồn tài nguyên có trong giếng nước của đời mình, trong thân phận kiếp người của mình. Nhưng chỉ bao giờ chúng ta đặt niềm tin vào Ngài, mến Yêu Ngài thì lúc ấy chúng ta sẽ thấy ngay tại lòng chúng ta, Nước Trường Sinh bỗng vọt lên và đem lại cho ta hạnh phúc muôn đời. Đó mới là hạnh phúc thật.

 

87.             Hãy đến giếng Giêsu để kín múc nước trường sinh

(Suy niệm của Huệ Minh)

 

Trang Tin Mừng gợi lại cho ta hình ảnh Chúa Giêsu đến xin nước một phụ nữ Samari. Người phụ nữ đi kín nước uống, nghĩa là chị đang thực hiện một sinh hoạt hằng ngày và rất tình cờ gặp người đàn ông Do Thái. Vậy có hay không có khả năng: Chúa ngồi tại bờ giếng Giacóp để đón chờ chị ta? Đây là một điều cấm kỵ đối với người Do Thái: «Người Do Thái không được giao thiệp với người Samari» (Ga 4,9).

 

Khi chị nghe Đức Giêsu nói: “Chị cho tôi xin chút nước uống!”, về tâm lý, tất nhiên chị “bị bất ngờ”, vì “người Do Thái không được giao thiệp với người Samari”. Chị đâm ra bối rối xen lẫn cảm giác thích thú với suy nghĩ “mình đang được một người đàn ông Do Thái (vốn đầy kiêu hãnh) nhờ vả”. Vậy là chị đang ở thế thượng phong, chủ động, ban phát… Câu trả lời của chị đã bộc lộ những cảm xúc trên: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?”

 

Việc tiếp xúc và xin nước của Ngài khiến cho phụ nữ này ngạc nhiên: «Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?».

 

Người phụ nữ này một đức tính hòa nhã và tinh thần cởi mở, bởi nếu không, thì chị đã “xả” vào ông này một mớ những câu khó nghe rồi (khùng, dở hơi… chẳng hạn). Có lẽ chị nghĩ: ‘Ông này khát quá nên nói lộn!’ Và chị bèn đưa ra chất vấn nhằm xác minh:”Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?” và như để thanh minh với Đức Giêsu rằng: Tôi hiểu những điều ông vừa nói về cụm từ “nước hằng sống” nên tôi mới nói thêm câu “Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.” Câu thoại của người phụ nữ lý thú ở chỗ cho ta nhận ra khả năng liên tưởng của chị rất dồi dào; Chị nghe nói về “nước hằng sống”, chị chợt liên tưởng và so sánh hơn kém giữa “Người đang nói với chị” và tổ phụ Giacóp. So sánh giữa nước giếng truyền thống và nước hằng sống.

 

Ta thấy ngay cả các tông đồ cũng ngạc nhiên không kém: «Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ Samari» (Ga 4,27). Không phải chỉ một lần mà khá nhiều lần Đức Giêsu đã vượt ra khỏi những quy định của tập tục xã hội, của tôn giáo, khi mà những quy định này đi ngược lại lương tri hay tình yêu tha nhân. Chính trong bối cảnh đặc biệt này, Đức Giêsu đã mặc khải một chân lý quan trọng: Ngài chính là nguồn mạch nước hằng sống.

 

Lúc Ngài xin chị Samari nước uống là «vào khoảng mười hai giờ trưa», khi các môn đệ Ngài đi mua thức ăn. Chỉ có một mình Ngài với chị. Bình thường các phụ nữ ra giếng chung của làng để múc nước vào ban sáng hoặc ban chiều cho đỡ nắng, riêng chị lại múc vào ban trưa.

 

Đọc tiếp đoạn Tin Mừng ta sẽ biết lý do: chị không phải là một phụ nữ đàng hoàng về mặt luân lý; chị đã có 5 đời chồng và hiện đang sống với một người không phải là chồng mình (x. Ga 4,16-18). Chắc hẳn chị không muốn chường mặt ra vào lúc đông người, sợ phải nghe những lời dị nghị không hay về mình. Thế mà Đức Giêsu lại chọn chị để mặc khải những chân lý quan trọng: việc thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật, nước hằng sống, đồng thời tỏ cho chị biết Ngài chính là Đấng Cứu Thế…

 

Và chị đã trở thành người loan báo Tin Mừng cho cả làng của chị, khiến cho «có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng» (Ga 4,39). Thật là lạ lùng cách làm việc của Ngài. Ngài không chọn người đàng hoàng, đạo đức để loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Ngài, mà lại chọn một phụ nữ bị mọi người khinh bỉ và coi là tội lỗi. Mà lại hữu hiệu! thế mới tài tình!

 

Nhân việc xin nước, Đức Giêsu giải thích cho chị hiểu thêm về điều Ngài đã nói về “nước hằng sống” với chủ điểm so sánh hơn kém rất rõ: “Ai uống nước (giếng) này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Có nghĩa là so sánh giữa “nước uống để giải khát và nước uống không để giải khát. Thứ nước tôi cho có đặc tính là sẽ làm cho “nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” Có nghĩa là nếu Đức Giêsu ban cho chị loại nước ấy thì “chính chị là người sở hữu nguồn nước hằng sống ấy”, vậy thì còn gì bằng! Thứ nước mà Ngài Giêsu cho chị còn có thể ban cho chị “sự sống đời đời”.

 

Nước là một yếu tố tối cần thiết cho sự sống, đến nỗi có thể nói: chỗ nào không có nước thì không thể phát sinh sự sống, và sự sống không thể tồn tại được. Ai cũng phải uống nước mới sống được. Trong cơ thể con người, nước chiếm tới 72% trọng lượng. Nhưng thứ nước vật chất này cứ phải uống hoài, vì «ai uống nước này, sẽ lại khát». Đức Giêsu đã dựa vào tính chất này của nước vật chất để giới thiệu một thứ nước khác: «Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời». Chị Samari tưởng rằng Ngài muốn nói đến một thứ nước vật chất khác, uống vào thì không còn khát nữa, nhưng không phải. Ngay cả thứ nước trong câu «ai uống nước này, sẽ lại khát» cũng là một thứ nước theo nghĩa bóng.

 

Con người ai cũng khao khát hạnh phúc, thứ hạnh phúc đích thực và lâu bền. Và người trần, ai cũng đi tìm những phương tiện giúp mình hạnh phúc. Người thì tìm hạnh phúc trong tiền bạc, kẻ tìm trong quyền lực, người khác tìm trong vui thú xác thịt, v.v…

 

Nhưng hạnh phúc tìm được nơi những thứ ấy rất chóng qua, và thường để lại hậu quả là đau khổ. Người nghèo cảm thấy khổ vì thiếu tiền, nên nghĩ rằng phải có nhiều tiền mới hạnh phúc. Nhưng người có tiền lại khổ vì tiền như người ta vẫn nói: «Người giàu cũng khóc», «tiền không đem lại hạnh phúc». Người không con cái thì lấy đấy làm khổ và cho rằng phải có con mới hạnh phúc được; đến khi có con thì lại khổ vì con, do nó bất hiếu, hư đốn, bệnh tật, hoặc nó không theo ý mình.

 

Vì thế, chẳng mấy ai trên đời được hạnh phúc. Thứ hạnh phúc mà trần gian này cung cấp toàn là như vậy: hạnh phúc đấy, mà đau khổ cũng đấy! Nhiều điều của trần gian hôm trước đem lại hạnh phúc thì ngay hôm sau đã đem lại đau khổ!

 

Trần gian chỉ có thể cung cấp cho ta thứ hạnh phúc ấy: thứ hạnh phúc không thể thỏa mãn được lòng khao khát vô tận của con người, thứ hạnh phúc kiểu «uống rồi lại khát». Nhưng Đức Giêsu giới thiệu một thứ hạnh phúc mà Ngài có thể cung cấp là thứ hạnh phúc theo kiểu «uống vào sẽ không bao giờ khát nữa». Đó không phải là một cái gì vật chất có thể trao được, mà là một lối sống, một con đường sống, một tinh thần sống phải đem ra thực hành. Đó chính là sứ điệp Tin Mừng mà Ngài đã rao giảng và sống trọn vẹn suốt đời Ngài.

 

Thật sự rất nhiều người thật sự sống theo sứ điệp này đã cảm thấy hạnh phúc thật sự, thứ hạnh phúc không ai lấy mất được, cho dẫu họ có phải sống trong nghèo đói, túng thiếu, tù tội, tra tấn, hay bị gạt ra ngoài lề xã hội. Và người nào đã có được thứ hạnh phúc ấy, thì một cách tất yếu người ấy sẽ trở thành «một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời».

 

Từ việc Đức Giêsu và người phụ nữ Samari có một mối quan tâm chung là nước giếng. Chúa đã mở rộng phạm trù nước giải khát thành “nước hằng sống”. Từ đây, Chúa lại dẫn chị đến khái niệm “sự sống đời đời”. Ôi lạy Chúa! Thầy Vĩ Đại của chúng con, chỉ cần ba câu nói của Chúa mà đã khai lối nhìn của một người bình thường đang lom khom nhìn mặt đất bỗng nhiên đi vào triết học, tâm trí nghĩ đến đời sống vĩnh cửu, mơ sự sống đời đời.

 

Ta đặt lại đời ta và ta nhìn lại ta đã theo Đức Giêsu bao năm rồi? Nhưng chúng ta đã thật sự hạnh phúc chưa? Nếu chưa, thiết tưởng chúng ta cần phải xét lại và thay đổi cách theo Ngài của chúng ta. Có thể ta chưa hiểu được đúng đường lối của Ngài, hay chưa có được tinh thần của Ngài, hay chưa thật sự sống đúng đường lối của Ngài. Biết bao người đã theo Ngài và đã cảm thấy thật sự hạnh phúc suốt cuộc đời trần gian đầy biến động này. Vậy tại sao ta chưa hạnh phúc?

 

88.             Ta khát! – Huệ Minh

Trang Tin Mừng Chúa nhật III Mùa Chay tới đây quả là tuyệt vời và để lại cho ta nhiều tâm tư suy nghĩ.

 

Chúa Giêsu, nhân câu chuyện bên bờ giếng nước Giacob và với cơn khát của thể xác đã gợi lên cơn khát của linh hồn, cơn khát Nước Hằng Sống chứ không phải là khát của cơ thể. Giản đơn, cơn khát của cơ thể dù được đáp ứng nhưng cũng chỉ tạm thời, chỉ cho cơ thể nhưng cơn khát Tâm Linh vẫn còn.

 

Con người có hay nói cách khác là sở hữu thể xác và tâm linh đời mình. Và rồi, nhiều lần nhiều lúc trong cuộc đời, con người chỉ chạy theo, chỉ tìm và có thể là giành giật, chụp giựt để thỏa mãn cơn khát của cơ thể mình, của ham muốn xác thịt mà quên lãng đi điều cần tìm nhất đó chính là cơn khát của Tâm Linh, cơn khát Nước Hằng Sống.

 

Chính Chúa Giêsu, trong thân phận làm người, Chúa Giêsu vẫn khắc khoải và vẫn khát cho đến giờ phút cuối cùng trên cây thập giá về Chúa Cha, về Nước Hằng Sống của đời mình. Hẳn, Chúa Giêsu cũng bị giằng co là bước xuống cây thập tự để thỏa mãn cơn khát của con người nhưng cũng bị giằng co chấp nhận vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự.

 

Cuối cùng, Chúa Giêsu cũng đã chiến thắng nhờ kết hợp với Thần Khí và Ngài đã phó thác đời mình trong tay Thần Khí.

 

5 đời chồng của người đàn bà bên bờ giếng Giacob cũng không làm thỏa mãn cơn khát đời đời của bà.

 

Quyền lực phủ vây con người vẫn không làm thỏa mãn được cơn khát đời đời của mỗi người.

 

Dẫu quyền lực như một đức giám mục của Giáo Phận cũng phải khép lòng bàn tay lại và lại phải mở lòng ra để xin Chúa là Cha cho mình thỏa mãn cơn khát của Thần Linh.

 

Còn nhớ tâm tình rất hay của linh mục đại diện linh mục đoàn tâm tư trước linh cữu Đức Cố Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống: “…Và trước linh cửu Ðức Cha hôm nay, đoàn con Phan Thiết xin nguyện hứa đón nhận Di Sản của Ðức Cha để lại, là “sống khó nghèo, hiền lành, khiêm nhượng, kết hiệp khổ đau với Chúa Giêsu, yêu mến Mẹ Maria, và chết đời mình đi vì hạnh phúc của mọi người”.

 

Chúng con xin tạ ơn Chúa. Chúng con xin hết lòng cảm ơn Ðức Cha. Chúng con xin Ðức Cha tha lỗi. Và cuối cùng, xin Ðức Cha cầu bàu cho Giáo phận Phan thiết nơi tòa Chúa, để đoàn chiên của Cha mỗi ngày thêm tuổi lớn, thêm khôn ngoan, thêm xinh đẹp nhờ biết noi gương nhân đức sáng ngời của Ðức Cha”.

 

Sự qua đi của một bậc vị vọng trong Giáo Hội, sự khép lại của một quyền lực mà Thiên Chúa đặt để nhắc nhớ cho ta cơn khát thật sự của cuộc đời này.

 

Ngày hôm nay, mỗi người chúng ta cũng không tránh khỏi cơn khát của thể xác nhưng rồi cũng không tránh khỏi cơn khát của linh hồn. Nhưng, đứng trước cùng đích của cuộc đời, ta hãy lắng đọng và trả lời thật tâm với Chúa rằng ta khát và ta khác cái gì?

  • Ta khát Thiên Chúa hay ta khát quyền lực thế gian?
  • Ta khát Thiên Chúa hay ta khát tiền bạc thế gian?
  • Ta khát Thiên Chúa hay ta khác tình cảm chóng qua trần tục của cuộc đời?
  • Ta khát tìm vinh quang Thiên Chúa hay ta khát tìm vinh quang của đời ta?

Xin cho mỗi người chúng ta nhìn đến cùng đích của cuộc đời con người, nhìn đến sự ra đi của các đấng các bậc trong Hội Thánh hay ngoài Hội Thánh để nhìn ra căn tính thật sự của kiếp người để yêu thương nhau hơn, hiệp nhất với nhau hơn chứ không phải tranh giành quyền lực của nhau và với nhau. 

Xin Chúa Giêsu là Đấng chịu đau khổ trong cuộc khổ đau cực đỉnh của phận người cho ta thấu hiểu quyền lực thực sự mà con người cần tìm, cơn khát cùng đích mà con người phải tìm.

=> Tài liệu dạng Word, xin nhấn vào đây để tải về máy