Các bài suy niệm Chúa Nhật 5 thường niên – C

04/02/2022

CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN C

Lời Chúa: Is 6,1-2a.3-8; 1Cr 15,1-11; Lc 5,1-11

1. Chinh phục người khác

– Đừng sợ, từ nay các con sẽ là những kẻ chinh phục người ta.

Chúa Giêsu vừa mới truyền dạy Phêrô như thế, tuy nhiên qua đó, chúng ta có thể rút ra một bài học quí giá.

Vào một buổi sáng, đang khi các môn đệ giặt lưới, Chúa Giêsu xuống thuyền và đứng đó giảng dạy cho đám đông. Khi đã kết thúc, Ngài bảo Phêrô:

– Con hãy ra khơi và thả lưới.

Đây là một lệnh truyên vô lý dưới mắt Phêrô. Thực vậy, Chúa Giêsu sinh ra tại Bêlem, lớn lên tại Nagiarét, kiếm ăn bằng nghề thợ mộc, không phải là người sống bên sóng nước nơi biển hồ Giênêgiarét, nên chẳng có chút kinh nghiệm nào về chài lưới.

Còn Phêrô, với mười mấy năm lăn lộn trong nghề, ông biết rất rõ: ra khơi và thả lưới giữa ban ngày ban mặt như thế này, thì chẳng hy vọng chút nào. Hơn nữa, suốt cả một đêm Phêrô và các bạn đã vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào. Nếu ra khơi vào lúc này, thì chỉ chuốc lấy mệt mỏi vào thân mà thôi. Đúng là dạ tràng xe cát biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì. Thế nhưng, Chúa Giêsu có lẽ muốn thử thách vị thủ lãnh tương lai của Giáo Hội, xem Phêrô có biết vâng lời và tin tưởng vào Ngài hay không ?

Sau một lúc do dự, Phêrô đã lấy lại bình tĩnh vì biết rằng đây là lệnh truyền của Chúa, cho nên phải thi hành mà chẳng cần đặt điều kiện hay đưa ra những câu hỏi và thắc mắc. Nghĩ vậy, Phêrô đã thưa lên cùng Chúa:

– Lạy Thày, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà chẳng được gì cả, nhưng vâng lời Thày, chúng con sẽ ra khơi và thả lưới.

Phần thưởng lớn lao cho niềm tin tưởng ấy là    gì ?  Đó là một mẻ cá thật bất ngờ đến nỗi cả hai ghe phải chở đầy, mà theo lẽ tự nhiên sẽ chỉ là một mẻ lưới luống công vô ích. Trước sự kiện lạ lùng ấy, Phêrô đã quì xuống và thưa lên cùng Chúa:

– Lạy Thày, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.

Phép lạ này đã để lại một dấu ấn sâu xa trong tâm hồn Phêrô và đã chuẩn bị cho sứ mạng tương lai của ông trong Giáo Hội. Đúng thế, Phêrô sẽ không còn thả lưới trên mặt biển hồ nữa, nhưng cùng với các bạn đồng nghiệp, ông sẽ ra đi chinh phục thế gian về cho Chúa Giêsu, như lời Ngài truyền dạy:

– Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chinh phục người ta.

Nhưng để chu toàn một bổn phận, một trách nhiệm cao cả và nặng nề như thế,  Phêrô phải có một lòng khiêm tốn và tin tưởng hoàn toàn vào Chúa:

– Hãy chuẩn bị cho một sứ mạng siêu việt ở ngoài tầm tay và khả năng của con. Hơn một lần con đã thất bại, đã vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào. Con hãy ý thức sự yếu đuối của con, nhưng đồng thời phải can đảm và tin tưởng vào Ta. Ta sẽ ở bên con. Ta là ai thì con đã biết. Ta là Thiên Chúa quyền năng. Ta là Đấng cả đất trời và muôn loài đều phải vâng phục. Ta sẽ chúc lành cho những cố gắng của con, nhờ đó con sẽ gặt hái được những thành quả tốt đẹp.

Chính phép lạ này, một lần nữa đã xảy ra cho cuộc đời của Phêrô. Thực vậy, tự bản chất, Phêrô chỉ là một người thuyền chài quê mùa, dốt nát và nhát đảm. Thế nhưng, Phêrô đã vâng lời Chúa, lên đường truyền giáo và đã đem về cho Chúa một mẻ cá lạ lùng, đó là những tâm hồn tin vào Phúc âm. Chắc chắn Phêrô đã nhiều lần suy nghĩ về bài học thấm thía này, nhất là vào những năm tháng cuối đời.

Đúng thế, Phêrô đã tới Rôma vào thời bạo vương Nêron, giữa lúc cơn bách hại đang nổi lên như cuồng phong vũ bão. Ông đã bị bắt, bị tống giam và sau cùng bị đóng đanh vào thập giá, đầu ngược xuống đất trên ngọn đồi Vatican. Thế nhưng, ngày hôm nay trên phần mộ của ông, một ngôi đền thờ nguy nga và lộng lẫy nhất đã được xây dựng và mang tên ông: Đền thờ thánh Phêrô.

Bài học của Phêrô cũng là bài học của mỗi người chúng ta: hãy kiên nhân và tin tưởng vào Chúa. Đứng trước những thất bại đắng cay, nhiều người đã phàn nàn và kêu trách Chúa, để rồi đi tới chỗ tuyệt vọng, vì họ nghĩ rằng Chúa đã ngoảnh mặt làm ngơ, thậm chí còn bịt tai không còn nghe tiếng họ kêu xin. Thế nhưng, họ đã lầm. Hãy bình tĩnh và tự vấn lương tâm xem: chúng ta đã hành động một mình hay là đã hành động với Chúa ?  Tự sức riêng, chúng ta sẽ chuốc lấy thất bại như lời Chúa đã phán:

– Không có Thày, các con chẳng làm gì được.

Hãy biết bắt đầu lại trong niềm cậy trông vào Chúa, nhất là trong lãnh vực hoạt động tông đồ.

Thực vậy, sứ mạng tông đồ là sứ mạng chung của mọi người tín hữu, bởi vì đã là phần tử của Giáo Hội, chúng ta có bổn phận làm cho nhiệm thể Đức Kitô được phát triển và lớn lên. Tuy nhiên, phương pháp tuyệt diệu nhất bảo đảm cho những thành quả tốt đẹp, chính là kiên nhẫn và tin tưởng vào Chúa.

Đúng thế, tục ngữ Việt Nam đã nói:

– Có công mài sắt, có ngày nên kim.

– Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo.

– Chớ thấy sóng cả mà lo,

  Sóng thời mặc sóng, chèo cho có chừng.

Sự kiên nhẫn chính là một bí quyết dẫn tới thành công. Một Augustinô đã trở lại nhờ vào đâu, nếu không phải nhờ vào những lời cầu nguyện liên tục và những giọt nước mắt khổ đau của người mẹ hiền là thánh nữ Monica.

Cùng với sự kiên nhẫn, chúng ta hãy đặt trót niền tin tưởng cậy trông vào Chúa. Chúng ta hãy ý thức mình chỉ là một đầy tớ vô dụng, một dụng cụ tầm thường, chính Chúa mới là Đấng làm nên kết quả. Một Saulô hung dữ, thế mà chỉ trong nháy mắt, Chúa biến đổi để trở nên một Phaolô nhiệt thành, một vị tông đồ dân ngoai.

Mỗi người chúng ta đều có thể và phải trờ nên một vị tông đồ, một kẻ chinh phục người khác về cho Chúa Giêsu, miễn là chúng ta biết kiên nhẫn và tin tưởng và Chúa.

Cầu nguyện

Lạy Chúa, đã hai ngàn năm trôi qua, thế mà vẫn còn biết bao nhiêu người chưa được đón nhận tin mừng của Chúa. Và như vậy, lệnh truyền của Chúa ngày xưa vẫn còn vang vọng bên tai chúng con: hay ra khơi và thả lưới. Xin cho mỗi người chúng con, bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, góp phần nhỏ bé vào công cuộc truyền bà đức tin của Giáo Hội.

 

2. Vâng lời Thầy con thả lưới – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa, dù chưa biết gì về đạo Thiên Chúa, thế mà đã có những lời nguyện thành khẩn trông cậy trời:

“Lạy trời mưa xuống, lấy nước tôi uống,

Lấy ruộng tôi cầy, lấy đầy bát cơm,

Lấy rơm đút bếp”.

Lời van xin đơn sơ mộc mạc đó đã nói lên sự bất lực của mình và nhận ra quyền phép vô cùng của Thiên Chúa, đã tỏ bày lòng thành khẩn của mình và nhận biết lòng thương xót vô biên ban ơn giáng phúc của Thiên Chúa. Quyền phép và tình thương của Thiên Chúa đã làm ra mưa, ra nước, ra ruộng, ra rơm. Giới hạn khả năng của con người ở chỗ biết cầy, biết uống, biết ăn, biết lấy rơm đút bếp.

Thiên Chúa đã làm những việc vĩ đại, những thứ căn bản, những thứ nguồn gốc sinh sự sống cho muôn loài muôn vật. Con người phải biết trông cậy, nương nhờ, tham gia, khai triển để làm ăn, nuôi dưỡng và phát triển sinh sống sao cho đáng lãnh ơn trời, chứ đừng phung phí, phá hoại.

Phaolô trước khi trở lại ông đã hăng hái phá hoại, bắt bớ những kẻ khác. Nhưng nhờ ơn Chúa, ông trở lại đạo Chúa, ông đã tham gia vào công trình cứu độ của Chúa, đã làm việc nhiều hơn tất cả các vị khác, nhưng ông đã thú nhận “thật ra không phải tôi, mà là ơn Chúa nơi tôi”, ông cũng nói: “Tôi gieo, anh em tưới và Thiên Chúa cho mọc lên!”

Isaia cũng nhận vô tài bất lực trước Thiên Chúa: “Thánh! chí Thánh! ngàn trùng chí thánh, Chúa tể càn khôn, cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!”. Ông đã thốt ra: “Khốn thân tôi, chết tôi rồi! Tôi là người môi miệng ô uế”. Nhưng nhờ than hồng là lửa tình thương của Chúa, ơn Thánh thần của Chúa đã thanh tẩy ông, ông đã được sạch, được sai đi làm tiên tri và ông đã mau mắn xin vâng: “Có con đây, xin Chúa sai con đi”.

Đặc biệt hôm nay, Đức Giêsu muốn chúng ta đưa mắt nhìn con thuyền Phêrô với cánh buồm no gió căng phồng lướt sóng, xa dần rồi mất hút giữa biển cả bao la. Phêrô sống với cái nghề vô danh, đầy may rủi và luôn phải vật lộn với giông tố nguy hiểm. Vô danh vì công việc nặng nhọc giữa biển khơi, không ai biết tới. May rủi vì chẳng bao giờ nắm chắc kết quả, thất bát thường xuyên, dù cố gắng vật lộn với nghề nghiệp. Con thuyền lại luôn tròng trành trên sóng nước, bảo tố. Mạng sống con người quá mong manh. Phêrô dầu kiên cường, hăng hái, lạc quan chống đỡ, nhiều lúc phải chán nản, thất vọng thở dài: Suốt đêm kéo lưới cực khổ chẳng được gì!

Đang lúc buồn phiền mệt nhọc đó, Đức Giêsu lại còn đến cậy nhờ lên thuyền để giảng cho dân chúng đông nghẹt đứng trên bờ. Tuy nhiên, Phêrô không quản ngại rước Người lên thuyền. Giảng xong, Người cũng không để Phêrô nghỉ ngơi, lại bảo ông chèo thuyền ra khơi thả lưới bắt cá. Dầu cực nhọc và biết rõ Thầy chẳng bao giờ làm người chài lưới. Còn ông rất rành nghề. Thế mà ông chỉ nói: “Thưa Thầy, suốt đêm chúng con vất vả kéo lưới chẳng được gì; nhưng vâng lời Thầy, con xin thả lưới”. Thật lạ lùng trước lòng tin của Phêrô vào Thầy! chính nhờ đức tin đó, Phêrô đã hiến nhà mình làm trung tâm truyền giáo cho thành phố Caphanaum, và các miền lân cận. Người đã ban cho ông một trung tâm truyền giáo vĩ đại là đế quốc Rôma. Ông đã hiến cho Chúa con thuyền bé nhỏ mong manh. Người đã ban cho ông con tầu Giáo Hội vững chắc dù sức hùng satan vẫy vùng như vũ bão, cũng phải đầu hàng. Ông đã hiến cho Chúa nghề đánh cá, Người đã làm cho ông nên ngư ông trên biển cả trần gian. Ông đã hiến cho Chúa trót cả mạng sống, Người đã ban cho ông được đời sống vinh quang muôn đời. Ông đã hiến tất cả cái tạm thời và ông đã được tất cả cái trường tồn vô cùng. Ông đã hiến cái nhỏ bé trần gian và ông đã được chìa khóa vĩ đại trên trời. Nhờ vâng lời Thầy, ông đã được tất cả.

Việt Nam có câu: “Không thầy đố mày làm nên” – “Nhờ thầy mới được làm thầy”. Loài người với nhau, còn phải cần nhau, nhờ nhau như thế mới nên người. Huống chi loài người với Thiên Chúa, Đấng làm nên mình, dựng nên vũ trụ vạn vật, thì loài người phải cần, phải nhờ, phải cầu khẩn Thiên Chúa biết chừng nào! Thế mà, có kẻ đã cả gan tuyên bố như Nietzsche: Thiên Chúa đã chết rồi, thay trời làm mưa, để họ tự tôn mình lên làm Chúa, làm chủ, để làm mưa, làm gió, tung hoành phá hoại khắp nơi. May thay những hạng đó đã chết rồi!

Nếu biết nhận ra mình quá bé nhỏ, quá bất lực để chạy đến cầu khẩn, vâng theo Thiên Chúa, thì họ đã được cứu sống muôn đời.

Thiên tài vĩ đại bậc nhất nhân loại như Newton hơn cả Descartes, Einstein, thế mà ông chỉ dám nói: “Tôi chỉ là một em bé chơi đùa trên bờ biển và thỉnh thoảng nhặt được một hòn sỏi nhẵn hơn, hoặc một vỏ sò đẹp hơn những cái người ta thường tìm thấy, trong khi đó biển chân lý mênh mông trải ra trước mắt nó, vẫn hoàn toàn bí mật, chưa hề bị xâm phạm”. Càng khiêm tốn, ông càng được thế nhân tôn vinh và nhớ ơn, nên trên bia mộ ông được khắc ghi câu: “Let men rejoice that so great a glory of the human race has appeared”: Loài người hãy hân hoan rằng một vinh quang lớn lao bậc ấy của nhân loại đã xuất hiện” (Nguyễn hiến Lê: Gương Hy Sinh – tr. 7).

Isaia cũng đã kêu lên: Khốn thân tôi, chết tôi rồi và được Thiên Chúa cho làm tiên tri vĩ đại. Phaolô đã thú nhận “Tôi là người hèn mọn nhất trong các tông đồ” và đã được ơn Chúa giúp cho làm việc nhiều hơn tất cả các vị khác. Phêrô đã sấp mình dưới chân Đức Giêsu và van xin: “Lạy Thầy, xin tránh xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi”. Và đã vâng lời Thầy đi thả lưới được muôn linh hồn về cho Chúa.

Lạy Chúa, xin cho con hết lòng khiêm tốn vâng lời Chúa ra khơi biển đời để thả lưới, cho lưới con được đầy bạn hữu biết khẩn cầu và tôn vinh Chúa. Amen.

 

3. Dám một lần nữa

Có những người đã xả thân nhiều cho Giáo Hội hay cho giáo xứ hoặc để cung cấp một nền giáo dục tốt nhất cho con cái họ, và sau nhiều năm cố gắng họ đã thất vọng, chua xót và ngã lòng. Họ có cảm tưởng như đã làm việc luống công. Họ không thấy xuất hiện những hoa quả tốt đẹp mà lẽ ra công việc của họ phải làm nảy sinh. Và thậm chí thường là điều trái ngược đã xảy ra ! những gì họ đã rất vất vả xây dựng đều sụp đổ; những gì tốt nhất họ đã cho con cái họ, thì chúng ta lại vứt bỏ đi.

Phải, những con người mà hôm qua đầy hăng say phấn khởi thì nay lại ủ rũ, buồn sầu! và có lẽ chúng ta cũng thuộc vào số những người ấy. Vậy thì chúng ta hẵy chăm chú nghe lời kinh thánh nói với chúng ta hôm và để cho những lời ấy thấm sâu vào lòng chúng ta. Những lời này có thể gây nên niềm phấn khởi hoặc thoa dịu cõi lòng và trợ giúp chúng ta nhiều. 

Sự mệt mỏi của thánh Phêrô.

Không khó khăn gì nếu chúng ta muốn nhận ra một chút kinh nghiệm bản thân trong kinh nghiệm mà thánh Phêrô tông đồ đã trải qua. Suốt đêm ông thả lưới. Hàng chục và hàng chục lần ông đã quăng lưới xuống hồ, nhưng không được gì cả. Không bắt được một con cá nào.

Biết bao nhiêu lần chúng ta đã đọc đi đọc lại cũng những cử chỉ đó, làm đi làm lại cũng những cố gắng đó, nói đi nói lại những lời đó, mà không bao giờ đạt được những điều mình muốn. Không lạ gì sau bao nhêu cố gắng chẳng mang lại kết quả chúng ta kiệt sức rồi và sự mệt mỏi đã xâm chiếm chúng ta hoàn toàn. Không còn chút hy vọng nào nữa.

Tuy nhiên, vì chính Chúa Giêsu yêu cầu, nên một lần nữa Phêrô lại ra khơi thả lưới. Một lần nữa ông làm điều mà ông không muốn làm chút nào cả. Và chính lần đó đã đem lại kết quả. Lưới đầy muốn rách.

Ta hãy nhớ bài học này: những gì tự sức mình chúng ta không làm được, thì chúng ta có thể làm được với sự cộng tác của Chúa. Thường thường, khi con người mệt nhọc nhất, họ họ sắp hỏ cuộc, thì Chúa xuất hiện và ban ơn can đảm cần thiết đẩ một lần nữa họ tiếp tục công việc. 

Sự đổi mới của ngôn sứ Isaia và thánh Phaolô.

Sau khi xem xét ngắn gọn kinh nghiệm của thánh Phêrô, ta hãy xem kinh nghiệm của ngôn sứ Isaia và thánh Phaolô tông đồ. Nó rất đáng cho chúng ta quan tâm tìm hiểu. Isaia rất thành thật tuyên bố: “Lạy Chúa, cong không thể nói nhân danh Chúa được. Con không xứng đáng làm ngôn sứ của Chúa”. Thánh Phaolô cũng Không kém thành thật khi người viết: “Tôi là kẻ rốt trong các tông đồ. Tôi không xứng đáng được gọi là tông đồ…Thậm chí tôi là một đứa sinh non”.

Ta biết điều gì sẽ xảy ra cho hay vị này. Cả hai đều được ơn của Chúa thanh tẩy và biến đổi. Cả hai sẽ trở thành những chứng nhân xuất sắc của Thiên Chúa.

Nơi đây nữa có một bài học ta cần đón nhận: dù chúng ta là ai, bất chấp những giới hạn và yếu đuối của chúng ta, chúng ta vẫn là quí báu trước mắt Thiên Chúa, va dều có thể được ân sủng của Ngài biến đổi.

Thánh Phaolô nói: “Những gì tôi đã trở thành, chính là nhờ ơn Chúa mà tôi được như vậy”. Isaia sẽ trả lời Thiên Chúa khi Ngài đang tự hỏi sẽ sai ai đi làm sứ igả cho Ngài: “Lạy Chúa, xin hãy sai con, con sẽ là sứ giả của Chúa”. Thánh Phaolô và Isaia, hai con người được đổi mới. 

Những biến cố có ý nghĩa đối với chúng ta.

Nếu xem những biến cố này như là những biến cố đã qua, không có ý nghĩa cụ thể đối với chúng ta thì đó là sai lầm. Trái lại, nếu những biến cố ấy được nhắc lại cho chúng ta là vì chúng soi sáng con đường của chúng ta hôm nay.

Nếu, như thánh Phêrô, chúng ta dám một lần nữa thả lưới xuống hồ… Nếu, như ngôn sứ Isaia và thánh Pholô, chúng ta quay về Chúa và tin tưởng nơi Ngài, thì không gì – thật sự không gì – ngăn cản chúng ta có được kinh nghiệm giống như các Ngài. vì Thiên Chúa không thay đổi. Ân sủng mà trước kia Ngài đã ban cho vẫn là một ơn luôn luôn được ban lại cho người nào một lần nữa…. Ơn này sẽ được ban lại cho người nào một lần nữa lại thả lưới…Người nào để cho Ngài gặp gỡ và biến đổi. Ta chớ nghi ngờ: kinh nghiệm cảu Thánh Phêrô, của thánh Phaolô, của ngôn sứ Isaia có thể là kinh nghiệm của chúng ta.

 

4. Chúa gọi các Tông Ðồ

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa – của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Tiếp tục chương trình của những Chúa nhật mở đầu mùa Thường Niên day dỗ chúng ta về những bước đầu trong cuộc đời truyền đạo của Chúa Giêsu, bài Tin Mừng Luca hôm nay nói đến việc Chúa chọn những tông đồ đầu tiên. Bài Cựu Ước được dùng để báo trước vấn đề này là đoạn sách Isaia kể lại việc Chúa gọi nhà tiên tri. Các tông đồ ngày nay ở trong Hội Thánh tiếp nối công việc của những người được Chúa chọn trong Cựu Ước cũng như Tân Ước.

Thế nên bài Thánh Thư nói họ phải rao giảng giáo lý nào cho trung thành với truyền thống. Như vậy, Chúa nhật hôm nay đáng gọi là ngày ơn gọi. Chúng ta xem Chúa đã gọi chúng ta như thế nào để chúng ta biết phải sống thế nào cho xứng đáng với ơn gọi ấy.

1. Chúa gọi Isaia

Chúng ta đều biết những câu đầu chương VI sách Isaia. Nhà tiên tri kể lại ơn gọi của mình. Năm ấy Ôzya, vị vua thứ 10 của Israen mới thăng hà. Ðó là điềm không tốt cho quốc gia này. Vì Ôzya, cũng có tên là Azarias, là một vị vua đạo đức. Dưới triều đại ông, Israen không những thái bình, mà còn ghi vào lịch sử một số chiến thắng. Ông thăng hà, có nghĩa là thời vận Israen bắt đầu thay đổi. Sách Isaia nói đến thế lực của Assyria phương bắc đang dần dần kéo xuống gần bờ cõi Israen. Người ta run sợ trước kỵ binh và tên nỏ. Nhưng chính những lúc ấy, Chúa lại tỏ ra thương dân lạ lùng. Người sai đến cho họ những người sẽ nói nhân danh Người.

Isaia được ơn gọi vào năm ấy, năm 740 trước Ðức Giêsu ra đời. Ông đang ở trong đền thờ. Bỗng dưng ông thấy Chúa hiện ra ngự trên ngai, có áo choàng phủ khắp đền thờ. Lại có những Sêraphim chầu hầu. Và có tiếng tung hô: “Thánh, thánh, thánh, Chúa các đạo binh, khắp đất đầy tràn vinh quang Người”. Rồi mộng cửa rung rinh, nhà nghi ngút khói.

Có thật Isaia đã thấy như vậy không? Hay đây là những nét tả đầy tính cách thần học? Dù sao quang cảnh này cũng có nhiều ý nghĩa. Trung thành với truyền thống không bao giờ dám mô tả chính Thiên Chúa, – vì mắt phàm thấy sao được long nhan Người? ở đây tác giả nói đến những sự chung quanh Thiên Chúa hơn là diễn tả chính Người. Việc Người ngự trên ngai và có áo choàng trải khắp đền thờ chứng tỏ Người là vị hoàng đế cao cả, làm cho những kẻ đang sợ danh tướng của vua Assyria đến, được an tâm bình tĩnh lại. Và việc có các Sêraphim chầu hầu quanh ngai còn nói lên hơn nữa rằng Chúa trổi vượt hơn các thần dân xâm lược. Là vì ở Assyria người ta sợ hãi sùng bái các Sêraphim, đang khi ở đây chúng chỉ đáng bậc tôi tớ.

Và khác với thần thánh ở Assyria chỉ là những ngẫu tượng kính nhi viễn chi, tức là phải sợ hãi tôn thờ để khỏi bị oán trả, Thiên Chúa của Isaia trải vinh quang Người khắp cả mặt đất. Và tuy là Ðấng Thánh và ngàn trùng chí thánh, siêu việt ngàn lần đối với tạo vật… Người là Ðấng Thiên Chúa ở liền với các đạo quân của dân Người, và Người can thiệp vào lịch sử để mặt đất đầy vinh quang Người.

Hôm nay Người hiện ra với Isaia khác nào hôm Người ngự xuống trên núi Sinai: Có đất động và mây khói phủ đầy.

Tự nhiên Isaia phải sợ. Nhưng đây là một sự sợ tinh thần, khác hẳn sự sợ nô lệ. Isaia thấy Ðấng Thánh chiếu cố đến mình. Ông thấy mình bất xứng. Sự sợ của ông nói lên ý thức tội lỗi của con người ở giữa dân tội lỗi. Ông cầu cứu ơn cứu độ. Và ông đã được nhận lời. Vị thần sứ đã gắp một cục than hồng trên bàn thờ hương đi đến thanh tẩy môi miệng ông để xóa tội lỗi và biến môi miệng ấy nên xứng đáng cho việc rao giảng Lời Chúa.

Viết lại những dòng chữ này, Isaia khẳng định những quan điểm thần học sâu xa của ông. Mọi người đều là phàm nhân và tội lỗi, không thể cáng đáng những công việc thánh thiện, trước khi được thanh tẩy bằng chính ơn của Chúa, chứ không phải bằng nỗ lực và sự nghiệp của mình.

Có thể vì ý thức đã được thanh tẩy, Isaia chấp nhận ngay đề nghị của Chúa để đi làm tiên tri. Nhưng cũng có thể vì đứng trước một vị hoàng đế cao cả đến nỗi các Sêraphim cũng phải ngoan ngoãn chầu hầu, ai mà dám không mau lẹ thi hành ý muốn của Người.

Dù sao Isaia cũng đã hân hoan lãnh nhận sứ mạng tiên tri vì tất cả quang cảnh ông vừa thấy đầy khích lệ cứu độ. Israen không còn phải lo quân xâm lược nữa. Thiên Chúa là hoàng đế cao cả, siêu việt vượt hẳn vua chúa Assyria. Người điều khiển cả các Sêraphim của nước ấy. Người thánh thiện thật nhưng không ở xa dân. Người sẽ làm cho mặt đất đầy vinh quang Người. Và trước hết Người sẽ thanh tẩy, xóa bỏ tội lỗi cho chúng ta, để chúng ta nên tông đồ tiên tri rao giảng tin mừng cho các dân tộc.

Như vậy, bài sách Isaia rất nhiều ý nghĩa. Tuy nhiên phụng vụ hôm nay cũng chỉ dùng để đưa chúng ta vào bài Tin Mừng. Vì ở đây sẽ có những sự thực cụ thể hơn và nhất là có tầm mức phổ cập và luôn luôn hiện đại. Chúng ta hãy xem.

2. Chúa Gọi Các Tông Ðồ

Thánh Luca không xác định hôm ấy là ngày nào. Có lẽ tính cách “không có thời gian” rõ rệt này thuận lợi hơn để nói đến những công việc luôn có giá trị hiện đại.

Tác giả thoạt tiên cho chúng ta thấy một quang cảnh khác hẳn với những gì Isaia đã nhìn thấy. Ở đây là bờ hồ Giênêzaret chứ không phải là tại đền thờ Giêrusalem. Quang cảnh cởi mở này hợp với tinh thần truyền giáo và công giáo của sách Phúc âm Luca hơn. Nhưng tuy ở trên bờ hồ, Ðức Giêsu vẫn không thiếu vẻ oai phong cao cả, vì quần chúng xán lại bên Người và chăm chú muốn nghe Lời Người dạy dỗ… Người thấy có hai chiếc thuyền bỏ neo gần đó. Không một người nào ở trên hai chiếc thuyền ấy vì những người đánh cá đã xuống cả rồi và đang giặt lưới.

Ðó là hình ảnh những cái ngai đang còn trống. Ðức Giêsu lên chiếc thuyền thuộc về Phêrô và truyền đẩy ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống phán dạy quần chúng đang đứng trên bờ.

Rõ ràng Luca muốn cho những bức họa có phần oai phong như lại sống động. Một Ðức Giêsu ngồi một mình trên thuyền nhìn xuống quần chúng dưới bờ mà phán dạy họ những điều cao cả, cũng có Ðấng “Thánh” đang can thiệp vào thế gian. Chúng ta có thể nói Chúa trong điện thờ mà Isaia đã nhìn thấy, nay đang ở giữa loài người. Người ở gần chúng ta mà vẫn không mất vẻ siêu vời, Người muốn đem tinh thần và sức mạnh thần linh của Người vào thế gian.

Người bảo Phêrô: “Hãy chèo ra khơi thả lưới mà bắt cá”. Làm sao ông có thể không vâng lời? Chúng ta có thể thấy ông đã tức khắc sửa soạn hành trang. Nhưng đồng thời ông đã thành thật thưa: Ðêm vừa rồi ông không bắt được gì cả, nhưng Thầy đã dạy, ông xin làm theo. Phản ứng của ông rất thành khẩn. Nó vừa nói lên đức vâng lời và niềm tin tưởng, lại vừa báo trước và làm nổi bật phép lạ sắp xảy ra. Cả đêm đã đánh không được cá, huống nữa là lúc này, trời đã sáng.

Thế mà vì lệnh truyền, lưới của Phêrô đã đầy cá, sắp nứt ra rồi. Ông không kéo nổi và phải gọi đồng bạn ở cái thuyền kia đến giúp.

Từ trước đến giờ, Luca chỉ nói đến Giêsu và Phêrô. Tác giả muốn đề cao vai trò của vị tông đồ này ở trong Hội Thánh. Phêrô được ưu tiên trong cái nhìn của Chúa. Sau đó ông mới gọi đồng bạn là Gioan và Giacôbê ở thuyền kia đến giúp.

Thấy mẻ cá lạ lùng này, họ đâm kinh sợ con người đã truyền lệnh cho họ. Phêrô liền bắt chước Isaia, quỳ mọp xuống trước mặt Người, xưng thú thân phận tội lỗi chẳng dám đứng trước long nhan. Nhưng Chúa ôn tồn bảo: “Ðừng sợ, từ nay hãy đi lưới các linh hồn”. Người đã gọi các tông đồ một cách cụ thể hơn Chúa gọi Isaia ngày trước. Các ông sẽ đi làm công việc của các ông vừa làm, nhưng trên bình diện khác. Và công việc của các ông đã được báo trước sẽ kết quả lạ lùng như các ông vừa thấy cá đua nhau chạy vào lưới các ông.

Chúng ta hãy tạ ơn Chúa. Người đã làm những việc cao cả trong cuộc đời của Isaia. Nhưng nơi các tông đồ của đạo mới, Người còn tỏ ra uy quyền và mạnh hơn biết bao. Không những nơi Ðức Kitô, Thiên Chúa đã đến với loài người và ở giữa chúng ta, cụ thể hơn khi Người bày tỏ vinh quang cho Isaia nơi đền thánh, Người còn gọi Phêrô và các tông đồ để Hội Thánh làm cho vinh quang của Người trải ra trên khắp địa cầu.

Tác giả Luca thật ra đã muốn nói lên những điều ấy trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Người viết lại câu chuyện Chúa gọi Phêrô sau khi Ðức Giêsu đã phục sinh và lên trời. Khi ấy đã là thời đại của Hội Thánh. Do đó câu chuyện Người kể nhất thiết phải mang các tính chất Kitô học và Giáo hội học. Ðức Giêsu đã là vua và là Chúa. Hội Thánh đã có Phêrô đứng đầu. Và công cuộc truyền giáo của các tông đồ đang mang lại nhiều kết quả. Nhưng tất cả đã khởi sự ngay khi Ðức Kitô còn tại thế.

Ðưa các hình ảnh về phục sinh đặt lên khoảng thời gian Ðức Giêsu mới xuất thân giảng đạo, tác giả Luca khiến chúng ta tin tưởng nhiều hơn về Hội Thánh hiện nay. Bề ngoài đời sống Hội Thánh như không có gì lạ lùng, nhưng cũng như cuộc đời trần gian của Chúa Cứu Thế, đây chẳng phải là lúc đang chứa chấp nhiều thành quả phong phú trong tương lai sao? Gioan chỉ kể chuyện về mẻ cá lạ sau phục sinh, Luca đặt lên trước phục sinh để đảm bảo thành công rực rỡ cho ơn gọi của các tông đồ và của Hội Thánh. Ta sẽ sống ơn gọi này thế nào?

3. Thi Hành Sứ Mạng Kitô Giáo

Muốn hiểu đoạn thư Phaolô hôm nay, chúng ta cần biết rằng nhiều người trong cộng đoàn Côrintô hồi ấy không tin lắm vào mầu nhiệm xác thịt sau này sẽ sống lại. Họ sống trong nền văn minh Hy Lạp vốn coi rẻ thân xác. Nhiều lý thuyết thời ấy quan niệm thân thế là tù ngục giam hãm linh hồn. Người ta phải mong có ngày ra khỏi chốn tối tăm ấy để được lên nơi tinh thần… Nhiều khi chúng ta không mặc nhiên nghĩ như vậy sao?

Nhưng đó là suy nghĩ rất tai hại, sai hẳn với tin mừng cứu độ. Thánh Phaolô nhắc lại cho người Côrintô biết: Nếu nghĩ như vậy thì đã theo đạo một cách vô ích. Chúng ta không những tin Chúa đã chịu chết, mà đặc biệt hơn, chúng ta tin Người đã sống lại. Có phục sinh, Người mới ban ơn cứu độ, chứ nếu cứ chết mãi thì hỏi Người cứu được ai? Tin điều Chúa sống lại vì thế là nền tảng và khởi điểm của đức tin trong Hội Thánh. Hội Thánh nắm vững niềm tin này vì mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh phù hợp với Sách Thánh; vì Phêrô và đoàn 12 tông đồ đã được nhìn thấy Chúa sống lại; vì cả cộng đoàn tín hữu đã được xem thấy Chúa Phục sinh hiện ra.

Cuối cùng chính Phaolô cũng được Người tỏ mình ra ở trên đường Ðamas. Nhưng dù là Phaolô, Giacôbê, hay Phêrô, mọi tông đồ trong Hội Thánh chỉ có một giáo lý. Ðó là Ðức Giêsu đã chết vì tội lỗi của chúng ta như lời Sách Thánh dạy và Người cũng đã sống lại theo như lời Kinh Thánh nói, để chúng ta có đức tin và được ơn cứu độ.

Thành ra ơn gọi của chúng ta là niềm tin vào Ðức Giêsu tử nạn phục sinh. Ðó là Tin Mừng cứu độ mọi người. Nó phải hướng dẫn đời sống chúng ta. Chúng ta không được bi quan về tương lai, như thể sẽ có sự chết mãi mãi. Ngược lại chúng ta phải lạc quan mạnh mẽ vì sẽ có sự sống lại cho ngay cả thân xác yếu đuối này. Sống niềm tin này một cách cụ thể, chúng ta sẽ trung thành tiếp nối truyền thống của Hội Thánh không những từ thời các tông đồ mà có thể nói ngay từ thời các tiên tri. Isaia trong bài đọc một hôm nay chẳng hạn đã nhìn thấy ơn gọi của mình rất lạc quan trong tình hình đáng run sợ của đất nước. Luca khẳng định ơn gọi của các tông đồ nhất định đem lại thành công như mẻ cá lạ lùng. Phaolô kêu gọi chúng ta hãy nhớ mình là tín hữu khi tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô chịu chết và sống lại. Người Công Giáo phải lạc quan phấn khởi. Dân Chúa phải rao truyền mầu nhiệm Chúa Phục Sinh.

Ở nhà thờ này, chúng ta vẫn làm như thế. Khi cử hành Thánh Lễ chúng ta hân hoan tuyên xưng việc Chúa chịu chết và sống lại. Chúng ta tin rằng thánh lễ ban sự sống mới cho tâm hồn. Thế thì chúng ta hãy ra về đi vào xã hội với niềm tin mạnh mẽ và ơn phục sinh mà Thánh Thể đã đặt vào lòng ta để đổi mới cuộc đời, xây dựng xã hội tốt đẹp hơn, nhìn thấy tương lai hấp dẫn lạ thường. Xin Chúa thêm niềm tin cho chúng ta.

 

5. Bất lực

Đang đi bên này sông, tình cờ nhìn thấy một người bạn thân lâu năm không gặp, đang đứng ở bên kia sông, bấy giờ chúng ta sẽ làm gì? Tôi xin thưa rằng chúng ta làm mọi việc có thể, nào gọi to, nào vẫy tay, nào kiếm một cái xuồng để qua sông. Thế nhưng có một điều chúng ta lại không làm đó là nhảy xuống sông để bơi qua bờ bên kia, vì làm như thế chúng ta sẽ bị cho là điên khùng.

Tuy nhiên, điều điên khùng này chính thánh Phêrô đã làm. Phúc Âm kể lại, khi nhìn thấy Chúa Giêsu đi trên mặt nước, thánh Phêrô cũng đã nhảy xuống nước mà tiến lại với Chúa Giêsu. Có lẽ lúc bấy giờ thánh Phêrô cũng đã thầm nghĩ: Điều Thầy đã làm thì tại sao tôi lại không làm được. Nhưng rồi ông bắt đầu nghi ngờ và bị chìm dần xuống mặt nước. Bấy giờ ông bèn van xin Chúa giúp đỡ. Chính trong cái bối cảnh này mà chúng ta nhận thấy Phêrô cần phải sửa chữa cái thói tự cao tự đại, quá ỷ vào sức riêng của mình. Ông cần phải ý thức được những giới hạn của mình, cũng như những khả năng nhỏ bé và những bất lực của mình để nhờ đó mà khiêm nhường hơn.

Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã dùng chiến thuật đó để răn dạy Phêrô. Sau một đêm vất vả chẳng bắt được một con cá nào, thế mà giữa ban ngày ban mặt Chúa Giêsu lại truyền cho ông phải thả lưới, và rồi sau đó một mẻ cá lạ lùng đã xảy ra. Sau mẻ cá lạ lùng ấy Phêrô đã thú nhận sự bất lực của mình: Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.

Với mỗi người chúng ta cũng vậy, Chúa chờ mong chúng ta thú nhận sự bất lực, sự hạn hẹp của mình, để rồi tin tưởng và phó thác cho Ngài, cũng như để Ngài sẽ ra tay cứu giúp. Và đó chính là cái nền tảng để xây dựng đức tin.

Thế nhưng con người thời nay, đã hành động một cách khác hẳn. Với những thành công của khoa học, với những bước tiến nhảy vọt của kỹ thuật, người ta muốn lên ngôi bá chủ và không còn lệ thuộc vào Thiên Chúa nữa. Người ta không còn muốn cầu nguyện vì tưởng rằng sẽ không bao giờ còn cần đến một sự trợ giúp từ trời cao.

Thế nhưng nếu suy nghĩ cho chín chắn, chúng ta nhận thấy rằng: Khoa học càng tiến bộ thì lãnh vực của nó càng mở rộng, tưởng chừng như vô tận. Hơn nữa dù kỹ thuật có tân kỳ thì những sơ hở và trục trặc vẫn có thể xảy ra. Chỉ sơ hở một chút là sẽ tiêu ma cả một công trình nghiên cứu, như trường hợp đã xảy ra cho phi thuyền “Schalenger” của Mỹ, đã thiêu sống cả một phi hành đoàn gồm 6 người.

Đứng trước không gian vô tận, đứng trước thiên nhiên hùng vĩ, đứng trước những sự trục trặc của kỹ thuật, chúng ta mới nghiệm ra rằng: Tài năng con người thật nhỏ nhoi và có nhiều lãnh vực dường như con người cũng phải bó tay chưa khám phá ra nổi. Để rồi trong cố gắng, chúng ta vẫn phải khiêm nhường, nhờ đó mà chúng ta sẽ nhận được những sự trợ giúp của Thiên Chúa.

 

6. Thành quả vàng son – Thiên Phúc.

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám Mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tới chức linh mục chăng?

Tuy đã dốc hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy.

Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: “Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì”.

Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?”

***

Quả thật, con lừa của Thiên Chúa đó, sau này không chỉ trở thành một cha sở, mà còn được tôn phong làm thánh bổn mạng của các cha sở.

Hôm nay, Simon cũng vất vả suốt một đêm chài lưới mà không bắt được một con cá nào, nhưng: “Vì lời Thầy con sẽ thả lưới” (Lc 5,5). Và lạ thay, một mẻ cá lớn bất ngờ, đến nỗi lưới hầu như sắp rách. Trước tình thế này, Simon chỉ còn biết bỏ thuyền, chạy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà nói: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8).

Kẻ nhận mình là tội lỗi yếu hèn đó, sau này đã trở thành Phêrô, người thuyền trưởng của con thuyền Giáo Hội.

Có một điểm gì đó rất giống nhau, rất tương đồng giữa Vianney và Phêrô. Đó chính là nhận mình yếu hèn khuyết điểm và hoàn toàn để Chúa lèo lái điều khiển đời mình. Nhờ đó, Chúa đã ban tặng cho các ngài những đậc ân vô cùng lớn lao. Vì ơn Chúa chỉ ban xuống cho những kẻ khiêm nhượng.

“Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không bắt được gì hết. Nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc 5.5). Đây là lời bày tỏ sự bất lực của con người, để chính sự bất lực này sẽ làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa: Chính sự vâng phục của con người trước uy quyền của Thiên Chúa sẽ đem lại hiệu quả vượt sức tự nhiên loài người.

Từ vâng phục dẫn đến phép lạ, từ phép lạ dẫn đến niềm tin: Trước mẻ cá, Simon xưng Chúa Giêsu là Thầy: “Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới”, nhưng sau mẻ cá diệu kỳ, người lại tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Qua phép lạ mẻ cá, Simon đã nhận ra quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và đã tin vào Người. Đây chính là lời tuyên xưng thiên tính nơi Chúa Giêsu.

Chính khi tin vào quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, mà Simon đã ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình trước sự thánh thiện vô song của Thiên Chúa. Đó cũng là kinh nghiệm của ngôn sứ Isaia trước Thiên Chúa: “Khốn cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi dơ bẩn” (Isaia 6, 5). Nhưng sau khi được than hồng là lửa tình thương Chúa thanh tẩy, ông đã mau mắn xin vâng, ra đi làm ngôn sứ cho Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy sai con”. Hôm nay, Chúa cũng trấn an Phêrô: “Đừng sợ hãi, từ đây các con sẽ là kẻ chinh phục người ta” (Lc 5,10). Thành ngữ này thường gặp trong Cựu ước, để trấn an con người hãy tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Ở đây Chúa Giêsu muốn trấn an các Tông đồ, đặc biệt ba vị là Phêrô, Giacôbê và Gioan, để các ngài tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa khi đón nhận và thi hành sứ mạng Chúa giao.

Quả thật, ngay sau đó các Tông đồ đã “bỏ mọi sự mà đi theo Người” (Lc 5, 11). Đó là ơn gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và đã được Chúa thu hút chinh phục, để rồi Phêrô lại ra đi chinh phục các tâm hồn về cho Người.

Trước khi gặp Chúa, Simon dù có vất vả suốt đêm cũng không được một con cá nào; sau khi gặp Chúa, Chúa đã hướng dẫn ngài kéo lên một mẻ cá bội thu. Nhưng dù cá có nhiều đến rách lưới ngài cũng không màng, vì từ đây mục đích đời ngài không phải là thành quả vàng son mà chính là Chúa mà thôi.

***

Lạy Chúa, từ bỏ mọi sự là điều kiện để đi theo Người. Xin cho chúng con một đức tin can đảm, dám từ bỏ những gì chúng con đã từng bám víu, cũng chẳng sợ thiệt thòi khi đã hiến dâng.

Xin cho chúng con một đức tin liều lĩnh, sẵn sàng mất đi tất cả, để chỉ xin giữ trọn một mình Chúa mà thôi. Vì Chúa chính là gia nghiệp và là phần phúc cuộc đời chúng con. Amen.

 

7. Được mời gọi để loan báo Tin Mừng

(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)

Franco là một kịch sĩ người Italia nổi tiếng. Suốt 40 năm lão luyện trong nghề, ông đã đặt hàng trăm vở kịch thành phim được chiếu trên màn ảnh truyền hình nhà nước, từ năm 1980 đến nay ông đã dùng để rao giảng Lời Chúa. Franco đi khắp các thành phố và xứ đạo Italia, vào các nhà tù hay tham dự đại hội ca múa dân tộc để trình diễn Phúc Âm. Ông dùng mọi nhân tố kịch nghệ để đạo diễn Tin Mừng, chẳng hạn 16 chương Phúc Âm thánh Marcô được ông diễn xuất thành 96 cảnh. Ước mong duy nhất của ông là dùng kịch nghệ để loan báo Lời Chúa. Trong số bạn bè và người thân, có kẻ chế nhạo ông là người mất trí, nhưng cũng có nhiều người khuyến khích ông trong sáng kiến mới này, và đã có hàng trăm ngàn người được nghe loan báo Tin Mừng cứu độ qua hình thức nghệ thuật đó. Ông tâm sự: “Tôi thật may mắn được tin vào Chúa Giêsu và có Ngài làm bạn đường trong đời. Không có Chúa Giêsu, cuộc đời thật là nhạt nhẽo vô vị. Và chính lòng tin đã giúp tôi nảy ra sáng kiến lấy Ngài làm đề tài diễn xuất. Trong bao nhiêu năm cuộc đời nghệ sĩ, tôi đã chỉ nói và diễn xuất những gì người khác biết. Nhưng từ 10 năm nay, tôi đã lựa chọn việc thông truyền cho khán thính giả lịch sử nhất thế giới, đó là Phúc Âm kể lại cuộc đời Chúa Cứu Thế”.

Là Kitô hữu, mỗi người trong chúng ta cũng được mời gọi dùng các tài năng và cuộc sống của mình để loan báo Tin Mừng cứu độ của Chúa, đó là sứ điệp Giáo Hội muốn nhắn gởi chúng ta qua các bài đọc Chúa Nhật hôm nay. Ba bài đọc giới thiệu với chúng ta ba ơn gọi khác nhau. Ơn gọi của tiên tri Isaia, thánh Phaolô, thánh Phêrô và các bạn đồng nghiệp.

Isaia 6 lồng khung ơn gọi của ông trong lịch sử cứu độ của dân Do Thái, để khiển trách dân Do Thái sống trong tội lỗi và bất trung với Thiên Chúa. Ngài can thiệp bằng cách mời gọi Isaia trở thành sứ giả ra đi rao giảng Lời Ngài, giúp dân Israel hoán cải, dẫn đưa họ về với Chúa. Tiên tri chẳng những là người thấy trước tương lai nhưng còn là phát ngôn viên của Chúa, là sứ giả mang sứ điệp của Thiên Chúa xuống cho loài người. Ơn gọi đổi đời của Isaia xảy ra trong khung cảnh lúc cử hành phụng tự ở đền thờ Giêrusalem, ông được sống kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa bằng các giác quan của mình. Isaia trông thấy Thiên Chúa ngự trị trên tòa vinh quang. Tòa cao là hình ảnh diễn tả xa cách con người ở trần gian hư hỏng tội lỗi này. Isaia còn được nghe tiếng của các thiên thần hát tung hô Thiên Chúa. “Thánh, Thánh, Thánh”. Ba lần thánh là kiểu cách diễn tả sự vẹn toàn siêu việt và thánh thiện của Ngài. Trước sự thánh thiện cao cả tuyệt đối của Thiên Chúa, Isaia nhận thức ra thân phận yếu hèn tội lỗi bất xứng của mình. Xác tín con người tội lỗi không thể xem thấy Thiên Chúa, nếu trông thấy Người, con người sẽ phải chết. Tuy nhiên, Kinh Thánh cũng thường diễn tả tội lỗi của con người bằng cách nêu bật sự kiện Thiên Chúa Abraham cứu độ con người, bởi vì Ngài là Đấng duy nhất có thể biến đổi và thánh hóa con người. Để hiện thực điều đó, Thiên Chúa chọn lửa dùng thiêu đốt của lễ trên bàn thờ để thanh tẩy tội lỗi của Isaia, tạo dựng một tâm hồn mới. Ơn gọi của Isaia đã phát sinh trong khung cảnh của một đền thờ, giữa bầu khí trật tự trong lúc nguyện cầu thinh lặng trước mặt Chúa. Sự lựa chọn của ông là kết quả của một sự tự do, tươi vui, hăng hái nhưng là một quyết định liều lĩnh, bởi vì nó dẫn đưa Isaia vào một cuộc đối thoại đổi đời, một cuộc phiêu lưu mạo hiểm với những hệ lụy không lường được.

Thánh Luca đoạn 5 kể lại ơn gọi của thánh Phêrô và các bạn chài đồng nghiệp. Trong tường thuật, thánh sử Luca không cố ý nhấn mạnh đến phép lạ mẻ lưới nhiều cá cho bằng nêu bật kết quả mà Lời Chúa có thể tác động trong thế giới và ngay tâm lòng con người. Do đó, mọi nhân tố của bài tường thuật đều mang một ý nghĩa lệnh lạc. Hồ Giênêsareth mênh mông dài 21 cây số, ngang 12 cây số, và sâu 45 thước diễn tả thế giới này. Lời Chúa là cái lưới đánh cá, Phêrô và các bạn chài và tất cả những ai có nhiệm vụ rao truyền Lời Chúa. Một đêm vất vả mỏi mệt và thái độ chán nản của Phêrô với các bạn chài đồng nghiệp diễn tả các đặc thái sinh hoạt của Giáo Hội cũng như các động tác các thừa tác viên Lời Chúa. Mỗi khi Giáo Hội và các thừa tác viên coi mình là trung tâm điểm, là nhân vật chính trong công tác rao truyền Tin Mừng, mỗi khi Giáo Hội và các thừa tác viên chỉ cậy dựa trên sức lực của mình, trên các phương diện tài chính, trên các con số, các nhân lực, làm thế các thừa tác viên Lời Chúa sẽ không được gì. Trừ khi nào biết có thái độ khiêm tốn, vâng lời, phó thác hoàn toàn nơi sức mạnh Lời Chúa và để cho Chúa chủ động hướng dẫn mọi sự, thì Giáo Hội và các thừa tác viên Lời Chúa mới được một mẻ lưới đầy cá.

Đối với tâm lòng của mỗi người, Lời Chúa có sức mạnh biến đổi toàn cuộc sống đó là điều đã xảy ra cho Phêrô. Phêrô lại chèo thuyền ra khơi thả lưới. Sự kết quả nghe Lời Chúa, Phêrô và các bạn đồng nghiệp nhận ra mình là người yếu hèn và tội lỗi. Chúa Giêsu chỉ chờ có thế và kêu mời các ông trở thành cộng sự viên của Ngài trong công tác loan báo Tin Mừng cứu độ cho toàn thế giới. Phêrô và các bạn đồng nghiệp đã gặp gỡ Chúa Giêsu ngay trong khung cảnh cuộc sống thường ngày của họ và các sinh hoạt nghề nghiệp, qua biến cố của nếp sống thường nhật, Chúa Giêsu kêu gọi họ trong chính khung cảnh và tình trạng sống vật chất và tinh thần hạn hẹp ấy của cuộc đời họ. Chúng ta tất cả cũng có thể gặp gỡ Chúa ở khắp mọi nơi và trong mọi lúc của cuộc đời chúng ta. Và mỗi một cuộc gặp gỡ sâu đậm thật sự với Chúa Giêsu và Lời Ngài có tác dụng biến đổi tâm lòng của cuộc sống chúng ta để trở thành những nhà truyền giáo. Vấn đề là chúng ta biết thái độ của thánh Phêrô hay không? “Vâng lời Thầy con thả lưới”.

Thư thứ nhất gởi cho giáo đoàn Côrintô đoạn 15, thánh Phaolô truyền lại cho giáo hữu Côrintô kinh Tin Kính của cộng đoàn Kitô tiên khởi tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết để đền bù tội lỗi cho loài người. Đấng đã bị chôn trong mồ và ngày thứ ba sẽ sống lại như lời Thánh Kinh. Thánh nhân cũng ghi lại những lần Chúa Kitô Phục sinh hiện ra cho các tông đồ, cho thánh Giacôbê, thủ lãnh của cộng đoàn Kitô hữu ở Giêrusalem và cho năm trăm môn đệ của cộng đoàn Kitô hiện thời. Và sau cùng, Chúa Kitô Phục sinh cũng đã hiện ra với thánh nhân trên đường Đamas, nghĩa là niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh là một kinh nghiệm sống động chớ không phải là một chuyện trừu tượng không chứng cớ. Kẻ sinh sau đẻ muộn thánh Phaolô, các biến cố đổi đời và ơn gọi của ngài là một cuộc tái sinh, bất ngờ gặp gỡ, không thể tưởng tượng được đối với một người chẳng những đã không tin vào Chúa Kitô mà lại còn bắt bớ thù ghét Chúa nữa. Trên con đường lòng tin, thánh nhân giống như một bào thai bị phá hoại và phải chết xa lòng mẹ. Những cuộc gặp gỡ bất ngờ với Chúa Kitô Phục sinh chẳng những đã trao ban cho thánh nhân cuộc sống mới trong ơn thánh, và còn cho thánh nhân trở thành tông đồ nhận lãnh từ Chúa Giêsu trong sứ mạng loan báo Tin Mừng cứu độ của Ngài cho muôn dân nữa. Ơn gọi Kitô là ơn gọi phát sinh từ một cuộc gặp gỡ đổi đời đối với Chúa Kitô Phục sinh. Những cuộc gặp gỡ ấy Chúa Kitô Phục sinh trao ban cho chúng ta sứ mạng làm chứng cho Ngài, và loan báo Tin Mừng cứu độ cho tất cả mọi người. Nhưng chúng ta có sẵn lòng nhận và ra đi như tiên tri Isaia, như thánh Phaolô, thánh Phêrô và các bạn đồng nghiệp của ngài hay không?

 

8. Lòng thương xót Chúa biến đổi con người

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Chủ đề nổi bật hơn cả trong Chúa nhật thứ V mùa Thường niên là “ơn gọi”. Chúa gọi Isaia (x. Is 6, 1-2a. 3,8), Phêrô (x. Lc 5,1-11) và Phaolô (1Cr 15,1-11). Cả ba đều thú nhận mình bất xứng, nhưng họ đã tin tưởng vào lòng thương xót và tha thứ, nhất là quyền năng của ơn thánh Chúa và sự đáp trả cách quảng đại của con người. Quả là lòng xót thương của Thiên Chúa biến đổi con người.

Chúa gọi Isaia

Trong một thị kiến uy nghi, Isaia cảm thấy mình hiện diện trước tôn nhan Thiên Chúa ba lần Thánh, khiến ông hoảng sợ và nhận ra sự vô phúc, bất xứng của chính mình. Nhưng một Thiên Thần Sốt Mến đã cầm cục than cháy đỏ thanh tẩy môi miệng ông, đồng thời xóa bỏ tội lỗi của ông: “Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ, và tội của ngươi được thứ tha” (Is 6,7). Thế rồi ông cảm thấy sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa gọi, và thưa: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con” (x. Is 6,8). Sự thứ tha và lòng quảng đại của Thiên Chúa đã biến đổi Isaia thành đại ngôn sứ của Thiên Chúa.

Chúa gọi Phêrô

Tâm trạng trên cũng xảy ra trong câu chuyện mẻ cá lạ lùng được Luca thuật lại. Chúa Giêsu bước xuống thuyền của Simon, rồi ngồi trên thuyền mà giảng dạy dân chúng, có Simon ở bên để giữ cho thuyền khỏi tròng trành, còn Chúa Giêsu thì cố gắng giảng dạy đám đông. Về phương diện thể lý, Simon gần Chúa hơn, ông nghe Chúa rõ lời Chúa và lời Chúa thấm nhập vào ông. Vừa giảng xong, Chúa Giêsu bảo ông Simon: “Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá” (Lc 5,4). Phản ứng của Simon là: “Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc 5,8). Lời Chúa Giêsu tác động mạnh lên Phêrô, đặt ông vào tình thế phải thả lưới bắt cá tiếp, dù kinh nghiệm ngư phủ là không thể. Phêrô tin vào lời Chúa Giêsu, đức tin được nuôi dưỡng bằng tình Thầy trò, đức tin tái tạo cái mới và tôn vinh khả năng của con người. Ông tin Chúa, nên bắt được một mẻ đầy cá.

Bảo Phêrô: “Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu”, là Chúa muốn ông bước ra ngoài sự toàn, thói quen, chắc chắn, “và thả lưới bắt cá”. Ðứng trước sự lạ lùng ấy, Simon Phêrô đã không ôm choàng lấy Chúa Giêsu để bầy tỏ lòng biết ơn vì thu lượm được nhiều cá quá sức mong đợi. Nhưng, theo như thánh sử Luca ghi lại, ông đã quỳ xuống trước mặt Người và thưa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con đi, bởi vì con là một kẻ tội lỗi”(Lc 5,8). Chúa trấn an: “Ðừng sợ:từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta” (Lc 5,10); ông đã từ bỏ tất cả để đi theo Người.

Chúa Giêsu thật nhân lành! Phêrô, kẻ chài lưới, được Chúa gọi và trở nên nhà hùng biện đáng được ca ngợi nếu ông hiểu được công việc chài lưới người. Đó là tại sao thánh Phaolô gửi cho các tín hữu tiên khởi và nói: “Hãy coi đến, hỡi anh em, việc anh em được kêu gọi! Hẳn không có mấy người khôn ngoan xét theo xác thịt, không mấy người quyền thế, không mấy người tôn quí. Nhưng chính những điều thế gian coi là điên rồ, thì Thiên Chúa đã chọn để bêu nhuốc hạng khôn ngoan; và những điều thế gian coi là yếu đuối, thì Thiên Chúa đã chọn để bêu nhuốc những gì là mạnh mẽ.Những điều thế gian cho là ti tiện, là không đáng kể, thì Thiên Chúa đã chọn, những điều không không, để hủy ra không những điều có” (1Cr 1,26-28).

Vì nếu Chúa Giêsu chọn người hùng biện trước, người ấy có thể nói, “Tôi đã được chọn vì tài hùng biện của tôi” Nếu Chúa chọn làm một thượng nghị sĩ, thượng nghị sĩ có thể nói, “Tôi được chọn vì cấp bậc của mình”. Sau cùng, nếu Chúa chọn một hoàng đế, hoàng đế có thể nói, “Tôi được chọn vì khả năng của mình”. 

Chúa gọi Phaolô

Phaolô, khi nhớ lại rằng mình đã từng là một kẻ bách hại Giáo hội, ông thú nhận mình không xứng đáng được gọi làm tông đồ, nhưng ông nhìn nhận rằng, Chúa Giêsu Phục Sinh đã thương xót ông và đã thực hiện nơi ông những điều kỳ diệu, và bất chấp con người có giới hạn của ông, Chúa còn trao cho ông nhiệm vụ và vinh dự được loan truyền Tin Mừng (x. 1Cr 15,8-10). Há chẳng phải lòng thương xót Chúa biến đổi con người ông sao? 

Kinh nghiệm cuộc đời

Trong cả ba kinh nghiệm kể trên, chứng tỏ con người dù nghèo nàn và bất xứng, giới hạn và tội lỗi, kể cả mỏng dòn. Nhưng nếu gặp được Thiên Chúa là Ðấng giàu lòng xót thương và tha thứ, Chúa sẽ biến đổi con người. Isaia, Phêrô và Phaolô đã làm gương cho tất cả những ai được Chúa gọi thì hãy nhìn vào Chúa và lòng khoan nhân của Người, để thay lòng đổi dạ và hân hoan từ bỏ tất cả mọi sự vì Người.

Đây là lúc chúng ta kiên định và tin tưởng vào Lời hứa của Đấng đã không bao giờ bỏ chúng ta mồ côi. “Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới”(Lc 5,5). Câu trả lời của Phêrô tương tự như lời của Đức Maria tại tiệc cưới Cana: “Người bào gì thì phải làm theo” (Ga 2,5). Phải tin tưởng và thi hành thánh ý Chúa, nỗ lực của chúng ta mới hữu ích. Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Phêrô thật đơn giản nhưng sâu sắc, chúng ta có thể lấy làm của riêng của mình: giữa nơi sóng cả ba đào trong một thế giới tội lỗi, chúng ta đấu tranh và lội ngược dòng, tìm cách để loan báo Tin Mừng cách tốt nhất.

Mượn lời Phêrô chúng ta thưa Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi” (Lc 5,8). Thánh Irênê nói: ai nhận thức được bản chất tội lỗi của mình, thì người ấy có khả năng nhận biết tình trạng tạo vật của mình nữa. Chỉ có những người như Phêrô, mới chấp nhận những giới hạn của chính mình và nhận những thành quả tông đồ của mình. Chúa đã kêu gọi các Tông Đồ để trở thành kẻ lưới người, nhưng ngư dân đích thực chính là Chúa: trò giỏi không chỉ giỏi chài, mà còn bắt cá người giỏi. Điều này chỉ có hậu nếu chúng ta liều bỏ tất cả để theo Chúa.

Lạy Mẹ Maria, chúng con phó thác đời chúng con cho Mẹ. Xin Mẹ gợi lên nơi mỗi người chúng con lòng ước muốn đáp lại “Xin Vâng” với Chúa trong niềm hân hoan vui sướng. Amen.

 

9. Mau mắn đáp lời Chúa gọi

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

“Họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Ngài”

(Lc 5,11)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Từ Chúa nhật đầu mùa Thường niên, chúng ta đã từng bước đi theo hành trình sứ vụ của Chúa Giêsu. Hôm nay Phụng vụ dẫn chúng ta tới lúc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên là Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan. Điểm đáng chú ý trong chuyện này là các ông đã mau mắn bỏ hết mọi sự để đi theo Chúa.

Ngày hôm nay Chúa vẫn tiếp tục kêu gọi chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng Ngài và hãy mau mắn đi theo Ngài.

II. Gợi ý sám hối

  • Vì mải mê lo những công việc thế tục, chúng ta đã phớt lờ đi những lần Chúa lên tiếng kêu gọi chúng ta.
  • Có nhiều thứ chúng ta quá quyến luyến nên không thể từ bỏ mặc dù biết là nó xấu.
  • Cũng như thánh Phêrô ngày xưa, giờ đây chúng ta hãy khiêm tốn thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi”.

III. Lời Chúa

1. Bài đọc I (Is 6,1-8)

Tường thuật ơn gọi của Isaia. Chúng ta hãy để ý đến tâm trạng và phản ứng của ông:

Trong một thị kiến, Isaia thấy mình đang ở trong Đền thờ. Qua những hiện tượng đặc biệt như cảnh các thiên thần tung hô, các cửa đền thờ rung chuyển, đền thờ nghi ngút khói v.v. Isaia, biết là có Thiên Chúa đang hiện diện.

Cảm giác đầu tiên của Isaia là thấy mình quá tội lỗi khi đứng trước Thiên Chúa thánh thiện.

Nhưng khi Thiên Chúa sai một thiên thần thanh tẩy Isaia và sau đó mời gọi ông làm ngôn sứ, thì Isaia đã mạnh dạn đáp lời.

2. Đáp ca (Tv 137)

Đây là bài ca được hát trong đền thờ, “giữa chư vị thiên thần, con đàn ca kính Chúa”. Thánh vịnh này rất hợp với tâm tình của Isaia khi được Chúa kêu gọi.

3. Tin Mừng (Lc 5,1-11)

Bài tường thuật việc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng Luca có nhiều chi tiết hơn bài tường thuật ngắn gọn trong Mt 4,19-22:

Họ đang giặt lưới để dẹp cất, vì suốt đêm đánh không được con cá nào.

Chúa Giêsu bảo họ thử đánh một mẻ nữa. Phêrô không tin vào sự thành công, nhưng nễ lời Ngài nên ông thả lưới.

Một mẻ lưới nhiều cá quá sức tưởng tượng đã khiến Phêrô và các bạn khám phá ra thân phận siêu phàm của Chúa Giêsu đồng thời cũng ý thức thân phận hèn hạ tội lỗi của mình.

Khi đó Chúa Giêsu lên tiếng gọi họ theo Ngài làm môn đệ. Và họ đã từ bỏ mọi sự để theo Ngài.

4. Bài đọc II (1 Cr 15,1-11)

Nhiều người chống đối Phaolô, cho rằng ông không đủ tư cách làm tông đồ.

Để trả lời họ, Phaolô nói rằng tất cả những gì ông rao giảng đều là những gì ông đã lãnh nhận từ giáo huấn của Chúa Giêsu. Phaolô cũng chứng mình rằng chính Chúa Giêsu đã chọn ông như đã chọn các tông đồ khác.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Chúa gọi

Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta hiểu được rất nhiều điều về ơn gọi.

a/ Con người không chọn Chúa, mà chính Chúa kêu gọi con người: Isaia tin có Chúa đang hiện diện trong Đền thờ, nhưng ông không dám nghĩ tới việc được “thấy” Chúa và được Ngài “gọi” (bài đọc I). Phaolô đang trên đường lùng bắt các môn đệ Đức Kitô thì được gọi (bài đọc II). Còn Phêrô và các bạn chài thì đang lo đánh lưới bắt cá nhưng lại được gọi làm những kẻ quăng lưới bắt người (bài Tin Mừng). Đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Không phải các con chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”.

b/ Có khi ơn gọi phát sinh từ một cuộc gặp gỡ đặc biệt với Chúa. Cuộc gặp gỡ đặc biệt làm nẩy sinh một cảm nghiệm sâu sắc. Rồi cảm nghiệm sâu sắc cuốn hút con người vào một tương quan thân thiết mới mẻ với Chúa. Như trường hợp của Isaia, ông vẫn biết Thiên Chúa là Đấng vĩ đại và mạnh mẽ hơn các thần khác. Nhưng hôm ấy trong Đền thờ ông biết thêm rằng Ngài là Đấng hoàn toàn khác, là Đấng thánh gấp 3 lần. Điều đó khiến ông xúc động mạnh. Ông diễn tả cảm xúc mạnh mẽ ấy qua những hình ảnh các trụ của đền thờ rung chuyển và khói tỏa mịt mù khắp Đền thờ. Còn Phaolô thì mô tả việc Chúa gọi ông đột ngột như “một đứa trẻ sinh non” trước khi đủ ngày đủ tháng. Phần Phêrô, mẻ cá lạ làm ông chợt nhận ra Chúa Giêsu không phải chỉ là con người mà còn là Đức Chúa, đồng thời ông ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình. Ông đã thốt lên “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”.

c/ Nhưng nhiều khi Chúa gọi con người trong những hoàn cảnh rất bình thường. Như Phêrô và các bạn khi ấy đang làm công việc thường ngày là đánh cá. Hoàn cảnh thì bình thường, nhưng ý nghĩa lại đặc biệt: nó khiến con người khám phá một chân lý quan trọng, nó thôi thúc con người làm một cuộc lựa chọn mới mẻ chuyển hướng cả cuộc đời. Hôm đó Phêrô và các bạn đã bỏ tất cả mà đi theo Chúa Giêsu.

Dù gặp Chúa trong hoàn cảnh đặc biệt hay trong cuộc sống bình thường, hễ gặp được Chúa thì cuộc đời chắc chắn sẽ biến đổi.

* 2. Bất xứng và tín nhiệm

Ba bài tường thuật ơn gọi hôm nay đều có những nét giống nhau:

Tất cả những người được gọi đều cảm thấy bất xứng: Isaia thốt lên “Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế”; Phaolô tự nhận “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các tông đồ, tôi không đáng được gọi là tông đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa”; Phêrô thì sấp mình xuống dưới chân Chúa Giêsu “Lạy Chúa xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”.

Nhưng tất cả đều được Thiên Chúa tín nhiệm: Isaia được trao sứ mạng ngôn sứ; Phêrô được chọn làm tông đồ; Phaolô được sai đi làm tông đồ cho lương dân.

Dù biết mình bất xứng mà Thiên Chúa vẫn tín nhiệm, nên các ngài đã nhiệt thành chu toàn sứ mạng được trao phó: Isaia mạnh dạn thưa lại với Chúa “Dạ con đây, xin sai con đi”; Phêrô “đưa thuyền vào bờ rồi bỏ hết mọi sự mà theo Ngài”; Phaolô dám khoe “Tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là Thiên Chúa ở cùng tôi”.

* 3. Thành quả vàng son

Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám Mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tới chức linh mục chăng?

Tuy đã dốc hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy.

Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói: “Vianney, anh dốt đặc như con lừa! Với một con lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì”.

Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?”

***

Quả thật, con lừa của Thiên Chúa đó, sau này không chỉ trở thành một cha sở, mà còn được tôn phong làm thánh bổn mạng của các cha sở.

Hôm nay, Simon cũng vất vả suốt một đêm chài lưới mà không bắt được một con cá nào, nhưng: “Vì lời Thầy con sẽ thả lưới” (Lc 5,5). Và lạ thay, một mẻ cá lớn bất ngờ, đến nỗi lưới hầu như sắp rách. Trước tình thế này, Simon chỉ còn biết bỏ thuyền, chạy đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà nói: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8).

Kẻ nhận mình là tội lỗi yếu hèn đó, sau này đã trở thành Phêrô, người thuyền trưởng của con thuyền Giáo Hội.

Có một điểm gì đó rất giống nhau, rất tương đồng giữa Vianney và Phêrô. Đó chính là nhận mình yếu hèn khuyết điểm và hoàn toàn để Chúa lèo lái điều khiển đời mình. Nhờ đó, Chúa đã ban tặng cho các ngài những đậc ân vô cùng lớn lao. Vì ơn Chúa chỉ ban xuống cho những kẻ khiêm nhượng.

“Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không bắt được gì hết. Nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc 5.5). Đây là lời bày tỏ sự bất lực của con người, để chính sự bất lực này sẽ làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa: Chính sự vâng phục của con người trước uy quyền của Thiên Chúa sẽ đem lại hiệu quả vượt sức tự nhiên loài người.

Từ vâng phục dẫn đến phép lạ, từ phép lạ dẫn đến niềm tin: Trước mẻ cá, Simon xưng Chúa Giêsu là Thầy: “Vì lời Thầy, con sẽ thả lưới”, nhưng sau mẻ cá diệu kỳ, người lại tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Qua phép lạ mẻ cá, Simon đã nhận ra quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và đã tin vào Người. Đây chính là lời tuyên xưng thiên tính nơi Chúa Giêsu.

Chính khi tin vào quyền năng Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, mà Simon đã ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình trước sự thánh thiện vô song của Thiên Chúa. Đó cũng là kinh nghiệm của ngôn sứ Isaia trước Thiên Chúa: “Khốn cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi dơ bẩn” (Isaia 6, 5). Nhưng sau khi được than hồng là lửa tình thương Chúa thanh tẩy, ông đã mau mắn xin vâng, ra đi làm ngôn sứ cho Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy sai con”. Hôm nay, Chúa cũng trấn an Phêrô: “Đừng sợ hãi, từ đây các con sẽ là kẻ chinh phục người ta” (Lc 5,10). Thành ngữ này thường gặp trong Cựu ước, để trấn an con người hãy tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa. Ở đây Chúa Giêsu muốn trấn an các Tông đồ, đặc biệt ba vị là Phêrô, Giacôbê và Gioan, để các ngài tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa khi đón nhận và thi hành sứ mạng Chúa giao.

Quả thật, ngay sau đó các Tông đồ đã “bỏ mọi sự mà đi theo Người ” (Lc 5, 11). Đó là ơn gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và đã được Chúa thu hút chinh phục, để rồi Phêrô lại ra đi chinh phục các tâm hồn về cho Người.

Trước khi gặp Chúa, Simon dù có vất vả suốt đêm cũng không được một con cá nào; sau khi gặp Chúa, Chúa đã hướng dẫn ngài kéo lên một mẻ cá bội thu. Nhưng dù cá có nhiều đến rách lưới ngài cũng không màng, vì từ đây mục đích đời ngài không phải là thành quả vàng son mà chính là Chúa mà thôi.

***

Lạy Chúa, từ bỏ mọi sự là điều kiện để đi theo Người. Xin cho chúng con một đức tin can đảm, dám từ bỏ những gì chúng con đã từng bám víu, cũng chẳng sợ thiệt thòi khi đã hiến dâng.

Xin cho chúng con một đức tin liều lĩnh, sẵn sàng mất đi tất cả, để chỉ xin giữ trọn một mình Chúa mà thôi. Vì Chúa chính là gia nghiệp và là phần phúc cuộc đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc)

* 4. Thất bại và thành công

Phêrô và các bạn “đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”. Chán nản, mỏi mệt, các ông không đánh cá nữa và đi giặt lưới.

Cho dù đã làm hết sức mình nhưng con người vẫn có thể gặp thất bại. Người học sinh luyện thi rất chăm chỉ, nhưng rồi thi rớt. Vận động viên thể thao cố gắng chơi hết sức mình, vậy mà lại thua. Cha mẹ đã làm tất cả để giáo dục con nên người tốt, nhưng nó lại làm người xấu. Hầu hết chúng ta đều có khi gặp thất bại như thế.

Khi Phêrô và các bạn bị thất bại, Chúa Giêsu có thể trách các ông “Các anh đã hành nghề bao nhiêu năm trời rồi, thế sao đánh lưới suốt đêm mà không bắt được con cá nào hết vậy?” Nhưng Ngài đã không trách. Tại sao? Vì Ngài thông cảm với các ông. Đã cố gắng hết mình rồi mà vẫn thất bại, điều đó đã làm các ông đau khổ lắm rồi. Không cần trách móc để các ông càng đau khổ thêm. Thất bại đã là một vết thương, không cần sát muối vào cho nó càng xót xa thêm.

Điều người ta cần khi bị thất bại là có ai đó vẫn tin mình, an ủi mình và khuyến khích mình vươn lên. “Thất bại không phải là ngã quỵ, mà là không chịu vươn lên”.

Vả lại, thành công là gì? Thành công không phải là tất cả. Ta có thể thành công cãi thắng một cuộc tranh luận, nhưng rồi bị mất một người bạn. Ta có thể thành công trong cuộc tranh dành một địa vị cao hơn, nhưng sau đó các mối tương quan với đồng nghiệp trở thành lạnh nhạt hơn. Hương vị của ly rượu thành công có thể rất ngọt ngào ngây ngất ngay lúc đó, nhưng về sau hầu hết đều cạn dần và cuối cùng là trống rỗng.

Chúa Giêsu không trách Phêrô và các bạn, nhưng Ngài không cho các ông cứ ở đó mãi để gậm nhấm nỗi chua cay. Ngài kích thích họ làm lại: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá”.

Emerson nói rằng mỗi người chúng ta đều có một tiềm năng to lớn, giống như một căn phòng, một vòi nước chưa bao giờ được mở ra. Cần có ai đó chỉ cho ta biết tiềm năng đó và khuyến khích chúng ta mở ra: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu”.

Chúa Giêsu biết Phêrô yếu đuối tội lỗi, nhưng Ngài cũng biết ông có khả năng làm được những việc to lớn. Ngài không kích thích chỗ yếu đuối tội lỗi của ông, nhưng kích thích đúng vào tiềm năng của ông. Nhờ được kích thích, các ông đã thả lưới bắt được nhiều cá. Sau đó các ông còn hăng hái bỏ mọi sự để theo Ngài thả lưới bắt người.

Con người thường thất bại. Nhưng con người cần có người tin tưởng và khuyến khích để lại vươn lên, vì “Từ thành công đền thất bại chỉ là một bước. Nhưng từ thất bại đến thành công là cả một con đường dài” (Yiddish) (FM)

* 5. “Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”

Ban đêm là lúc thuận tiện để đánh cá. Nếu một người nào khác nói với Phêrô “Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”, có lẽ ông đã vặn lại “Bộ anh khùng hả? Anh muốn cho tôi thành trò cười cho các bạn chài khác sao? Đã thả lưới suốt đêm mà không bắt được con cá nào thì làm sao mà bắt được nữa khi trời đã sáng”.

Nhưng vì người nói câu đó là Chúa Giêsu nên Phêrô đã không vặn lại như thế. Ông cũng trình bày quan điểm của mình “Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”, nhưng liền sau đó thì vâng lời “Nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Đối với Phêrô, lời nói của Chúa Giêsu không như lời của những người khác, vì nó có uy tín mà lời của bất cứ ai khác đều không có. Bởi thế, nếu Chúa Giêsu đã bảo, thì cho dù tình thế có vô vọng bao nhiêu đi nữa, cho dù ông đã mệt mỏi bao nhiêu đi nữa, và cho dù người ta có thể nhạo cười bao nhiêu đi nữa, Phêrô cũng phải vâng theo.

Phêrô đã tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Giêsu. Tin vào lời Ngài, ông đã thử làm điều bất khả. Sau này chúng ta lại thấy ông tin vào lời Chúa Giêsu mà bước đi trên mặt biển.

Chúa Giêsu chẳng những bảo ông thả lưới bắt cá, mà còn bảo ông làm môn đệ, chia xẻ sứ mạng của Ngài. Phêrô có đức tính gì mà được Chúa Giêsu mời gọi như thế? Đức tính thứ nhất và quan trọng nhất Chúa Giêsu thấy nơi Phêrô là Tin vào Lời Ngài. Đức tính thứ hai là Khiêm tốn.

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay không chỉ là chuyện về đánh cá, mà còn là chuyện về lòng tin tưởng. Vì Phêrô tin tưởng vào lời Chúa Giêsu, nên Ngài chẳng những bảo ông thả lưới lại một lần nữa, mà còn kêu gọi ông lãnh nhận một sứ mạng quan trọng hơn “Từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”.

Mọi kitô hữu chúng ta cũng đều được Chúa gọi như Phêrô. Và điều quan trọng nhất Ngài chờ đợi nơi chúng ta là tuyệt đối tin tưởng vào Ngài. (FM)

* 6. Một bước khởi đầu tốt đẹp

Isaia, Phaolô và Phêrô là những gương mặt trung tâm của các bài đọc hôm nay. Cả ba đều đã làm được những việc trọng đại cho Chúa. Tuy nhiên cả ba, ai cũng mang mặc cảm thấp hèn, coi mình là người yếu kém. Các ngài không tự mình tiến lên phía trước, nhưng được Chúa mời gọi tiến lên. Các ngài đáp lại tiếng Chúa gọi một cách miễn cưỡng vì biết mình không xứng đáng.

Bước đi đầu tiên với nhận thức về thân phận bất xứng của mình, xét theo phương diện đạo đức, đó là một bước khởi đầu rất tốt. Người nào quá tự tin tiến về phía trước thì thường làm hại hơn là làm tốt, vì người đó dựa vào khả năng của mình và tìm kiếm vinh dự cho mình. Kiêu căng và tự phụ chỉ là cát, mà xây nhà trên cát thì sẽ sụp đổ thôi.

Ngược lại, khi ta gặp người nào biết sợ, biết lo thì ta có thể tin tưởng người đó. Thánh Phaolô nói một câu rất nghịch lý: “Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10). Nghịch lý nhưng rất có lý, bởi vì khi Ngài biết mình yếu thì Ngài tìm về Chúa, và chính sức mạnh của Chúa làm cho Ngài mạnh.

Khi ta biết mình yếu, Chúa sẽ thêm sức cho ta. Khi ta biết mình trống rỗng, Chúa sẽ đong đầy cho ta. Khi ta biết mình nghèo nàn, Chúa sẽ làm giàu cho ta. Khi đó ta sẽ có thể làm được công việc của Ngài, và Ngài sẽ hoàn thành trong ta những điều ta không làm nổi.

Khiêm tốn là một bước khởi đầu tốt. Nhưng không phải vì thế mà ta cứ khăng khăng chối từ. Như thế chỉ là hèn nhát, lười biếng và ích kỷ. Cứ như thế thì ta không thể cứu nổi mình, càng không thể cứu ai khác. Isaia nói rằng môi miệng ông ô uế, nhưng Chúa đã sai thiên thần lấy than hồng thanh tẩy miệng ông. Phêrô xin Chúa lánh xa ông, nhưng Chúa gọi ông chia xẻ sứ mạng của Ngài. Chúa không chê bỏ người tội lỗi, trái lại Ngài đến với những kẻ tội lỗi, để cứu họ, và để mời họ hợp tác cứu những người tội lỗi khác. Chúa giúp những người tội lỗi đi bước đầu.

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta lòng khiêm tốn để nhận biết sự yếu đuối của mình. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta sức mạnh để chúng ta vượt lên sự yếu đuối ấy. Rồi chúng ta hãy mạnh dạn làm theo Lời Ngài dạy bảo. Khi đó chúng ta sẽ vui mừng cảm nhận được như Phaolô là “khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (FM)

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, vì yêu thương mà Chúa đã chọn chúng ta làm người Kitô hữu, làm tông đồ của Chúa. Với tâm tình cảm tạ tri ân, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

  1. Hội thánh là Nhiệm Thể của Chúa Giêsu Kitô / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa tuôn đổ ơn Thánh thần xuống trên Hội thánh / để Hội thánh ngày càng được tinh tuyền / vững mạnh / và phát triển không ngừng.
  2. Hằng năm / thiên tai vẫn hoành hành ở nhiều nơi trên thế giới / gây ra biết bao tang tóc cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho mưa thuận gió hòa / để mọi người được sống trong cảnh an cư lạc nghiệp.
  3. Chúa Giêsu bảo thánh Phêrô: / Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho những anh chị em đã từ bỏ mọi sự mà dấn thân theo Chúa hiểu rằng / nếu vâng theo thánh ý Chúa / họ sẽ thu được những kết quả bất ngờ.
  4. Đời sống đức tin của người Kitô hữu / không chỉ giới hạn trong việc đọc kinh / tham dự thánh lễ / lãnh nhận các bí tích ở nhà thờ / mà còn phải thể hiện ngoài xã hội nữa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thể hiện niềm tin của mình / bằng đời sống bác ái yêu thương đối với hết thảy mọi người.

Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã mời gọi chúng con từ bỏ mình và vác thập giá mà theo Chúa. Xin cho tất cả chúng con luôn cố gắng thực hiện lời mời gọi quan trọng ngày. Chúng con cầu xin…

VI. Trong Thánh Lễ

– Trước Kinh Lạy Cha: Chúa Cha đã sai Chúa Giêsu mang Tin Mừng cứu độ cho loài người. Chúa Giêsu lại kêu mời chúng ta chia xẻ sứ mạng ấy. Cùng với Chúa Giêsu, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha.

VII. Giải tán

“Hãy ra khơi thả lưới”. Đó là lời Chúa mời gọi chúng ta. Chúng ta hãy mau mắn đáp lại như Phêrô xưa. Chúc anh chị em ra đi bình an.

 

10. Hãy chèo ra chỗ nước sâu – Lm. Ignatiô Trần Ngà

Tại sao Chúa Giêsu chọn bốn môn đệ đầu tiên trong hàng ngũ những người đánh cá? Ngài có dụng ý gì chăng? Phải chăng tiêu chí đầu tiên cần cứu xét để tuyển chọn tông đồ là phải dạn dày sương gió, phải sẵn sàng xông xáo giữa biển đời đầy bão tố cuồng phong?

Có lẽ chính vì đã quen chịu nhọc nhằn trên biển cả, nhiều phen đối đầu với bão táp, thách thức với cuồng phong mà Simon và các bạn chài của anh đã “lọt vào mắt xanh” của Chúa Giêsu.

Nhưng trước khi kêu gọi Phêrô và các bạn chài của anh dấn bước vào công cuộc loan báo Tin Mừng đầy gian khổ, Chúa Giêsu muốn dạy cho các anh bài học vỡ lòng. Ngài truyền cho các anh chèo ra chỗ nước sâu…

Dù mệt mỏi và chán nản vì phải lao nhọc suốt đêm mà chẳng được tích sự gì, các anh vẫn vâng lời Chúa Giêsu để ra khơi, để chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới. Nhờ đó, các anh đã trúng một mẻ cá rất tuyệt vời. Qua đó, các anh học được bài học đầu tiên: Muốn bắt được nhiều ‘tôm cá’, thì hãy vâng lệnh Chúa chèo thuyền ra ‘chỗ nước sâu’.

Cuộc ra khơi của Chúa Giêsu

Ngự trên ngai trời mà cứu thế, mà phán dạy loài người, hay ít ra, dùng các tiên tri mà phán dạy, thì ‘đỡ khổ’ hơn nhiều. Nhưng Ngôi Hai Thiên Chúa đã không làm như thế.

Ngài đã rời bỏ bờ bến an toàn và đầy đủ tiện nghi, đã bỏ hết mọi sự lại đằng sau để ra khơi. “Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân”. (Philíp 2, 6-7)

Ngài phải mạo hiểm đến chỗ nước sâu nhất: sinh ra trong máng cỏ thấp hèn, đến ngụ nhờ nhà người tội lỗi, hoà mình với những người tội lỗi để xin nhận phép rửa bên bờ sông Gio-đan, chịu chết đau thương tủi nhục giữa những tên gian phi, chịu mai táng trong mồ…

Rồi, thay vì yên vị trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem mà giảng dạy hoặc ít ra ngồi giảng trong các hội đường vào các ngày sa bát như các ráp-bi Do Thái, Chúa Giêsu đã xông xáo vào khắp hang cùng ngõ hẽm để loan Tin Mừng: trên triền núi, giữa đồng hoang, bên bờ giếng, bên bãi biển, bờ hồ…

Cuộc ra khơi của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II

Noi gương Chúa Giêsu, vị đại diện của Ngài là Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã liên tục ra khơi, chèo ra chỗ nước vừa sâu vừa nguy hiểm. Qua 26 năm trong triều đại giáo hoàng, Ngài đã thực hiện 104 chuyến công du ngoài nước Ý và 146 chuyến công du trong nước Ý (không tính Rô-ma), thăm viếng hơn 130 quốc gia trên thế giới. Tưởng cũng cần thêm rằng trong số đó, ngài đã tám lần đến thăm viếng các nước Hồi Giáo, đặc biệt Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên bước vào một ngôi Đền Thờ Hồi Giáo cổ kính tại Syria vào năm 2001.

Tính ra, Ngài đã đi công du 1,400,607 km, tương đương 28 lần vòng quanh trái đất. Ngoài ra mỗi ngày Ngài làm việc đến 18 tiếng đồng hồ.

Ngài đã ‘chèo’ đến những vùng biển nhiều sóng gió: đến thăm những miền đất thù nghịch với Hội Thánh, vào những ‘miền đất thánh’ của Phật giáo, Án giáo, Hồi giáo hay Chính Thống giáo… vào cả những nơi mà một số đông dân chúng sở tại không muốn cho ngài đến, lại đòi ngài phải xin lỗi họ (như trong chuyến tông du tại Hy Lạp vào tháng 5 năm 2001), đến cả những nơi mà tính mạng ngài đang bị hăm doạ… Ngài là vị giáo hoàng can đảm nhất trong lịch sử, sẵn sàng dấn thân vào những ‘chỗ nước sâu’, những vũng xoáy, những nơi sóng gió… mà không hề biết sợ là gì, miễn là Tin Mừng được loan báo.

Nối gót Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phalô II, vị Giáo Hoàng đương kim Bênêđictô, cuối tháng 11 năm 2006 vừa qua đã thực hiện chuyến viếng thăm Thổ-nhĩ-kỳ đang lúc tại đây đang nổi lên làn sóng chống đối ngài mãnh liệt và nhiều người quá khích hăm doạ sẽ giết ngài bằng mọi giá khiến cho nhiều người hết sức quan ngại.

Hội Thánh đang mời gọi chúng ta ra khơi

Trong tông thư Novo Millennio Ineute được công bố vào ngày kết thúc đại năm thánh 2000, Đức Giáo Hoàng Phaolô II khẩn thiết kêu gọi mọi thành phần Dân Chúa trên khắp thế giới hãy ‘Chèo ra chỗ sâu’ (Lc 5, 4) để thả lưới, vì ‘một thiên niên kỷ mới đang mở ra trước mặt Hội Thánh như là một biển cả mà chúng ta sẽ mạo hiểm trong đó, cậy dựa vào Đức Kitô, Con Thiên Chúa’ (số 58)

Trong dịp Hội Đồng Giám Mục Việt Nam triều yết Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II nhân chuyến đi viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô vào ngày 22-1-2002, vị Cha chung của Hội Thánh cũng mời gọi Giáo Hội Việt Nam hãy ra khơi. Ngài ngỏ lời với Hội Đồng Giám Mục Việt Nam: ‘Giáo Hội Việt Nam được mời gọi ra khơi: Tôi muốn khích lệ anh em hãy hết sức quan tâm rao giảng Tin Mừng và truyền giáo…’

Thủ lãnh của chúng ta là Chúa Giêsu đã dấn thân vào chỗ nước sâu như thế, vị lãnh đạo của Hội Thánh là Đức cố giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng như Bênêđictô đã anh dũng ra khơi như thế… thì với tư cách là thân mình của Đức Kitô, chúng ta không còn chọn lựa nào khác là cùng chèo ra chỗ nước sâu với Chúa Kitô, cùng ra khơi với Hội Thánh.

Lạy Chúa, con xin thú lỗi với Chúa là con chỉ muốn bám chặt đất bằng cho yên ổn và chẳng hề muốn ra khơi, vì ra khơi thì nhọc nhằn quá, phải hy sinh nhiều thứ quá mà đời sống lại rất đỗi bấp bênh và dẫy đầy nguy hiểm.

Ước gì cuộc ‘ra khơi’ vĩ đại của Chúa sẽ là một nhắc nhở không ngừng để con noi theo mà dấn bước.

Ước gì tấm gương chèo ra chỗ nước sâu đầy hiểm nguy sóng gió của Đức Thánh Cha là một thôi thúc liên tục thúc giục con lên đường đến với anh em con.

 

11. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Những ngày cuối năm, thông thường các Sr. các Thầy đã khấn trọn đời trong năm qua được về quê nghỉ tết và dâng lễ tạ ơn.

Năm nay, Giáo xứ chúng ta vinh dự có 5 thánh lễ tạ ơn cho 3 Sr. và 2 Thầy. Đây là niềm vui cho Giáo xứ, gia đình và đặc biệt là niềm vui cho bản thân các tân vĩnh khấn. Trong lời cám ơn sau lễ, hầu hết các tân khấn sinh đều bày tỏ tâm tình của mình về tình thương cao cả của Thiên Chúa trước sự bất xứng của thân phận con người.

1. Ơn gọi là một huyền nhiệm

Thật vậy, ơn gọi nói chung và nhất là ơn gọi đi tu là một huyền nhiệm. Ơn gọi phát xuất từ Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã từng nói: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”(x. Ga 15,16). Thiên Chúa luôn đi bước trước để tuyển chọn con người. Cụm từ “hãy theo Ta” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Kinh Thánh. Thiên Chúa chọn Isaia làm tiên tri. Thiên Chúa chọn Phaolô làm Tông đồ dân ngoại. Thiên Chúa chọn Phêrô làm kẻ chài lưới người. Thiên Chúa chọn tôi, chọn anh chị em làm việc nọ việc kia. Mỗi người đều được Thiên Chúa kêu gọi để giao trách nhiệm tuỳ hoàn cảnh và địa vị của mình.

2. Trước Thiên Chúa, con người luôn cảm thấy bất xứng

Nhưng, đứng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, con người luôn cảm thấy bất xứng.

Bài đọc thứ nhất cho chúng ta biết, trước nhan Thiên Chúa ba lần Thánh, tiên tri Isaia đã tự nhận mình là kẻ bất xứng, ông thốt lên rằng: “Vô phúc cho tôi! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Ðức Vua, Người là Chúa các đạo binh”(Is 6,5).

Bài đọc thứ hai, Thánh Phaolô cũng đã nhận mình là kẻ hèn mọn nhất trong các Tông đồ. Ngài cho mình là kẻ bất xứng không đáng làm Tông đồ, Ngài nói: “Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các Tông đồ, và không xứng đáng được gọi là Tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa”(1Cr 15,9).

Bài Tin mừng Thánh Luca kể lại, sau khi thấy mẻ cá lạ lùng, Phêrô cảm thấy mình tội lỗi, không xứng đáng đứng gần Chúa. Ngài đã thốt lên với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”(Lc 5,8).

Đối với chúng ta, chắc chắn ai cũng cảm thấy bất xứng, vì không ai hoàn hảo.

3. Thiên Chúa biến sự bất xứng thành khí cụ của Ngài

Thiên Chúa đã làm cho Isaia trở thành một tiên tri, Thần Sốt Mến đã nói với Isaia rằng: “Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ, và tội của ngươi được thứ tha”(Is 6,7). Và khi nghe tiếng Chúa phán: “Ta sẽ sai ai đi? Và ai sẽ đi cho chúng ta?”(Is 6,8). Isaia đã mạnh dạn thưa với Chúa rằng: “Này con đây, xin hãy sai con”(Is 6,8). Isaia đã trở thành một tiên tri lớn, một tiên tri vĩ đại trong thời Cựu Ước.

Thiên Chúa cũng đã biến Phaolô từ một người bắt bớ Giáo Hội trở thành vị Tông đồ dân ngoại. Chính thánh Phaolô đã nói: “Nhưng nay tôi là người thế nào, là nhờ ơn của Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các Ðấng: song không phải tôi, nhưng là ơn của Thiên Chúa ở với tôi”(1Cr 15,10).

Còn Phêrô, từ một người làm nghề đánh cá, Chúa đã biến ông thành một Tông đồ đánh bắt các linh hồn. Từ một người đã từng phạm tội chối Thầy ba lần, trở thành người làm đầu Hội Thánh, vị Giáo Hoàng đầu tiên. Thật là kỳ diệu. Thiên Chúa biến sự bất xứng của con người thành khí cụ của Ngài. Đối với Ngài, “Không có gì mà Ngài không làm được”(Lc 1,37).

4. Thiên Chúa cần sự cộng tác của con người

Thánh Augustinô nói một câu rất nổi tiếng: “Chúa dựng nên con không cần có con nhưng để cứu chuộc con, Chúa cần sự cộng tác của con”. Mặc dầu, Thiên Chúa ban ơn để biến đổi con người từ bất xứng trở thành khí cụ hữu hiệu của Chúa. Nhưng Thiên Chúa luôn luôn cần sự cộng tác của con người. Khi nghe Thiên Chúa mời gọi, Isaia đã sẵn sàng đáp trả và dấn thân trong sứ mạng tiên tri.

Cũng vậy, sau cú ngã ngựa trên đường Đamát, Phaolô đã hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, con phải làm gì?”(Cv 22,10). Sau đó, Phaolô đã làm theo sự hướng dẫn của Chúa: Lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy bởi ông Anania. Cố gắng hoà nhập với các Tông đồ và các Kitô hữu tiên khởi. Đặc biệt, Phaolô đã dùng khả năng và cống hiến sức lực của mình để loan báo Tin Mừng cho dân ngoại. Có thể tóm tắt sự cộng tác của Ngài với ơn Chúa qua chính lời Ngài kể trong thư 2 Côrintô sau đây: “… Bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!”(x. 2Cr 11, 23-28).

Với Thánh Phêrô, mặc dầu đang yên bề gia thất, nghề nghiệp ổn định…Nhưng Ngài đã đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu. Ngài đi theo Chúa trong suốt thời gian ba năm, được Chúa huấn luyện, uốn nắn. Mặc dầu Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng sau đó đã ăn năn khóc lóc, hối hận về hành động của mình. Trước khi đặt làm đầu Giáo Hội, Chúa Giêsu đã hỏi Phêrô ba lần, con có yêu mến Thầy không? Phêrô đã không ngần ngại thưa lên rằng: “Lạy Thầy, con yêu mến Thầy”(x. Ga 21, 15-19). Phêrô đã thực sự yêu mến Chúa hết lòng hết sức, Ngài cống hiến hết mình vì sự tồn tại và phát triển của Giáo Hội thuở ban đầu.

5. Với chúng ta hôm nay

Trước mặt Thiên Chúa, chúng ta cũng là những người bất xứng, tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa thương mời gọi chúng ta gia nhập Giáo hội. Dầu là linh mục, tu sỹ hay giáo dân, chúng ta phải biết cộng tác với ơn Chúa để chu toàn bổn phận của mình. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Chúa giao cho chúng ta sứ mạng tư tế, vương đế và ngôn sứ. Chúa mời gọi chúng ta đóng góp phần mình trong công cuộc xây dựng và phát triển Giáo Hội. Mỗi chúng ta có trách nhiệm Phúc Âm đời sống chính mình, Phúc Âm hoá đời sống gia đình, Phúc Âm hoá đời sống xã hội, để qua chúng ta mọi người sẽ biết và tin yêu Chúa. Đặc biệt, đối với mỗi người giáo dân, sống giữa lòng xã hội và thế giới, Công Đồng Vaticanô II đã dạy rằng: “ …Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động trong những nơi và hoàn cảnh mà nếu không có họ, Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế gian” (LG, số 33)

Lạy Chúa, con có thể thưa với Chúa như tiên tri Isaia, như Phaolô hay như Phêrô. Vì con cảm thấy mình yếu kém hơn nhiều so với các Ngài. Nhưng tin tưởng vào Chúa, con mạnh dạn dùng khả năng và những gì Chúa ban cho con để phục vụ Chúa và Giáo hội. Xin Chúa luôn đồng hành và giúp đỡ con. Amen.

 

12. Lợi ích của vâng lời – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Người ta vẫn thường nói: “sau đêm dài là ánh bình minh”. Cuộc đời không phải lúc nào cũng tối tăm. Có những lúc tưởng như vô vọng nhưng dịp may lại đến với chúng ta. Có những lúc tưởng như không còn lối thoát nhưng bàn tay kỳ diệu của Đấng Tạo hoá đã kịp thời mở lối cho chúng ta.

Lời Chúa hôm nay kể về một câu chuyện rất đời thường của những người dân nghèo thuyền chài miền Galilêa. Họ vật vã với sóng gió biển cả suốt đêm. Họ luôn phải đối mặt với biết bao hiểm nguy. Thế nhưng lưới vẫn nhẹ, thuyền vẫn rỗng vì chẳng bắt được con cá nào. Ánh bình minh hôm nay không đem lại cho họ niềm vui. Niềm hân hoan của ngày mới không đến với họ. Họ thất vọng nhiều hơn vui. Một đêm vất vả chẳng được gì là dấu chỉ cho một ngày cơm bữa no bữa đói. Lòng buồn vời vợi. Họ ngồi giặt lưới trong tâm trạng nặng trĩu những âu lo. Thuyền lứơi của họ xem ra đã vô dụng. Bỗng dưng Thầy Giêsu lại muốn sử dụng chiếc thuyền của họ. Chúa mượn thuyền của Phêrô. Con thuyền mà Phêrô tưởng chừng như chẳng giúp ích gì cho ông. Thuyền đánh cá nhưng có được con cá nào đâu? Chúa mượn thuyền Phêrô không phải để đánh cá mà dùng làm phương tiện rao giảng tin mừng. Cuối đoạn tin mừng Chúa lại mượn luôn con người Phêrô làm kẻ chuyên lo chài lưới người.

Xem ra những thất bại trong cuộc đời luôn là cơ hội để chúng ta thay đổi cuộc sống. Vì Thất bại là mẹ thành công. Thất bại để hiểu rõ sự thật, để hiểu rõ con người và lượng giá sức người cho phù hợp với khả năng để tiến tới thành công. Phêrô đã thay đổi phận số đời mình từ ngày ông cho Chúa mượn chiếc thuyền làm phượng tiện rao giảng Tin mừng. Từ ngày Phêrô vâng lời Thầy Giêsu chèo ra chỗ sâu mà thả lưới bắt cá xem ra đã thay đổi mọi suy nghĩ của Phêrô. Phêrô từ đó đã đi theo Chúa. Phêrô từ đó càng hiểu hơn về giá trị của vâng lời. Vâng lời Thầy là tin tưởng hoàn toàn vào Thầy. Vâng lời là nhìn nhận sự yếu kém bất toàn của mình để làm theo lời Thầy chí thánh mà có lần ông đã tuyên xưng: “Thầy là Con Thiên Chúa”. Vâng lời Thầy là làm tất cả những gì Thầy muốn Phêrô làm. Phêrô đã thành công khi vâng lời thầy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới. Ông đã được một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi một mình Phêrô không mang về hết phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp. Mẻ cá này là hình ảnh tiên báo cho lời giảng thuyết đầu tiên của Phêrô sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Phêrô đã mang về cho Giáo hội hơn 3000 người tin theo Chúa.

Vâng, những thất bại trong cuộc đời. Những cay đắng trong cuộc sống đôi khi thật cần thiết để hoàn thiện con người chúng ta. Có những người suốt đời gặp toàn điều may lành có lẽ họ không cảm thấy sự bất toàn của mình để khiêm tốn sống đúng với con người thật của mình. Vì “biết người biết ta trăm trận trăm thắng”. Không biết rõ mình nên khó có thể đứng vững trước nguy nan, trước sóng gió cuộc đời. Khi con người biết rõ giới hạn của mình là lúc con người sống khiêm tốn để cần sự trợ giúp của tha nhân, nhất là của Thiên Chúa.

Nhà bác học Archimède đã từng nói: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất này lên”. Kinh nghiệm cho thấy: cho dù phiến đá đồ sộ to lớn mấy chăng nữa! nếu đòn bẩy có điểm tựa sẽ dễ dàng lăn tảng đá rời khỏi vị vị. Archimède đã dựa vào kinh nghiệm rất đời thường để xác tín điều đó. Ở đời cũng vậy, có nhiều việc tưởng chừng như sẽ bỏ dở dang, thế nhưng nhờ ơn trời và sự trợ giúp của nhiều người công việc đã tiếp diễn thật tốt đẹp, ngoài sức tưởng tượng. Và đôi khi cũng có nhiều ngừơi xem ra bất tài vô dụng nhưng họ vẫn thành công khiến chúng ta sững sờ ngạc nhiên. Sự thành công đến với họ không do tài trí của họ mà do sự trợ giúp của những người thân, của đồng nghiệp. Và trên hết đó chính là ơn ban của Chúa dành cho những ai biết tin tưởng cậy trông vào Chúa. Simon Phêrô đã dựa vào Lời Chúa mà ông đã bắt được một mẻ cá thật kỳ diệu. Các tông đồ đã dựa vào sức mạnh của Chúa để ra đi loan báo tin mừng. Các ngài đa phần là dân chài nghèo hèn thế mà đã thay đổi cả thế giới. Văn hoá kytô giáo đã phủ khắp năm châu bốn biển không do tài trí của con người, mà do quyền năng Chúa thực hiện trên những con người yếu hèn như khí cụ của Chúa.

Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết cậy dựa vào Chúa để can đảm ra đi loan báo tin mừng. Ước gì mỗi người chúng ta dầu trong hoàn cảnh nào, cũng không bỏ cuộc nhưng luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa sẽ dẫn chúng ta đi qua những thăng trầm của cuộc đời. Cuộc đời luôn có những khó khăn. Dòng đời luôn có những bấp bênh nhưng chúng ta hãy tin tưởng, Chúa sẽ luôn kịp thời nâng đỡ và giải cứu chúng ta khỏi những nguy nan, bất trắc và hiểm nguy. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chạy đến với Chúa và kêu cầu Chúa trong những lúc nguy nan. Amen.

 

13. Muôn sự nhờ Trời – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Ngày đầu năm chúng ta hay thăm hỏi nhau bạn làm ăn thế nào? Cuộc sống của bạn có bình an không? Dường như ai cũng khiêm tốn trả lời: nhờ ơn Trời mà năm nay làm ăn tốt hơn. Nhờ ơn Chúa mà được bình an mọi sự.

Nhà thơ Nguyễn Du năm xưa cũng từng tin vào Trời. Ông Trời định đoạt mọi sự cho nhân gian.

Trời còn để có hôm nay

Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời

Hoa tàn mà lại thêm tươi

Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa

Quả thực, “Trời còn để có hôm nay”  để sống, để nhìn thấy nhau, là ân ban bởi Trời. Mỗi ngày là một tặng phẩm của đất trời. Dầu không biết ngày mai sẽ ra sao nhưng vẫn phải trân quý giây phút hiện tại để cám tạ ơn Trời đã ban cho chúng ta được đoàn viên hôm nay. Dẫu rằng có những lúc “Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”, thế nhưngsau  những rủi ro, cùng cực, khổ đau, thao thức, ba đào… Trời vẫn cho chúng ta có ngày hôm nay để có thề sum vầy bên nhau.

Ngày xưa có người hỏi Socrates: “Ông là người có học vấn uyên thâm, ông có biết khoảng cách giữa trời và đất là bao nhiêu không?”

Socrates trả lời: “Khoảng 1 mét”.

Người đó không tin nói:“Thưa ông, ngoài trẻ sơ sinh ra, chúng ta ai cũng cao hơn 1m, nếu độ cao giữa trời và đất chỉ có 1m, thì chẳng phải chúng ta đã đâm vào bầu trời rồi hay sao?”

Socrates tiếp tục nói: “Đúng, ai mà chả cao hơn 1m, nếu muốn nổi bật giữa trời đất, thì phải biết cách cúi đầu”.

Hóa ra con người cần phải học cúi đầu. Cúi đầu để thấy mình không bằng ai. Cúi đầu để thấy con người mình thật hạn hẹp cần đến sự trợ giúp của Trời cao. Cúi đầu để thấy rằng mình cần sự trợ giúp của anh em. Cúi đầu để thấy mọi sự đều là ân ban của Trời mà biết sống cảm mến tri ân.

Phê-rô và các bạn chài năm xưa đã thấy quyền năng Chúa nhờ biết cúi đầu. Cúi đầu để vâng lời Thầy mà chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới. Họ đã được một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi một thuyền không mang về hết mà phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp.

Mẻ cá này cũng là hình ảnh tiên báo cho lời giảng thuyết đầu tiên của Phêrô sau ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống. Phêrô đã nhờ ơn Chúa thánh Thần mà mang về cho Giáo hội hơn 3000 người tin theo Chúa.

Các tông đồ cũng dựa vào sức mạnh của Chúa để ra đi loan báo tin mừng. Các ngài đa phần là dân chài nghèo hèn thế mà đã thay đổi cả thế giới. Văn hoá kytô giáo đã phủ khắp năm châu bốn biển không do tài trí của con người, mà do quyền năng Chúa thực hiện trên những con người vốn dĩ bất toàn vẫn làm nên những chuyện phi thường.

Cuộc đời luôn đưa đến biết bao khó khăn thử thách. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy bước đi trong niềm tín thác nơi Chúa. Chính Chúa sẽ trợ giúp chúng ta. Chính Chúa sẽ dẫn chúng ta đến chỗ thành toàn. Nơi Thiên Chúa không gì mà Ngài không làm được. Ngài có đủ quyền năng để hoàn tất chương trình của chúng ta.

Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết cậy dựa vào Chúa để can đảm ra đi loan báo tin mừng. Ước gì mỗi người chúng ta dầu trong hoàn cảnh nào, cũng không bỏ cuộc, nhưng luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa sẽ dẫn chúng ta đi qua những thăng trầm của cuộc đời. Cuộc đời luôn có những khó khăn. Dòng đời luôn có những bấp bênh nhưng chúng ta hãy tin tưởng, Chúa sẽ luôn kịp thời nâng đỡ và giải cứu chúng ta khỏi những nguy nan, bất trắc và hiểm nguy. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chạy đến với Chúa và kêu cầu Chúa trong những lúc nguy nan. Amen.

 

14. Chúa gọi – Ta đáp trả

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Nếu mỗi một Chúa Nhật đều có một chủ đề để làm nổi bật lên ý nghĩa của Phụng Vụ được cử hành, thì Chúa Nhật hôm nay, chủ đề chính đó là nói về ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin Mừng.

Tuy nhiên, để trở thành một ơn gọi, cần phải có tương quan hai chiều, đó là: Chúa gọi và lời đáp trả của mỗi người. Nhưng để một ơn gọi có giá trị trước mặt Chúa, con người cần phải có một sự cảm nghiệm sâu sắc về tình yêu giữa Thiên Chúa và bản thân.

Đây chính là mẫu số chung cho các ơn gọi mà Phụng Vụ hôm nay đề cấp đến.

1. Ơn gọi của Isaia và các Tông đồ

Trong bài đọc I, chúng ta thấy việc Chúa chọn và gọi tiên tri Isaia qua việc Người tỏ cho ông thấy vinh quang chói lòa trong đền thờ.

Trước cảnh huy hoàng và tráng lệ đó, ông nhận ra Thiên Chúa là Đấng vô cùng Thánh Thiện, toàn năng, trong khi ấy, Isaia là một người tội lỗi, bất xứng! Nhưng khi được Thiên Chúa thanh tẩy, khiến ông trở nên trong sạch…, rồi người gọi ông trở nên tiên tri cho Người, ông đã mau mắn đáp lại trong sự tin tưởng và đầy quyết tâm: “Có con đây, xin Chúa sai con đi” (Is 6,8).

Sang bài đọc II, thánh Phaolô trình thuật hành trình rao giảng của ngài bị nhiều người chống đối, chê bai đủ điều và cho rằng ngài không xứng đáng để trở thành Tông đồ. Phaolô không chối cãi, không đôi co hay tìm cách kháng chế, nhưng ngược lại, ngài đã luôn nhận mình là con người thấp hèn vì đã bắt bớ, hành hạ Giáo Hội một thời, hơn nữa lại được chọn và gọi sau hết so với các Tông đồ, nên bản thân chỉ như là đứa trẻ sinh non…

Nhưng nhờ ân sủng và tình thương của Thiên Chúa, nên ngài đã trở nên vị Tông đồ lừng danh về mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh.

Sang bài Tin Mừng, thánh sử Luca trình thuật việc Đức Giêsu gọi và chọn các môn đệ đầu tiên trong bối cảnh mẻ cá lạ nơi bờ biển.

Khởi đi từ việc Đức Giêsu mượn chiếc thuyền của Simon để làm chỗ đứng giảng dạy, rồi tiếp theo là lệnh truyền thả lưới bên phải mạn thuyền, và cuối cùng là một mẻ cá lạ!

Đứng trước những sự trùng khớp và nhiệm mầu như vậy, Simon đã sụp lạy dưới chân Đức Giêsu và thưa: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Cả ông Giacôbê và Gioan cũng kinh ngạc như ông. Thấy vậy, Đức Giêsu đã phán bảo các ông: “Đừng sợ! từ nay con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.

2. Sứ điệp Lời Chúa

Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta thấy sứ điệp Lời Chúa toát lên một điểm chung, đó là: Chúa gọi và chọn những người Chúa muốn. Mọi ơn gọi đều phát xuất từ Chúa do tình thương của Người. Điều quan trọng, con người phải ý thức rằng: mình chẳng là gì trước mặt Chúa, nhưng lại được Chúa yêu thương và tuyển chọn. Phần còn lại, đó là đương sự cảm nghiệm được tình thương của Chúa và mau mắn đáp lại là thôi.

Chúa không chọn ai khi người đó còn đang trong tình trạng kiêu ngạo, vì thế, Người chỉ gọi và chọn những ai có một tấm lòng khiêm nhường thẳm sâu và cảm nghiệm được tình yêu của Chúa trên cuộc đời mình.

Mặt khác, qua phép lạ mẻ cá lạ, Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta thấy:

Trước quyền năng của Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được! Mẻ cá lạ đã minh chứng cho chúng ta thấy điều đó, đồng thời cũng cho thấy sự bất lực, giới hạn của con người, vì thế, con người có làm được việc gì là hoàn toàn dựa vào ơn Chúa.

Cá đầy thuyền là hình ảnh tiên báo về một Giáo Hội rộng khắp nơi nơi và sứ mạng loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất của người môn đệ.

Sự dứt khoát từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa của các môn đệ cho ta thấy: người môn đệ của Chúa, muốn theo Chúa thì phải dứt khoát từ bỏ những ràng buộc như tiền bạc, danh vọng, chức nghiệp và ý riêng để đi theo và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.

Như vậy, Chúa chọn và gọi ai thì Người sẽ cho họ cảm nghiệm được Ngài là Đấng quyền năng, yêu thương và con người là bất xứng, để những người được gọi sẽ đi từ ngỡ ngàng đến vâng phục; từ vâng phục đến niềm tin và rồi ý thức mình chẳng là gì vì bất xứng, nên chỉ là dụng cụ Chúa dùng để ra đi thi hành sứ vụ của Người mà thôi!

3. Ơn gọi của chúng ta và lời đáp trả

Từ ơn gọi của các tiên tri, đến ơn gọi của các Tông đồ và cuối cùng là ơn gọi của mỗi người chúng ta.

Câu chuyện ơn gọi của ngôn sứ Isaia, Phaolô, Phêrô và các bạn trong các bài đọc hôm nay, cũng là mẫu số chung cho ơn gọi của mỗi người.

Ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta được Chúa chọn để trở thành Kitô hữu, thành môn đệ của Ngài và nhất là trở nên chứng nhân của lòng thương xót mà chính mình đã cảm nghiệm.

Ơn gọi đó là ơn gọi phổ quát cho hết mọi người, vì thế, sứ mạng loan báo Tin mừng không chỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ, mà là cho hết thảy những ai đã trở thành Kitô hữu.

Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng mình không xứng đáng để trở thành sứ giả của Chúa, hay nhiều khi đùn đẩy và coi như một gánh nặng, lại có khi thi hành nhưng kiêu ngạo và tự phụ…!

Tất cả những thái độ đó đều không phù hợp với chúng ta là những người tin và đi theo Chúa cũng như chung chia sứ mạng với Ngài.

Thái độ cần có đối với mỗi người, đó là: khiêm nhường, ý thức mình bất xứng nhưng được Chúa thương, sẵn sàng để Người biến đổi như tiên tri Isaia, Phaolô, Phêrô…

Thiết nghĩ, với ơn Chúa, chúng ta sẽ làm được tất cả. Archimède đã khẳng định: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất lên”.

Điểm tựa của chúng ta là chính Đức Giêsu, nếu chúng ta tựa vào Ngài, chúng ta sẽ làm được mọi chuyện. Chúng ta mặc lấy Ngài, chúng ta sẽ có sức hút lạ thường, chẳng khác gì các môn đệ bắt được một mẻ cá lạ!

Mong sao mỗi người chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đều ý thức được trách nhiệm, bổn phận cao quý của mình là trở nên sứ giả cho Thiên Chúa trong lòng xã hội hôm nay!

Ước gì mỗi người biết chu toàn trách vụ trong lòng mến, để nhờ sự quảng đại dấn thân của mỗi người, chúng ta sẽ làm cho nhiều người nhận biết Chúa và tin theo Ngài để được sự sống đời đời.

Lạy Chúa Giêsu, ngày nay vẫn còn quá nhiều người chưa tin hay không biết đến Chúa. Xin Chúa ban cho sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội được nhiều người quan tâm, quảng đại và dấn thân để ra đi loan báo Tin Mừng cứu rỗi cho anh chị em chưa biết đến Chúa. Amen.

 

15. Được gọi cộng tác với Thiên Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Các bài đọc trong thánh lễ Chúa Nhật hôm nay đều đề cập đến ơn gọi. Tiên tri Isaia đã được thấy Thiên Chúa và cảm nhận thân phận nhơ uế của mình. Thiên Chúa đã xá tội bằng thanh tẩy đôi môi nhơ uế của Ysaya với than hồng nơi bàn thờ. Thiên Chúa phán: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Isaia đã lên tiếng đáp lời: “Dạ, con đây, xin hãy sai con”. Thiên Chúa cần con người, và Isaia đã sẵn sàng đáp trả.

Đức Giêsu đã mời gọi Phêrô trở nên thợ lưới người sau khi Phêrô nhận ra mình tội lỗi bất xứng ở bên Đức Giêsu: “Lạy thầy, xin xa tôi ra vì tôi là kẻ tội lỗi”: “Đừng sợ, từ nay ngươi sẽ là kẻ chài lưới người”. Chèo thuyền vào bờ, Phêrô và các bạn đã bỏ mọi sự mà đi theo Đức Giêsu. Phêrô và các bạn đã quảng đại bỏ tất cả để theo Đức Giêsu.

Phaolô đã từng giữ áo cho những người Do Thái ném đá Stephen (Cv.7, 58); ông cũng tán thành việc giết Stephen (Cv.8, 1). Tuy nhiên, trên đường đi Đamas để bắt các Kitô hữu đem về Giêrusalem trị tội, Phaolô đã được ơn trở lại. Từ đó, Phaolô là khí cụ đặc biệt Thiên Chúa dùng để rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô: “Thưa anh em, trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta… Người đã trỗi dậy và đã hiện ra với Kêpha và với nhóm mười hai” (1Cr. 15, 3-5).

Cả ba người được gọi trong các bài đọc Kinh Thánh hôm nay đều đã là tội nhân hoặc đã ý thức mình là tội nhân. Chính Thiên Chúa đã tha thứ tội cho họ, và gọi họ cộng tác với Ngài. Được Thiên Chúa mời gọi cộng tác, là vinh dự đặc biệt cho những ai đã từng phạm tội chống cưỡng Ngài. Và rồi ngay cả khi đã đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa mà vẫn còn vấp ngã, thì Thiên Chúa vẫn tiếp tục trung thành mời gọi con người vươn lên. Điều này cũng đúng đối với các người theo Chúa, đặc biệt như các tông đồ. Dù đã là môn đệ, Phêrô cũng có lúc chối Thầy (Mc.14, 71), và có lúc chưa can đảm sống như mình phải sống (Gl.2, 11-14). Thiên Chúa vẫn tiếp tục mời gọi những người Ngài mời gọi, cho du họ giới hạn khiếm khuyết. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài vẫn yêu thương và liên lỉ mời gọi con người cho dù họ bất trung.

Kitô hữu cũng là những người đã được Thiên Chúa mời gọi. Ngài mời gọi con người hãy sống như con cái Thiên Chúa, trở thành tình yêu và sự hiện diện của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Thiên Chúa mời gọi mỗi người hãy yêu thương mọi người, để mỗi người cảm được Thiên Chúa yêu thương qua những người sống xung quanh mình.

Người đời thường tìm tiền tài, danh vọng, địa vị. Thiên Chúa mời gọi con người trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho con người hôm nay. Bao nhiêu người nghèo cần sự giúp đỡ của người khác. Ngày nay Thiên Chúa không làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nhưng Ngài mong những người nghèo hôm nay nhận được tấm bánh từ tay anh chị em mình. Những ân nhân của người nghèo thực sự là đại diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa cho họ ăn và giúp họ những gì họ cần thiết qua trung gian những ân nhân này. Thiên Chúa hiện diện với tôi qua anh chị em. Phần tôi, tôi được mời gọi để trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho người khác.

Nhiều người tưởng rằng tiền của, địa vị, danh vọng chức quyền, sự thỏa mãn về thể xác làm cho người ta hạnh phúc, nên họ đã đi tìm những điều đó. Nhưng nếu biết quan sát và nhận định, họ sẽ thấy tiền bạc, danh vọng chức quyền địa vị, thỏa mãn vật chất, không làm con người được hạnh phúc đích thực. Chính khi giúp đỡ tha nhân, khi yêu thương vượt qua chính mình, khi hy sinh để giúp đỡ người khác, con người tìm được hạnh phúc thực. Kitô hữu được mời gọi để làm chứng về điều này. Phục vụ làm con người hạnh phúc.

Kitô hữu được mời gọi để làm vua. Không nô lệ vật chất, làm chủ, tự do với tất cả để chỉ có Thiên Chúa là nhất đối với mình; đó là nét vua mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với con người. Ai thua thì bị làm nô lệ. Thiên Chúa không muốn con người nô lệ cho xác thịt, cho vật chất; Ngài mời gọi con người vượt lên, chiến thắng, làm chủ làm vua. Thiên Chúa mời gọi con người trở nên người tự do thật sự.

Kitô hữu được mời gọi để trở thành tiên tri. Tiên tri là người của Thiên Chúa, người nói nhân danh Thiên Chúa cho con người hôm nay. Nói cho người khác biết Đức Giêsu đã phục sinh, Ngài là người của Thiên Chúa, Ngài thuộc về Thiên Chúa đến độ có thể nói Ngài là Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Một khi con người nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, con người biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng và chính yếu bắng chính cuộc sống của mình. Kitô hữu được mời gọi để làm chứng cho Đức Giêsu Phục Sinh bằng niềm tin và cách sống thấm nhuần đức tin của mình. Kitô hữu không phải là người không cảm thấy những khó khăn trong cuộc sống, cũng không phải là người không bị cám dỗ; Kitô hữu là người chia sẻ thân phận con người như bất cứ ai khác, nhưng vẫn có thái độ và cách hành xử khác với những người có lối sống không theo Tin Mừng. Kitô hữu được mời gọi sống vui và phó thác trong mọi hoàn cảnh vì họ biết Thiên Chúa yêu thương họ, và thế gian này không có giá trị tuyệt đối.

Kitô hữu được mời gọi để trở thành tư tế của Thiên Chúa, người đại diện con người tôn thờ Thiên Chúa. Cầu nguyện, dâng chính con người mình lên Thiên Chúa, là thái độ tôn thờ Thiên Chúa đích thực. Cầu nguyện phải là chính sức sống và hạnh phúc của con người. Được đại diện con người dâng lên Thiên Chúa lễ tế là chính con người mình, là một hạnh phúc của Kitô hữu. Chính khi kết hiệp với Thiên Chúa, con người được hạnh phúc đích thực.

Thiên Chúa mời gọi con người, đặc biệt là Kitô hữu, làm cho thế giới này vui hơn tươi hơn đẹp hơn, làm cho con người ngày hôm nay tin tưởng vào nhau hơn, sống vui và hạnh phúc với nhau hơn. Đó là ơn gọi của Kitô hữu. Xin cho Kitô hữu ý thức sứ mạng của mình, và cảm nghiệm hạnh phúc khi thực hiện sứ mạng này.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Theo bạn, nơi con người Đức Giêsu có gì đặc biệt không? Ơn gọi của Đức Giêsu là gì? Sứ mạng của Đức Giêsu là gì?
  2. Thiên Chúa có mời gọi bạn đặc biệt điều gì không? Thiên Chúa muốn bạn sống như thế nào? Thiên Chúa mời gọi bạn làm gì cho Thiên Chúa và con người ngày nay?

 

16. Yếu đuối và sức mạnh

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An – Viết theo “Bài giảng Tĩnh Tâm Linh Mục GP Phan Thiết năm 2010”, ĐGM. Giuse Võ Đức Minh).

Đọc lại trình thuật ơn gọi các Ngôn sứ lớn trong Cựu ước, ta sẽ thấy các ngài luôn ý thức sự thấp hèn bất xứng của mình.

– Môisen: người chăn cừu cho nhạc phụ Yethrô. Có một lần ông lùa đàn cừu tận núi Khoreb, bỗng nhiên ông nhìn thấy một quang cảnh hùng vĩ: Bụi gai bốc cháy mà không bị thiêu rụi. Bị cuốn hút trong khung cảnh hùng vĩ ấy, ông chạy đến để nhìn xem. Khi ông tới gần, một tiếng nói uy nghiêm từ bụi gai tuyên phán: Chớ lại gần, cởi dép ra vì đất ngươi đang đứng là Đất Thánh. Rồi Chúa gọi Môisen nhưng ông ngại ngùng thoái thác: “Lạy Chúa, tôi là ai mà dám đối đầu với Pharaon …Từ xưa tới giờ, tôi đâu có lợi khẩu, tôi chỉ là một đứa nói cà lăm… Vì thế, lạy Chúa, Chúa muốn chọn ai thì chọn, sai ai thì sai, nhưng xin tha cho tôi” (Xh 3,11;4,13). Chúa thuyết phục Môisen “cứ yên tâm! Ta sẽ ở với ngươi, cho ngươi làm phép lạ, tài ăn nói và cho cả Aaron nói thay ngươi”. Môisen đã nhận lời nhưng vẫn run sợ sứ vụ cao cả Chúa trao.

Isaia đã kể lại ơn gọi của mình: Trong một thị kiến đã nhìn thấy Đức Chúa trong một khung cảnh huy hoàng của Đền thờ. Các Thiên Thần tung hô “Thánh! Thánh! Thánh! ĐỨC CHÚA đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!”.Tôi thốt lên với tất cả nổi kinh sợ: “Khốn cho tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là ĐỨC CHÚA các đạo binh!”. Một trong các thần Xê-ra-phim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người đưa hòn than vào ấy chạm vào miệng tôi và nói: “Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội”. Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán; “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Tôi thưa: “dạ con đây, xin sai con đi” (Is 6,1-8).

– Giêrêmia cũng kể về việc Chúa gọi ông: Có lời ĐỨC CHÚA phán với tôi rằng: “ Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho dân”. Nhưng tôi thưa: “Ôi! Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!”. ĐỨC CHÚA phán với tôi: “Đừng nói ngươi còn trẻ! Ta sai ngươi đi đâu ngươi cứ đi; Ta truyền cho ngươi nói gì, ngươi cứ nói. Đừng sợ chúng, vì Ta ở với ngươi để giải thoát ngươi”. Rồi ĐỨC CHÚA giơ tay chạm vào miệng tôi và phán: “Đây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Coi, hôm nay Ta đặt ngươi đứng đầu các dân các nước, để nhổ, để lật, để huỷ, để phá, để xây, để trồng.” (Gr 1,4-10).

Các Ngôn sứ luôn có tâm trạng kinh hãi đến run sợ trước sứ vụ Thiên Chúa trao. Tại sao phải kinh khiếp và run sợ như vậy? Nổi run sợ phát xuất từ cảm nhận cùng một lúc sự thánh thiện tuyệt đối của Thiên Chúa và thân phận tội lỗi của mình. Cảm nhận khoảng cách tuyệt đối giữa Thiên Chúa Chí Thánh và con người yếu đuối; giữa sứ vụ trọng đại và thân phận hèn mọn bé bỏng của mình.Ý thức khoảng cách ấy làm cho con người ta run sợ.

Và trang Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng thuật lại, ngư phủ Simon run sợ, cảm nhận sự thấp hèn trước Thiên Chúa chí thánh. Thấy mẻ cá lạ lùng, Simon Phêrô đã sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! ” (Lc 5,8). Chúa đã chọn Phêrô: Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá. Thế rồi: Họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.

Từ ngày theo Chúa, cuộc đời của Phêrô có nhiều sôi nổi, có nhiều lỗi lầm, nhiều va vấp và nhiều yếu đuối. Cho đến khi xác tín ba lần: “Thưa Thầy, thầy biết là con yêu mến Thầy” thì bình minh đã rửa tội quá khứ để rồi Phêrô viết nên một thiên anh hùng ca cho Giáo hội sơ khai, rao giảng, làm chứng và chết cho Chúa Giêsu.

Thánh Phêrô làm nghề chài lưới (x. Mt 4,18), tên là Simon, con ông Gioan và là anh em với Anrê (x. Ga 1,40.42). Sinh tại Bétxaiđa (x. Ga 1,44), nhưng thường trú tại Caphácnaum (x. Mc 1,29). Ong đã có gia đình riêng và Tin Mừng nói đến mẹ vợ của ông (x. Lc 4,38). Simon được Đức Giêsu đổi tên thành Phêrô (x. Mt 16,18), và được đặt làm đầu của Nhóm 12 Tông Đồ (x. Mt 10,2). Ong thường đại diện các tông đồ lên tiếng trả lời các câu hỏi của Đức Giêsu (x. Lc 5,3-10; Ga 6,68). Phêrô đã sai lỗi chối Thầy ba lần (x. Mc 14,30) và nhiều lần khác bị Đức Giêsu quở trách vì đã có quan điểm lệch lạc về chương trình cứu thế của Đức Giêsu (x. Mt 16,23; Ga 13,8-10). Nhưng ông đã khiêm tốn hồi tâm sám hối (x. Mt 26,69-75), và đã tuyên xưng lòng yêu mến Thầy, nên đã được tha tội và còn được trao nhiệm vụ lãnh đạo đoàn chiên (x. Ga 21,15-17). Tại thành Xêdarê Philipphê, Simon đã tuyên xưng đức tin và đã được Đức Giêsu đổi tên thành Phêrô và còn được trao tối thượng quyền (x. Mt 16,18-19). Ông cũng được Đức Giêsu hứa sẽ cầu nguyện để ông luôn kiên vững đức tin để chu toàn nhiệm vụ củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Ong là một trong ba môn đệ thân tín được xem Người biến hình (x. Mt 17,1), chứng kiến phép lạ một bé gái mới chết được sống lại (x. Mc 5,37) và có mặt khi Đức Giêsu hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (x. Mt 26,37). Trong ngày Chúa Phục Sinh, Phêrô và Gioan đã cùng nhau chạy ra mồ khi nghe Maria Mácđala báo tin xác Thầy bị đánh cắp (x. Ga 20,1-9). Phêrô cũng được Chúa Phục Sinh hiện ra cách riêng (x. Lc 24,34). Sau khi Chúa về trời, Phêrô có mặt trong nhà tiệc ly để xin Chúa Thánh Thần hiện xuống (x. Cv 1,14). Trong những ngày ấy, Phêrô tổ chức cuộc tuyển chọn Mátthia bổ xung vào Nhóm Mười Hai thay chỗ của Giuđa phản bội (x. Cv 1,26).Vào lễ Ngũ Tuần, sau khi được ơn Thánh Thần, Phêrô đã bắt đầu rao giảng Tin Mừng (x. Cv 2,14-36). Nhờ Thánh Thần tác động mà người nghe dù thuộc nhiều dân tộc và ngôn ngữ khác nhau, vẫn hiểu được bài giảng của Phêrô giống như được nghe bằng tiếng mẹ đẻ của mình (Cv 2,5-8). Ngày hôm ấy đã có tới 3.000 người xin theo đạo. Họ được chịu phép Rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội và nhận ân huệ là Thánh Thần (x. Cv 2,37-38.41). từ đây, Phêrô lãnh đạo cộng đoàn Giêrusalem mới thành hình. Ông rảo khắp nơi để đi thăm các giáo đoàn như tại Lốt (x. Cv 9,32), làm nhiều phép lạ (x. Cv 9,33-35.40-41). Ong là người đầu tiên đã làm phép Rửa cho gia đình Conêliô ngoại giáo mà không bắt họ phải chịu phép Cắt Bì trước (x. Cv 10,47-48). Trong Công Đồng Giêrusalem vào năm 49, Phêrô ủng hộ Phaolô và Banaba và cùng quyết định chung là: Không buộc dân ngoại phải chịu phép Cắt Bì trước khi chịu phép Rửa để gia nhập đạo Công Giáo, mà chỉ cần họ kiêng ăn đồ cúng thần, kiêng ăn tiết, kiêng thịt loài vật không cắt tiết, và tránh gian dâm (x. Cv 15,28-28). Sau đó Phêrô đến Rôma và đã bị án tử hình thập giá vào năm 64 trong cuộc bắt đạo dưới thời hoàng đế Nêrông.

Ân sủng của Chúa thật kỳ diệu trong cuộc đời Thánh Phêrô và cả chúng ta nữa. Chiêm ngắm cuộc đời thánh nhân qua các đặc điểm.

Người môn đệ đi theo Chúa.

Yếu tố đầu tiên mà thánh Phêrô có thể nói với chúng ta đó là sự từ bỏ. Không thể đi theo Chúa nếu không có sự từ bỏ. Luôn có cái gì đó để từ bỏ với mỗi thời gian với mỗi tuổi đời.

Vậy thánh Phêrô đã có cái gì để từ bỏ? Điều lạ lùng hết sức mà sau này khoa khảo cổ bên thánh địa đã khai quật lên cơ ngơi của thánh Phêrô. Ngôi nhà của thánh Phêrô kế bên hồ Tiberia, một cơ ngơi rất lớn đến nỗi nhìn vào chúng ta phải giật mình. Theo những chuyên viên về khảo cổ thì thánh Phêrô là người rất giàu có, có những đội thuyền, có gia sản, sự nghiệp và ngay cả có người để yêu, đó là người vợ của ngài. Theo Chúa là từ bỏ. Từ bỏ những gì mà đối với thế gian là gắn bó hết sức. Từ bỏ gia sản, của cải, danh vọng, từ bỏ ngay cả tình yêu chính đáng của mình để đi theo Chúa Giêsu. Sự từ bỏ này đưa Phêrô tới một hồng phúc rất lớn lao đó là yêu mến Chúa Giêsu. Từ bỏ để yêu mến. Nếu chúng ta nhìn lại tư cách môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta có thể nói hai đặc điểm nổi bật đó. Phêrô luôn luôn phải từ bỏ. Nếu được phép nhìn lại môi trường hoạt động của Chúa Giêsu ở vùng Galilê, loanh quanh ở vùng Caphanaum, vậy Chúa ăn ở chỗ nào? Rất có thể là Chúa ở nhà Phêrô, nơi tiếp đón Chúa Giêsu và các môn đệ thời bấy giờ. Rồi giả như Phêrô chỉ một lần rời bỏ cơ ngơi của mình để theo Chúa thì lúc đầu chắc cũng xao xuyến, đau đớn nhưng sau đó thì yên thân. Còn đàng này đi xong lại trở về lại nhà của mình. Có thêm sự nghiệp rồi Chúa lại ra đi và Phêrô lại theo Chúa ra đi. Cho nên nhìn vào cuộc đời của Phêrô, tôi nghĩ rằng, cái sâu xa nhất của Phêrô trong tư cách là môn đệ là liên lỉ từ bỏ nếu không dám nói là từng ngày. Phêrô có rất nhiều điều để từ bỏ hầu có thể theo Chúa Giêsu và khi đã yêu mến Chúa Giêsu Phêrô bộc lộ sự gắn bó của mình lạ lùng hết sức. Có khi chúng ta có cảm tưởng Phêrô giống như một em bé bên cạnh bà mẹ yêu dấu của mình, bất cứ phản ứng gì Phêrô cũng bộc lộ và nói chuyện với Chúa, tâm sự với Chúa và ngay cả những điều thô thiển Phêrô không ngần ngại nói ra với Chúa ở giữa đám đông.

Nếu không vì lòng yêu mến, nếu không có một tâm hồn trẻ thơ mà còn giữ kẽ với Thầy của mình thì không bao giờ dám nói. Ngay cả câu chuyện này tôi thấy thương Phêrô hết sức. Tại Xêdarê Philipphê, Chúa Giêsu hỏi: Người ta bảo Con Người là ai? Người thì nói Thầy là Êlia, người thì nói là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó. Còn chúng con, chúng con nói Thầy là ai? Phêrô thay mặt anh em mình: “Thưa Thầy, Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”. Và Chúa Giêsu nói ngay: Này Phêrô không phải tự sức con có thể nói được điều đó, bởi nếu tự sức con, con chỉ có thể nói như tất cả những người bình thường khác. Nhưng nếu con có thể nói Thầy là Đấng Kitô, con hãy nhớ rằng Cha trên trời đã ban cho con ơn đó. Cha trên trời đã đổ đầy Thánh Thần cho con, vì không ai có thể gọi Thầy là Kitô nếu không có ơn của Chúa Thánh Thần. Con hãy nhớ điều đó.

Tất cả những ai tin Đức Giêsu là Đấng Kitô thì mới có thể trung thành đi theo Đức Kitô, còn ai chỉ nghĩ Ngài là một tiên tri, nghĩ Ngài là một vị anh hùng thì chỉ theo Ngài được một thời gian thôi. Hai môn đệ Emmau cũng như thế. Khi buồn bã rời Giêrusalem về Emmau. Người lữ khách hỏi họ: “Tại sao buồn vậy?” Tại ông Giêsu Nazaret mà chúng tôi tin là Đấng tiên tri, nhưng đã bị người ta giết chết. Đức Giêsu mới nói “Sao lại chậm tin?”. Rồi Ngài dùng Thánh kinh để giải thích cho họ biết Đức Giêsu Nazaret là Đấng Kitô, Đấng Thiên Chúa xức dầu, đã đến thế gian để thi hành sứ mạng. Nếu không tin Đức Giêsu là Đấng Kitô thì rõ ràng không thể trung thành đi theo Chúa. Phêrô đã tuyên xưng điều đó. Rồi Chúa Giêsu đã bộc lộ sứ mạng của Đấng Kitô là phải lên Giêrusalem, chịu nạn, chịu chết, ngày thứ ba sống lại. Phêrô yêu mến Chúa, gắn bó với Chúa, thủ thỉ với Chúa và can ngăn Người, bởi nếu Chúa chết là hết. Vậy mà Chúa Giêsu quay lại trước mặt anh em và mắng Phêrô: Xéo đi Satan! Chúa nói công khai. Trong đời có vị tông đồ nào bị mắng như thế, kể cả Giuđa bị mang tiếng là Satan. Phêrô hiểu được rằng đã là môn đệ đi theo Chúa thì không được đi trước mặt Chúa. Đây là cốt lõi của vấn đề cuộc hành trình người môn đệ. Phêrô cản Chúa nghĩa là muốn đi trước Chúa. Phêrô không thể mở đường vào ơn cứu độ. Phêrô phải đi sau lưng để Chúa đi trước. Người môn đệ đi sau Thầy của mình, người môn đệ đặt vết chân của mình vào dấu chân của Thầy, người môn đệ không lớn hơn Thầy của mình. Bài học này Phêrô hiểu hết sức là thấm thía. Từ bỏ để yêu mến, yêu mến để đi theo. Và chính vì thế những gì Chúa Giêsu làm Phêrô học lấy và rao truyền lại cho mọi người. Phêrô trong tư cách là môn đệ cho chúng ta thấy rằng đi vào trường phái của Chúa Giêsu sẽ mãi mãi là người môn đệ chứ không bao giờ ra trường đâu. Ở học viện này học viện kia khi ra trường có khi người học trò còn hơn Thầy của mình. Còn trong mái trường của Chúa Giêsu người môn đệ sẽ mãi là người môn đệ. Kinh nghiệm của Phêrô soi sáng cho chúng ta để rồi trong cuộc sống của chính mình, dù có thành đạt đến mức nào đi nữa, dù có nổi tiếng đến mức nào đi nữa, thì mình vẫn đi sau lưng Chúa Giêsu. Chúa đi trước mình theo sau.

Người môn đệ yếu đuối và vấp ngã.

Kinh nghiệm của Phêrô soi sáng cho chúng ta hình ảnh người môn đệ yếu đuối và vấp ngã. Thường tình khi nói về một vị thánh, người ta thường nói những điểm tốt nhất, tích cực nhất, anh hùng nhất để ca ngợi. Còn về Phêrô, nếu đọc kỹ Thánh kinh sẽ thấy lạ lùng. Phêrô có nhiều giới hạn, nhiều khuyết điểm và thậm chí rất nhiều vấp ngã.

Suy nghĩ về điều này, nếu chúng ta hỏi thánh Phêrô: Thầy là Đấng điều khiển Hội Thánh sơ khai, biết bao nhiêu áng văn chương Tân ước hình thành, thể hiện lòng kính trọng của các tông đồ trong Hội Thánh sơ khai đối với Thầy, sao lại ghi chép những chi tiết cho đời sau có thể hiểu những yếu đuối những vấp ngã như vậy? Chắc chắn thánh Phêrô sẽ nói rằng: điều đó để cho Chúa được lớn lên. Nếu Thầy có công trạng gì thì người ta sẽ khen Thầy, còn đàng này Thầy không là gì, con người của Thầy là như thế. Chúa đã chọn Thầy ở giữa những con người tầm thường hết sức. Chúa không thay đổi sự tầm thường của Thầy, nhưng xuyên qua sự tầm thường của Thầy Chúa trao ban kho tàng vô giá. Thấm thía điều đó nên sau này một người bạn của Thầy là Phaolô đã nói: “Tôi chỉ là chiếc bình sành dễ vỡ trong khi tôi được chứa đựng kho tàng vô giá là Đức Giêsu Kitô”.

Vậy những yếu đuối và vấp ngã của thánh Phêrô cho chúng ta thấy nền tảng, một nền tảng bị vấp váp rất nhiều vì Phêrô không vựơt qua lập tức được con người tự nhiên của mình là háo danh và tự phụ. Vì Phêrô là con người thành đạt, là con người nổi tiếng nên Chúa đã uốn nắn con người của Phêrô. Nếu như dựa trên sức lực, tiền bạc, uy tín thì Phêrô có thể thành đạt trong một thời gian nhất định, với những con người nhất định mà thôi. Nhưng nếu qua thời gian, vượt không gian mà danh tiếng của Phêrô vẫn trường tồn mãi mãi như chúng ta thấy ngày hôm nay. Điều này để thấy rằng, xuyên qua yếu đuối và vấp ngã, Chúa nâng đỡ Phêrô, tha thứ cho Phêrô. Một con người cần người khác nâng đỡ thì họ không bao giờ quá tự tin. Một con người cần lãnh nhận ơn tha thứ thì sẽ dễ dàng nói lời tha thứ với những người xung quanh, dễ cảm thông với người thất bại.

Cùng học nơi thánh Phêrô để chúng ta trở nên sứ giả đem lại ơn giao hòa, lòng thương xót, ơn tha thứ, sự cảm thông với biết bao nhiêu người quanh mình. Không yếu đuối không cảm thông. Không phạm tội thì không thể nào hiểu được niềm hạnh phúc của con người được tha thứ. Nói như thế không có nghĩa là nên phạm tội. Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm đó. Thánh Phaolô nói rằng: “Điều phải làm tôi lại không làm, điều phải tránh tôi lại làm”. Nếu không suy niệm kinh nghiệm yếu đuối và vấp ngã của Phêrô có lẽ chúng ta đều trở nên những quan tòa.

Khi tin rằng mình vững vàng mà quên ơn Chúa thì có thể vấp ngã. Đêm tiệc ly, Chúa Giêsu nói “Đêm nay chúng con sẽ bỏ Thầy mà đi hết”. Mọi môn đệ khác im lặng lắng nghe run sợ, còn Phêrô gần như vỗ ngực để thưa với Chúa rằng: “Thà chết không bỏ Thầy, con sẵn sàng liều chết với Thầy”. Chúa nói: “Đêm nay trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần”. Phêrô tự phụ: “Người khác chối chứ làm sao con chối Thầy được”. Câu nói của Chúa lạ lùng lắm, đêm nay gà phải gáy và nó sẽ câm đi nếu con không chối, chối rồi nó mới gáy, nếu con không chối thì nó phải câm. Cho nên đứng về khía cạnh đó của Phêrô, nếu tự phụ thì bảo đảm sẽ phải chối giống như con gà phải gáy. Nếu không tựa vào ơn của Chúa, chúng ta sẽ vấp ngã. Lúc còn nhỏ chúng ta thấy ơn Chúa vừa vừa, càng lớn chúng ta thấy tất cả là hồng ân. Càng có những chức vụ, những gánh nặng chúng ta sẽ thấy rằng nếu không có ơn Chúa, sức mình không thể nào làm được. Từ đó Phêrô để lại cho chúng ta bài học rất quý giá mà ngay từ đầu Chúa Giêsu đã nói với ông mà ông không chú ý. Khi ông tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô thì Chúa Giêsu nói tự sức con không thể làm được điều đó, Cha trên trời soi sáng cho con. Nếu con là nền của Hội Thánh thì con hãy nhớ rằng mọi việc hướng về Cha, hãy có hiếu với Cha. Cha trên trời đã chọn con, đã thương ban hồng ân cho con, đã luôn giữ gìn con, ngày nào con lơi đi mối tương quan với Cha trên trời bấy giờ con sẽ vấp ngã. Nhưng Thầy bảo đảm cho con, vấp ngã Thầy cũng kéo con trỗi dậy dù khi đó con sẽ ê chề.

Kinh nghiệm vấp ngã của Phêrô còn là, coi thường anh em mình. Mấy người kia có chối thì chối còn Phêrô thì sao chối Thầy được. Lời nói có vẻ tự phụ, xúc phạm tới anh em. Mỗi người đều là bình sành dễ vỡ. Làm sao để bảo tồn được cái bình sành trở thành của quý. Khi các bình sành để gần nhau, gió có lùa vào cũng không làm đổ. Để gần nhau là chia sẻ nâng đỡ nhau.

Người môn đệ yêu mến Chúa.

“Tôi đi đánh cá đây, anh em hãy đi với tôi” (Ga 21,. Lao nhọc vất vả suốt đêm mà không được gì cả. Đang lúc chán nản thì có tiếng bảo: Hãy thả lưới bên hữu thuyền. Phêrô buông lưới và cá quá nhiều, họ kéo cá lên, thuyền gần như chìm. Khi đó, có tiếng nói của Gioan: Chúa đó. Lời ấy như nhắc bảo Phêrô, tự sức mình không đưa tới kết quả đâu. Phải có Chúa, bao lâu hình ảnh của Chúa rọi soi nơi lời nói, việc làm, đời sống của Phêrô thì bấy giờ mới có thành quả. Còn nếu Phêrô chỉ dựa trên tài sức của mình, dù lao nhọc suốt đêm không bắt được một con cá nào.

Đâu phải dễ để đưa một người đến với đạo thánh Chúa. Dễ gì làm cho một người tin theo Chúa là tình yêu. Hãy có Chúa trong đời sống. Chúa đã thu phục nhân tâm bằng yêu thương. Chúa gọi Phêrô ra một bên và hỏi: Con có mến Thầy không? Lần thứ nhất Phêrô trả lời: Lạy Chúa, có. Lần thứ hai ông nói: Lạy Chúa, có. Lần thứ ba Chúa hỏi thì Phêrô buồn vì Chúa hỏi cùng một câu hỏi đến ba lần.

Trong tiếng Hy Lạp có bốn từ ngữ nói về tình yêu.

– Eros: yêu thương là chiếm đoạt, đưa tới nhục dục.

– Storghê: là tình âu yếm chỉ dành cho những người cùng một tương quan huyết thống với nhau, ai không có tương quan huyết thống, không có được tình âu yếm đó.

– Philia: tình bằng hữu, tình đồng nghiệp, tình cùng sở thích và đặc điểm là sự trung thành; yêu thương là đồng cảm với nhau, trung thành với nhau, chia vui sẻ buồn với nhau.

– Agapê: yêu thương là từ bỏ cho người mình yêu thương. Không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người trao ban, từ bỏ mạng sống mình vì người mình yêu thương, Agapê.

Vậy khi Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô (trong bản văn tiếng Hy Lạp): Phêrô, con có Agapê đối với Thầy không? Phêrô đáp: Con có Philia đối với Thầy. Và Chúa nói: Hãy chăm sóc đoàn chiên. Lần thứ hai Chúa nói: Con có Agapê đối với Thầy không? Phêrô đáp: Con có Philia đối với Thầy. Lần thứ ba Chúa hỏi: Con có Philia đối với Thầy không? Phêrô buồn vì Chúa hỏi ông có Philia đối với Thầy không. Bấy giờ Phêrô nói: Lạy Thầy, Thầy thông hay mọi sự, Thầy biết con chỉ có thể có Philia đối với Thầy mà thôi. Con quá tự phụ, không đủ sức để trao ban sự sống của con cho Thầy, không có ơn của Thầy, con chỉ có thể đối xử với Thầy như người môn đệ, như người bạn, như người ngưỡng mộ trong trường phái nhưng mà trao ban sự sống như Thầy trao ban sự sống của Thầy cho con, tự sức con con chỉ có Philia thôi. Philia và Agapê: hai điều đó rất khác nhau.

Phêrô lúc bấy giờ nói lên con người của mình để cho Chúa biết: Lạy Chúa, con chỉ là con người tầm thường. Đó là lần thứ nhất trong đời Phêrô bộc lộ chân tướng của mình; khác nào như Đức Maria: Này tôi là tôi tớ Chúa. Phêrô nói: Con chỉ là vật mọn phàm hèn trước mặt Chúa. Chính khi đó, Chúa Giêsu mới trao cả Hội Thánh cho Phêrô. Con biết con là ai thì con có thể chăm sóc Hội Thánh; bởi vì con đang làm công việc Thiên Chúa ủy thác và tin tưởng con. Con đang làm việc của Chúa!

Nhìn cuộc đời Thánh Phêrô ta thấy một điều rất rõ là trong trái tim ông lúc nào cũng yêu Chúa. Ngay cả khi Chúa bảo ông là Satan, ông cũng không giận Chúa. Ngay khi vì sợ hãi mà chối Chúa thì ông vẫn yêu mến Chúa. Không phải vì Phêrô yếu đuối hay tội lỗi mà Chúa bỏ ông. Tình yêu chân thành trong tâm hồn ông làm Chúa giữ ông lại và đặt làm lãnh đạo đoàn chiên của Chúa.

Vị Giáo Hoàng đầu tiên của Hội Thánh có một dung mạo là người môn đệ đi theo Chúa, người môn đệ yếu đuối và vấp ngã, nhưng đã đứng dậy, không chán nản, không để mất phương hướng, không đầu hàng, không bỏ cuộc; người môn đệ sống bởi ơn Chúa, chan hòa ân sủng, bình an, niềm vui của Chúa.

Hội Thánh được xây dựng trên Tảng Đá là tông đồ Phêrô, hay đúng hơn là trên đức Tin vào Chúa Giêsu là “Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16; 1 Cr 3,10). Mỗi tín hữu chúng ta phải làm gì để trở thành viên đá sống động xây nên tòa nhà Hội Thánh (x. 1 Cr 3,16-17), hay nên Đền Thờ của Thiên Chúa, có nền móng là các Tông Đồ và Ngôn Sứ, và Đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu” (Ep 2,20)?

Lạy Chúa Giêsu, Chúa tin tưởng và trao trách nhiệm cho người hiểu biết Chúa, yêu mến Chúa và đặt trọn niềm tin nơi Chúa. Chúng con sẽ được Chúa tin tưởng và trao sứ mệnh xây dựng Hội Thánh, nếu chúng con có lòng tin, lòng cậy và lòng mến Chúa. Vậy xin Chúa cho chúng con có một đức tin vững chắc, một lòng cậy trông tín thác và một lòng mến chân thành như Thánh Phêrô để chúng con có thể trở thành một viên đá sống động, góp phần xây nên tòa nhà Hội Thánh. Amen.

 

17. Gặp gỡ Chúa trong cuộc đời – Cố Lm Hồng Phúc

Giữa công trường Thánh Phêrô ở La-mã, một công trường rộng mênh mông, có hai pho tượng khổng lồ đứng oai vệ như những chứng nhân của lịch sử. Đó là tượng Thánh Phêrô và Thánh Phaolô, hai vị Tông đồ Cả.

Phêrô và Phaolô là hai người khác biệt nhau về tính tình, về văn hóa và nghề nghiệp. Nhưng cả hai đã gặp gỡ Chúa Kitô và được Chúa biến hóa trở nên những chứng nhân, những tông đồ “đi bắt người”.

Bài Phúc Âm hôm nay kể lại việc Chúa Giêsu kêu gọi Phêrô.

Thật ra, Chúa đã gặp Phêrô rồi, khi em ông là Anrê đem anh đến giới thiệu với Chúa, như Gioan kể lại (Gio. 1, 49). Lòng nhiệt huyết của Anrê cũng như lòng trinh bạch của Gioan không làm cho Chúa cảm động, nhưng khi nhìn thấy Simon, con Gioan, Chúa nhìn ông và nói: “Hỡi Simon, con Giona, từ nay con sẽ gọi là Kêpha nghĩa là Đá”. Đây là nền tảng của Giáo hội mà Ngài sắp thiết lập. Tuy nhiên, đây chỉ là cuộc sơ vấn gặp gỡ đầu tiên. Rồi ai về nhà nấy. Phêrô và các bạn vẫn còn nặng tình với vợ con, với sông sâu biển cả. Thì hôm nay, Chúa muốn kêu gọi ông cách dứt khoát, bằng một phương pháp mạnh, một phép lạ để cho ông nhìn thấy và “sờ đụng” quyền năng của Thiên Chúa.

Sau một đêm lao lực, thức trắng đêm – cá vẫn ăn về đêm – mà không bắt được con cá nào, Phêrô gặp Chúa. Chúa bảo: “Hãy ra khơi thả lưới”. Ông vừa từ ngoài khơi trở về, nhưng vâng lời Chúa, Ông lại ra khơi… Từng đàn cá ùn ùn chun vào lưới, khiến cho lưới gần rách, phải gọi các bạn thuyền đến trợ lực.

Cũng như ngày xưa, tiên tri Isaia, trong bài đọc I, đã nhìn thấy vinh quang của Chúa và kêu lên: “Chết tôi rồi, lưỡi tôi dơ bẩn”, thì ngày nay, Phêrô cũng cảm thấy mình bất xứng và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Nhưng Chúa trả lời: “Con đừng sỡ hãi. Từ đây, con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Con sẽ bỏ nghề bắt cá, để đi “bắt” các linh hồn. Và Phúc Âm nói: “Ông chèo thuyền vào bờ, bỏ hết mọi sự và đi theo Người”. Đó là ơn kêu gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và được Chúa thu hút chinh phục.

Người thứ hai đã gặp gỡ Chúa là Thánh Phaolô, như bài đọc II kể lại. Phaolô là một con người đầy nhiệt huyết, đã đi vòng quanh Đế quốc La-mã 4 lần, đã đưa dân ngoại vào Đạo. Làm sao cắt nghĩa được nội tâm của con người đầy lửa ấy? Thưa vì người đã gặp gỡ Chúa. Đức Kitô… đã sống lại theo lời Thánh Kinh. Ngài đã hiện ra với Phêrô và mười một Tông đồ. Rồi cuối cùng Ngài đã hiện ra với tôi như đứa con sinh non” (1Cor. 15, 8).

Phải, cuộc gặp gỡ đó đã đảo lộn cuộc đời Phaolô, từ một kẻ bắt bớ tín hữu trở nên một Tông đồ nhiệt thành. Tất cả là ơn của Chúa và Người vui mừng được trả giá rất cao để “Ơn Chúa không ra vô ích”: 5 lần bị đánh đòn 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, 1 lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tàu 1 ngày 1 đêm chơi vơi trong lòng biển (2Cor 12, 24-25).

Trong cuộc đời, chúng ta cũng đã gặp gỡ Chúa trong nhiều hoàn cảnh. Nhưng phải chăng chỉ gặp Ngài như gặp một khách bàng quang…

Lạy Chúa, Xin Chúa hãy đến với con, đừng xa lánh con là kẻ tội lỗi.

 

18. Ân huệ được gọi – Dã Quỳ

Trong xã hội hiện nay, dường như ai cũng có kinh nghiệm đi tìm việc làm. Để tìm được một công việc hay một chỗ trong công ty, xí nghiệp tốt…quả là không dễ! Thường người ta phải chứng minh được là có khả năng, có kinh nghiệm lâu năm trong nghề và như thế mới có thể mở được những cánh cửa đang đóng kia, mới được tuyển nhận.

Với Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay ta nghe thì không như thế. Người đã chọn môn đệ mà không cần chứng nhận khả năng của họ. Chúa đã gọi Phêrô khi ông đang làm công việc chài lưới hằng ngày. Còn Tông đồ Phaolô được Chúa gọi lúc ông đang đi bách hại những Kitô hữu. Thiên Chúa luôn làm chúng ta ngạc nhiên bởi vì Người trao tặng cho mỗi chúng ta một ơn đặc biệt là xứng đáng được gọi. Chúng ta thường tự hỏi Chúa chờ đợi điều gì khi Người muốn chọn chúng ta cho sứ mệnh của Người? Chúng ta hay có thói quen so sánh với những người khác trong chức vụ nghề nghiệp để biết tài năng và ta nghĩ ngay đến địa vị xã hội của họ. Chúa Giêsu không theo cái lối suy luận mua bán này. Người gọi chúng ta với trái tim và xác tín rằng Người cần chúng ta cho sứ mệnh rao giảng Tin Mừng và cứu độ nhân loại.

– Chúa cần chúng ta cho sứ mệnh Rao Giảng Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu đặt chân lên thuyền của Phêrô, Người đã nhìn thấy nơi ông một cộng tác viên đắc lực cho công cuộc rao giảng Tin Mừng “Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút…và từ trên thuyền, Người giảng dạy đám đông.”(Lc 5,3) Đây là vùng sông nước mà Phêrô đã quen thuộc và hơn nữa ông là một người chài lưới đầy kinh nghiệm. Ông sẽ biết làm cho con thuyền vững vàng và lưới cá thành công. Thế nhưng, với sự hiện diện của Chúa Giêsu trên thuyền, Phêrô không còn là chủ, không phải là tay đánh bắt tài giỏi nữa. Sau lời Chúa mời gọi ra chỗ nước sâu thả lưới, Phêrô đã thú thực với Chúa “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả.”(Lc 5,5a) Có lẽ lúc này Phêrô và đồng bạn cũng ngạc nhiên hay mỉm cười trong lòng vì…Thầy Giêsu làm gì có kinh nghiệm gì về việc đánh cá. Nơi nào có cá nhiều, tay này đã rành rẽ. Chỗ nước sâu làm gì có cá mà lưới. Như vậy, Chúa đã yêu cầu những điều thật ngạc nhiên và không hợp lý. Dù thế, lòng chân chất của người thuyền chài và niềm hy vọng sẽ có mẻ cá mang về, Phêrô đã nhanh miệng “Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.”(Lc 5,5b) Vâng, bây giờ có Thầy trên thuyền, ra chỗ nước sâu cũng không sợ. Và Phêrô đã chèo thuyền theo sự hướng dẫn của Chúa.

Tiếp tục ra khơi thả lưới khi cả đêm đã vất vả mà không được gì. Đó là những điều mà đức tin đòi hỏi thực hiện. Công việc Rao Giảng Tin Mừng hay Truyền Giáo cũng thế. Hãy tin tưởng vào Chúa Giêsu. Đừng tự hào về tài năng hay tính toán của chính mình. Không dựa vào những phương tiện trần tục hay cậy sức bản thân. Ra chỗ nước sâu; rời những nơi gần bờ an toàn, tiện nghi, được bảo bọc… Người môn đệ Chúa Kitô cần dấn thân. Có Chúa và cùng với Chúa, lên đường đến những nơi xa xôi, gian khổ, những nơi anh chị em chưa biết Chúa và chưa được nghe Tin Mừng, họ đang rất cần chúng ta và Chúa cũng đang thật muốn chúng ta thi hành sứ mệnh. Và chỉ khi ta vâng theo Lời Chúa, kết quả sẽ thật mĩ mãn “Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá.” (Lc 5,6)

– Chúa cần chúng ta cho sứ mệnh cứu độ nhân loại. Tự nhiên, chúng ta thường run sợ trước những việc kỳ diệu ngoài sức tưởng tượng. Phêrô cũng thế, ông đã kinh hãi khi thấy mẻ cá lạ lùng và nhận ra Thầy Giêsu chính là Thiên Chúa, Đấng có thể làm được mọi sự tốt lành. Nhưng Chúa đã luôn giữ cho các ông được bảo đảm và bình an: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người cứu sống người ta.”(Lc 5, 10b) Đừng sợ! Đây như là điệp khúc của Chúa Giêsu. Người thường trấn an và động viên môn đệ hãy tin vào Ngài, đừng sợ hãi. Chúa đã thay đổi số phận của Phêrô. Từ nay ông mang một ơn gọi thần linh, một sứ mệnh cứu độ. Biển trần gian rộng lớn, Chúa cần những ngư phủ nhiệt tâm và Người đã gọi Phêrô, đồng bạn và anh em ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.”(Mt 4,19)

Trong sứ mệnh cứu độ nhân loại, Chúa đã chọn gọi các Tông đồ và môn đệ cùng Chúa đem nhiều người về với Giáo Hội, trở nên con cái Chúa và được hưởng Ơn Cứu Độ của Chúa. Tiếp bước các Tông Đồ, mỗi người Kitô hữu cũng được Chúa gọi để loan báo Tin Mừng và đem nhiều tâm hồn về với Chúa. Loan Tin Mừng Cứu Độ cho muôn dân là trách nhiệm và sứ mệnh của Giáo Hội, của từng Kitô hữu. Chúng ta là những cánh tay nối dài của Chúa. Hãy hăng say thả lưới trong mọi hoàn cảnh sống của ta nơi gia đình, làng xóm; nơi công sở, chỗ làm việc; trong cộng đoàn hay ngoài xã hội. Hãy nhiệt tình đáp lại tiếng Chúa mời gọi và vâng lời Chúa để thực hiện sứ mệnh truyền giáo.

Ước gì mỗi Kitô hữu Việt nam hôm nay cũng luôn can đảm thưa lên như Isaia “Này con đây, xin hãy sai con đi”(Is 6, 8c) và vui mừng với ân huệ được gọi cách nhưng không.

Nguyện xin Chúa Giêsu luôn hướng dẫn, đồng hành với chúng con. Và xin ban cho chúng con ơn kiên trì, khiêm tốn, trung thành và không bao giờ bỏ cuộc vì chúng con luôn có Chúa cùng sống, cùng làm trong chúng con và qua chúng con. Amen.

 

19. Mẻ cá lạ – Linh Xuân Thôn

Một trong những lời giảng dạy làm nhiều người khó chịu, nhưng cũng rất thú vị, của Minh Sư là: ”Thượng Đế gần gũi kẻ có tội hơn là người thánh thiện.”

Ngài dùng hình ảnh để giải thích như sau:

– Thượng Đế ở trên thiên đàng nắm mỗi người ở đầu một sợi dây. Khi người ta phạm tội, sợi dây đó bị cắt đứt. Bấy giờ Thượng Đế cột sợi dây lại bằng cách làm một nút thắt – và như vậy, Ngài kéo họ lại gần Ngài hơn. Cứ như thế, mỗi khi người ta phạm tội, sợi giây bị cắt đứt, Thượng Đế lại buộc một nút thắt mới để kéo chúng ta lại gần Ngài nhiều hơn nữa.

Anthony de Mello, trích trong “One Minute Wisdom”

***

“Lạy Ngài! Xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc. 5,8).

Bạn thân mến! Trên đây là lời nói của Simon Phêrô thưa với Chúa Giêsu khi ông cảm nhận được sự thấp hèn tội lỗi của mình trước đấng thánh cao cả Giêsu, khi ông kinh ngạc trước phép lạ “Mẻ Cá Lạ” mà ông đã được chứng kiến và cũng là người trong cuộc. Xin mời bạn cùng tôi, chúng ta hãy lần theo dấu vết của Simon Phêrô trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay (Lc. 5:1-11) để hiểu thêm về ông, để biết thêm về “Mẻ Cá Lạ” ngày xưa đã tác động đến ông và các bạn chài của ông như thế nào? Và cũng để nhận ra “Mẻ Cá Lạ” ngày xưa đã tác động đến tôi và bạn hôm nay ra sao?

Trước hết, Simon Phê-rô là một người truyền giáo: Trong lúc ông và các bạn chài đang giặt lưới sau 1 đêm dài mệt mỏi vật lộn với biển khơi để đánh bắt cá nhưng chẳng được gì. Chúa Giêsu đã đến bên ông, Ngài lên thuyền của ông, xin ông chèo ra xa bờ 1 chút để Ngài ngồi trên thuyền mà giảng dạy cho dân chúng. Ông đã không ngại mệt mỏi sau một đêm vất vả làm việc, Ông đã bỏ công việc riêng bề bộn sau lưng, đã đứng dậy và làm theo lời yêu cầu của Ngài…Chúa giảng, ông chèo …Chắc hẳn trong lúc ông chèo thuyền cho Chúa giảng dạy, ông cũng đã lãnh nhận những lời vàng ngọc, những chân lý ngàn đời không thay đổi nơi môi miệng của Chúa Giêsu. Ông chèo, Chúa giảng…Ông đã góp công sức vào việc giúp những người xung quanh biết về Chúa và nghe Lời Ngài. Với chiếc thuyền nhỏ bé của ông, ông đã “mang Chúa đến cho người khác”, Ông đã làm công việc truyền giáo trong lúc Giáo Hội chưa được hình thành.

Bạn thân mến! Nếu hôm nay Chúa dùng những người xung quanh để mời gọi tôi và bạn đóng góp công sức của mình cho việc truyền giáo, Tôi và bạn sẽ đáp trả ra sao? Sự đáp trả của tôi và bạn có giống Simon Phêrô ngày xưa không?

Simon Phêrô: một người khiêm nhượng và biết lắng nghe. Sau 1 đêm vất vả đánh cá mà chẳng được gì, chắc hẳn ông mang một tâm trạng mệt mỏi, chán nản. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo ông ra khơi đánh cá giữa ban ngày, lại ra tận chỗ nước sâu, nơi nguy hiểm nhất và cũng là chỗ khó bắt được cá nhất …Theo lẽ thông thường, Phêrô phải ngẫm nghĩ trong lòng: “Ông Giêsu ơi! Ông làm nghề thợ mộc mà! Đánh cá là nghề của tôi. Tôi đã sống bằng nghề này mấy mươi năm rồi, Ông biết gì về đánh cá mà lại hướng dẫn chỉ bảo tôi?” Nhưng không phải thế, Simon Phêrô đã lắng nghe lời hướng dẫn của Chúa Giêsu trong khiêm nhượng và tin tưởng. Ông đã nói lên tâm tình đó qua câu: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”.(Lc. 5:5)

Bạn thân mến! Trong cuộc sống hằng ngày, qua những vị linh mục trong cộng đoàn giáo xứ, qua các thầy cô trong trường học, qua cha mẹ anh chị em trong gia đình, qua bạn bè thân hữu ngoài xã hội…Có lẽ Chúa cũng đã gởi đến tôi và bạn biết bao lời khuyên răn nhắn nhủ, nhưng tôi và bạn có biết lắng nghe hay không? Tôi và bạn có đủ khiêm nhượng và tin tưởng để lắng nghe như Simon Phêrô ngày xưa không?

Simon Phêrô: Người được Chúa tỏ mình ra: Chứng kiến “Mẻ Cá Lạ”, Simon Phêrô đã nhận ra sự cao cả thánh thiện của Chúa Giêsu. Sợ hãi vì nhận thấy mình tội lỗi thấp hèn, ông đã vội quì xuống và thưa với Chúa Giêsu: “Xin Thầy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc.5:8). Nếu Chúa Giêsu không chủ động tỏ mình ra, chắc hẳn ông không thể nhận ra “Mẻ Cá Lạ” là do quyền năng cao cả của Thiên Chúa. Nếu không có ơn Chúa, chắc hẳn ông không thể nhận biết thân phận tội lỗi thấp hèn của mình. Một đêm dài vất vả mệt mỏi, ông đã làm việc với sức của riêng mình, kết quả là con số không, Ông chẳng đánh bắt được gì. Nhưng khi có Chúa bên cạnh, Ông đã cùng làm với Chúa và dùng sức của Chúa, kết qủa là ông đã có “Mẻ Cá Lạ” gần chìm thuyền.

Bạn thân mến! Cuộc sống có Chúa bên cạnh thật quan trọng và cần thiết biết bao! Xin bạn cùng với tôi, chúng ta hãy tự hỏi chính mình: ”Chúa ở đâu trong cuộc sống hằng ngày của tôi? Những lúc tôi ăn uống nghỉ ngơi, những lúc vui lúc buồn, những lúc thành công hạnh phúc cũng như lúc thất bại mệt mỏi vất vả… Ngài ở đâu? Ngài ở đâu?”

Simon Phêrô: Người biết phó thác để sẵn sàng ra đi và lên đường: Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp bênh không chắc chắn. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. ”Vâng lời thầy, con đi thả lưới” (Lc.5:5). Lên đường ra khơi thả lưới là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp, chấp nhận gian lao thử thách… ”Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người” (Lc.5:11). Ra đi theo Chúa là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới… Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ lưới cá để chài lưới người.

Bỏ tất cả để bước đi theo Chúa, để làm môn đệ của Ngài…Đây là việc đòi hỏi nhiều cố gắng nỗ lực, gặp nhiều khó khăn thử thách, nhưng cái khó khăn nhất có lẽ là “bỏ mình”, là ra khỏi “cái tôi hạn hẹp ích kỷ” của chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ những thói tật xưa cũ thì người môn đệ vẫn còn ở khởi điểm. Muốn lên đường theo Chúa, người môn đệ phải ra khỏi tính tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân. Và khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu mời ta. Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.

***

Lạy Chúa, lên đường bước đi theo Chúa là được Chúa biến đổi. Giống như Simon Phêrô xưa kia đã được Chúa biến đổi từ “Simon lưới cá” trở thành “Phêrô lưới người”. Xin Chúa ban ơn giúp sức cho con để biết noi gương bắt chước Simon Phêrô xưa kia, biết cố gắng nỗ lực lên đường bước đi theo Chúa và cũng được Chúa biến đổi. Amen.

 

20. Vâng lời Thầy, con rao giảng – Huệ Minh

Trong Tân Ước, biển là biểu tượng của hoán cải, của trở lại, của cải tà qui chính. Trên biển, không có gì là bình thường cả mà luôn luôn là những cái gì bất ngờ, kỳ diệu hoặc rất chi là khó khăn nguy hiểm. Một vài phép lạ rất cảm động, có khi rất bi hùng đã được Chúa Giêsu làm trên biển Galilê.

Thánh Máccô thuật lại chuyện Chúa Giêsu khiến sóng gió, bão biển đang quay cuồng dữ tợn phải yên lặng (Mc 4, 35-39). Thánh nhân cũng diễn tả việc Chúa Giêsu đi trên mặt nước của biển này để chứng tỏ cho các môn đệ biết Người là ai. “…Chính Ta đây…” (Mc 6, 45-50)

Trong Tin Mừng Gioan, ta thấy quang cảnh biến chuyển tâm thức của Thánh Phêrô khi ông tuyên xưng niềm tin của ông với Chúa sau bữa ăn sáng trên bờ hồ Tiberias và Chúa đã đặt niềm tin của Người nơi ông là kẻ tội lỗi có lòng sám hối. (Ga. đoạn 21). Ta thấy lúc này Chúa cũng làm một phép lạ phi thường trước mặt rất nhiểu môn đệ.

Chúa Giêsu đang ở bờ biển hồ Giênêzareth và giảng dạy cho đoàn rất đông dân chúng. Vì dân chúng quá đông nên người ta không thể nhìn thấy và nghe được lời Ngài giảng. Và vì vậy, Chúa Giêsu bước xuống thuyền của ông Simon và xin ông chèo thuyền xa bờ một chút để mọi người có thể nhìn thấy và nghe được lời Ngài nói….

Chúa Giêsu là Đối Tượng mà mọi tâm hồn hướng tới, Ngài là Trung Tâm Điểm của Tin Mừng! Rao giảng Tin Mừng, là rao giảng Danh Thánh Chúa Giêsu, làm cho Chúa Giêsu lớn lên trong các linh hồn, để Ngài trở thành Trung Tâm của mọi Linh hồn tôn thờ và yêu mến.

Chúa Giêsu chắc chắn có giọng nói âm vang mạnh mẽ để đông đảo quần chúng có thể nghe được, hơn thế nữa, Thần Lực của Ngài có thể tác động, có thể len lỏi vào tận đáy thẳm của linh hồn để ngay cả“Kẻ chết cũng có thể nghe được”, những kẻ chết trong linh hồn, hay thực sự đã chết trong thân xác có thể nghe được!

Giảng vừa xong, Chúa Giêsu bảo ông Simon hãy chèo thuyền ra chỗ nước sâu để đánh cá. (Lc 5, 4). Trong đời sống thường nhật cũng như trong lời khẩn nguyện của ta, Chúa Giêsu luôn bên cạnh ta nếu ta Vâng nghe Lời Ngài. Và khi Chúa bên cạnh, ở trong thuyền đời chúng ta, thì dù ở trên cạn hay giữa đại dương… những phép lạ diệu kỳ chắc chắn sẽ xảy đến để làm cho cuộc sống mỗi người chúng ta trở nên phong nhiêu, hạnh phúc khôn tả! Ngay cả khi ta đối diện với bao vất vả của kế sinh nhau, làm việc, thì Ngài vẫn muốn ở bên cạnh ta!

Thánh Phêrô và các bạn đồng nghiệp là những người chuyên nghề đánh bắt cá đã nhiều năm, thế mà sau một đêm “Cực nhọc, vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào (Lc 5, 4.5)… Phải nói là quá thất vọng vì công việc vất vả mà không đem lại chút thành quả nào. Đứng trước cảnh ngộ khá bi đát hay coi như hoàn toàn thất bại như vậy, thì giờ đây, các môn đệ đang có Chúa Giêsu bên cạnh, Ngài đang ở ngay trong khoang thuyền của họ, thì cuộc diện sẽ biến đổi một cách hoàn toàn nhất, thuận tiện nhất!…

Ta cứ làm mọi việc hết khả năng riêng mình, còn lại, ta hãy phó thác cho Chúa Giêsu, vâng lời Ngài, mời Ngài đến với ta và kết quả sẽ thập phần mỹ mãn! Những lúc quá thất bại, chán nản, và mệt nhoài… ta hãy cậy dựa nơi Chúa Giêsu, hãy trình bày những khó khăn của ta cho Ngài!: “Chúng con đã cực nhọc vất vả mà không đạt thành quả nào!”

Thường tình, khi Chúa bảo các ông thả lưới bắt cá, các ông sẽ tự nghĩ: Chúng tôi là dân chuyên nghiệp đã nhiều năm, còn Ngài đâu có bao giờ đánh bắt cá, nghe theo sẽ uổng công thôi!… Thế nhưng, vì tuyệt đối tin Chúa Giêsu, các ông đã thực hành theo lời Thầy! Ông Simon thưa: “Vâng lời Thầy, con xin thả lưới”. và vì sự tin tưởng, vâng lời ấy, phép lạ kỳ diệu đã xảy ra: “Các ông bắt được rất nhiều cá đến nỗi lưới gần bị rách”, họ phải gọi các bạn đến giúp “Cả 2 thuyền chứa đầy cá đến nỗi gần bị chìm” (Lc 5, 7).

Phép lạ này chứng tỏ Chúa Giêsu là Chúa của biển cả cũng như trên đất liền, và mọi phong nhiêu phú túc đều phát xuất từ Thiên Chúa, là nguồn mọi thiện hảo. Ngay lúc đó, nhiều người mới nghe Chúa Giêsu giảng vẫn còn ở đó nên được chứng kiến phép lạ mẻ cá lạ lung Chúa làm, nên đã tin kính Chúa. Đây là phần thưởng Chúa ban cho những ai làm việc dưới sự hướng dẫn của Chúa Giêsu.

Maccô (Mc 1,16-20), Matthêu (Mt 4, 18-22) kể lại cảnh các ngư phủ bỏ lưới, bỏ thuyền, bỏ cả cha mẹ để theo chúa Giêsu. Luca thì nói rõ họ bỏ lại tất cả mọi sự (Lc 5, 28; 12, 33; 14, 33; 18, 22), có nghĩa là hoàn toàn thoát ly khỏi mọi của cải, tư hữu vật chất. Làm môn đệ đòi hỏi phải có ơn gọi, một ơn gọi đầy quyền lực luôn luôn thôi thúc mình đi theo cuộc sống mới, xa cách khỏi những gì gọi là tầm thường của công việc hay tập tục đều đặn buồn tẻ hàng ngày, bỏ đi tất cả những gì là chán nản, thối chí, thất bại và vô vọng để nhắm vào một chủ đích, một cứu cánh mới.

Chính Chúa Giêsu lúc đó đã kêu gọi các ngư phủ cho họ trở nên những kẻ đánh cá người, để họ tham gia vào những cuộc tranh đấu, vật lộn với sóng nước biển cả. Biển đây chính là suối nguồn cuộc sống, là thức ăn của họ nhưng cũng là một mầu nhiệm, một đe dọa, một nguy hiểm và xáo trộn; biển này có thể lấy đi mạng sống của họ một cách dễ dàng, nhưng cũng nuôi dưỡng họ một cách phong phú và làm cho cuộc sống của họ hưng phấn.

Thiên Chúa mong muốn cho tất cả các con của Ngài góp phần mở rộng Vương Quốc Yêu Thương của Người bằng tích cực ra đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Đây là một vinh dự lớn lao, tuy nhiên không ai xứng đáng lãnh nhận trọng trách cao cả đó! Với thân phận con người, tất cả chúng ta đều cảm nhận mình bất xứng. Và như vậy, ta lại xin Chúa thêm ơn đức tin để ta hoàn thành sứ mạng Chúa trao phó.

 

21. Tự do

Các ông từ bỏ mọi sự mà theo Chúa.

Đọc lại Phúc Âm chúng ta phải cảm phục thái độ dứt khoát và từ bỏ của các môn đệ trước lời mời gọi của Chúa Giêsu. Thực vậy, sau khi Chúa Giêsu nói: Các con hãy theo Ta và Ta sẽ làm cho các con trở nên những kẻ chài lưới người ta, thì Phêrô, Anrê cũng như Giacôbê và Gioan đã từ bỏ ghe thuyền, chài lưới và cả những người thân yêu để bước theo Chúa Giêsu. Cũng vậy, khi Chúa Giêsu đi qua bàn thu thuế tại Capharnaum, Ngài lên tiếng gọi Matthêu: Hãy theo Ta. Lập tức Matthêu đã đứng dậy, từ bỏ bàn giấy, từ bỏ nghề nghiệp mà bước theo Chúa. Thái độ mau mắn và dứt khoát ấy làm cho chúng ta nhớ tới lời Chúa đã phán: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Các môn đệ là như thế, chúng ta thì sao?

Chúng ta thường nói rất nhiều mà làm thì chẳng được bao nhiêu. Trong tâm tư nguyện vọng, chúng ta muốn tôn thờ Chúa như một vị vua duy nhất của lõi lòng. Chúng ta muốn dâng tất cả cho Ngài, thế nhưng trong cuộc sống cụ thể, chúng ta rất ngại phải hy sinh, phải từ bỏ, phải dâng hiến cho Ngài. Tình yêu chúng ta dành cho Ngài giống như một ngọn đèn thiếu dầu. Bình thường thì nó cháy một cách leo loét, nhưng mỗi khi phải cố gắng, phải hy sinh thì nó bỗng dưng phụt tắt.

Chính vì thế, mỗi người chúng ta phải kiểm điểm lại đời sống, phải hồi tâm xét mình và phải chấp nhận con người thực sự của chúng ta là như thế nào? Chúng ta có quảng đại đáp trả lời mời gọi của Chúa hay không, bởi vì chính sự quảng đại này mới là thước đo sự gắn bó và tình yêu của chúng ta đối với Chúa.

Là người tín hữu, chúng ta có biết hy sinh những thú vui, cho dù là chính đáng, để chu toàn những bổn phận đạo đức của chúng ta đối với Chúa, để tuân giữ giới luật yêu thương của Ngài cũng như để thực thi thánh ý của Ngài trong lòng cuộc đời chúng ta hay không?

Là những bậc làm cha mẹ, chúng ta có biết chấp nhận những hy sinh gian khổ vì cuộc sống và tương lai của con cái hay không? Cho dù những khó khăn, những bất đồng, chúng ta có đem vào trong gia đình chúng ta một bầu khí yêu thương và đạo đức hay không?

Là những người con, chúng ta có biết mau mắn vui vẻ vâng theo những lời khuyên bảo của cha mẹ. Chúng ta có biết chia sẻ những lo lắng của cha mẹ bằng cách chu toàn những bổn phận của mình hay không?

Để kết luận, chúng ta nên nhớ điều này, đó là nếu chúng ta còn ngại hy sinh, nếu chúng ta không dám từ bỏ, thì đó là dấu chỉ chắn chắn nhất chứng tỏ chúng ta chưa hề yêu mến Chúa, chưa hề là người môn đệ đích thực của Ngài.

 

22. Khiêm nhường

Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy: người khôn ngoan là người biết tận dụng mọi cơ hội để làm giàu cho mình, nhưng đồng thời cũng phải khiêm tốn để biết mình và biết người. Kẻ thành công đỗ đạt là kẻ biết tin tưởng, cậy dựa vào kinh nghiệm, kể cả kinh nghiệm của người khác.

Và hành trình của đức tin cũng không đi ra ngoài sự khôn ngoan ấy. Đoạn Tin Mừng hôm nay mô tả cho chúng ta khuôn mặt người khôn ngoan đi tìm Chúa và đã nhận ra Ngài, không ai khác hơn là thánh Phêrô.

Thực vậy, ông là một dân chài chuyên nghiệp, một người đi biển nhiều kinh nghiệm quý giá, thế nhưng ông không quá tự phụ với những sự từng trải ấy, trái lại, ông vẫn có một sự khôn ngoan đặc biệt, đó là khiêm tốn, tin tưởng và vâng phục vào lời Chúa Giêsu:

– Thưa Thầy, dựa vào lời Thầy, con xin thả lưới.

Trước mẻ cá lạ lùng này, Phêrô không tự hào về đức tin của riêng mình để mà khoe khoang với các bạn, cũng như để kể công với Chúa. Trái lại, thêm một lần nữa, ông vẫn khôn ngoan dựa vào mẻ cá lạ lùng ấy, để suy nghĩ và nhận ra Đức Kitô là Thiên Chúa của mình. Đứng trước mẻ cá, Phêrô đã thực sự khiêm tốn thú nhận:

– Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.

Chính nhờ thái độ này, đức tin của ông được củng cố đến độ ông không chỉ nói lên lời cảm tạ suông, mà còn đáp trả bằng cả cuộc sống của mình, đó là ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa.

Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có đủ khiêm tốn để lắng nghe lời Chúa qua những con người, qua những biến cố mà Ngài gởi đến hay không? Có lẽ Phêrô vẫn đoán biết Đức Kitô không có nhiều kinh nghiệm về biển cả, nhưng ông rút kinh nghiệm qua những phép lạ, vì thế ông vẫn khiêm tốn vâng phục và tin tưởng vào Chúa Giêsu vì Ngài còn là Thầy, là người hướng dẫn của ông. Liệu chúng ta có biết hồi tâm để rút ra những kinh nghiệm như Phêrô hay không?

Kinh nghiệm bản thân cho ông hay ban đêm là cao điểm để đánh bắt. Thế mà ông đã từng cực nhọc suốt cả đêm mà chẳng đánh bắt được một con cá nào, vậy mà lòng trọng kính đối với Chúa Giêsu đã thúc đẩy ông thả lưới giữa ban ngày ban mặt, là thời điểm chẳng thuận tiện chút nào. Liệu chúng ta có quá tự hào về kinh nghiệm bản thân, để rồi khép kín cõi lòng mình trước lời mời gọi của Chúa hay không?

Những kinh nghiệm và hiểu biết, đôi khi có thể trở thành chướng ngại vật cản trở cho hành trình đức tin, nếu chúng ta không có được sự khiêm tốn của Phêrô. Hãy cư xử như Phêrô, bằng cách đón nhận ý Chúa qua kinh nghiệm của Hội Thánh, đồng thời cảm tạ Ngài bằng một thái độ cụ thể và quyết liệt như Phêrô, đó là từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.

 

23. Đào tạo tông đồ – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ này, Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ. Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm.

Điểm thứ nhất: cảm nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân. Phêrô và các bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay não nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ nước sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô gặp thất bại. Chúa Giêsu muốn Phêrô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giêsu muốn Phêrô nhìn rõ những thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài học đầu tiên Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của Người.

Điểm thứ hai: cảm nghiệm về sự cao cả của Thiên Chúa. Người tông đồ phải làm chứng về Thiên Chúa. Muốn làm chứng phải có kinh nghiệm. Ai chưa từng gặp được Thiên Chúa, chưa từng tiếp xúc với Người thì không thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên Chúa thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình cho Môsê trong bụi gai cháy đỏ. Chúa tỏ mình ra cho thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi trên đường đi Đa mát. Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự cao cả, sự thánh thiện của Chúa. Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi, Phêrô vội quỳ xuống xin Chúa rời xa. Phêrô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với Chúa. Ông đã cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao giảng chỉ là để kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.

Điểm thứ ba trong chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó là sự vâng lời tuyệt đối. Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên sao được khi Phêrô là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người miền núi. Phêrô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả lưới bên phải thuyền, ông đã tăm tắp làm theo. Phêrô đã vâng lời tuyệt đối. Phêrô đã học được thái độ vâng lời của người môn đệ. Ông đã thành công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt ông làm tông đồ trưởng.

Điểm sau cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải có đó là sẵn sàng ra đi. Ra đi là một thái độ liều lĩnh. Vì vượt qua những khoảng không gian vật lý cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp.

Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã khó. Vượt qua những khoảng không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ lưới cá để chài người.

Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ được những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn ở khởi điểm. Muốn lên đường người môn đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi những ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.

Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta. Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.

Mỗi người được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm được sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả cũng như tình yêu của Thiên Chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt đối, chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn đệ của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần thất bại.

Lạy Chúa, xin hãy dạy bảo con theo đường lối của Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Bạn có tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh không?
  2. Bạn có cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của mình không?
  3. Bạn đã ra đi khỏi chính mình chưa?
  4. Bạn có cảm thấy Chúa có chương trình đào tạo mình không?

 

24. Môn đệ Đức Kitô trên hoàn vũ – Achille Degeest

Bài Phúc Âm hôm nay rất dễ hiểu, không cần giải thích theo nghĩa này nghĩa khác có thể không có trong bản văn. Chúng ta chú ý đến nhiều điểm. Đức Giêsu sai Phêrô đánh thuyền ra khơi thả lưới. Chúa biết, khi ra lệnh như thế Người đòi hỏi Phêrô làm một việc trái ngước kinh nghiệm dân chài lành nghề. Thật vậy, Phêrô tin chắc rằng sau một đêm mệt nhọc uổng công, bây giờ là ban ngày, cố gắng cũng vô ích. Tuy nhiên vì vâng lời Chúa, vì tin Chúa, Phêrô thả lưới. Sau khi vớt được mẻ Chúa nhiều quá sức tưởng tượng, ông phản ứng như những tâm hồn ngay thẳng khi đứng trước tôn nhan Chúa: “Lạy Thày, con là một kẻ quá nhiều sai lỗi, một kẻ có tội”. Bằng một giọng uy nghi khích lệ, Chúa cho ông rõ phần thưởng đích thật của cuộc gặp gỡ trên mặt hồ. Qua hình ảnh phép lạ đánh cá, ông thoáng nhìn thấy số mệnh ông.

Chúng ta suy niệm về hai câu:

1) “Hãy ra khơi”. Chúa phán thế vì biết ngoài khơi là vùng có nhiều cá. Chúng ta nghĩ đến một Phêrô thuyền trưởng con thuyền Giáo Hội, như ảnh đạo thời xưa thường trình bày. Thày ra lệnh cho ông hãy lái Giáo Hội tiến vào chỗ hiểm nguy là thế giới trong đó cái khối nhân loại sống, lao động và chết. Trên thuyền với thuỷ thủ đoàn là những Kitô hữu, lệnh được ban ra là thả lưới xuống biển mặc dầu đã phí rất nhiều thì giờ mà chẳng được gì. Đức vâng lời đã đem lại một mẻ lưới thần kỳ. Tuy nhiên có phải bao giờ cũng gặt hái được kết quả lạ lùng không? Nếu thế chẳng quá dễ dàng ư? Điều quan trọng là đừng có lạm dụng cách chơi chữ của Chúa khi Người phán bảo Phêrô: “Từ nay ngươi sẽ là kẻ lưới người”. Thật vậy, nhân loại không bị cưỡng bách vào trong “lưới” của Giáo Hội. Ở đây là một thực tại cơn bản hơn: Phêrô và các tông đồ, do một hành vi biểu lộ đức tin trái ngược sự thật hiển nhiên theo quan niệm loài người, đã tỏ ra xứng đáng được Chúa cho biết số phận. Các ông được liên hợp với công cuộc cứu độ của Người trên thế giới.

2) “Bỏ lại mọi sự, họ đã theo Chúa”.

Thánh chép sử diễn tả cách đơn giản về một trong những khía cạnh đòi hỏi gắt gao nhất của thiên chức các ông. Giáo Hội đã áp dụng câu đó cho thiên chức tu sĩ và thiên chức linh mục. Phêrô và các bạn không có được gia nghiệp súc tích của thanh niên nhà giàu, nhưng vốn liếng khiêm tốn của các ông, chiếc thuyền đánh cá, căn nhà, thôn xóm, đối với các ông là những gì tha thiết. Các ông cũng như chàng thanh niên đều được kêu gọi bỏ lại mọi sự. Trong thông điệp về sự độc thân của linh múc (đoạn 24), Đức Phaolô VI nhắc đến câu nói trên. Thế giới chúng ta gồm những vùng nước sâu lắm cá cần có những môn đệ bỏ lại mọi sự để theo Đức Kitô.

 

25. Con đường của Thiên Chúa là tốt nhất

(Suy niệm của Charles E. Miller)

Thiên Chúa thì kiên bền không thay đổi. Chúng ta có thể tùy thuộc vào Thiên Chúa. Thánh Kinh đã mặc khải những hành động và những lời của Thiên Chúa trong quá khứ. Những gì Thiên Chúa đã thực hiện trong quá khứ là những gì mà Người sẽ thực hiện trong ngày hôm nay. Những gì Thiên Chúa đã nói trong quá khứ là những gì Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta hôm nay. Những gì xảy ra cho Phêrô trong bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay đã xảy ra cho tất cả chúng ta trong cùng một cách thế như thế ngày hôm nay.

Thánh Phêrô là một người đánh cá, không phải là môn thể thao, nhưng là kế sinh nhai của thánh nhân. Ngài có một nghề nghiệp. Ngài và những người đồng nghiệp đã làm việc vất vả suốt đêm, đó là thời điểm tốt nhất để đánh cá trong vùng sông hồ này, nhưng họ đã không đánh bắt được gì. Tiếp đó, Chúa Giêsu là một người thợ mộc, đã nói với Phêrô là một người đánh cá, hãy thả lưới một lần nữa. Vấn đề to lớn ở đây, bây giờ là thời điểm tệ hại nhất để đánh cá. Chúng ta có thể nghe được việc nhấn mạnh và xác quyết trong giọng của Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con đã khó nhọc suốt đêm mà không đánh bắt được gì”. Ngài đã trình bày quan điểm với Chúa Giêsu để nhắc Chúa Giêsu đừng quên điều đó nhưng khi ngài thình lình nhận biết mình đang nói với ai. Sau một lúc, có lẽ nhìn vào ánh mắt của Chúa Giêsu thấy sự nhấn mạnh trong đôi mắt của Ngài, nên Phêrô nói thêm: “Nhưng nếu Thầy đã phán như thế, con sẽ thả lưới”. Đức tin của Phêrô thì giống như một con trẻ khác xa với những người trưởng thành, nhưng nó đã mạnh đủ để ông đặt sự nhấn mạnh của ông vào từ”Thầy” khi ông nói: “Nếu Thầy nói như vậy con sẽ thả lưới”. Kết quả sự tin tưởng của Phêrô vào Chúa đã đưa đến một mẻ lưới kinh ngạc. Phêrô nghĩ rằng cách của ông là tốt nhất nhưng ông đã học biết rằng cách của Chúa thì tốt nhất.

Trước đó, tiên tri Isaia đã học cùng bài học như chính Phêrô đã học. Đầu tiên, Isaia không muốn chấp nhận sứ vụ trở thành một tiên tri cho dân Chúa. Ông cảm thấy mình bất xứng, ông tự mô tả chính mình như một người không biết ăn nói. Ông sung sướng bỏ đi và theo một cách sống khác, nhưng Thiên Chúa đã muốn ngài. Một thiên thần Sêraphim đã đụng đến môi của tiên tri Isaia, đó là một biểu hiện ân sủng của Thiên Chúa. Với ân sủng này Isaia đã đáp trả: “Này tôi đây xin hãy sai tôi”, ngài đã trở thành một trong những vị tiên tri lớn nhất bởi vì ngài đã theo đường lối của Chúa.

Trong lúc suy nghĩ chúng ta không thấy điều gì quen thuộc, xảy ra với chúng ta sao? Có lẽ các bạn có nơi trái tim hình ảnh của một người nào đó mà các bạn muốn kết hôn. Điều đó đã thực hiện được. Một người khác bước vào đời sống của các bạn và bây giờ các bạn sẽ cảm ơn Thiên Chúa, vì hôn thê của các bạn thật hợp với các bạn hơn. Có thể các bạn có một công việc mà các bạn thích, các bạn có vẻ như có một tương lai với một công ty đặc biệt. Nhưng trong thời suy thoái kinh tế, công ty giảm biên chế, bạn mất công việc của mình. Tiếp đó, một cơ hội lớn thình lình mở ra cho bạn và bạn trở thành một người có công việc khác khiến các bạn thấy rằng có một sự chăm sóc kỳ diệu mà các bạn không bao giờ nghĩ ra trước đó.

Những thí dụ này có thể không thích hợp với các bạn. Mọi người chúng ta phải có thời gian để suy nghĩ về những gì Thiên Chúa đã hành động trong cuộc sống của chúng ta theo một cách vượt xa những gì chúng ta đã dự định và mong đợi. Thánh Phaolô nghĩ rằng ngài đang thi hành bổn phận của một người Do Thái sốt sắng nhiệt tình. Thiên Chúa có một dự định khác cho ngài, như là một tông đồ và là tác giả của những bức thư Tân Ước. Ngài đã đặt bút viết những điều về những giáo lý quan trọng nhất cho chúng ta. Cách của Thiên Chúa thì tốt hơn của Thánh Phaolô.

Đôi khi chúng ta không bắt được một mẻ cá lớn. Những điều xem ra là sai, là thất bại đối với chúng ta. Tiếp đó chúng ta phải kêin nhẫn và dành thời gian để cho Chúa hành động. Từ thị kiến thiên đàng của tiên tri Isaia chúng ta sẽ ca lên khúc tán tụng của mình: “Thánh Thánh Thánh, Chúa là sức mạnh và quyền năng, trời và đất đầy vinh quang Chúa”. Sự diễn tả vẻ huy hoàng của Thiên Chúa sẽ nhắc nhở chúng ta rằng, Thiên Chúa siêu việt hơn chúng ta. Đường lối của Người thì không phải là đường lối của chúng ta và đường lối của Ngài luôn luôn là tốt nhất.

 

26. Được gọi để gọi người khác

– “Thưa ông bà muốn gặp ai ạ?”

Chị Céline đã nói câu ấy lần đầu tiên cách đây 40 năm. Từ đó ngôi nhà khách với chùm chìa khóa, cái chổi, chiếc ghế đã trở thành giang sơn của chị.

Bổn phận của chị giữ nhà khách là gọi người khác. Trong suốt 40 năm trường, chị Céline chỉ làm ngần ấy công việc. Câu hỏi trên kia chị phải lặp đi lặp lại đến hơn 10 lần mỗi ngày. Với thời gian, phương thế có đôi phần thay đổi: từ cái kẻng đến chuông điện, rồi điện thoại, sau đó lại trở về chuông kéo, kẻng sắt… nhưng công việc luôn luôn vẫn là gọi người khác.

Ôi chao! Biết bao khuôn mặt đã xuất hiện tại nhà khách, bao giọng nói đã vang rền trong điện thoại. Nhưng có một điều chị Céline hằng đoán chắc: người ta đang gọi, đang xin gặp một người nào đó… trừ ra chị. Vì thế chị thường nói đùa: “Tôi chỉ được Chúa gọi một lần duy nhất và từ dạo ấy, tôi đã luôn luôn gọi người khác: tôi được gọi để gọi”.

Một ngày của chị bị cắt vụn thành từng miếng, công việc của chị bị chẻ thành từng mảnh, luôn luôn là gián đoạn. Khi cầm chuỗi lần hạt, chị biết mình sẽ không đọc được quá 10 kinh, khi xem sách chị đoán sẽ thưởng thức không quá 10 dòng; trong nhà nguyện, chị quỳ ở ghế cuối cùng, gần cửa ra vào, luôn thấp thỏm đợi chờ chuông reo… luôn bị gián đoạn, nhưng chỉ với “sự gián đoạn” này của mình, chỉ mới có thể tạo nên “sự liên hệ” của người khác. Chị bao giờ cũng nhanh nhẹn đối với một khách sang cũng như một bà lão nhà quê. Tất cả mọi người đều ăn cắp giờ của chị. Không ai cần gặp chị… Với thời gian, da mặt chị nhợt nhạt hơn, người chị tiều tụy hơn, nhưng nụ cười vẫn tươi nở như thuở nào, lời kinh dâng Chúa mỗi ngày lại càng thêm sốt sắng hơn.

Và rồi một hôm, trong lúc vội vã đi gọi người khác, chị Céline đã ngã quỵ trong hành lang nhà dòng, thổ huyết! Chị bập bẹ: “Chúa đến gọi tôi lần hai” (và cũng là lần cuối). Đôi tay chị run run ôm lấy lồng ngực khiến chùm chìa khóa rơi trên nền gạch hoa. Đàng kia, chiếc ghế vẫn vô tình không biết từ nay mình sẽ là vô chủ…

Chị Céline đã suốt đời trung thành với tiếng gọi của Chúa và với công việc bổn phận hằng ngày của chị: được gọi để gọi người khác. Giá trị và sự cao cả của chị không phải là ở chỗ đó sao?

Chúa Nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta ban ơn gọi: ơn gọi của Isaia trong đền thánh Giêrusalem (Bđ. 1), ơn gọi của Phaolô trên đường đi Đamas (Bđ. 2) và ơn gọi của Simon Phêrô bên bờ hồ Giênêzaret (bài Tin Mừng). Nhưng chắc chắn có chủ ý dạy chúng ta lắng nghe tiếng gọi của Chúa và làm theo ý Chúa, ra đi gọi những người khác đến với Chúa: được gọi để gọi người khác.

Isaia tự thuật về chính ơn gọi làm ngôn sứ của ông. Chúa đã gọi ông. Ông đã can đảm, sẵn sàng đáp lại: “Tôi đây, hãy sai tôi đi”. Thái độ của Isaia chính là thái độ của Đức Giêsu sau nầy khi Ngài đi vào thế gian: “Này con xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,9).

Thánh Phaolô cũng khéo léo tế nhị nhắc lại ơn gọi của mình và cách mình đáp lại ơn gọi đó. Phaolô cho biết khi Chúa hiện ra với ông trên đường đi Đamas và chọn ông làm tông đồ cho dân ngoại, ông khiêm tốn cho mình là một tông đồ hèn mọn nhất, chẳng đáng gọi là tông đồ vì đã bắt bớ Giáo Hội. Ông coi đây là một ân huệ Chúa ban và không dám uổng phí, trái lại ông nhờ ơn Chúa mà hết lòng hết sức và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi bằng cả cuộc sống.

Còn Simon Phêrô đã được Chúa gọi một cách rõ ràng và công khai sau mẻ cá thật nhiều đến nỗi gần rách lưới, Chúa Giêsu nói với ông: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ đi lưới người như lưới cá”. Điều này sẽ xảy ra sau đó? Tin Mừng cho thấy không phải chỉ có Phêrô, người được gọi đích danh, đã theo Chúa, mà cả những người khác nữa cũng đã vội vã theo Chúa: “Ho đưa thuyền vào bờ và bỏ mọi sự mà theo Chúa”. Đến đây chúng ta mới rõ “mẻ cá lạ” Chúa làm là có dụng ý hay có mục đích “mở đường” cho ơn gọi của Phêrô và đồng bạn. Nghề nghiệp đánh cá của các ông thật đã giúp ích cho các ông hiểu một cách dễ dàng sứ vụ mới là làm “những kẻ chài lưới người” (Mt 4,19), nhưng mẻ cá lạ mới giúp các ông quyết định lại ơn gọi một cách mau chóng, vì biết rằng có Chúa giúp khi thi hành sứ vụ của mình.

Anh chị em thân mến,

Chính Thiên Chúa, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, đã chọn gọi những người làm việc cho Ngài, làm cộng tác viên của Ngài trong công trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã gọi các tiên tri, các tông đồ, đã gọi bao nhiêu người khác, đã gọi chính chúng ta. Những ai được Chúa gọi phải mau mắn đáp lại ơn huệ của Chúa – Chúa kêu gọi đó là một ân huệ Ngài ban – một cách khiêm tốn và biết ơn vì ta chẳng đáng được vinh dự lớn lao như thế, và tự sức ta, ta cũng chẳng làm nổi việc gì.

Phải làm trọn ơn gọi của mình, khi đã chấp nhận thì không ngoái cổ lại đàng sau và hãy bắt tay vào việc một cách cần mẫn, hết lòng trông cậy vào ơn phù trợ của Ngài, vâng lời Ngài, tin tưởng phó thác và để Ngài tùy ý hoàn tất công việc lúc nào theo như Ngài muốn.

Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp cách đặc biệt cho những người Chúa đã chọn, đã và đang khiêm tốn chịu khó làm việc Chúa trên khắp mọi cánh đồng và vườn nho của Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha, cho các vị Giám mục và các linh mục, cùng tất cả những người cộng tác chặt chẽ với các ngài.

Chúng ta cũng tha thiết xin Chúa kêu gọi thêm những người đang ước muốn vào làm việc tông đồ của Hội Thánh, đặc biệt trong những nơi đang xảy ra tình trạng “lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”.

Chính chúng ta cũng hãy xin ơn biết lắng nghe tiếng Chúa chỉ bảo ra làm việc nầy hay việc khác trong hoàn cảnh Giáo Hội hiện nay trên quê hương đất nước chúng ta. Trước hết là giữ vững niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đó chính là ơn gọi đưa chúng ta vào Nước Trời bây giờ và sau nầy. Đó cũng là ơn gọi làm tông đồ giáo dân bằng chính cuộc sống đức tin của mình trong môi trường xã hội.

Nếu tình yêu đòi biểu lộ, và có khi biểu lộ bằng những cách “kỳ lạ”, thì Thiên Chúa vì quá yêu nhân loại, nêu đã biểu lộ bằng nhiều cách thế, trong đó có cách thế cho con người được tham dự vào việc truyền bá Tin Mừng, được đọc và được giảng Lời của Thiên Chúa. Lạ lùng lắm thay! Miệng lưỡi con người mà được nói Lời của Đấng siêu việt. Tình yêu Thiên Chúa vẫn gửi tới mỗi người tín hữu để họ đem Lời Thiên Chúa nói cho những người xung quanh, những người thân thuộc và cả những người đi theo Chúa, dùng chính nghề nghiệp khả năng của mình để thành nghề lôi kéo người khác về cho Chúa. Và Đấng là Tình Yêu đang luôn chờ đợi lời đáp trả của từng người chúng ta.

Và nhất là giờ đây, chúng ta kính nhớ Đức Kitô chịu chết và tuyên xưng Ngài sống lại vì chúng ta qua cử hành Thánh Thể, chúng ta hãy hết lòng tạ ơn Chúa đã gọi chúng ta đến tham dự vào mầu nhiệm cứu rỗi nầy. Nhờ nghe Lời Chúa và ăn uống Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta sống ơn gọi một cách tốt đẹp để đời sống chúng ta cũng là một lời mời gọi nhiều người khác đến với Chúa.

 

27. Kêu gọi các môn đệ đầu tiên – McCarthy

 Suy Niệm 1. LẠY CHÚA, THEO LỜI CHÚA…

Thời gian ban đêm là thời gian để đánh cá. Nếu có người nào khác nói với Phêrô: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” hẳn ông sẽ nói: “Bạn có điên không? Phải chăng bạn muốn tôi trở thành một kẻ điên trước mặt những bạn chài khác? Nếu bọn ngư phủ chúng tôi suốt đêm đã không bắt được con cá nào, thử hỏi chúng tôi còn có cơ may nào để bắt được cá giữa ban ngày?”.

Nhưng khi Đức Giêsu nói những lời ấy với Phêrô, câu trả lời tự phát của Phêrô là: “Thưa thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng theo lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”.

Đối với Phêrô, lời của Đức Giêsu khác với lời của bất cứ ai. Lời người mang theo quyền bính mà lời người khác không có được. Vì thế nếu Đức Giêsu đã yêu cầu, thì dù tình thế có vẻ tuyệt vọng, dù Phêrô có mệt mỏi hoặc có vẻ điên rồ, ông cũng phải thử làm lại.

Phêrô hoàn toàn tín thác vào Đức Giêsu. Theo lời Người, ông được chuẩn bị để cố gắng làm điều không thể làm được. Sau này chúng ta còn thấy được điều này trong Tin Mừng khi ông cố gắng đi trên mặt nước theo lời của Đức Giêsu.

Có bao nhiêu người mà chúng ta coi lời họ là nghiêm chỉnh? Chúng ta hoàn toàn tín thác vào lời ai? Chúng ta hoàn toàn tin cậy vào lời ai? Câu trả lời là “rất ít”.

Đánh cá là một nghề xứng đáng. Tuy nhiên, Đức Giêsu thấy Phêrô có khả năng làm những việc khác. Đức Giêsu cần loại người như Phêrô để giúp đỡ Người trong công việc của Người. Đức Giêsu đã nhìn thấy những đức tính nào của Phêrô khiến Người kêu gọi ông chia sẻ công việc với Người? Ông có một đức tính hàng đầu và quan trọng nhất là đức tin vào Đức Giêsu. Ông cũng có đức khiêm nhường.

Câu chuyện Tin Mừng không còn là một câu chuyện về việc đánh cá, nhưng về lòng tín thác. Đức Giêsu đã nói với Phêrô: “Anh sẵn sàng tín thác vào Thày tới đâu?”. Đây là một khúc quanh trong cuộc đời của Phêrô. Điều gì bắt đầu từ một khởi điểm mới sau một thất bại thì bắt đầu với một phương hướng mới.

Đánh cá là một nghề quan trọng. Nhưng Đức Giêsu đã kêu gọi Phêrô và các bạn chài của ông đến với một công việc còn quan trọng hơn. Người đã mang lại cho họ không chỉ một công việc mới, nhưng một mục tiêu để họ cống hiến cả cuộc đời họ cho mục tiêu ấy. Họ biết rằng người kêu gọi họ để phục vụ những người khác: “Thày làm cho anh em thành những người đi đánh lưới người”. Khi các giáo chủ của các giáo phái kêu gọi người ta đi theo họ, họ biến đổi người ta thành những nô lệ của họ. Đức Giêsu kêu gọi các Tông đồ không phải để họ phục vụ Người, nhưng phục vụ người khác.

Chúa vẫn còn kêu gọi con người, và ngày nay nhu cầu ấy to lớn. Và vẫn còn có những người đáp lại lời Người. Một số người (như các tông đồ) được kêu gọi để tận hiến mình, đi theo Đức Kitô bằng một phương thế “chuyên nghiệp”. Nhưng không phải mọi Kitô hữu đều được kêu gọi theo Đức Kitô bằng cách ấy.

Bằng phép Rửa tội, chúng ta cũng được kêu gọi đi theo Đức Kitô. Nhưng đối với một người bình thường, đi theo Đức Kitô có nghĩa là gì? Là sống xứng danh một Kitô hữu trong ngành nghề của bạn ở bất cứ nơi nào bạn có mặt. Còn có nhiều cách phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng Người hơn nữa. Ơn gọi ban đầu không hướng đến những tông đồ nhưng hướng đến những người môn đệ.

 

Suy Niệm 2. MỘT KHỞI ĐẦU TỐT ĐẸP

Isaia, Phaolô và Phêrô là trung tâm của các Bài đọc hôm nay. Cả ba người đã làm những điều vĩ đại cho Thiên Chúa. Tuy nhiên họ đều có mặc cảm tự ti. Họ có một quan điểm thấp kém về mình. Họ không đặt mình ra trước, nhưng được Thiên Chúa kêu gọi. Họ chấp nhận ơn gọi ấy một cách miễn cưỡng, nghĩ rằng họ không xứng đáng với ơn gọi.

Isaia nói: “Tôi là một người có đôi môi ô uế”. Phaolô nói: “Tôi là người nhỏ nhất trong các tông đồ. Tôi không xứng đáng mang danh tông đồ”. Và Phêrô tuyên bố: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Đó không phải là một sự khiêm nhường giả tạo của ông mà là một chân lý rõ ràng.

Mỗi người bắt đầu bằng sự nhận ra sự bất xứng và không thích hợp của mình. Theo một quan điểm tâm linh, sự khởi đầu như thế là lý tưởng. Người nào đặt mình ra trước xem ra làm hại hơn có lợi. Người ấy chỉ cậy dựa sức mình là cát mà thôi và ngôi nhà tâm linh xây trên cát chắc chắn sẽ sụp đổ.

Mặt khác, khi chúng ta gặp một người lo sợ, miễn cưỡng ngần ngại, chúng ta nhận thấy người ấy đáng tin hơn, và nhân đạo hơn. Yếu tố miễn cưỡng này là cốt lõi của vấn đề, bởi lẽ nếu một thánh nhân hoặc tử đạo hăm hở đi tìm cái chết hoặc cực hình xem ra không chân thật.

Ở đây có một nghịch lý to lớn. Phaolô nói: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Nghĩa là khi ông nhận ra sự yếu đuối của mình và chạy đến Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa trở nên có hiệu lực nơi ông.

Khi chúng ta biết những yếu đuối của chúng ta, Thiên Chúa có thể làm chúng ta mạnh mẽ. Khi chúng ta biết sự trống rỗng của chúng ta, Thiên Chúa có thể đổ đầy chúng ta. Khi chúng ta biết sự nghèo nàn của chúng ta. Lúc đó, chúng ta thích hợp để làm công việc của Người, và Người hoàn thành trong chúng ta những việc mà chúng ta nghĩ mình không làm được.

Sự khiêm nhường là một khởi điểm. Điều đó không có nghĩa là chúng ta chỉ yếu đuối, vị kỷ và hèn nhát. Không có ân sủng, chúng ta không thể cứu lấy mình, càng không thể cứu người khác.

Tuy nhiên, người ta có thể dùng tội lỗi và yếu đuối của mình như một lá chắn. Isaia xin Thiên Chúa chọn người khác, người nào có cái miệng thanh sạch. Phêrô xin Đức Kitô tránh xa ông vì ông là kẻ tội lỗi. Khi chúng ta làm điều đó, chúng ta nhượng bộ sự yếu đuối của chúng ta. Chúng ta dùng sự yếu đuối của mình như một mánh khoé thách đố làm điều thiện hảo.

Theo Phêrô, Đức Giêsu là Đấng Thánh phải tránh xa ông là kẻ tội lỗi. Nhưng Đức Giêsu khước từ làm như thế. Người đã đến vì những người tội lỗi. Bằng cách ấy, Người đã thay đổi cách hiểu của con người về Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là Đấng xa lánh tội nhân, nhưng là một Thiên Chúa muốn họ được cứu, và đem đến cho họ một sự khởi đầu mới mẻ.

Isaia, Phaolô và Phêrô sau cùng đã chấp nhận lời mời gọi của Thiên Chúa, và cả ba đã làm một công việc sáng chói. Đây là một nghịch lý –sức mạnh vươn lên từ sự yếu đuối. Khi chúng ta đáp lại lời kêu gọi của Thiên Chúa, Người sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể làm những điều mà chúng ta không bao giờ nghĩ mình làm được.

Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta sự khiêm nhường để hiểu biết những yếu đuối của chúng ta, và cho chúng ta sức mạnh vượt lên yếu đuối. Lúc đó, chúng ta sẽ có được niềm vui để khám phá ra rằng chính khi chúng ta yếu là lúc chúng ta mạnh, bởi vì quyền năng của Chúa trở nên có hiệu lực đối với chúng ta.

 

28. Đào tạo môn đệ

Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi bằng ba tên: biển Galilê, biển Ti-bê-ri-át và hồ Ghen-nê-xa-rét, hồ này dài 20,8km, rộng 12,8km. hồ ở vào chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225m dưới mặt biển, vì thế nó có khí hậu giống như khí hậu nhiệt đới. Ngày nay cư dân không đông lắm, nhưng vào thời Chúa Giêsu, có chính thị trấn chung quanh bờ hồ, không thị trấn nào dưới mười lăm ngàn dân. Ghen-nê-xa-rét thực ra là tên của một cánh đồng xinh đẹp nằm ở phía tây bờ hồ, đó là vùng đất phì nhiêu nhất.

Tại đây chúng ta đối diện với một khúc quanh trong chức vụ Chúa Giêsu. Lần trước Chúa giảng trong nhà hội nữa, bây giờ Ngài ở tại bờ hồ. Rồi Ngài sẽ còn trở lại nhà hội nữa, nhưng sẽ đến một ngày, cửa nhà hội đóng lại trước mặt Ngài, thì Hội Thánh của Ngài sẽ ở nơi bờ hồ, sẽ ở ngoài đường cái, và tòa giảng của Ngài sẽ là chiếc thuyền. Ngài sẽ đi tới bất cứ nơi nào người ta muốn nghe Ngài giảng. Khi nhà hội đóng cửa thì Chúa Giêsu giảng ngoài đường, bên bờ hồ. Vào dịp này Ngài mượn một chiếc thuyền của một người bạn dùng làm tòa giảng để giảng cho quần chúng. Khi giảng xong, Ngài ban cho bốn người sắp được kêu gọi một bài học cụ thể về tính cách của công tác và sự thành công vĩ đại sẽ đến với chức vụ của họ, nếu họ bằng lòng từ bỏ tất cả để đi theo Ngài. Ngài đã làm một phép lạ vô cùng kích động, và chúng ta có thể liệt kê các điều kiện để một phép lạ xảy ra:

1. Có mắt biết nhìn xem:

Chúng ta không cần nghĩ rằng Chúa Giêsu đã dựng nên bầy cá lớn đó trong trường hợp này. Biển Galilê có nhiều bầy cá đông đảo đến nỗi có thể che đặc cả mặt biển trong một khu rộng lớn. Có lẽ con mắt thấu suốt của Chúa Giêsu đã nhìn thấy bầy cá lớn đó mà các ngư phủ không thấy. Chúng ta cần đôi mắt biết nhìn thấy. Nhiều người đã nhìn nước sôi làm bật cái nắp vung nhưng chỉ một mình James Watt đã nhìn thấy và sáng chế ra máy hơi nước. Nhiều người đã nhìn thấy táo rơi, nhưng chỉ một mình Isaac Newton đã nhìn thấy và đã tìm ra luật hấp lực của trái đất. Nhìn lên bầu trời các nhà thiên văn học tìm thấy nhiều điều hơn là một người thường. Nhìn vào một hàng rào cây cỏ, các nhà thảo mộc khám phá ra nhiều điều kỳ diệu mà một người nông dân thường không nhận ra được.

“Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ Người nói với các môn đệ: lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít, vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt 9,36-38).

Sau cuộc tiếp xúc với người phụ nữ xứ Samari ở bờ giếng Gia-cóp, Chúa nói với các môn đệ viễn tượng tốt đẹp của mùa gặt Tin Mừng: “Nào anh em chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt. Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!” Và thánh Gioan ghi tiếp: “Có nhiều người Samari trong thành đó tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng. Khi gặp Người họ xin Người ở lại với họ, Người ở lại hai ngày. Số người tin còn đông hơn nữa.” (Ga 4,35.39.40) Thế giới đầy dẫy những phép lạ cho những ai biết nhìn xem.

2. Có tinh thần biết cố gắng nhẫn nại:

Khi Chúa Giêsu nói thế, dù rất mệt nhọc, Phêrô cũng sẵn lòng thả lưới một lần nữa. Nhiều người đành chịu thảm bại trong cuộc đời vì họ ngã lòng quá sớm. Trong cuốn hồi ký “Cuộc đời những thành tựu của tôi”, nhà tỷ phú Mỹ Henri Ford với biệt danh vua ô tô, đã ghi lại biết quyết thành công của ông: “Những người đầu hàng thường đông hơn những người chiến thắng, không phải họ thiếu tiền của, sự hiểu biết, trí thông minh, lòng ham muốn… cái họ thiếu là lòng kiên nhẫn.” Và ông gọi đó là “nữ hoàng không vương miện của ý chí.” Ray Knoe, một thiên tài của công ty sản xuất thực phẩm “mì ăn liền” Mc Donald, cũng có cùng một quan điểm khi xếp lòng kiên trì vào hàng đầu các năng lực của con người, ông viết: “Không có gì trên thế gian có thể thay thế lòng kiên trì. Tài năng ư? Cứ xem có biết bao người đầy tài năng mà vẫn cứ thất bại! Thiên tài ư? Thiếu gì thiên tài đã không được tán thưởng. Giáo dục ư? Thế gian đầy dẫy những kẻ vô dụng cho dù có học thức. Vậy chỉ có lòng kiên trì và cương quyết là vạn năng. Nếu thêm vào đó năng lực của lời cầu nguyện thì không có gì có thể địch nổi.”

3. Có tinh thần cố gắng trong trường hợp hầu như tuyệt vọng:

Đêm đã qua rồi, đêm mới thuận tiện cho cuộc đánh bắt cá, tất cả hoàn cảnh đều không thuận tiện, nhưng Phêrô nói: “Trong hoàn cảnh như vậy, nhưng nếu Thày bảo thì chúng con xin vâng.”

Chúng ta thường chờ đợi vì thời cơ chưa thuận lợi, nếu cứ chờ đợi cho đến lúc mọi sự đều thuận lợi thì chắc sẽ không bao giờ chúng ta bắt đầu được. Nếu chúng ta theo đúng lời Chúa Giêsu truyền dạy khi Ngài bảo chúng ta làm một việc không thể thực hiện thì phép lạ sẽ xảy ra.

Rõ ràng đó là do một quyền phép siêu nhiên khiến Phêrô cảm thấy mình đang đứng trước sự hiện diện của Đấng Thần linh và tỏ vẻ sợ hãi như cảm giác của một người đối diện với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã phán những lời chẳng những đánh tan sự kinh hãi của Phêrô, nhưng cũng đem lại can đảm cho ông và đồng bạn trong những năm tới: “Đừng sợ, từ nay ngươi sẽ là kẻ chinh phục người ta.”

Ngay nay Chúa cũng đang kêu gọi chúng ta làm môn đệ Ngài. Vâng phục có thể bao hàm sự hy sinh, nhưng chắc chắn sẽ đem lại kết quả là cứu rỗi các linh hồn.

Để kết thúc, chúng ta nên suy gẫm lời của chân phước Eserive, sáng lập Opus Dei: “Nếu bạn bị cám dỗ để tự hỏi: Ai bảo tôi xía vô chuyện ấy? Tôi phải trả lời ngay cho bạn: Chính Đức Kitô ra lệnh cho bạn đó. Ngài bảo bạn phải xin “vì lúa chín đầy đồng mà thợ gặt ít quá, hãy cầu xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa!” Đừng có ươn lười: Việc ấy, tôi, tôi làm sao được? Tôi có nhiều việc phải làm. Những công việc như vậy không phải để cho tôi! Không, không có ai khác. Nếu bạn nói được như vậy, nhiều người cũng sẽ nói như thế. Lời mời của Chúa là dành cho tất cả và mỗi người Kitô hữu. Không có ai được miễn trừ, dầu là tuổi tác, dầu là sức khỏe, dầu nghề nghiệp. Không có một miễn trừ nào, một là chúng ta mang lại kết quả cho việc tông đồ hoặc đức tin ta kiệt quệ.” (Escriva amis de Dieu).

 

29. Được gọi

“Thưa ông, thưa bà muốn gặp ai ạ ?”. Đó là câu nói mà Chị Céline phải lặp đi lặp lại mỗi ngày khoảng 10 lần và cứ thế suốt ròng rã trong 40 năm trường khi Chị coi giữ phòng khách của nhà dòng để đi gọi người khác. Biết bao nhiêu khuôn mặt đã xuất hiện, biết bao nhiêu giọng nói đã vang lên, nhưng Chị biết rõ một điều là người ta đến nhờ Chị để xin gặp một người khác. Do đó, một ngày của Chị bị cắt vụn thành những miếng, công việc của Chị bị chẻ thành từng mảnh, nghĩa là luôn luôn bị gián đoạn, không khi nào được yêu thân lâu. Nhưng sự gián đoạn của Chị là sự liên lạc của người khác. Và rồi một hôm, trong lúc vội vã đi gọi, Chị Céline đã ngã quỵ nơi hành lang và thổ huyết. Chị qua đời, nhưng đôi tay của Chị vẫn giữ chùm chìa khóa như bảo chứng của ơn gọi. Chị Céline đã suốt đời trung thành với tiếng gọi của Chúa và với công việc bổn phận hằng ngày của mình là: được gọi để gọi người khác. Giá trị và sự cao cả của Chị là ở chỗ đó.

Và đó cũng lã ý tưởng chủ yếu của bài Phúc âm hôm nay. Bốn môn đệ đầu tiên được Chúa gọi bằng việc chứng kiến một mẻ cá lạ, rồi các ông tin phục và bỏ mọi sự mà đi theo Chúa với một mục đích là được Chúa huấn luyện để trở thành những kẻ sau này đi chài lưới người về cho Chúa. Như thế, rõ ràng các ông được Chúa gọi không phải đi theo Chúa để hầu hạ Ngài hay làm quan này chức nọ, nhưng để các ông đi gọi để kẻ khác về với Chúa.

Ngày nay, tuy không được Chúa gọi trực tiếp, công khai như các môn đệ ngày xưa, nhưng chúng ta vẫn được Chúa gọi cách gián tiếp qua trung gian để đi gọi kẻ khác về cho Chúa. Chỉ khác một điều là cách thức chinh phục các linh hồn có thể không giống nhau vì tùy theo khả năng, hoàn cảnh và địa vị riêng. Chính vì sự khác nhau này mà mỗi người chúng ta cần phải lưu tâm đến hai yếu tố quan trọng sau đây:

Trước hết, đã là Kitô hữu thì bất cứ ai cũng đều phải chấp hành nghiêm chỉnh sứ mạng mà Chúa giao phó là ra sức chinh phục các linh hồn về cho Chúa. Đây là lệnh truyền của ơn gọi vì nó gắn liền với bản chất của những ai muốn làm môn đệ Chúa, của những ai mang danh công giáo đích thực. Nghĩa là được gọi làm con cái Chúa chỉ có thể xứng đáng và đúng nghĩa khi biết đi gọi người khác trở thành như mình. Nhưng hãy coi chừng vì chúng ta không được phép chinh phục người khác cho mình mà là cho Chúa, không phải để thống trị họ mà là phục vụ giúp đỡ họ, không vì tư lợi mà là hoàn toàn bác ái vị tha. Do đó, trong việc làm tông đồ đúng nghĩa thì chúng ta chỉ là kẻ môi giới, trung gian, dẫn đường cho người khác đến với Chúa, nhưng nếu chúng ta lấy mình làm đích điểm cho việc truyền giáo thì chẳng những không đưa được ai trở lại đạo mà chính bản thân mình lại lạc đạo.

Thứ đến, việc được gọi làm con Chúa để đi gọi người khác về cho Chúa là một trách nhiệm mà mọi người phải chu toàn. Nhưng nếu vì lười biếng, khinh thường không cố gắng hoàn tất bổn phận quan trọng đó mà Chúa giao phó đã là lỗi nặng, huống chi khi sống bất xứng, làm gương mù gương xấu khiến nhiều người ngoài chê cười đạo, xa lánh đạo thì tai hại biết chừng nào ! Bởi vì, Giáo Hội được ví như một mắt lưới chài cá, mà mỗi Kitô hữu giống như một mắt lưới. Giả sử mô mắt lưới đứt thì bao nhiêu cá theo đó mà lọt ra ngoài. Cũng thế, một tín hữu xấu làm nhiều người vì đó mà không tin vào đạo nữa; một người công giáo sống bất xứng không làm cho Giáo Hội xấu, nhưng lại làm nhiều người nghĩ xấu về đạo.

Tóm lại, được gọi để gọi là mục đích của việc chinh phục người ngoài về cho Chúa chứ không phải cho mình. Và phương cách chinh phục không thể bằng mưu mô xả quyệt, thủ đoạn lừa đảo, mua chuộc hay áp lực vì những thứ đó là trò của ma quỉ, nhưng bằng sự hấp lực của một đời sống thánh thiện gương mẫu.

 

30. Người trẻ mau thoái chí và an phận

. Câu chuyện Tin mừng

Một hôm, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy dân chúng.

Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Ông Si-môn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.

Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.

Dẫn giải

Nếu năm bạn trẻ chúng ta làm quen hôm qua phấn khởi và hào hứng thế nào thì anh bạn Phê-rô và có lẽ cả các bạn bè của anh hôm nay lại “ỉu xìu” và tầm thường tới mức đáng thất vọng.

Sáng hôm ấy, tại bờ hồ Ghen-nê-xa-rét ở Ga-li-lê, mặt trời đã lên cao, dân chúng đang chen lấn nhau rất đông. Tưởng là họ tụ tập để đón các thuyền đánh cá xa bờ trở về. Nhưng kì thực không phải. Hay nếu có thì đó chỉ là lí do ban đầu. Sau khi biết các thuyền trở về với khoang trống, người ta đã lập tức đổ dồn sang một hướng khác. Lần đầu tiên, làng chài hèn kèm của họ được một vị ngôn sứ nổi tiếng đến thăm và giảng đạo. Các tay chài đã thất vọng vì đánh cá hụt, càng thất vọng hơn trước nhân tình thế thái: thường ngày khi thuyền họ chở đầy cá về thì hết người nịnh nọt tới kẻ chiều chuộng để mua cho được cá; còn hôm nay khi họ tay trắng trở về, không có lấy một người nào hỏi han để an ủi và động viên họ. Họ cũng đâm ra bực lây cả vị ngôn sứ nổi tiếng kia. Si-môn và các bạn nhanh tay neo thuyền vào bến, giặt lưới, rồi vội vàng quay về: lúc này vào giường ngủ là thượng sách!

Nào ngờ, Đức Giê-su lại chọn ngay thuyền của Si-môn, xin ông cho mượn để ngồi giảng đạo và xin ông chèo ra xa một chút để dễ nói với dân chúng. Miệng lẩm bẩm: “Thế là lại mất một buổi sáng và … mất luôn cả giấc ngủ!”. Si-môn vừa ngáp dài vừa ngồi bó gối ở cuối thuyền chờ Đức Giê-su giảng xong. Ông hí hửng định chèo thuyền vào bờ khi thấy Đức Giêsu kết thúc bài giảng. Nhưng lại một lần nữa, Ngài đề nghị ông chèo thuyền ra xa hơn không phải để giảng mà là để ….đánh cá. Thế này thì thật quá đáng! Trước mặt bàn dân thiên hạ mà Ngài chẳng nể nang ông: gián tiếp nhắc lại vết thương lòng của ông là đã đánh cá thất bại cả đêm qua, trực tiếp dạy khôn ông về việc săn bắt cá – một người làm nông cả đời bám chặt đất liền lại dám chỉ vẽ chuyện sông nước cho tay chài chuyên nghiệp!

Nhưng vừa nể Ngài đang được dân chúng ái mộ, vừa muốn chứng tỏ sự thất bại của mình là có lí nếu lần này ông cũng chẳng bắt được gì, Si-môn chèo ra chỗ nước sâu. Có ngờ đâu, chỉ trong nháy mắt, tay ông đã buông thõng xuống vì cá vào lưới quá nhiều. Ông vội vàng hô to gọi các bạn chài ở thuyền khác đến tiếp sức. Cả đám thanh niên vạm vỡ mới kéo nổi lưới lên thuyền: không phải vài con cá lòng tong, mà cả hai thuyền đầy những con cá to bằng bàn chân người và còn lớn hơn thế nữa.

Đến lúc này, Si-môn mới thấy xấu hổ vì đã có những cử chỉ, lời nói và ý nghĩ không tốt về Đức Giê-su. Không riêng gì ông, mà cả đám bạn như Gia-cô-bê và Gio-an cũng lặng người đi vì ngạc nhiên: Giê-su chẳng những không phải là tay mơ về sông nước, mà hình như còn là chủ nhân của sông nước nữa! Bây giờ, cả đám không còn dám huênh hoang to tiếng nữa, mà chỉ biết lặng lẽ làm những gì Ngài nói. Họ đưa thuyền vào bờ và đi theo Ngài.

Thật ra, sự chán nản tới mức chỉ muốn bỏ việc và quay về nhà ngủ nghỉ – sự an phận thủ thường của Si-môn và bạn bè ông rất dễ hiểu và rất dễ thông cảm. Có ai không buồn bã thất vọng khi đã chuẩn bị tất cả, từ lương thực cho người tới mồi cho cá, từ thuyền bè tới lưới cá, từ sự hồ hởi phấn chấn trong tâm hồn tới sự khoẻ khoắn chắc chắn trong thân xác, mà rốt cuộc chẳng làm được gì, ngoài khoang thuyền trống hoác!

Rồi khi đã có cá, nhiều nữa là khác, đủ hái ra tiền tiêu cả mấy tháng, ai dại gì ra khơi một lần nữa. Cám ơn Đức Giê-su rối rít, xin lỗi Ngài tới tấp, nếu cần đãi Ngài mấy bữa ăn liền, là đủ. Nếu sáng nay cả bọn chỉ muốn yên thân trong giấc điệp là vì hoàn cảnh bắt phải chịu vậy, thì bây giờ cả đám sẵn sàng an phận vì đã được toại nguyện. Dù có là thanh niên trai tráng, ai cũng muốn có lúc dừng tay chèo, dừng chân bước để hưởng thụ, để nghỉ ngơi.

Chỉ tiếc đó cũng chính là sai lầm của ông và các bạn ông. Câu nói của Đức Giê-su: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” không chỉ là một lời mách nước cho người đánh cá, mà là bí quyết cho mọi thành công trong cuộc đời. Si-môn thất bại trong lần đánh cá đêm qua, có thể không phải vì chưa ra khơi tính theo cây số biển, mà là chưa ra khơi tính theo thước đo của sự quyết tâm trong lòng: tuy đã ra khơi, nhưng mới thử vài keo đã bỏ cuộc. Sau khi đánh được mẻ cá lớn chưa từng thấy, ông lại tính tới chuyện không “ra khơi” nữa. Ông chỉ nghĩ tới việc loay hoay trong xó nhà hay cùng lắm, hì hục trên sông nước, kiếm cá, mua bán, sắm sửa và…chơi. Một lần nữa, Đức Giê-su cho biết Ngài giúp ông bắt được cá không phải chỉ để như thế thôi, mà để ông nghĩ đến một số phận mới, một chân trời mới và một kiếp sống khác: đó chính là không chỉ nghĩ cho mình và gia đình mình, mà còn phải nghĩ tới những người khác, không chỉ nghĩ đến chuyện mưu sinh, mà còn phải nghĩ đến chuyện hạnh phúc đời đời… Vẫn biết mỗi lần “ra khơi” như thế là mỗi lần phải đương đầu với những thử thách và bất ngờ, nhưng tục ngữ Việt Nam có câu: “Không vào hang, làm sao bắt được cọp!”. Nhất là nếu những lần “ra khơi” ấy là những lần ra khơi do Chúa đề nghị và có Chúa đi cùng – những lần ra khơi cao đẹp và ý nghĩa!

Tuổi trẻ hiếu kì tọc mạch, tuổi trẻ hăng hái xông pha. Nhưng tuổi trẻ cũng rất mau nản chí, mau thất vọng và sớm hưởng thụ, cầu an. Thử hỏi nếu Đức Giê-su không đến khuấy động cuộc đời Si-môn và bạn bè ông, thì cuộc đời họ và cuộc đời nhiều người đã ra sao? Thử hỏi nếu các ông không chấp nhận cùng với Đức Giê-su ra khơi, thì cuộc đời họ và cuộc đời nhiều người đã thế nào?

Gợi ý để suy nghĩ thêm

  • Hiện nay, tôi thấy mình đang ở trong tình trạng nào: chán nản thất vọng? buông xuôi để mặc? ích kỉ và lười biếng thụ hưởng? lao đầu vào những việc không đâu? phấn đấu để thực hiện những điều tốt?
  • Có bao giờ tôi dám tiến lên thực hiện những điều tốt không: chẳng bao giờ, vì sợ bị thiệt hại? chỉ một đôi lần, chứ không dám hơn? chỉ khi nào nắm vững mọi sự trong tay? sẵn sàng nếu thấy Chúa ra hiệu, dù có thể bị thương tích hay thậm chí bị ngã?

 

31. Những môn đồ tiên khởi – R. Gutzwiller

Cho đến bây giờ vẫn chỉ có một mình Đức Giêsu giảng Tin mừng. Bây giờ Ngài tụ tập các môn đệ quanh Ngài. Chắc hẳn đó là một cộng đoàn thính giả, nhưng cũng là những cộng tác viên mà Ngài cho tham dự tích cực vào công việc của Ngài. Điều này xem ra có vẻ bất ngờ và ngạc nhiên. Thế nhưng, ngay bản chất của Thiên Chúa nhập thể đòi hỏi Ngài phải sử dụng con người để xây dựng Nước Thiên Chúa. Lời mời gọi thật là ý nghĩa bắt đầu nơi Simon Phêrô.

1. Chuẩn bị.

Nơi Simon, thửa đất được chuẩn bị thật kỹ lưỡng, mặc dầu ông không ý thức được điều đó. Ông có mặt khi Chúa chữa lành người quỷ ám trong hội đường. Nơi nhà ông, Chúa đã chữa lành bà nhạc của ông và chiều đến, trước cửa nhà ông, nhiền bệnh nhân đã tìm lại được sức khoẻ một cách lạ lùng. Đây Chúa Giêsu đang ngồi trên chiếc thuyền đánh cá của ông, nhẹ nhàng đi ra xa bờ và từ đó, Ngài cất tiếng giảng dạy dân chúng; vị trí đặc biệt này cũng là vị thế của ông trong lãnh vực thiêng liêng.

Trong việc sửa soạn trực tiếp cho vị Tông đồ có hai phương diện: đòi hỏi và củng cố.

Yêu cầu thứ nhất là phải luôn dễ dàng suy phục đức tin. Chúa Giêsu bảo ông ra khơi thả lưới. Phêrô cũng từ chối như bất cứ người nào khác: ông tuyên bố rõ rằng: mình đã vất vả suốt đêm –thời gian thuận tiện để đánh cá- cùng các bạn, thế mà chuảng kết quả gì. Bây giờ tại sao lại phải làm nữa, vào một lúc bất lợi, khi mà con người mệt mỏi và xét theo loài người thì tất bại là cái chắc!

Nhưng ông cũng thưa: ‘Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới’. Tinh thần đức tin đưa đến chỗ vâng phục, khiến cho ông được thừa nhận và được ban thưởng một mẻ cá lạ lùng. Mẻ cá mà Simon và em là Anrê bắt được quá nhiều đến độ ông phải làm hiệu cho bạn là Giacôbê và Gioan ở một chiếc thuyền khác đến giúp đỡ. Và cả hai thuyền đầy ắp những cá.

Con người lao công, Thiên Chúa thưởng công. Cần con người phải ra tay hành động, phải cố gắng, phải sử dụng mọi phương tiện cần thiết, nhưng trong việc phụng vụ nước Chúa, phần kết quả không tuỳ thuộc ở con người.

Kể từ thời ấy, Giáo Hội rất thường sử dụng mọi phương pháp để hoạt động tông đồ, dốc toàn lực và kiên trì làm việc; dầu hạt giống đã gieo, nhưng số thu hoạch không tăng gấp bội.

Ngược lại, khi không, ở một miền nào đó trên trái đất, nơi người ta chẳng hy vọng gì thì nhiều lần Thiên Chúa lại làm phát sinh một mùa thâu hoạch thật là phong nhiêu, chỗ mà người ta cho rằng kết quả chẳng có bao nhiêu. Ở đây trong sự mời gọi thi hành nhiệm vụ khởi đầu của Simon, rõ ràng thành công hay thất bại đều ở trong tay Chúa, vất cả chỉ có ý nghĩa khi nó hợp với Thánh ý và giới mệnh của Chúa, thi hành cả lúc coi là có viễn tượng thất bại, nhưng làm với một niềm tin trung kiên bền vững.

Đòi hỏi thứ hai là ý thức tình trạng tội lỗi của mình. Thánh Phêrô đã hiểu mẻ cá này có ý nghĩa gì rồi. Nó làm cho ông chú ý đến Đức Kitô dường như ngôi sao lạ đối với các đạo sĩ, bởi vì mẻ cá nhiều quá đỗi, trong một khoảng thời gian vắn, một nơi bất lợi, tất cả cho ông biết rằng có sự hiện diện của một lực siêu nhiên.

Do vậy, Thánh Phêrô có kinh nghiệm về Thiên Chúa nhờ gần gũi với Đức Kitô. Sự gần gũi này làm ông sợ hãi đến cùng cõi thâm sâu trong người ông, ông ý thức được tình trạng tội lỗi của mình, đó là cái không thể tồn tại trước nhan Thiên Chúa. Con người càng cảm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa hằng sống, thì càng thấy cái tôi tội lỗi cua mình biểu hiện ra thật đau khổ và không thể nào chịu được. Vì đó Thánh Phêrô, đã sụp xuống và sợ hãi thưa: ‘Lạy Chúa xin hãy xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi’.

Đó hẳn là thái độ xứng hợp. Con người được mời gọi cộng tác vào nước Thiên Chúa chẳng phải vì có những khả năng đặc biệt như những tư chất tri thức, điều kiện luân lý và đạo đức, nhưng chỉ đơn giản là vì Thiên Chúa muốn họ cộng tác, có thế thôi, chứ nơi con người không có chi xứng đáng để Thiên Chúa phải chọn lựa. Một khi con người biết rằng mình được Thiên Chúa mời gọi không phải vì ‘mình thế này thế nọ’, nhưng ‘cho dù mình bất xứng, Thiên Chúa cũng vẫn…’, và nếu thành thực thú nhận rằng mình tội lỗi thì sẽ chẳng quy kết quả và vinh dự cho bản thân mình nhưng cho duy mình Thiên Chúa mà thôi.

Thế cho nên mẻ cá lạ lùng này là một chuẩn bị tuyệt hảo. Khi con người tội lỗi tín thác vào sức mạnh và sự cao cả của Thiên Chúa, và bắt tay vào việc với tinh thần dễ dậy và ngoan ngoãn với đức tin, thì lúc đó họ đang sống trong chân lý. Mọi thái dộ khác xuất phát từ nguyên một triết lý tự nhiên thôi, đều phải coi là sai lạc. Chúa Giêsu không đòi hỏi mà thôi, phép lạ của Ngài còn làm cho Simon và các đồng bạn được vững chắc trong tâm hồn.

Là những ngư phủ thiện nghệ, họ sẽ chẳng bao giờ quên được mẻ cá này. Họ chưa từng thấy hay kinh nghiệm một trường hợp nào tương tự. Nay bỗng dưng vào một lúc bất tiện, cả một đàn cá từ tứ phía đổ tràn vào lưới; nay bỗng nhiên mẻ cá nhiều đến độ hai thuyền chở nặng gần chìm; họ coi đây là hiện tượng siêu phàm không thể hiểu được.

Sau này khi đi giảng Tin mừng các ông sẽ gặp sự chống đối từ phía Israel, và sẽ phải từ bỏ dân riêng của mình sau bao năm trường vất vả mà không kết quả để quay về phía các dân ngoại.

Với một thiểu số ít ỏi, họ đã chinh phục được những thành phố lớn; đến giờ chịu tử đạo, các ông sẽ phải bỏ mạng sống mình và bỏ tất cả để chấp nhận một số phận bấp bênh hầu phục vụ nước Thiên Chúa. Thế nhưng các ông không lầm khi theo Chúa Kitô bởi vì từ nay các ông biết rằng kết quả có thể đến bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ ở nơi nào, lúc nào tuỳ sự tự do cao cả Chúa định đoạt. Các ông không còn lo lắng đến thành công hay thất bại, chính Chúa Kitô sẽ quyết định những điều đó.

Sau những đêm trường vất vả mà công dã tràng, các ông nhận được những buổi mai vinh thắng. Trong nước Thiên Chúa, vất vả cố gắng không được cân đo theo những quy luật tự nhiên. Ta hãy tin rằng mọi sự đều ở trong tay Thiên Chúa; phải luôn luôn thi hành công việc với lòng hy vọng và đừng khi nào thất vọng.

2. Sứ vụ

Simon nài xin: ‘Lạy Thày, xin hãy tránh xa con’. Chúa Giêsu trả lời ông theo một hướng trái ngược hẳn: ‘Đừng sợ, các con sẽ là kẻ chinh phục người ta’. Tạo vật tội lỗi có lý do để sợ hãi. Nhưng ơn sủng của Chúa Kitô sẽ xua đuổi nỗi lo sợ này. Tội lỗi đẩy ra xa, còn ân sủng kéo lại gần. Không phải chỉ để vui hưởng yên ủi hay bản thân được cảm nghiệm, nhưng là để tham dự và cộng tác vào công trình của Chúa. ‘Con sẽ là ngư phủ lưới người ta’.

Chiếc ghe nhỏ của Phêrô từ đây sắp lướt trên đại dương, tức là lịch sử thế giới, đoàn người đi với Ngài không ngừng tìm cách câu lưới người ta. Con người sẽ trở nên miếng mồi của Thiên Chúa, nhưng không phải để bị huỷ diệt, mà là để được giải thoát: để được cứu vớt khỏi cái đầm lầy đáng thương tức là cuộc sống hoàn toàn có tính cách trần thế, và được đưa sang đại dương mênh mông tức là tình yêu của Thiên Chúa.

Bởi vì một khi sóng nước đời này muốn làm biển cả thì thực tế lại chỉ là một cái đầm lầy nước đọng. Chỉ khi nào sa vào lưới của Chúa và rồi được Ngài cho chìm ngập trong những cuộn sóng ơn sủng, bấy giờ, họ mới có được cái kinh nghiệm thế nào là sự phong phú của một đời sống trong Chúa.

Để thực hiện chương trình này, Chúa Giêsu sắp chinh phục những con người mà Ngài sẽ lấy quyền năng của mình để trang bị cho và trao cho nhiệm vụ ra đi giảng dạy. Do đó không được hoàn toàn quên đến phần đóng góp của con người để cho rằng một mình Thiên Chúa làm hết mọi sự.

Nhưng thể theo ý của Đức Kitô, Đấng đã sắp đặt như thế chứ không theo cách khác, những con người này phải chịu vất cả với sự kiên nhẫn, đam mê kiên trì của một ngư phủ, để đem hiểu biết cũng như tài khéo trong việc đánh bắt những con người ‘cô đơn’ sử dụng những phương pháp tinh xảo để thu phục đám đông, dành mọi nỗ lực để phục vụ sứ mạng đã được trao phó.

Không có gì cao quí cho bằng nghề lưới người: phải bắt đầu lại luôn luôn, hết mẻ này đến mẻ khác… đến với mọi giai tầng xã hội, mọi ý thức hệ chính trị, mọi phe nhóm quốc gia, chủng tộc.. Mọi tuổi tác, giới phái, trình độ văn hoá… Các ngư phủ lưới người phải làm việc theo lệnh của Chúa ở khắp mọi nơi. Đó là sứ vụ của họ.

Vậy họ trả lời ra sao? ‘Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngưới’. Bản văn không thuật lại một lời phản kháng nào của bốn môn đệ tiên khởi cả. Không bán tín bán nghi, cũng không từ chối vì thứ khiêm nhường giả tạo, cũng không vì nhiệt tình bồng bột; nhưng chỉ nhấn mạnh đến hai mặt của sự kiện: ‘Các ông đã bỏ mọi sự mà đi theo Người’. Mỗi một mặt đều có tầm quan trọng riêng của nó.

Bỏ mọi sự. Con người phải cởi bỏ những mối dây làm mình bị vướng víu và tê liệt. Cần phải có bàn tay và tâm hồn tự do. Không còn thuộc về thế giới xung quanh và cái vũ trụ quen thuộc. Chúa Kitô muốn cho kẻ được Ngài mời gọi cộng tác phải hoàn toàn tuỳ Ngài xếp đặt. Ân huệ tuyệt đối giả thiết sự từ bỏ hoàn toàn. Nhờ từ bỏ, con người chuẩn bị cho mình thật sẵn sàng.

Đi theo Người. từ nay có một nhóm môn đồ ở với Thầy. Các ông không theo Ngài kiểu như những học trò thụ giáo một bậc Thầy triết lý: bởi vì đây không nhằm mục đích tri thức, nhưng là một sự dấn thân thực sự. Chúa Giêsu đã biến những ngư phủ này thành những ngư phủ lưới người, kéo họ ra khỏi cái thế giới nhỏ hẹp của họ; họ sắp đi theo Ngài, cùng Ngài đi vào thế giới mênh mông. Họ thuộc về Ngài hoàn toàn, họ đã khám phá một tâm điểm mới cho cuộc sống, một mục đích mới để hoạt động.

Giờ đây chính Chúa Giêsu sắp xếp mọi sự cho họ; Chúa Kitô sẽ là số phận của họ trong suốt cuộc sống của họ trên dương thế, và là cuộc sống mới của họ. Sau mẻ cá lạ lùng này, họ đã cập bờ nhưng với con người hoàn toàn khác hẳn. Sự ra đi này biến thành một cuộc vượt biển mới, cuộc Vượt qua bao la và đòi can đảm mà họ chỉ thoáng linh cảm thấy.

Theo gương Chúa Kitô, qua việc từ bỏ và tận hiến mình thực sự là điều lớn lao nhất trong cuộc sống của con người.

 

32. Từ nay anh sẽ bắt người

Suy Niệm

Chẳng ai ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển hướng.

Ông đã có nghề nghiệp ổn định và đã lập gia đình. Thế giới của ông là hồ Ghênêxarét, là những con cá quẫy đuôi trong lưới, là gia đình cần phải chăm nom.

Ông yêu vợ con, ông yêu biển cả. Chúa đã đặt ông vui sống trong thế giới ấy, nên chỉ có Ngài mới có thể kéo ông ra, và bất ngờ đưa ông vào một thế giới mới, một đại dương bao la hơn nhiều, một gia đình rộng lớn hơn vạn bội. Chỉ Chúa mới có thể làm trái tim ông say mê một Ai khác, yêu một Ai đó hơn những người ông đã từng yêu.

Đức Giêsu đã đến với Simon thật tự nhiên. Ngài chọn thuyền của ông làm nơi giảng dạy. Sau đó Ngài mời ông thả lưới bắt cá, Simon có nhiều lý do để khước từ. Ông có thể nhân danh kinh nghiệm của mình để thấy tốt hơn nên chờ dịp khác, hay nại lý do mệt mỏi, sau một đêm ra khơi. Nhưng Simon đã vâng lời, chỉ vì tin Lời Thầy Giêsu, Lời đầy quyền uy, Lời trừ được quỷ (Lc 4,30). Lời mạnh mẽ đã chữa cho mẹ ông khỏi bệnh (4,39).

Mẻ cá lạ lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ. Mẻ cá làm Simon run rẩy nhận ra mình tội lỗi, và nhận ra Đấng ở gần bên. Mẻ cá bất ngờ mở đường cho một lời mời gọi mới: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt người.”

Simon lại có nhiều lý do hơn để từ chối. Chuyện gia đình bề bộn, tương lai bấp bênh. Kẻ quen bắt cá đâu có khả năng bắt người. Kẻ tội lỗi đâu xứng với sứ mạng. Nhưng một lần nữa, Simon dám tin vào Lời Chúa, để cho Chúa tự do lôi kéo mình.

Ông đã bỏ lại bao điều ông yêu mến. Khi bỏ lại hai thuyền đầy cá, ông tin rằng những mẻ cá mới đang đợi ông.

Chúa vẫn gọi tôi ra khỏi lối mòn quen thuộc, khỏi những điều tưởng như không thể đổi. Tôi có sẵn sàng lên đường theo Ngài không?

Gợi Ý Chia Sẻ

  • Nghe theo tiếng Chúa, buông lưới và gặt hái được một kết quả không ngờ: có khi nào trong đời, bạn có một kinh nghiệm tương tự như kinh nghiệm của Simon không?
  • Theo ý bạn, để sống cho tha nhân, điều gì là khó bỏ hơn cả?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.

Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

 

33. Dựa vào lời Thầy

Suy Niệm

Simon là một giáo dân, có gia đình, có nghề nghiệp. Cuộc đời ông tưởng như chẳng thể nào đổi thay. Vậy mà ông ngư phủ bộc trực và ít học này lại lọt vào cặp mắt của Đức Giêsu.

Ngài đã từng đến nhà chữa bệnh cho bà mẹ vợ của ông. Chắc ông cũng đã có lần nghe Ngài giảng và thấy một số phép lạ Ngài làm. Đôi bên đã quen biết nhau qua nhiều mối liên hệ đời thường, nên Đức Giêsu rất tự nhiên xuống thuyền của Simon, và từ thuyền, Ngài giảng cho đám đông lời Thiên Chúa.

Khi giảng xong, Ngài bảo ông thả lưới chỗ nưóc sâu. Đây thật là một thách đố lớn cho Simon.

Kinh nghiệm dân chài cho ông biết nếu đêm không có cá thì đánh cá ban ngày cũng uổng công. Vả lại ông và các bạn đã mệt nhoài sau một đêm vất vả. Lưới đã được giặt và đem phơi…

Nhưng Simon còn có một kinh nghiệm khác, kinh nghiệm về sức mạnh của Lời Đức Giêsu. Lời đầy uy quyền, lời đuổi được ma quỷ, lời chữa cho mẹ vợ ông. Thế nên, giờ đây ông dám dựa vào lời Thầy mà thả lưới.

Mẻ cá sau đó là lời đáp của Thầy trước niềm tin của ông.

Điều mà ông đã vất vả tìm kiếm thì không gặp. Còn khi chẳng cố gắng mấy thì lại được dư tràn. Tràn trề dư dật là dấu hiệu của bàn tay Thiên Chúa.

Qua mẻ cá kinh khủng, Đức Giêsu tỏ mình cho ông. Ngài cho ông gặp Ngài và gặp bản thân mình.

Chính lúc đó ông cảm được khoảng cách giữa mình với Chúa. Ông thú nhận mình là tội nhân trước mặt Đấng Thánh.

Nhưng khi ông muốn Ngài tránh xa ông, thì Ngài lại đến gần ông để trao sứ mạng. Ngài mở đời ông sang một trang mới:

“Từ nay, anh sẽ bắt sống người ta.” Không phải bắt để làm chết như bắt cá, nhưng bắt để đưa vào cuộc sống mới.

Simon đã trải qua một chuỗi kinh nghiệm với Đức Giêsu: kinh nghiệm quen biết, kinh nghiệm bị thách đố trong niềm tin, kinh nghiệm thấy Chúa tỏ mình mình chói lòa qua mẻ cá lạ, kinh nghiệm được gọi và kinh nghiệm đáp trả.

Kinh nghiệm trước dẫn đến kinh nghiệm sau.

Gặp Đức Giêsu là bước vào một cuộc đối thoại. Chỉ cần đứt một mắt xích là tương quan đổ vỡ. Simon cứ lớn dần lên sau mỗi bước của lòng tin.

Tin đòi vượt trên lối suy luận thông thường, vượt trên kinh nghiệm, vượt trên mệt mỏi của xác thân.

Tin đòi tôi ra khơi buông lưới thêm một lần nữa.

Tin đòi tôi bỏ lại tất cả để theo Chúa. Bỏ tất cả là đặt tất cả dưới Chúa và sử dụng tất cả trong Ngài.

Hôm nay, Đức Giêsu vẫn cần các giáo dân cộng tác. Tôi có dám bước vào chuỗi kinh nghiệm như Simon không?

Gợi Ý Chia Sẻ

  • Có nhiều người đi lễ, nhưng ít người nghe được tiếng mời gọi cộng tác của Đức Giêsu. Bạn có thấy vai trò quan trọng của giáo dân trong Hội Thánh không? Họ có thể làm gì và phải làm gì?
  • Cuộc đời Kitô hữu của bạn có những đêm vất vả mà không được gì. Bạn đã làm gì để giữ vững niềm tin trong giai đoạn ấy?

 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài.

Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

 

34. “Con sẽ là kẻ đánh lưới người”

Một cái hồ nhỏ, một bến đò nhỏ, một nhà giảng thuyết trẻ, vài ngư dân mộc mạc. Cuộc phiêu lưu của Giáo Hội mà Luca là người thuật lại đã bắt đầu như thế. Trong khi mô tả bước đầu này ngài hiểu những chuyến đánh cá người đầu tiên, những bước đầu của Giáo Hội nơi thế giới ngoại giáo. Và chúng ta, làm sao chúng ta không nghĩ đến những đám đông các tín hữu?

Nhưng cũng nghĩ đến những đám đông chờ đợi những ngư phủ nữa. Tin Mừng này là dành cho mỗi một người chúng ta, ngay cả đoạn 10 nổi tiếng mà vì Tin Mừng đó, đoạn này đã được viết: “Từ nay đây là những người mà con sẽ bắt lấy”. Đây là những từ ngữ thật sự đánh trúng những thanh thiếu niên đã trở nên những linh mục và những nhà truyền giáo.

Và có thể đánh trúng những ai trong khi đọc lại trang Tin Mừng của Luca cảm thấy nổi lên sự nản chí: đánh cá ở đâu và như thế nào đây?

Đây chính là mục tiêu của trần thuật này của Luca: niềm tin vào Chúa Giêsu như là phương thuốc chống lại sự nản chí. Trong khi khai mào mùa đánh cá tông đồ lớn lao, Chúa Giêsu nêu bật một sự cảnh cáo đừng nên quên bao giờ: không có Ta, lưới của các con sẽ trống trơn. Chúng ta không luôn luôn thấy rõ chân lý cơ bản này ở vào lứa tuổi đôi mươi. Một khi đã dấn thân vào sứ mạng tông đồ, chúng ta lao nhọc ngày đêm mà không làm việc một cách đầy đủ với Chúa Giêsu. Chúng ta bỏ không nghe bài giảng, xao lãng các bí tích, chúng ta hoạt động, chạy vạy và một ngày kia cảm thấy nản lòng: tôi làm cật lực một cách vô ích.

Làm phương thuốc phòng ngừa, và khi chúng ta muốn thoát ra khỏi một giây phút nghi ngờ, chúng ta hãy suy niệm trang Tin Mừng này. Đây là trang Chúa Giêsu tỏ cho thấy chúng ta có thể làm gì khi chúng ta tin cậy vào Ngài. Ngài chọn điều có thể đánh động nhiều nhất Phêrô và các tông đồ đầu tiên: nghề nghiệp của họ. Và Ngài làm cho họ bực tức. Ngài là thợ mộc mà đưa ra những lời khuyên cho những người chuyên đánh cá, và là những người vất vả qua một đêm nỗ lực nhưng vô ích.

Những nhà chuyên môn trong công tác tông đồ sẽ gặp cảnh này. Cạn kiệt những nỗ lực vô ích, họ bị cám dỗ có ý phó thác cho Chúa Giêsu, nghĩa là cho việc cầu nguyện. Và tôi nghĩ rằng mọi Kitô hữu, trong công tác tông đồ hạn hẹp hơn và không chính thức hơn, có cùng ước muốn xuôi tay hoặc tìm kiếm những phương pháp khác hơn là chuyên chú cầu nguyện.

Dầu vậy, chỉ có cầu nguyện mới lại mang đến cho chúng ta lòng nhiệt thành của Phêrô. Là thợ mộc hoặc không phải là thợ mộc, Chúa Giêsu đã chinh phục ông: “Theo lời Thầy, tôi xin thả lưới”.

Chúng ta sẽ không đưa về những mẻ lưới và những chiếc thuyền đầy cá. Chúng ta không còn ở vào thời kỳ Chúa Giêsu phải nhờ đến phép lạ củng cố một niềm tin vừa chớm nở. Nhưng chúng ta biết điều mà con người đã có thể làm cùng với Chúa Giêsu, qua những mẻ lưới truyền giáo lớn. Chúng ta có quyển Công Vụ Tông Đồ, những câu chuyện truyền giáo và những hạnh các thánh để làm sống lại niềm tin của chúng ta. Một mình đức tin, đức tin có thể làm cho chúng ta thành các tông đồ làm việc cật lực nhìn lên Ngài “theo lời Thầy, tôi xin thả lưới”.

 

35. Cuộc phiêu lưu

Chúng ta vừa nghe qua câu chuyện phiêu lưu của ba nhân vật quan trọng nhất của Thánh Kinh, đó là Isaia, Phaolô và Phêrô. Cả ba đã gặp Chúa trong những biến cố lạ lùng, để rồi sau đó đã hy sinh cả cuộc đời cho Ngài. Vậy thì cuộc phiêu lưu ấy như thế nào?

Đối với Isaia, Thiên Chúa đã kêu gọi ông trong một thị kiến khác thường. Ông thấy vinh quang Thiên Chúa bằng một cảnh sắc hùng vĩ, với các thiên thần đứng chầu và không ngớt tung hô. Một cảnh tượng uy nghiêm và trang trọng.

Đối với Phaolô, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ông một cách trực tiếp hơn. Sau khi đã kể lại những người đã được Đức Kitô phục sinh hiện đến, ông cũng cho biết là Đức Kitô cũng đã hiện ra với ông vì lúc đó ông đang bắt bớ Giáo hội, nhưng là do tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy. Lần hiện ra này đã là một biến cố quan trọng trong đời sống của ông.

Còn Phêrô và các bạn thì đã bị bắt lấy đang lúc làm việc và đã thấy được quyền năng của Đức Kitô qua mẻ cá lạ lùng. Biến cố đó đã làm cho ông và các bạn ông tin theo Ngài. Như vậy, Thiên Chúa đã dùng ba cách thức khác nhau để mạc khải, để tỏ lộ mình ra.

Đối với Isaia thì Thiên Chúa là một Đấng vinh quang. Đối với Phaolô thì Đức Kitô là chủ của sự sống, còn đối với Phêrô, thì Ngài là Chúa của tạo vật. Đối với mỗi vị, Ngài tỏ ra là một người khác, vừa thu hút lại vừa chế ngự. Vừa có vẻ như xa xôi nhưng lại rất gần gũi. Gặp gỡ họ bằng những lời mời gọi mãnh liệt nhất và trong những gì là sâu xa nhất. Ngài đến với họ như để hoàn thành một cách sung mãn niềm ước mơ đã có từ lâu trong tâm hồn họ.

Đồng thời trong cuộc gặp gỡ này, cả ba đều có cùng một phản ứng, vừa bất ngờ lại vừa mạnh mẽ. Các ông đều cảm thấy mình bất xứng và hổ thẹn.

Isaia đã kêu lên:

– Vô phúc cho tôi, tôi chết mất vì lưỡi tôi nhơ bẩn.

Phaolô thì tự thú:

– Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ và không xứng đáng với danh hiệu ấy, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa.

Còn Phêrô thì thưa lên với Chúa Giêsu rằng:

– Lạy Thầy, xin Thầy hãy xa tránh tôi vì tôi là kẻ tội lỗi.

Giữa lý tưởng cao cả mời gọi họ và con người yếu đuối của họ có một hố sâu cách biệt, làm cho họ cảm thấy mình bất lực và muốn đẩy Thiên Chúa ra xa. Trước mặt Thiên Chúa, con người đều cảm thấy sợ hãi và xấu hổ. Thế nhưng chính Ngài sẽ hành động để nâng đỡ sự yếu hèn của con người.

Miệng lưỡi của Isaia đã được tinh luyện bằng than hồng. Phaolô được biến đổi bởi ơn Chúa. Còn Phêrô, người đánh cá xui xẻo,. thì cảm thấy như được an tâm để dấn thân vào công việc mới. Như thế mỗi người đều được Thiên Chúa tái tạo và chấp nhận vào chính lúc mà họ cảm thấy bất xứng và thất vọng nhất. Từ đó họ cảm thấy cả con người và cuộc đời họ lệ thuộc vào Thiên Chúa. Nên họ hoàn toàn phó thác, để Thiên Chúa thực hiện những gì Ngài mong muốn nơi họ. Họ chỉ còn biết theo Ngài và tuân phục Ngài.

Để đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, thì Isaia đã trả lời:

– Này tôi đây, xin hãy sai tôi.

Phaolô thì nói:

– Tôi đã chịu khổ nhọc nhiều hơn những người khác.

Còn Phêrô và các bạn thì đã bỏ chài lưới, ghe thuyền mà đi theo Chúa Giêsu.

Sự sợ hãi đã nhường chỗ cho niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin tưởng vì Thiên Chúa chính là tất cả những gì chúng ta muốn và Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên như thế, vì nếu không có Ngài chúng ta không là gì cả.

Cuộc phiêu lưu của ba đấng trên đây, phải chăng cũng là cuộc phiêu lưu của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa nói với chúng ta bằng nhiều cách. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng nhiều ngả đường.

Vì thế, cần phải chăm chú lắng nghe và tìm hiểu. Có những lúc chúng ta cảm thấy bối rối và lo sợ, nhưng đừng vội thất vọng ngã lòng, bởi vì Chúa sẽ nâng đỡ và phù trợ. Điều cần thiết đó là, hãy sẵn sàng từ bỏ và vâng phục Ngài.

 

36. Mẻ lưới

Sau khi kết thúc bài giảng của mình, Chúa Giêsu nói với Phêrô rằng:

  • Hãy ra khơi và thả lưới.

Và chúng ta đã thấy được phản ứng tức thời của Phêrô. Ông nói:

  • Thưa Thày, chúng con đã vất cả cực nọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá nào. Nhưng vâng lời Thày, chúng con sẽ thả lưới.

Qua lời nói này, chúng ta thấy được thái độ của Phêrô. Ông không tranh luận và bàn cãi với Chúa Giêsu về những kinh nghiệm nghề nghiệp của mình, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng và vâng phục, chính vì thế mẻ cá lạ lùng đã xảy ra. Đồng thời, nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ tự hỏi: các ông đã làm lụng vất vả suốt đêm, tuy nhiên các ông đã làm lụng như thế nào?

Tôi xin thưa:

– Các ông đã làm lụng một mình.

– Và kết quả ra làm sao?

Tôi xin thưa:

– Chỉ là một con số không.

Với chúng ta cũng vậy. Nếu chúng ta làm việc một mình, có nghĩa là chúng ta quá ỉ vào sức riêng, quá cậy dựa vào tài năng của mình, để rồi thất bại sẽ làm cho chúng ta bực bội và thất vọng. Trái lại, với tâm tình cầu nguyện và tin tưởng, chúng ta hãy mời Chúa cùng làm với chúng ta và chúng ta sẽ thấy mọi sự tốt đẹp hơn nhiều, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:

  • Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.

Hay như Thánh vinh đã nói:

– Ví như Chúa chẳng xây nhà,

Thợ nề vất vả chỉ là uổng công.

Thành trì Chúa chẳng giữ trông,

Hùng binh kiện tướng cũng không ra gì.

Và chính Chúa cũng đã xác quyết:

  • Không có Thày, các con không thể làm gì được.

Tiếp nối đoạn Tin mừng, chúng ta thấy sau mẻ cá lạ lùng ấy, các môn đệ đã đi từ ngạc nhiên đến sợ hãi. Trong khi đó, Phêrô đã quì xuống dưới chân Chúa và thưa lên với Ngài:

  • Lạy Thày, xin hãy xa con vì con chỉ là một kẻ tội lỗi.

Phải chăng đây là một tiếng kêu xuất phát từ cõi lòng khiêm nhường của ông, khiến chúng ta liên tưởng tới lời nói của viên đội trưởng:

  • Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con.

Chúa Giêsu không những đã không rời xa Phêrô, trái lại Ngài đã yêu thương và dành cho ông một sứ mạng:

  • Từ nay con sẽ trở thành kẻ chài lưới người ta.

Và Phúc âm đã kết thúc: các ông cho thuyền vào bờ, rồi sau đó đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu. Một vài câu ngắn ngủi này đã nói lên tất cả. Các ông đã trở thành những mẫu gương sáng chói cho muôn đời noi theo, bởi vì qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người cũng đã từ bỏ mọi sự, bước theo Chúa trên dấu chân của các ông.

Lời Chúa phán với các ngư phủ bên bờ hồ Tibêriade ngày xưa vẫn còn vang vọng tới chúng ta cho đến hôm nay:

  • Các con hãy ra khơi và thả lưới.

Vâng theo lệnh truyền ấy, biết bao nhiêu vị tông đồ đã đi tới những vùng đất xa xôi hẻo lánh để rao giảng Tin mừng Phúc âm, thực hiện những hành động bác ái yêu thương hầu giúp đỡ những kẻ khốn cùng.

Riêng chúng ta thì sao? Là những người dân ở hậu phương, chúng ta có bổn phận phải yểm trợ cho các chiến sĩ ngoài tiền tuyến bằng lời kinh cầu nguyện, bằng đời sống gương mẫu, bằng những hy sinh gặp phải cũng như bằng chính tiền bạc vật chất, để hoạt động của các vị thừa sai gặt hái được những thành quả tốt đẹp, và bản thân chúng ta, dưới một góc độ nào đó, cũng sẽ trở nên những người thợ gặt trên cánh đồng truyền giáo.

Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì để góp phần nhỏ bé vào công cuộc truyền bá đức tin của Giáo hội? Chúng ta có thực sự muốn ra khơi và thả lưới hay không?

 

37. Mẻ cá lạ

Chúa Giêsu là một người đã sinh ra ở trần gian thì Chúa chỉ có thể sống ở trần gian một thời hạn nào đó, và chúng ta đã biết là 33 năm, rồi Chúa đã về trời. Nhưng đạo lý của Ngài, sự nghiệp của Ngài, cần phải được duy trì và loan truyền khắp nơi, nên Chúa phải nghĩ đến chuyện tuyển chọn những người cộng tác, để ở với Ngài, đi theo Ngài, tham dự vào sinh hoạt của Ngài, tiếp thu giáo huấn của Ngài và chứng kiến các việc Ngài làm… để sau này trở thành những người tiếp tục duy trì và truyền bá công cuộc cứu độ mà Ngài đã khởi đầu.

Chính vì thế khi bắt đầu công khai giảng dạy, chúng ta thấy việc trước hết Chúa làm là kêu gọi một số môn đệ. Những môn đệ đầu tiên đó là Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Các ông này đã đi theo Chúa nhưng chưa một ai quyết định dứt khoát bỏ mọi sự đi theo luôn. Nên theo Chúa được một thời gian các ông lại trở về nghề nghiệp cũ là chài lưới đánh cá. Vậy là các ông chưa hiểu ơn gọi và sứ mạng cao cả Chúa muốn trao phó cho các ông.

Hôm nay, một lần nữa, Chúa lại kêu gọi các ông và nói cho các ông biết sứ mạng quan trọng Chúa muốn trao phó. Để các ông vững tin vào Chúa, Chúa đã cho các ông chứng kiến một phép lạ, và qua phép lạ này các ông sẽ hiểu sứ mạng của mình hơn. Phép lạ này xảy ra vào quãng đầu cuộc đời công khai giảng dạy của Chúa Giêsu, tức là khoảng đầu năm 28, xảy ra ở bờ hồ Tibêria, gần Bếtsaiđa, quê hương của bốn tông đồ đầu tiên. Đó là phép lạ Chúa Giêsu cho các môn đệ bắt được nhiều cá.

Hồ Tibêria còn được gọi là hồ Ghennêxarét, có nhiều cá. Người ta thường đánh cá về đêm. Nhưng đêm ấy, các tông đồ đã thả lưới thâu đêm mà không bắt được gì cả. Nghề đánh cá có nhiều may rủi, cay cực. Nghề đánh cá phải chấp nhận sống giữa thiên nhiên với cuồng phong bão tố sóng cả. Phải chấp nhận sống bồng bềnh trên chiếc thuyền tròng trành tối ngày. Cuộc sống phải lấy đêm làm ngày là chuyện thường. Các môn đệ cũng thế, sau một đêm vất vả nhọc mệt mà chẳng được gì. Giờ đây các ông ngồi giặt lưới, rũ lưới, rồi đợi chờ chiều tối thuận tiện sẽ lại ra khơi.

Nhưng giữa lúc ấy Chúa bảo: “Hãy chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Các ông vâng lời Chúa ngay và bắt được rất nhiều cá quá sức mong tưởng, là hai thuyền đầy đến nỗi gần chìm. Dù các tay chài thiện nghệ đến đâu cũng phải kinh ngạc và công nhận đó là phép lạ. Một điều này thôi cũng đủ minh chứng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng quyền phép vô cùng. Trước phép lạ tỏ tường này, Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Từ nay các anh sẽ là người thu phục người ta”, nghĩa là những người có sứ mạng đi thu họp người ta để đưa vào Nước Thiên Chúa. Thế là từ lần kêu gọi này các ông quyết định dứt khoát từ bỏ mọi sự đi theo Chúa để thực thi sứ mạng đó.

Bài Tin Mừng này rất phù hợp với khẩu hiệu của đại hội giới trẻ Công giáo toàn cầu tổ chức tại Manila, Philippin, từ ngày 10 đến 15 tháng một năm 1995. Khẩu hiệu duy nhất của đại hội do chính Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn là “Như Cha đã sai Thầy đi thế nào, Thầy cũng sai chúng con đi như vậy”. Đức Giáo Hoàng đã dùng lời Chúa Giêsu làm khẩu hiệu như một lời hô hào gửi đến giới trẻ Công giáo toàn cầu, và cũng cho tất cả mọi Kitô hữu nữa.

Đức Kitô được Chúa Cha sai đến trần gian để công bố và thiết lập Nước Trời. Đức Kitô đã hoàn thành sứ mạng đó. Và trước khi về trời Ngài lại trao sứ mạng đó cho các tông đồ: “Các con hãy đi khắp nơi giảng dạy cho muôn dân”. Các tông đồ đã đóng vai trò chài lưới người. Các ngài đã ra đi rao giảng và cũng đã chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Nối tiếp các tông đồ, hiểu theo sát nghĩa, đã có biết bao người hiến thân làm tông đồ, rao giảng Tin Mừng để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Nhưng hiểu một cách rộng rãi, tất cả chúng ta đều là tông đồ của Chúa. Điều này Công đồng Vaticanô II đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần: mỗi Kitô hữu là một tông đồ của Chúa. Tất cả chúng ta đều được Chúa truyền phải làm mọi cách để chinh phục người ta về cho Chúa.

Người giáo dân thực thi mệnh lệnh này có hiệu quả hơn các linh mục, tu sĩ. Bởi vì các linh mục, tu sĩ đâu có đến các gia đình hay gặp gỡ được những người không có đạo, và họ cũng đâu có đến nhà thờ để nghe các linh mục giảng. Chính các giáo dân là những tông đồ cụ thể, trực tiếp và hữu hiệu nhất. Vậy anh chị em hãy suy nghĩ, hãy cố gắng hơn nữa, để đời sống của anh chị em, cách giao tiếp, gặp gỡ của anh chị em vừa làm chứng cho Chúa, cho đạo, vừa là động lực lôi kéo hay thúc đẩy người ta đến với Chúa.

Riêng các bạn trẻ, các bạn cũng hãy sẵn sàng muốn được sai đi xây dựng Nước Trời. Đối với phần đông giới trẻ Công giáo hiện nay, Nước Trời được nhìn như một cuộc sống hạnh phúc phần xác và phần hồn. Muốn dấu chỉ của Nước Trời được nhìn thấy trong cuộc sống, các bạn trẻ hãy cố gắng làm sao để cái tốt, cái đẹp của Nước Trời được thể hiện ngay trong đời sống cá nhân và gia đình các bạn. Nếu mỗi người chúng ta cố gắng sống được như thế thì Nước Trời đang ở giữa chúng ta.

 

38. Ơn gọi

Cả ba bài đọc của Chúa nhật V Mùa thường năm C đều quy về một đề tài chính là “Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi con người”. Ngài không để cho những yếu hèn của người được gọi cản trở chương trình hành động của Ngài, nhưng Ngài ban hồng ân tràn đầy và một biến đổi người được chọn trở thành dụng cụ thích hợp: “Đừng sợ, hãy theo Ta, từ nay con sẽ là kẻ đánh cá người”. Lời này xưa kia Chúa đã nói cho thánh Phêrô, nhưng không những cho Phêrô mà thôi, mà còn cho tất cả mọi tín hữu là những kẻ tin nhận Ngài. Ngài kêu gọi từng người một với những khả năng, nhất là với những khuyết điểm, những bất toàn để rồi Ngài biến đổi họ trở thành những kẻ làm chứng cho Ngài.

Nơi bài đọc 1 chúng ta nhận thấy rằng, trước khi kêu gọi vị tiên tri, hoặc trước khi kêu gọi một ai đến theo Chúa thì Thiên Chúa đến với người đó, cho họ được cảm thấy Ngài, được cảm nghiệm sự hiện diện của Ngài trong đời sống người đó và ban ơn thánh như than hồng cháy đỏ trong thị kiến để thanh tẩy và biến đổi đương sự vừa được gọi trở thành hữu dụng hơn.

Khởi đầu của ơn gọi là kinh nghiệm sống động về ơn Chúa, là những lúc nói được là sốt sắng nhất. Lúc khởi đầu, người được gọi còn sốt sắng trong ơn gọi, vì còn cảm thấy như gần gũi Thiên Chúa, sống bên cạnh Ngài. Nhưng rồi trong cuộc đời theo Chúa có những thử thách đen tối, điều quan trọng là đương sự được gọi còn trung thành với ơn Chúa ban, và đây là trường hợp của thánh Phaolô tông đồ như được gợi lại nơi bài đọc 2 của thánh lễ Chúa nhật V mùa thường.

Thánh Phaolô đã được gọi sau rốt, nhưng không vì công nghiệp và tài năng của ngài, mà vì tình thương nhưng không của Thiên Chúa. Lúc đó ngài đang đi lùng bắt những đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô trên đường tiến về Damas, nhưng rồi Chúa đã tìm đến Phaolô, từ đó Phaolô đã không bất trung với ơn Chúa đến độ thánh nhân đã viết và chúng ta đọc lại trong thơ của ngài như sau: “Ơn Chúa đã không trở thành vô ích nơi tôi, nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay”.

Nơi bài Phúc âm trích từ Phúc âm thánh Luca, chúng ta cũng quan sát thấy cùng một kinh nghiệm tôn giáo về ơn gọi đã xảy ra, đó là việc Chúa thực hiện một phép lạ để rồi nhờ phép lạ này mà Phêrô nhận ra sự hiện diện của Chúa và thốt lên: “Thưa Thầy, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội”.

“Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ có tội”. Trước nhan Thiên Chúa ai là người vô tội hoàn toàn? Thiên Chúa tìm và kêu gọi con người, Ngài không để cho những yếu đuối của người được gọi cản trở chương trình hành động của Ngài, nhưng ban hồng ân tràn đầy để biến đổi người được chọn trở thành dụng cụ thích hợp.

“Đừng sợ, hãy theo Ta, từ nay con sẽ là kẻ đánh cá người”. Thật, kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa Đấng trọn tốt trọn lành, và đồng thời cho con người vừa được gọi ý thức về thân phận yếu hèn tội lỗi của mình không xứng đáng được gọi, nhưng vì Chúa đã trấn an Phêrô và từ đó không bao giờ ngưng trấn an những kẻ Ngài gọi: “Đừng sợ, con sẽ là kẻ đánh cá người”.

Ơn Chúa sẽ biến đổi người đồ đệ, nhưng liệu chúng ta có đủ sức can đảm đi đến cùng để cho ơn Chúa biến đổi cuộc sống mình hay không? Liệu chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: Ơn Chúa không trở thành vô ích nơi tôi hay không? Nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay, như là tông đồ của Chúa, mặc dù tôi đã là kẻ tội lỗi, bắt bớ những tín hữu của Chúa.

 

39. Ơn gọi

Phụng vụ lời Chúa hôm nay trình bày những phản ứng khác nhau của con người phàm tục khi đối diện với Đấng Thiên Chúa thánh thiêng qua con người và sứ vụ của Đức Giêsu. Con người do kinh nghiệm dạn dày của một đời dấn thân vào mọi khoảnh khắc thăng trầm của cõi nhân sinh, đã từng vào sinh ra tử nơi những trận tuyến dữ dội nhất của xã hội loài người, đã nếm trải mọi vinh nhục của lòng dạ người đời. Có lẽ đầy xác tín và sẽ mãi bám chặt lấy kinh nghiệm bản thân theo góc độ có thể định hình. Đó có thể là một thế giới quyến rũ, một nhân loại hồn nhiên mở ra những khả năng vô hạn cho công trình xây xây nên một địa đàng tương lai. Đó có thể là một đấu trường dữ dội nơi sàng lọc các giá trị, nó ưu đãi cho sức mạnh của trí tuệ, của thế lực, của vật chất. Đó có thể là một bãi tha ma, một đống đổ nát điêu tàn của mọi ước mơ, nơi chôn vùi mọi giá trị hão huyền, mọi toan tính thành tâm thiện chí, mọi khát vọng công bằng, hòa bình, yêu thương, để cuối cùng trơ ra một thế gian trần trụi, chết chóc, tanh hôi, một mảnh vườn hoang vô chủ, một mảnh đất màu mỡ mọc lên đủ mọi thứ gian tà ác độc. Đó là một thế giới đã bị nguyền rủa. Đó là một nhân loại đã bị nhiễm độc không còn hy vọng tìm ra lối thoát.

Đức Giêsu đến đề nghị giải pháp của Người cho một thế giới mới, một nhân loại mới dựa trên nền tảng của giá trị Tin Mừng. Công cuộc Người dự định là qui tụ cộng đoàn nhân loại đã được phục hồi những giá trị nhân bản và tâm linh nguyên thủ qua quá trình hoán cải để hình thành một thể chế mới họa theo mẫu cộng đoàn Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Đó là một thể chế của Thiên Chúa, hay đúng hơn một gia đình của Thiên Chúa là nơi để yêu thương, để trao ban và đón nhận yêu thương không còn mức độ, không còn giới hạn và theo một chu kỳ vô tận.

Phản ứng của con người ra sao trước kế hoạch của Đức Giêsu?

Thưa, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào. Chúng tôi đã vất vả suốt đêm, rõ ràng là rất tự tin, rất xác tín nơi kinh nghiệm và hiểu biết của mình mà không bắt được gì cả. Liệu công cuộc và nỗ lực của Thiên Chúa có sinh được kết quả gì hơn những cố gắng của nhân loại không? Nhân loại đã có thừa mứa tiện nghi, cuộc sống đã và còn tiếp tục tự lập, tự mãn trên đà tiến khoa học kỹ thuật. Lời giảng của Chúa liệu sẽ đem đến điều gì đáng ước mơ hơn những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đang thụ hưởng? Đường hướng của Chúa liệu có thay đổi được cục diện giống gần như đã được cài đạp, đã được chương trình hóa của thế giới, của nhân loại hay không?

“Nhưng vâng lời Thầy, chúng tôi sẽ thả lưới”. Kể cả khi không còn lựa chọn nào khác, con người vẫn tỏ ra miễn cưỡng, không mảy may tin tưởng, hy vọng nơi công cuộc thực hiện nhân danh Chúa. Thế nhưng, để rồi xem Đức Giêsu có kế hoạch của Người. Là Thiên Chúa, hơn ai hết, hơn mọi trí tuệ của phàm nhân, Người tiên liệu tất cả mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện, mọi khí hậu, mọi chuyển vận của cuộc đời và của con người, để chương trình yêu thương và cứu độ của Người phải nhất thiết thành tựu và thành tựu mỹ mãn.

Không cần thiết nữa, bất cứ một lý do thối thoát nào như trường hợp của ngôn sứ Isaia: “Khổ thân tôi vì miệng tôi ô uế”, hay như ông Simon Phêrô: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ có tội”. Thái độ hợp tình hợp lý nhất có lẽ là con người nên khiêm tốn nhập cuộc vào kế đồ đại nghĩa của Đức Giêu, như cung cách của thánh Phaolô: “Tôi có gì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”.

Đó là phản ứng thuận ý trời hơn hết để có được những mẻ cá lạ lùng.

 

40. Mầu nhiệm

Bài Tin Mừng hôm nay có tên gọi truyền thống là “mẻ cá lạ lùng” qua việc Chúa gọi Simon từ kẻ “lưới cá” Ngài đã làm cho ông trở nên kẻ “lưới người”. Qua hành trình ơn gọi ta thấy Chúa thử thách Simon, ông tin tưởng cậy trông vào Chúa và cuối cùng Chúa đã thương chọn ông trở thành tông đồ của Ngài.

Hôm nay là Chúa nhật V Mùa thường niên tôi xin kính mời quí ông bà anh chị em cùng với tôi lần mở lại trang Tin Mừng để tìm hiểu về hành trình ơn kêu gọi của mỗi người chúng ta trong cuộc sống hiện tại.

Phúc âm kể lại: đang khi Simon giặt lưới, tranh thủ nắng để phơi lưới, thế mà Đức Giêsu lại bảo ông bỏ việc riêng đó mà chèo thuyền ra xa bờ một chút để Ngài rao giảng. Rõ ràng đây là một thử thách nhắm đến tinh thần vâng phục, nhưng mới chỉ là thử thách lần đầu, phải bỏ mình.

Rồi khi giảng xong, Ngài lại bảo ông chèo thuyền ra khơi thả lưới. Đây là thử thách thứ hai ta thấy nặng ký hơn lần đầu. Vì Đức Giêsu không biết gì về nghề chài lưới, thế mà lại bảo Simon là một người chuyên về nghề chài lưới, chèo thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Đây là một điều vô lý hết sức: “Múa rìu qua mắt thợ”. Thả lưới cả đêm mà không bắt được một con cá nào. Thả lưới ban ngày làm gì có cá. Nhưng Simon lại phải bỏ mình “vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới, chứ ai khác thì… còn khuya!”

Quả thật, vì nể Thầy, Simon thả lưới. Cuối cùng các ông đã bắt được rất nhiều cá đến nỗi hầu như rách lưới. Đến lúc này Simon rất mệt vì đã vất vả suốt đêm, mà giờ này cá quá nhiều, một mình không làm gì được. Ông phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp đến giúp đỡ ông. Đây là thử thách thứ ba Chúa đòi hỏi Simon phải bỏ mình sống tương quan liên đới với anh em. Nhưng qua những lần thử thách, Simon đặt niềm tin vào Thầy thế nào?

Trước hết, nhờ kinh nghiệm sống thân mật bên Thầy mấy tuần trước đó, Simon đặt hết tin tưởng vào Thầy: ông ra khơi thả lưới.

Lòng tin và sự vâng phục của Simon được tưởng thưởng tức khắc. Nhờ quyền năng phi thường Chúa Giêsu chỉ cho Simon phải thả lưới chỗ nào để chắc chắn bắt được nhiều cá.

Một mẻ cá như thế, giữa ban ngày, ngay mẻ lưới đầu tiên, sau một đêm tốn công vô ích; đối với những ngư phủ rành nghề, quả là một việc khác thường.

Sau đó, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là người tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc.

Simon đã từng chứng kiến phép lạ ở Cana, nhưng phép lạ này có liên quan mật thiết tới cá nhân ông, khiến ông bị xúc động mạnh. Ông thấy Thiên Chúa hiện diện ngay bên ông khiến ông có thể cảm nghiệm, sờ được. Bài đọc 1 cũng cho ta biết: ngày xưa Isaia khi nghe Chúa gọi, khi chiêm ngưỡng Thiên Chúa ngự trên ngai lửa, đã la hoảng lên:”… khốn thân tôi, tôi chết mất vì miệng lưỡi tôi nhơ bẩn, mà mắt tôi đã thấy Giavê.

Simon cũng kinh hãi ông quỳ xuống chân Thầy và nói “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”, nhưng Chúa Giêsu bảo ông Simon rằng: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Như vậy, nhờ vào lòng tin và vâng phục Phêrô đã được Chúa tuyển chọn. Qua Bí tích Rửa tội đã làm cho chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa. Như thế, mỗi người chúng ta sống ơn gọi của mình như thế nào?

Đối với những người sống trong bậc gia đình phải chu toàn trách nhiệm của mình là nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Khi nói đến vấn đề giáo dục con cái ngày nay là một vấn đề rất khó khăn, chắc chắn rằng cha mẹ sẽ gặp nhiều thử thách. Vì thế, trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải biết vượt qua những thử thách đó và thêm tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Cách riêng, những người đang theo đuổi ơn gọi sống đời tận hiến, bài Phúc âm mời gọi chúng ta hãy lạc quan tin tưởng vào tình yêu của Đức Kitô, sống tốt giây phút hiện tại của mình. Kiên trì vượt qua thử thách, thêm tin tưởng vào Chúa. Vì hành trình ơn gọi của mỗi người không do một mình chúng ta thực hiện, nhưng luôn có Chúa cùng đồng hành với ta.

Một mình Phêrô không bắt được gì cả; nhưng có Chúa giúp, Phêrô đánh được một mẻ cá lạ lùng.

Gioan Vianney khi còn là chủng sinh đã học hành rất chậm. Ngày kia, một cha giáo vâng lời bề trên địa phận đến khảo hạch xem Vianney có đủ khả năng làm linh mục hay không? Tuy đã cố gắng học hành chăm chỉ, nhưng Vianney vẫn không trả lời được bất cứ câu hỏi nào cho trôi chảy. Tức giận, vị giáo sư đập bàn và nói “Vianney, anh thật dốt đặc như một con lừa! Với một con lừa như anh, thử hỏi Hội thánh sẽ hy vọng làm được gì đây?” Sau một giây suy nghĩ, Vianney khiêm tốn và bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, theo ý con: ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm của con lừa mà đánh bại được 3000 quân Philitinh. Vậy thì với cả một con lừa như con, chẳng lẽ Thiên Chúa lại không làm được việc gì hữu ích hay sao?

Quả thật, con lừa Vianney của Thiên Chúa đó sau này không những đã trở thành cha sở họ Ars, mà còn là một người nhân đức thánh thiện, làm ích rất nhiều cho Chúa và các linh hồn.

Qua tấm gương của cha Vianney, ngài đã sống trọn vẹn ơn gọi của ngài. Ước mong mỗi người chúng ta cũng xem lại việc sống ơn gọi trong bậc sống của mình và khi gặp thử thách xin cho chúng ta biết tin cậy vào sự quan phòng của Chúa.

 

41. Tuân theo Thiên Ý – Chìa khóa hạnh phúc

(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)        

“Vâng lời Thầy, con xin thả lưới” (Lc 5:5b).

“Hạnh phúc là nỗi khao khát triền miên có mặt trong từng hành động của con người.” Một nhà tư tưởng đã nói như thế. Tuy nhiên, trong thực tế, ai cũng nhận rằng dường như lúc nào khổ đau cũng nhiều hơn hạnh phúc. Nước mắt khi nào cũng đầy hơn tiếng cười. Tại sao vậy?

Tại sao đi tìm hạnh phúc mà cứ như đi bắt cái bóng, còn sự hiện hữu đích thật của hạnh phúc thì vẫn trốn ở nơi nào? Tại sao bao nhiêu người “thương” nhau lắm, những bất đồng thế nào cũng không màng, cha mẹ đôi bên có phản đối can ngăn cũng không xong? Họ cứ lấy nhau… Ấy thế mà, khi được vài mặt con, có người thẳng thừng tuyên bố: “Tôi chẳng có chút tình yêu nào với người ấy cả.”

Tại sao có người tu đã bao năm, tưởng rằng đắc đạo lắm, thế mà cũng có khi cởi áo nhảy rào? Phải chăng không có hạnh phúc thật trên cõi đời này? Hay vì “đời là bể khổ” nên đụng đâu cũng khổ sầu và nước mắt?

Thiết tưởng một câu trả lời đúng cho những câu “tại sao” trên đây sẽ là: vì con người đi tìm hạnh phúc nhưng cứ lẫn lộn mù mờ giữa những gì là tương đối với tuyệt đối, phương tiện với đích cùng, hữu hạn và vô hạn.

Có người đã nhận xét: “Sống trên đời, ai lại không cần tiền”. Thế nhưng khi hỏi tiền là phương tiện hay cùng đích thì ai cũng bảo tiền là phương tiện. Ấy vậy mà trong thực tế, biết bao người đã lấy tiền làm mục tiêu sống và giá trị trên mọi thứ giá trị, nên đã bất chấp nhân phẩm, luân lý, tình người, và những liên hệ thiêng liêng cao quí, miễn sao có tiền là được. Bao nhiêu quan hệ vợ chồng, cha mẹ, anh em bị sụp đỗ tan nát cũng vì người ta nhìn tiền là cùng đích chứ không phải phương tiện, tuyệt đối chứ không phải tương đối. Thế nên khổ đau và nước mắt là ở chỗ đó.

Một câu trả lời khác khả dĩ giải đáp cho các câu hỏi “tại sao” trên đây và giúp con người tìm được bình an cùng niềm vui sống sẽ là: vì người ta cứ chạy theo ý mình mà không hề nhận biết và vâng theo ý Chúa. Nếu như có ai đó có lòng kết hợp mật thiết với Thánh ý Thiên Chúa, thì chắc chắn, dù gặp bao nghịch cảnh gian nan trước mắt thế gian, họ vẫn là người bình an và hạnh phúc hơn thế gian suy tưởng.

Trong Thánh Kinh Cựu ước có hình ảnh nào khốn nạn và đau khổ như ông Gióp. Một người công chính, đang sống đời hạnh phúc giàu sang, thình lình đau thương ập xuống. Gia đình đang an lành, bỗng dưng thiên tai từ sa mạc thổi vào làm đổ tan nhà cửa. Con cái bị giết chết. Cơ nghiệp bị cướp sạch. Chính thân thể ông Gióp cũng bị lở loét, giòi bọ rúc rỉa. Đói khát hành hạ thường xuyên.

Trước cảnh sầu đau như thế, Gióp còn bị kẻ này người kia mỉa mai khinh bỉ, cho là bị trời phạt. Chính vợ ông cũng đay nghiến suốt ngày, xúi Gióp chửi Thiên Chúa. Gióp đã có lần than thở: “Ôi, đời người có khác chi cảnh tôi tớ, kiếp sống như kẻ làm thuê. Tôi tớ thì khát khao chút bóng mát để nghỉ ngơi; kẻ làm thuê thì trông mong giờ lãnh tiền công. Ấy thế mà thân tôi chẳng bao giờ được trả công, nghỉ ngơi một chút cũng không được. Bởi vì vừa nằm xuống thì tâm hồn sầu buồn mong cho trời mau sáng. Đến khi trời sáng thì thấy ngày đời trôi nhanh như con thoi” (G 7:1-6).

Trước cảnh khốn đốn tận cùng, dường như không còn chút hy vọng nào cho cuộc sống, Gióp vẫn một niềm kiên cường thốt lên: “Chúa đã cho, Chúa đã lấy đi. Ý Chúa muốn làm sao, thì nên như vậy. Xin chúc tụng danh Chúa” (G 1:21).

Thật lạ lùng! Giữa chốn âm u bão bùng mà vẫn nhắm ý Chúa thẳng tiến.

Kết quả, vì biết vâng theo thánh ý Thiên Chúa mà cuối cùng Gióp đã tìm lại ý nghĩa và hạnh phúc cho cuộc đời.

Như Đức Giêsu, suốt cả kiếp người đã không làm gì khác hơn là thi hành ý Cha. Cho đến giờ chết vẫn cứ là: “Lạy Cha, xin vâng như ý Cha.” Nhờ thế sự sống nơi Ngài đã tuôn tràn chứa chan cho nhân loại.

Liên quan đến chủ đề này, Thánh Anphongsô có nói về một thầy dòng kia, trông diện mạo bên ngoài thì không có gì đáng chú ý. Thầy cũng chẳng thường hãm mình bao nhiêu. Thế mà lại hay làm phép lạ. Bề trên ngạc nhiên mới hỏi: “Con có nhân đức gì trổi hơn anh em, hay có thi hành việc lành nào sốt sắng, mà sao cha thấy con làm được nhiều sự lạ vậy?” Thầy dòng khiêm tốn trả lời: “Con không dám so sánh với các nhân đức của anh em con… Chỉ có một điều con luôn chú ý hơn cả là vâng theo thánh ý Chúa hết lòng: Sự gì Chúa muốn là con muốn, dù vui sướng hay buồn khổ, an lành hay gian truân.”

Nghe thế bề trên liền hỏi lại: “Thế chứ cách đây mấy hôm, có kẻ đã làm thiệt hại cho dòng ta, họ đã đốt phá nhà cửa đất đai của ta tan tành, con có lấy làm đau đớn ưu phiền không?” Thầy liền thưa lại: “Thưa cha, con không lấy gì làm đau khổ, cũng chẳng lấy chi làm ưu phiền. Con vẫn bình an như thường, vì biết rằng Chúa luôn muốn cho chúng ta được phần ích lợi hơn. Nên con cảm tạ Chúa luôn.” Cha bề trên nghe những lời ấy đã công nhận rằng: Đây là một vị thánh, có đủ các nhân đức, vì thầy có lòng vâng phục thánh ý Thiên Chúa hết mình (Anphongsô, Chân Lý Đời Đời, tr. 299).

Vâng theo ý Chúa sẽ giúp ta vượt qua gian truân khốn khó của đường đời và tìm được bình an và niềm vui dồi dào phong phú. Vâng theo Chúa không chỉ lúc thuận ý nhưng cả khi nghịch lý. Không chỉ khi thành công may mắn nhưng cả lúc rủi ro thất bại ê chề.

Không phải là Thánh Phêrô đã thốt lên “Thưa Thầy, chúng tôi đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì ý Thầy muốn, tôi sẽ thả lưới” sao?

Các tay đánh cá chuyên nghiệp của biển hồ Giênêsarét tất biết rõ chỉ thả lưới ban đêm mới mong bắt được cá. Ít ra thì cũng phải là “lúc chạng vạng hay khi rạng đông.” Chứ đời thuở nào mặt trời đã lên cao mà còn mong bắt được cá. Đó là chưa nói đến việc Phêrô và các bạn chài đã vất vả suốt đêm, chưa được nghỉ ngơi chút nào, lại mới giặt lưới xong, bây giờ nếu thả lưới xuống, lúc kéo lên là phải giặt lại, mệt nhọc biết bao.

Vậy mà “vâng lời Thầy, con xin thả lưới.” Và kết quả của việc xin vâng là một ngày bội thu hoan hỉ: “Họ thả lưới và bắt được một mẻ cá nhiều lắm, đến nỗi lưới muốn rách. Họ ra hiệu cho các bạn đồng nghiệp trên thuyền gần đó đến giúp. Những người này tới, và họ chất được hai thuyền đầy cá, đến sắp chìm” (Lc 5:6-7).

Dẫu rằng chủ đề của Lời Chúa tuần này là “Sai Đi” nhưng sống “Vâng Phục Ý Chúa” cũng không có chi là lạc đề. Bởi vì không “vâng phục” sẽ chẳng “sai đi” được. Nói đến “sai đi” là hàm ngậm một chỗ đến. Và dầu đã đến nơi phải tới, thì vai trò của người được sai vẫn là chu toàn sứ mạng. Còn không vâng phục đừng mong sứ mạng hoàn thành. Không có sứ mạng nào cao đẹp cho bằng làm đúng ý người sai mình đi. Thế nên Đấng Cứu Thế đã từng cầu nguyện: “Này con xin đến để thi hành ý Cha.” Thực thi ý Cha chính là lẽ sống của Người Con hiếu thảo quí yêu.

Thiết tưởng không có tâm tình nào ý nghĩa và sinh hoa trái nhiều hơn cho nhân gian bằng tâm tình xin vâng đó.

 

42. Người ấy biết đứng lên

Theodore Roosevelt đã từng nói, “Người đáng được chú ý không phải người biết nhận xét hoặc người biết ý kiến cho người khác con đường tốt, nhưng là người ở trong cuộc. Người phải chịu xây sát với nước mắt và mồ hôi, dũng cảm đấu tranh, lầm lỗi và gặp những trắc trở, biết hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng lại bị thất bại. Như thế, chỗ đứng của họ không chung với những tâm hồn cô đơn và nhút nhát, nhưng với những tâm hồn biết cảm nghiệm được thất bại và chiến thắng.”

Không biết trong đầu của Roosevelt đã có ai là thần tượng hay không, nhưng thật ra điều đó miêu tả một ngư phủ được Chúa Giêsu kêu gọi theo Ngài để cộng tác vào việc rao giảng Nước Thiên Chúa: Thánh Phêrô, một con người thuộc giới lao động. Đây là một người ở “trong trận chiến, xây sát bằng nước mắt và mồ hôi, dũng cảm chiến đấu, lầm lỗi và luôn gặp những trắc trở, hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng lại bị thất bại.” Hơn hết, đây là một người biết thế nào là “thất bại” và “chiến thắng.”

Thánh Phêrô là một người đã từng ngã đi ngã lại. Ngài đã từng phải cảm nghiệm hết cái thất bại này đến thất bại nọ. Thí dụ, một lần Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ Ngài về câu hỏi người ta nói Chúa Giêsu là ai? Sau cùng, Ngài đã hỏi chính các môn đệ Ngài nghĩ Ngài là ai? Thánh Phêrô đã nhanh nhẩu đáp ngay, “Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống.” Câu trả lời này của Thánh Phêrô đã làm cho Chúa Giêsu hài lòng về ông. “…Anh thật là có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16:15 & 17). Sau đó, Chúa Giêsu đã dùng cơ hội này để diễn tả sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Sứ mệnh đó chính là phải chịu đau khổ và chịu chết. Chính ngay sau khi nghe điều đó, Thánh Phêrô đã vấp ngã. Ông đã nói với Chúa Giêsu rằng, “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” Và Chúa Giêsu đã quay lại bảo ông, “Satan, lui lại đàng sau Thầy!” (Mt 16: 22-23).

Khoảng một thời gian sau đó, trên núi biến hình, Thiên Chúa đã ban cho Thánh Phêrô thêm một món quà đặc biệt nữa: đó là được nhìn thấy Maisen và ‘lia đàm đạo với Chúa Giêsu. Câu truyện đó là để chứng thực về điều mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài về sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Lúc đó Thánh Phêrô đã phản ứng ra sao? Ông đã nói với Chúa Giêsu rằng họ có thể ở trên núi và xây nhà dựng cửa.

Một thời gian sau lần đó nữa, Thánh Phêrô đang ở trên thuyền với các môn đệ khác. Họ nhìn thấy Chúa Giêsu đi trên nước đến với họ. Chúa Giêsu đã kêu Thánh Phêrô đến với Ngài. Thánh Phêrô đã ra khỏi thuyền và khi ông rời mắt khỏi Chúa Giêsu thì một tí nữa là ông bị chết chìm.

Trong những giờ phút cuối cùng trước giờ tử nạn của Chúa Giêsu tại nhà Tiệc ly, chính là giây phút cực kỳ khó hiểu đối với Thánh Phêrô khi ông nhìn thấy Thầy mình rửa chân cho các môn đệ. Một việc làm của các đầy tớ. Không hiểu được ý nghĩa của việc làm đó, Thánh Phêrô đã lên tiếng, “Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!” Tuy nhiên, khi ông hiểu được việc làm của Chúa Giêsu thì chính ông lại còn muốn Chúa Giêsu không những rửa chân của ông mà còn cả mình ông nữa (Gn 13:8-9).

Chúa Giêsu đã muốn Thánh Phêrô ở với Ngài trong vườn Ghétsimani với Ngài, thế nhưng ông đã ngủ.

Chúa Giêsu đã dạy dỗ về lòng tha thứ và không được dùng bạo động. Thế nên trong khi bị quân dữ bao vây, chính Thánh Phêrô đã cầm kiếm và vung văng để một tên lính phải bị chém đứt tai. Một lần nữa, Thánh Phêrô đã hành động như là ông chưa nắm được ý nghĩa đích thực của những lời giảng dạy của Chúa Giêsu.

Sau cùng, cái giờ phút tệ bạc nhất đó là chính Thánh Phêrô đã mạnh dạn thề thốt cho dù có bất cứ chuyện gì xảy ra thì ông cũng sẽ không bỏ Chúa Giêsu. Thế nhưng, trong sân Philatô, ông đã sợ hãi mà chối Chúa đến ba lần, không phải với những người có chức quyền gì, mà là những đứa đầy tớ thấp hèn (Mt 26:35, 70, 72, 74).

Chúa Giêsu đã gọi Thánh Phêrô là đá. Tuy nhiên đó là một viên đá cứ rơi lên rớt xuống. Hết lần này đến lần khác, ngài đã phải cúi mặt xuống ăn năn. Đó là một con người đã phạm hết lỗi lầm này đến lỗi lầm khác, thế nhưng sau cùng đã trở nên Tông Đồ Cả., Trong cuộc bách hại bởi quân Rôma, Thánh Phêrô chính là người đã liên kết và gìn giữ Hội Thánh. Đó là thời gian mà Giáo Hội tiên khởi đã bị giết chết cả hàng ngàn người. Trong ngày Lễ Hiện Xuống, chính Thánh Phêrô đã đứng ra và giảng dạy. Sau khi Chúa Giêsu không còn hiện hữu một cách thể lý nữa, nhưng những người tàn tật và mù lòa vẫn còn tiến đến, và chính Thánh Phêrô đã chữa cho họ được khỏi.

Tin mừng của Phúc Âm là ơn thánh vẫn hằng luôn ban xuống cho chúng ta. Ơn thánh của Chúa hằng luôn hiện hữu ở giữa chúng ta, ở đây, ngày hôm nay trong buổi tụ họp này. Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là, “Làm sao chúng ta thể hiện công việc ấy ngay? Làm sao nó có thể trở thành một cái gì đó hơn là một ý tưởng suông?” Ở tại chỗ này, tài liệu Thánh Phêrô để lại có thể giúp ích cho chúng ta rất nhiều. Chúng ta có thể thấy được Thánh Phêrô đã làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa gần gũi là một tiến trình lớn lên của cuộc sống chúng ta. Chúng ta có thể nhìn thấy trong Thánh Phêrô một tiến trình lớn lên kèm theo sự chỗi dậy của những lần ngã qụy; biết chỗi dậy sau những lần bị thất bại; Simon Phêrô có lòng nhiệt thành. Ông có lòng đạo đức cao siêu. Khi thánh nhân bị ngã, thì ngài luôn biết chỗi dậy.

Nếu bạn chỉ biết ngồi ở trong căn phòng của mình và đóng cửa lại, thì những tài năng của bạn sẽ bị chôn vùi và không được phát triển. Nếu vậy, thì bạn gìn giữ chính bạn để làm cái gì? Bây giờ chính là lúc chúng ta sống. Đây chính là lúc mà Thiên Chúa đang hiện diện bên bạn, và Ngài uốn nắn bạn để trở thành người môn đệ tốt đẹp. Chúng ta không cần phải lo ngại sẽ bị thất bại. Những người mà cố gắng để làm những việc có giá trị, và rồi bị thất bại thì chắc chắn được hưởng niềm vui lớn lao hơn là những người không cố gắng để làm bất cứ chuyện gì cả.

Cũng như Thánh Phêrô, chúng ta phải có một tiến trình lớn lên kèm theo sự đứng lên sau những lần ngã quỵ; biết chỗi dậy sau những lần bị thất bại.

 

43. Đức Giêsu và vị Tông Đồ đầu tiên

(Chú giải và suy niệm của Lm. PX Vũ Phan Long)

Đức Giêsu đã đào tạo môn đệ bằng phương tiện là những bước nhảy trong đức tin và bằng cách làm cho người ấy biết quyền lực thần linh của Người.

1.- Ngữ cảnh

Với bài Lc 5,1-11, chúng ta có một bản văn riêng của tác giả Luca. Như thế, bản văn này có thể giúp độc giả nhận biết cách thức bản văn này tiếp cận với truyền thống Tin Mừng và liên kết với truyền thống ấy.

Quả thật, nếu trong tất cả ch. 5, tác giả đi theo bài tường thuật của Mc (x. 1,40–2,22), ở đây ngài lại tách ra. Trong khi tác giả Mc (1,16-20), và cả Mt (4,18-22), mô tả truyện kêu gọi các môn đệ đầu tiên trước sứ vụ công khai của Đức Giêsu, tác giả Lc lại đặt tiếng gọi ở sau, khi Đức Giêsu đã bắt đầu hoạt động giảng dạy và chữa lành (x. 4,14-44). Người đã biết ông Simôn, vì đã đến nhà ông và chữa là bà mẹ vợ (4,38-39).

Bài tường thuật này là một đơn vị riêng, đến sau bức tranh bộ đôi Nadarét-Caphácnaum (4,14-44), được đóng khung bởi hai toát yếu về sứ vụ rao giảng nay đây mai đó của Đức Giêsu (4,14; 4,44), và được nối tiếp bởi một giai thoại mới, việc chữa lành một người phong hủi (5,12-16).

Đoạn văn của chúng ta thuộc về một phân đoạn lớn hơn (5,1–6,19), trong đó có những đơn vị được dẫn nhập bởi công thức mà các bản dịch thường bỏ, “xảy ra là” (egeneto: 5,1.12.17; 6,1.6.12), với trung tâm là việc kêu gọi Lêvi và bữa ăn ông thết đãi (5,27-39).

Trong phân đoạn này, chân trời của sứ vụ của Đức Giêsu được mở rộng. Cho tới nay, Người hoạt động một mình, qua việc giảng dạy và chữa bệnh (các môn đệ đầu tiên vẫn còn đang ở trong tình trạng vô danh). Bây giờ cử tọa đang mở rộng ra hơn; Đức Giêsu không chỉ nói với những người hay lui tới hội đường mà thôi, nhưng với một đám đông sẵn sàng lắng nghe. Nhất là nay phát sinh nhóm các môn đệ, họ đi theo Người trong hành trình truyền giáo; bên trong nhóm này nổi lên khối sẽ là hạt nhân căn bản của Hội Thánh, đó là nhóm các Tông Đồ. Chính là trong ngữ cảnh này mà chúng ta đọc bài tường thuật Mẻ cá lạ lùng với việc kêu gọi Simôn và các bạn.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành bốn phần:

1) Giới thiệu khung cảnh và công việc của Đức Giêsu (5,1-3);

2) Đức Giêsu – Phản ứng của Simôn trước mẻ cá (5,4-7);

3) Phản ứng của Simôn sau mẻ cá – Đức Giêsu (5,8-10);

4) Kết luận: Đời môn đệ (5,11).

3.- Vài điểm chú giải

– Ghennêxarét (1): Đây là tên Hy Lạp của giải đất nhỏ thuộc phía tây “biển hồ”, có đất đai mầu mỡ và đông dân cư; giải đất này ở phía nam Caphácnaum.

– lời Thiên Chúa (1): Đây là lần đầu tiên Tin Mừng Lc dùng công thức này (Lc dùng 4 lần: 5,1; 8,11.21; 11,28; Cv dùng 14 lần: 4,31; 6,2.7; 8,14; 11,1; 12,24 (?); 13,5.7.44.46.48; 16,32; 17,13; 18,11). Trong khung cảnh sách Cv, công thức ấy có nghĩa là sứ điệp Kitô giáo do các tông đồ rao giảng; ở đây tác giả Lc lại cho thấy là Đức Giêsu rao giảng. Như thế, tác giả đặt việc rao giảng của cộng đoàn trên nền tảng là lời rao giảng của Đức Giêsu. Nhưng nền móng tối hậu là chính Thiên Chúa, bởi vì công thức nói rõ là “Lời Thiên Chúa” hoặc “Lời do Thiên Chúa ban” (thuộc-cách diễn tả chủ từ hoặc tác giả hợp lý hơn là “lời nói về Thiên Chúa”: thuộc-cách diễn tả đối tượng).

– Người ngồi xuống (3): Đây là tư thế bình thường khi ở trên một chiếc thuyền nhỏ. Nhưng hẳn tác giả cũng muốn gợi ra tư thế của một vị thầy.

– Thưa Thầy (5): Lần đầu tiên Lc dùng từ epistata (hô-cách của epistatês) (x. 8,24.45; 9,33.49; 17,13). Các bản văn Nhất Lãm song song dùng từ didaskale, “thưa thầy”, hoặc rabbi, “thưa rabbi”. Trong văn chương Hy Lạp, từ ngữ epistatês thường có sắc thái rộng hơn, đó là “vị chỉ huy, vị điều hành, vị giám sát” (ví dụ trong việc huấn luyện giới trẻ). Trong các tác phẩm Lc, từ này luôn luôn được đặt trên môi miệng các môn đệ, còn từ didaskalos được người ngoài dùng. Epistatês diễn tả một đức tin sâu xa hơn vào uy quyền của Đức Giêsu.

– chúng tôi đã vất vả (5): Động từ kopiaô, “làm việc vất vả”, là một động từ được Tân Ước dùng cho những dịp mô tả công việc tông đồ vất vả.

– Xin tránh xa con (8): Qua mẻ lưới lạ thường, Simôn nhận ra Thiên Chúa đang tỏ mình ra nơi Đức Giêsu, do đó ông đã gọi Người là “Chúa”. Từ đó, ông cũng ý thức về tình trạng tội lỗi, bất xứng của mình; ông cảm thấy sợ hãi khi đứng trước Thiên Chúa là Đấng Thánh (x. Is 6,5). Simôn vừa bị thu hút về phía Đức Giêsu do lòng thán phục, vừa muốn tránh xa Người do ý thức về sự bất xứng của mình.

– Anh sẽ là kẻ đi bắt người ta (10): So với Mc 1,17, câu nói này không nhấn mạnh đến thân thế môn đệ, nhưng nhấn mạnh đến hoạt động truyền giáo. Zôgreô (do zôos, “sống động”; agreô, “bắt”) có nghĩa là “bắt để làm cho sống”. So với Mc 1,17, bản văn nhấn mạnh trên hoạt động truyền giáo hơn là trên thân phận người môn đệ.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Các tác giả còn tranh luận xem bản văn này thuộc thể văn nào: bài tường thuật ơn gọi, bài tường thuật về sự giao phó nhiệm vụ, tiên tri và lời hứa… Thật ra, đề tài ơn gọi chắc chắn có trong bản văn, nhưng dưới dạng một lời hứa và một lời tiên tri. Quả thế, chính lời hứa long trọng của Đức Giêsu nổi bật rõ nhất (“Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”).

Điều đánh động trong bài tường thuật chính là sự xen kẽ giữa số đơn và số phức. Ngay từ đầu, độc giả chuyển từ “đám đông” (ochlon) của c. 1 sang “các đám đông” (ochlous) ở c. 3. Tại c. 4, Đức Giêsu nói với Simôn: “Chèo ra chỗ nước sâu (epanagage [số đơn] eis to bathos) mà thả lưới bắt cá (kai chalasate [số phức] ta diktya hymôn eis agran); như thế, không phải chỉ có một mình Simôn ở trên thuyền. Sang c. 5, câu trả lời của Simôn lúc đầu khẳng định: “Chúng tôi đã vất vả (poiasantes)…”, nhưng rồi: “Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới (chalasô)”. Và nếu ở c. 8, Simôn xin Đức Giêsu: “Xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”, lý do lại là vì Simôn, những người có mặt ở đó, và cả Giacôbê và Gioan cũng kinh ngạc (cc. 9-10). Cuối cùng, Đức Giêsu nói với riêng Simôn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta” (c. 10), nhưng ngay sau đó các bạn của Simôn lại xuất hiện: “Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người” (c. 11).

Sự xen kẽ giữa Simôn và các bạn không chỉ gợi ý là mẻ cá cần nhiều người, mà còn nêu bật rằng Simôn, ngoài nhân cách độc đáo của ông, cũng đại diện cho một nhóm, nhóm các ngư dân sẽ bỏ mọi sự để trở thành môn đệ của Đức Giêsu.

Một nét khác trong bài tường thuật là cách vận dụng “khoảng cách” giữa các nhân vật khác nhau, để đưa lại cho mỗi nhân vật một nét độc đáo riêng. Đám đông quy tụ quanh Đức Giêsu để nghe Lời, nhưng Người lại lên thuyền của Simôn và bảo ông ra xa bờ một chút. Một cách nghịch lý, việc lấy khoảng cách như thế lại đưa Đức Giêsu đến gần các đám đông hơn, bởi vì do quá gần, việc loan báo Lời lại bị cản trở, và cũng đưa Người đến gần Simôn và các bạn hơn, bởi vì các ông đang ở trên thuyền với Thầy, nên cũng trở thành thính giả nghe Lời. Bằng cách đó, Đức Giêsu vừa có thể ngỏ lời với người ở gần lẫn người ở xa.

Việc lấy khoảng cách vẫn tiếp tục. Trước tiên lệnh của Đức Giêsu cho Simôn (“Chèo ra chỗ sâu”, epanagage eis to bathos) vừa giữ khoảnh cách chiều ngang với đám đông, vừa bắt đầu một chuyển động theo chiều đứng, một chiều hướng đầy xuống thấp và dấn dần kéo cả Simôn vào. Lệnh của Đức Giêsu theo nghĩa chữ là: “Đi ra xa, vào chỗ (nước) sâu”; đây không chỉ là đi ra xa hơn, mà còn là đi vào chiều sâu của cái hồ! Một vài động từ xác nhận chiều hướng biểu tượng này: “Các anh hãy thả lưới” (c. 4), “tôi sẽ thả lưới” (c. 5), “hầu như rách cả lưới” (c. 6), “đến gần chìm” (c. 7). Đây không chỉ là một chuyển động thể lý, gắn liền với việc đánh cá, vì chính cử chỉ và lời nói sau cùng của Simôn cho thấy: ông phục xuống dưới chân Đức Giêsu và nói: “Xin tránh xa con…”. Vấn đề là tương quan với Đức Giêsu, là gắn bó với Người hay tránh xa Người.

Tới cuối bài tường thuật, nhờ lời hứa của Đức Giêsu, khoảng cách đáng sợ giữa Đức Giêsu và Simôn được điều chỉnh lại và khoảng cách với đám đông cũng được xóa đi, bởi vì Simôn Phêrô và các bạn đã kéo thuyền vào bờ, nơi có đám đông, và đi theo Đức Giêsu.

Như vậy, qua biện chứng “cách xa”, chủ đề của bài tường thuật là việc kêu gọi Simôn và các bạn, việc kêu gọi này có nghĩa chính xác là đến gần Đức Giêsu, bằng cách lấp đầy các khoảng cách ngăn cách với Người. Vậy đây là hành trình đức tin. Nhưng điều này không chỉ liên hệ đến các môn đệ, mà còn liên hệ đến tất cả các thính giả hoặc độc giả Tin Mừng tương lai; chính vì thế mà có sự xen kẽ số đơn và số phức. Chúng ta sẽ thấy bản văn trình bày diễn tiến của hành trình đức tin.

* Giới thiệu khung cảnh và công việc của Đức Giêsu (1-3)

Sau thất bại ở Nadarét (4,16-30), Đức Giêsu vẫn có những người sẵn sàng lắng nghe, chính đám đông “chen chúc” (epikesthai) bên bờ hồ Ghennêxarét đã chứng tỏ điều đó. Chúng ta ghi nhận: không phải là họ tìm nghe lời một người phàm, nhưng nghe “lời Thiên Chúa”. Một ghi nhận kế tiếp: Đức Giêsu không rao giảng trong hội đường nữa. Đây là một biểu tượng: kể từ nay, nơi duy nhất chúng ta có thể nghe được lời của Thầy chí thánh chính là cộng đoàn Kitô hữu; đây là nơi mà tất cả những ai đi tìm ánh sáng, sự an ủi và niềm hy vọng đều phải đến. Trên con thuyền này, chỉ có Đức Giêsu là thánh thiện, còn những người khác thì tốt lành, nhưng đều là những “kẻ tội lỗi”. Dù vậy, cũng chính là từ con thuyền này mà Lời Chúa được công bố.

Đức Giêsu mau chóng chỉ định các cộng sự viên. Truyện hôm nay cho thấy bản chất của tương quan giữa Người và các ông này. Ở đây mọi sự đều do sáng kiến của Người và được nhắm đưa tới kinh nghiệm như Simôn sẽ có. Tuy vậy, bản văn cho thấy Đức Giêsu chỉ tỏ ra năng động có hai lần thôi: lần đầu khi Người ra lệnh (c. 4) và lần thứ hai khi Người ban một lời hứa (c. 10); còn ở giữa là hành động và phản ứng của Simôn và các bạn. Simôn cũng có hai câu nói thưa với Đức Giêsu: một câu là khẳng định về kinh nghiệm đánh cá (c. 5), một câu là lời mời (c. 8). Chính do quảng đại mà Simôn đã hỗ trợ cho việc loan báo Lời. Trong giai thoại chữa bà mẹ vợ (4,38-39), Simôn là một nhân vật chìm: không nói không làm gì cả! Còn ở đây, nổi bật lòng quảng đại và sự sẵn sàng của ông, khiến ông trở thành một thính giả ưu tiên của Lời.

* Đức Giêsu – Phản ứng của Simôn trước mẻ cá (4-7)

Việc lắng nghe Lời không tự động đưa tới đức tin. Để cho việc lắng nghe này là thật, thì cần có việc tận tình đáp trả những yêu cầu của Lời. Nói xong với đám đông, Đức Giêsu ban một lệnh trực tiếp cho một người, ngay giữa lòng cuộc sống cụ thể của người ấy (c. 4): “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (c. 4). Simôn đã phản ứng, ông khẳng định theo kinh nghiệm của ông: người ta bắt cá ban đêm; thế mà suốt đêm các ông đã vất vả (kopiasantes) mà chẳng bắt được gì, phương chi bây giờ là ban ngày! Lệnh này có vẻ như một sự gây chuyện! Tuy nhiên, Đức Giêsu không hề nêu lý do hoặc thêm ý soi sáng; Người nói một lời và cho thấy mọi sự tùy thuộc lời này. Đối với Simôn, Đức Giêsu không phải là một người xa lạ. Ông đã thấy Người chữa lành nhạc mẫu của ông (4,38-39). Do đó, ông tín nhiệm vào lời Đức Giêsu cho dù lời này có yêu cầu những điều bề ngoài không mong đạt kết quả, hoặc những điều phi lý vì đi ngược lại mọi kinh nghiệm của loài người. “Thưa Thầy, … dựa vào lời Thầy”, epistata, … epi de tô rêmati sou (c. 5): Những từ ngữ này hết sức quan trọng, vì đây là công thức diễn tả thái độ của con người đối với Thiên Chúa (x. Tv 119, 25b.42.57.105). Epistatês theo nghĩa chữ là “người ở trên”, “người chủ tọa”. Simôn nhận biết Đức Giêsu là người dẫn đường, Người không chỉ là một thầy dạy, mà là một chủ nhân đời sống!

Điều chúng ta ghi nhận ở đây là chính Simôn đã đưa thuyền ra khơi (c. 4); chính ông công bố niềm tin vào lời Đức Giêsu (c. 5); chính ông gọi Người là “Lạy Chúa” (c. 8); ông là người được mời trở thành “kẻ lưới người” (c. 10). Tất cả các yếu tố này cho thấy rằng Simôn được chọn cho một thừa tác vụ đặc biệt trong Hội Thánh. Nhiệm vụ của ông là nghe lời Chúa và di chuyển, không phải ra nơi mà kinh nghiệm dẫn đưa ông, nhưng nơi mà Thầy muốn ông đến.

Và để chứng minh là người ta có thể tin vào lời Đức Giêsu, các ông đã kéo được mẻ cá quá sức phong phú. Lưới gần bị rách. Cả hai thuyền đều đầy cá, nặng đến nỗi gần chìm. Kết quả này không do tài năng của Simôn, nhưng do lời của Đức Giêsu. Simôn cần trợ giúp; ông ra hiệu cho các bạn chài ở thuyền kia đến giúp (c. 7). Nay ta biết tên họ là Giacôbê và Gioan, con ông Dêbêđê. Các ông này được gọi là “bạn” (koinônoi) của Simôn (c. 10). Koinônos không chỉ là bạn cùng nghề nghiệp; các tác giả Tân Ước dùng từ ngữ này để chỉ những tín hữu hiệp thông với nhau (x. Cv 2,42.44; 4,32; Rm 12,13; 15,26.27; …).

* Phản ứng của Simôn sau mẻ cá – Đức Giêsu (8-10)

Tức khắc, Simôn nhận ra Đức Giêsu là ai và chính ông là ai: kinh ngạc sợ hãi. Ông thưa với Đức Giêsu như là “Chúa tể”, là điều mà trước đây các mục đồng đã được loan báo: Đấng Cứu thế, Đức Kitô, Đức Chúa (2,11). Simôn đã trải nghiệm quyền năng thực thụ của vị Chúa tể này. Do đó, bây giờ không những ông biết ông không ở trên cùng một bình diện với Người, mà còn biết rằng đối diện với Người, ông là một kẻ tội lỗi. Đứng trước quyền năng và sự thánh thiện của Thiên Chúa, con người cảm thấy có nhiều điều trong đời mình không coi được. Kinh nghiệm về Đức Chúa cho thấy nơi Phêrô có nhiều chuyện sai lạc, đi ngược lại với Người và làm cho ông nên bất xứng và không trong sạch. Ông thấy giải pháp cho hoàn cảnh không thể chịu nổi này là Chúa xa ông đi: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (c. 8). Việc Simôn quỳ phục xuống, gọi Đức Giêsu là “Chúa” (kyrios), lời nói về thân phận bất xứng, cho thấy ông đang gặp Thiên Chúa, một kinh nghiệm về thần hiển như trong trường hợp Môsê (Xh 3,6) và Isaia (x. Is 6,5). Ở đây, y như thể Simôn muốn nói rằng: Chúa tránh xa con, để như thế con lại có thể chịu nổi con và lại có sự bình an bề ngoài của con. Nhưng chắc chắn cách xử sự của Đức Giêsu không phải là tránh xa những người tội lỗi và bỏ mặc họ trong tội lỗi và với số phận của họ (x. 5,32). Ý thức của Simôn hoàn toàn đúng, nhưng giải pháp ông đề ra không được Đức Giêsu chấp nhận: Người không tránh xa ông, Người cũng không đẩy ông xa Người, nhưng nhận lấy ông, đưa ông vào phục vụ chương trình của Người. Chính Simôn, người đã nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con!”, lại sẽ đi theo Đức Giêsu cùng với các bạn (5,11).

Ở đây lần đầu tiên và lần duy nhất, bên cạnh tên Simôn quen thuộc, có tên Phêrô: phải chăng đây là một gợi ý kín đáo về sự phản bội của Phêrô trong tương lai? Trong thực tế, việc nhận biết thân phận tội lỗi của mình, trước khi đươc kêu gọi, chứng tỏ sứ vụ của Phêrô không dựa trên các đức tính của ông, nhưng hoàn toàn dựa trên sự ban tặng nhưng-không của Thiên Chúa.

Đức Giêsu tỏ ra rất tế nhị với Simôn. Người không nhận định gì về tình trạng tâm hồn của ông, Người không khuyến cáo; trái lại Người để cho ông làm một hành vi đức tin. Kết quả là Simôn nhận ra sự cao cả, sự tốt lành và quyền lực của Đức Giêsu, nên ông đã dễ dàng, như theo bản năng, từ bỏ các tội lỗi của ông. Khi đó, ông trở nên hoàn toàn tự do, ông có thể hiểu lời mời gọi của Người. Lời mở đầu: “Đừng sợ!” chứng tỏ sự can thiệp của Đức Giêsu mang màu sắc một cuộc thần hiển thực thụ. Lời hứa của Đức Giêsu: “Từ nay, anh sẽ là người thu phục người ta như bắt cá” (NTT: “sẽ là kẻ chài lưới bắt người”) được thêm vào kinh nghiệm mà Simôn đã có về tính vững chãi của lời Đức Giêsu nói. Simôn nhận biết Đức Giêsu như là Đấng muốn người ta đón tiếp Tin Mừng. Trong một cách thức chưa rõ mấy, Đức Giêsu cho ông hiểu rằng ông phải tham gia vào lối hành động này, nhưng luôn dựa vào quyền lực của Người.

* Kết luận: Đời môn đệ (11)

Simôn và các ông khác, tức Giacôbê và Gioan, “đã bỏ hết mọi sự mà theo Người”. Từ nay, Simôn và tất cả các môn đệ phải nhận biết rằng việc phục vụ mà Đức Giêsu đưa các ông vào dựa trên không phải là các đức tính, các năng khiếu cá nhân, nhưng dựa trên Lời của Người. Hai động từ “bỏ” và “theo” mô tả sứ mạng của người môn đệ. Nằm tại trung tâm cuộc sống của các ông, không phải là một giáo thuyết, nhưng là một con người và một dự phóng đời sống. Tiếng gọi này phát sinh không từ một mệnh lệnh, nhưng từ kinh nghiệm về một Lời mạnh mẽ và hữu hiệu, có thể không những tạo ra một mẻ cá dồi dào lạ lùng, nhưng còn gây nên một tiếng “xin vâng” cho trọn một cuộc đời.

+ Kết luận

Simôn đã hiểu thi hành một nhiệm vụ Đức Giêsu giao nghĩa là gì. Ông cũng trải nghiệm về bản thân ông là ai khi đứng trước Đức Giêsu. Như thế, ông cũng hiểu ra rằng, khi đứng trước một lời hứa của Đức Giêsu, tất cả các khả năng con người, dù có hạn hẹp, cũng như những cơ may thành công, dù có mong manh, cũng không còn đáng bận tâm nữa. Bài tường thuật phép lạ trước tiên là một biểu tượng về sự phong nhiêu của Lời Chúa.

Đây là một sự đảo lộn hoàn cảnh nguyên thủy. Lúc đầu, Simôn, có phần tự hào về bản thân, đã trở thành một người có khả năng nhảy một bước trong đức tin. Từ đó, ông cũng nhận ra được sự nghèo hèn của mình; do đó ông nên khiêm tốn để sống đức tin chan hòa. Chỉ nhờ kinh nghiệm về quyền năng của Thiên Chúa như thế, người môn đệ mới được đào tạo.

Sứ mạng được ký thác cho toàn thể cộng đoàn Kitô hữu, để cho thấy rằng có thể có một tập thể hoàn toàn đặt nền tảng trên sự tha thứ, việc chia sẻ của cải, việc phục vụ lẫn nhau, tôn trọng những người khác. Các Kitô hữu sẽ phải luôn luôn tự hỏi những người khác đang trông chờ mình đưa lại cho họ thứ “ơn cứu độ” nào, mình có thể phục vụ họ tốt nhất cách nào, mình đang lo tìm cứu độ từng con người hay chỉ bảo vệ một cơ cấu.

5.- Gợi ý suy niệm

  1. Hoạt động tông đồ không thể dựa trên khả năng của các tông đồ hoặc trên thiện chí của những người mà các ngài được cử đến gặp, nhưng chỉ dựa trên trách nhiệm được giao và quyền năng của Chúa. Người ta chỉ có thể đảm nhận công việc ấy “theo lời Người”. Simôn có thể trải nghiệm quyền năng và giá trị của lời Đức Giêsu và phải trải nghiệm về sự giới hạn yếu đuối của bản thân ông. Đồng thời ông cũng trải nghiệm được sự hạ cố nhân ái của vị Chúa tể quyền năng, đã đưa ông vào phục vụ Người. Việc phục vụ này mãi mãi được liên kết với các kinh nghiệm cơ bản này.
  2. Các mục tử hôm nay lại không nhận ra bài học cho mình sao? Quyền lãnh dạo của họ trên cộng đoàn Kitô hữu không phải là để họ áp đặt ý muốn của mình, nhưng là để giúp nhận ra ý muốn của Đức Giêsu. Họ có nhận ra tiếng nói của Thầy chí thánh và phân biệt tiếng nói này giữa các cảm xúc, các trực giác và các ý tưởng của họ chăng?
  3. Người ta không thể trách Simôn về sự kiện ông là kẻ tội lỗi. Chính ông đã biết rồi, và ông sẽ trải nghiệm về điều này cách cay đắng (Lc 22,33t.54-60). Nhưng Đức Giêsu đã đưa kẻ tội lỗi ấy vào phục vụ Người, đã cầu nguyện cho ông (22,31t), đã nhìn ông với ánh mắt nhân hậu (22.61t). Như thế, Simôn có thể chu toàn nhiệm vụ, mà không bao giờ cậy dựa vào các sức mạnh của mình, nhưng tín thác vào Lời Chúa.
  4. Khi biết nhìn đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta, quyền năng cũng như lòng tốt của Ngài, chúng ta mới nhận ra sự nghèo nàn và cần ơn cứu độ của chúng ta. Simôn đã nhân ra điều đó, ông không sợ hãi gì nữa; cho dù kẻ khác có nghĩ ông là một kẻ tội lỗi, điều này cũng quan hệ gì. Ông đã bước được một bước quyết liệt trong việc giải phóng bên trong. Đức Giêsu đã đào tạo môn đệ bằng phương tiện là những bước nhảy trong đức tin và bằng cách làm cho người ấy biết quyền lực thần linh của Người. Con thuyền của Phêrô chính là Hội Thánh. Đức Giêsu vẫn tiếp tục dạy chúng ta trên chiếc thuyền này, dọc theo dòng các cuộc cử hành Phụng vụ, và nhất là trong Bí Tích Thánh Thể.
  5. Chính Thiên Chúa ban ơn gọi cho loài người. Mọi người phải bỏ mọi sự mà đáp trả quảng đại. Như thế là thực hiện một bước điên rồ, nhưng chính bước điên rồ này làm nên con người. Simôn đã thực hiện sự từ bỏ này khi thả lưới trái với kinh nghiệm thông thường, rồi sau đó, khi bỏ mọi sự mà bước theo Đức Giêsu. Nhờ dám “đánh liều cuộc đời”, Simôn trở thành người mà Thiên Chúa nhắm khi cho ông xuất hiện trong cuộc đời. Trong gia đình Kitô hữu, giáo dục con cái biết sống quảng đại là cách thức tốt nhất để chuẩn bị cho con cái sống quảng đại, để nhờ đó, chúng thực hiện được chương trình của Thiên Chúa.

 

44. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

MẺ LƯỚI CÁ LẠ VÀ GỌI SIMON PHÊRÔ

Bản văn đóng khung ở dưới đây sẽ cho thấy: việc kêu gọi Simon là đối tượng của một sự chuyển vị. Thực vậy, đối với Luca lời kêu gọi này giả thiết Chúa Giêsu và Simon đã quen biết nhau; lời đáp của Simon sẽ dễ hiểu hơn khi ông biết Chúa Giêsu như một người giảng dạy và chữa bệnh cách lạ lùng.

Lc 5,1-11 không đơn giản, vì nó không chỉ vay mượn ở cảnh kêu gọi các môn đệ trong Mc 1,16-20. Lúc đầu, vì quá đông dân chúng, Chúa Giêsu phải lên một chiếc thuyền để giảng dạy, đó là cảnh ở Mc 4,1-2. Nhưng đặc biệt, bản văn này kết hợp trình thuật về mẻ lưới lạ đến từ truyền thống và cụng thấy việc đánh cá trong cả hai trường hợp đều ám chỉ sứ mệnh của Giáo Hội. Việc gắn liền phép lạ này vào trình thuật kêu gọi môn đệ không có mục đích cung cấp cho Simon một dấu hiệu mới về quyền năng của Chúa Giêsu, nhưng trước hết phép lạ đó làm cho kẻ đánh lưới cá trở thành kẻ đánh lưới người. Như vậy, toàn bộ trình thuật được cấu trúc trên ẩn dụ này.

Việc đặt vị trí cho câu chuyện (c. 1-3), việc giảng dạy của Đức Giêsu – mà Luca có ý nhấn mạnh nhiều – bị cản trở do chính thành công của mình = đám đông chen lấn Người để nghe lời Thiên Chúa – Lời Thiên Chúa mà về sau Phêrô và nhóm Mười Hai cũng sẽ không bỏ quên được (Cv 6,2). Hai chiếc thuyền và đoàn thủy thủ đang sẵn sàng – nếu họ giặt lưới là vì công việc đã xong. Hơn nữa, Chúa Giêsu và Simon đã biết nhau. Chiếc thuyền của ông không chỉ giúp cho Thầy tách ra khỏ đám đông và tiếp tục việc giảng dạy một cách thỏa đáng hơn.

Vì liền sau đó, Chúa Giêsu bảo Simon đưa thuyền ra chỗ nước sâu và, cùng với cả đoàn ngư phủ thả lưới (c. 4-7). Đã từng trải trong nghề, ông chủ thuyền bực bội trước lệnh của một người sống ở nông thôn và trước một kết quả hết sức là bấp bênh. Tuy nhiên, nếu ông thả lưới, không phải vì ông thử bắt cá – bởi lẽ ông đã vất vả suốt đêm và đã thất bại – mà vì muốn vâng theo một lời nói mà ông đã có kinh nghiệm về hiệu quả. Mà, trong trường hợp này, hiệu quả còn ở điểm hẹn: hiệu quả vượt hẳn qua sức chứa của những chiếc lưới của Simon đến nỗi sắp rách. Không thể rách lưới được, vì bằng một dấu hiệu ngầm, đoàn ngư phủ khác đã đến giúp: như vậy chiếc thuyền thứ hai nêu rõ sự vĩ đại của phép lạ. Nhưng Luca còn nhấn mạnh thêm đến hiệu quả của Lời Chúa Giêsu: dưới sức nặng của mẻ cá bắt được: hai chiếc thuyền suýt gần như chìm.

Với các câu 8-11, mọi chú ý đều hướng về Simon Phêrô, bằng cách ghép hai tên mà Chúa Giêsu đặt người đứng đầu nhóm Mười Hai (6,14). Thấy phép lạ, Simon cùng có một phản ứng như Isaia (Is 6,5-6): một con người, tất nhiên là tội nhân, không thể sống được khi tiếp cận với quyền năng thần linh của Thiên Chúa. Sự kinh hãi thánh thiêng chiếm ngự cả các bạn đồng nghiệp của Phêrô. Để làm nổi vai trò của Phêrô, mãi đến bây giờ Luca mới nhắc đến Giacôbê và Gioan, Anrê được nói đến ở Mc 1,16 với ba vị khác, ở đây bị bỏ qua – như ở 4,38. Chính vì Luca đặt nổi bộ ba Phêrô, Gioan và Giacôbê, sẽ là những nhân chứng về hai dấu chỉ của quyền năng thần linh khác nữa (8,51; 9,28).

Nhưng trở ngại mà Phêrô đặt ra đã được giải tỏa: cũng giống như các sứ giả thần linh trong các cảnh mặc khải (x. 1,13-30; 2,10). Chúa Giêsu vượt qua khoảng cách khi bảo Phêrô đừng sợ. Rồi, không gọi rõ tên Simon như đã xảy ra cho ông và anh của ông ở Mc 1,17, Chúa Giêsu chỉ nói lên một lời hứa cho mình ông thôi. Luca viết lại lời hứa này để giải tỏa ẩn dụ của việc đánh cá khỏi khía cạnh tiêu cực của nó – những con cá chết – và nhắc tới việc phán xét của Chúa (Gr 16,16): “Từ nay, anh sẽ là kẻ cứu sống người ta”. Động từ mà Luca chọn có nghĩa đen là “bắt sống”. Bởi đó chúng ta hiểu mẻ lưới lạ tiên báo lời rao giảng Kitô giáo có mục đích quy tụ những con người lại – hình ảnh chiếc lưới bắt cá – để họ được sống. Cũng có những tiếng “từ nay” – một diễn ngữ quen thuộc của Luca (xem trong kinh Mangificat 1,48), mở ra giai đoạn mới của ơn cứu độ. Thời tương lai được mở ra bởi câu 10, đó là hiện tại của Giáo Hội đã bắt đầu từ ngày ấy.

Simon Phêrô không chỉ là phát ngôn viên của nhóm người quy tụ xung quanh Chúa Giêsu (Lc 9,20); ông sẽ còn giữ một nhiệm vụ tương tự trong cộng đoàn đầu tiên ở Giêrusalem sau Phục Sinh (Cv 1,15). Nhất là ông sẽ rao giảng lời Chúa, như vậy là thả một mẻ lưới lớn quy tụ nhiều người để họ được sống (Cv 2,14-41).

Chúa Giêsu không có một lời kêu gọi nào cho các bạn đồng nghiệp của Simon; phép lạ và lời Chúa nói với Simon đã là một tiếng gọi và tất cả sẽ theo Người. Được mượn ở ngôn ngữ của các Kinh sư, thuật ngữ này chỉ điều kiện của người môn đệ chấp nhận đi theo bước chân của Thần mình (x. Lc 5,27-28). Sau cùng, một nét đặc trưng nữa của Luca; những môn đệ mới bỏ tất cả, không chỉ bỏ lưới như ở Mc 1,18. Theo Chúa Giêsu, đó làm một chọn lựa triệt để.

 

45. Chú giải của Noel Quesson

Trang Tin Mừng này, như nhiều trang khác, dưới vẻ bề ngoài hời hợt kể về một giai thoại của đời sống Đức Giêsu thật ra là một trang về giáo hội học hay thần học về Giáo Hội.

Một hôm, Đức Giêsu đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa

Trước tiên, tôi nhìn ngắm quang cảnh cụ thể. Rồi tôi thử tưởng tượng. Đức Giêsu ở giữa một đám đông. Người nói. Đám đông lắng nghe Người. Người không nói bất kỳ điều gì: Người nói Lời Chúa. Nhà thần học Luca nói với chúng ta đó là vai trò đầu tiên của Giáo Hội: việc rao giảng! Điều mà Giáo Hội cố gắng thực hiện chính.Đức Giêsu đã bắt đầu điều đó. Sự rao giảng của Giáo Hội là sự kéo dài việc rao giảng của Đức Giêsu và có cùng một nội dung.

Lạy Chúa, xin cho con lòng yêu mến Lời Chúa, lòng khao khát được lắng nghe Lời Ngài.

Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông

Quang cảnh cụ thể và hiện thực. Nhưng cũng là quang cảnh có tính tượng trưng sâu sắc. Chiếc thuyền tạo ra một khoảng cách; giữa Đức Giêsu và đám đông, như thế nhấn mạnh vẻ uy nghi nào đó của Đức Giêsu đang ngồi giảng dạy. Và “thuyền đó là thuyền của Simon “tức Phêrô” Giữa đám đông các môn đệ, Luca thong thả nhận ra một vài người sẽ trở thành “nhóm mười hai mà Đức Giêsu gọi là các Tông Đồ.” (Lc 6,12)…và trong nhóm mười hai này, Luca còn nhận ra Simon là trọng tâm của bài tường thuật và được gọi đích danh sáu lần trong trang Phúc âm này. Vì thế, đây là cơ cấu chủ yếu của Giáo Hội mà Đức Giêsu mong muốn.

Cơ cấu tổ chức của Giáo Hội có thể làm cho chúng ta vui mừng hay khó chịu. Dọc dài theo lịch sử, các giáo hoàng và các giám mục có thể đã đóng những vai trò trần tục theo hình ảnh các ông hoàng của thế gian này, hỡi ôi! Nhưng về mặt thần học, chính Đức Giêsu thiết lập cơ cấu tông truyền của Giáo Hội. Trong Giáo hội, các vị có chức tránh trước tiên không phải là một thủ lĩnh, một bề trên trong phẩm trật, một người chấp chính, mà là một người phục vụ đại diện cho Đức Kitô, Đấng Phục vụ trong bí tích. Giáo sĩ là một dấu chỉ, một Bí tích của Đức Giêsu Kitô. Giữa đám đông các môn đệ có linh mục là dấu chỉ rằng chúng ta không chinh phục ân sủng và Lời Chúa, nhưng chúng ta tiếp nhận Lời từ một Đấng khác. Thánh chức đại diện cho Đức Kitô quả là một trách nhiệm đáng sợ. Ngày hôm nay, chẳng phải chúng ta có khuynh hướng nguy hiểm là đánh giá thấp “lời giảng dạy” của Giáo Hội, là bác bỏ khỏi Giáo Hội khía cạnh bí tích, mầu nhiệm, thiêng liêng đó sao? Để chỉ nhìn thấy con người đang nói mà quên đi Đấng mà người ấy đại diện và biểu thị một cách hiệu lực đó sao? Công đồng dám khẳng đinh: “Chúa Kitô hằng hiện diện trong Giáo Hội nhất là trong các hoạt động phụng vụ Người hiện diện trong con người thừa tác viên. Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh. Ai rửa tội chính là Đức Kitô rửa. Phụng vụ đáng được xem là việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa Giêsu Kitô, trong đó công cuộc thánh hóa được biểu tượng nhờ những dấu chỉ khả giác” (S.C 7). Chúng ta có cầu nguyện để các Giáo hoàng, các Giám mục, các linh mục đóng đúng vai trò ấy hay không?

Chiếc thuyền ấy của Simon, neo trong cái vũng nhỏ ở Ca-phác-na-um; tôi thích tưởng tượng nó như một chiếc thuyền cũ kỹ tồi tàn mà khắp mọi chỗ có những mảnh ván đóng đinh chong vào để lấp kín những chỗ hư hại… một chiếc thuyền rất phàm nhân, rất bình thường, rất nghèo hèn! Nhưng Đức Giêsu đã bước lên chiếc thuyền ấy và từ đó Người nói! Ôi! Chiếc thuyền mẫu nhiệm, Giáo Hội của Người, và Lạy Chúa, nó vừa rất con người và cũng rất thánh thiêng…

Giảng xong, Người bảo ông Simon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá

Bản dịch theo mặt chữ thì tốt hơn và nói rằng: Ra chỗ nước sâu hay đúng hơn: “Ra chỗ nước trên vực thẳm “eis to bathos” ‘ tiếng Hy Lạp. Từ tiếng Bathos có nghĩa là vực thẳm, mà có từ tiếng Pháp “bathiscaphe”: Chiếc tàu lặn của Cousteau để thám hiểm các vực sâu dưới đáy biển. Đối với dân Sêmít, dân cư của các vùng đất khô cằn, biển là nơi đáng ngại nhất, biểu tượng của các vực thẳm nội tâm, nơi ở của các quái vật trong hỏa ngục (St 7,17; Tv 74,13-24,2; Gr 38,16; Gn 2,2; Kh 9,l-3-20,3-13,1). Nghề biển là một nghề nguy hiểm. Oi có biết bao thủy thủ, thuyền trưởng “bị nuốt chửng, nhận chìm” vào cái hàm mở rộng của biển cả!

Như thế, Đức Giêsu nói một cách tượng trưng điều này: “Con thuyền của Simon, Giáo Hội của Ta, hãy tiến vào nơi hiểm nghèo của biển cả, vào nơi hiểm nghèo của thế gian, hãy rời bỏ sự an toàn của bờ bến; hãy tiến lên trên vực thẳm”. Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết mạo hiểm.

Ông Simon đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.

Sứ mạng của Giáo Hội hoàn toàn vượt quá những sứ mạng của con người: Người môn đệ chân chính lắng nghe “lời” Chúa dù lời đòi hỏi người ấy những điều xem ra phi lý.

Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm

Luca nhấn mạnh đến tính chất phi thường của việc đánh cá siêu phàm ấy: Lưới rách, một sự giúp đỡ cần thiết, người ta đổ cá đầy “hai” thuyền, thuyền sắp chìm!

Giáo Hội chỉ có thể thành công nhờ tin vào Lời của Đức Giêsu. Thế thì Simon tư tế phải nhớ lại thôi! Trên mảnh đất chuyên môn của mình Simon tưởng mình có khả năng, nhưng Đức Giêsu đã đánh trúng ông, đã chỉ cho ông những giới hạn của mình: Vì thế, ông không là gì cả nếu không có Người. “Chúng tôi đã vất vả mà không bắt được gì cả!” Chúng ta cũng thế, trong chiếc thuyền của chúng ta, chúng ta thường phải nhường chỗ cho một Đấng Khác, để thả lưới ở nơi mà chúng ta không tự mình làm được.

Đó là ý nghĩa mẫu nhiệm của sự thất bại: giai đoạn đau khổ và khiêm hạ để chúng ta từ bỏ chính mình và đem lại cho chúng ta cơ hội giải phóng mình khỏi những ảo tưởng vẫn làm cho chúng ta tin tưởng vào giá trị của mình. Như thế, có chẳng lúc, chúng ta được mời gọi phải thực hiện một bước liều của đức tin: để hoàn thành các bổn phận nghề nghiệp của chúng ta, để yêu thương chồng mình để chấp nhận một đứa con, để chịu đựng một thử thách… hay hoàn toàn đơn giản, để chịu đựng một ngày của cuộc sống khô cằn trong đó chúng ta vất vả mà không thu hoạch được gì. Chúng ta phải tiến lên trên vực thẳm”, phải liều mình với một cử chỉ điên rồ mà Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta! Hỡi Giáo Hội! Tại sao bạn còn nghi ngại?

Thấy vậy, ông Simon Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc

Ở đây Luca đùng trước biệt danh “Phêrô” mà sau này Đức Giêsu sẽ đặt cho ông Simon (Lc 6,14). Cũng vậy, Luca dùng trước danh hiệu “Chúa” (“Kurios” trong tiếng Hy Lạp) sẽ là danh hiệu của Chúa phục sinh trong vinh quang (Lc 24,3 – 24,34).

Trước sự hiện diện của Thiên Chúa, con người luôn cảm thấy một sự run sợ lạ lùng, đây là nền tảng hầu như phổ biến của tình cảm tôn giáo trong mọi tôn giáo trên thế giới. “Khốn cho tôi, tôi là một con người có đôi môi ô uế”. Isaia đã nói (6, 1) khi nghe thấy các thiên sứ kêu lên: “Thánh! Thánh! Thánh! Lạy Chúa là Thiên Chúa hoàn vũ” Chúng ta còn nhớ những người dân ở Nadarét xin Thiên Chúa làm những phép lạ! Còn người môn đệ chân chính lại sợ hãi trước phép lạ và cầu khẩn Thiên Chúa tránh xa mình. Xin Chúa trách xa con, Phêrô khẩn khoản nài xin. Con là kẻ tội lỗi. Sau này khi nghe tiếng gà gáy, ông sẽ còn khám phá một cách sâu xa hơn tình trạng tội lỗi của mình! à thì ra người ta không thờ phụng nhân cách trong Giáo Hội, cũng không tôn thờ giáo hoàng. Con người mà Đức Giêsu đã yêu cầu đại diện Người tức vị giáo hoàng đầu tiên là một “con người tội lỗi”. Trước đó, Phêrô là trưởng nhóm”, ông tin tưởng vào kiến thức và kinh nghiệm của mình. Nhưng cuộc gặp gỡ với Đức Kitô đã cho ông thấy sự nhỏ bé của ông. Đức Giêsu chuẩn bị ông trở thành thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Người bằng cách làm cho ông ý thức sự vô nghĩa của mình. Thánh Gioan khi kể lại sự đánh cá mầu nhiệm đã đặt nó sau sự Phục Sinh (21,1,19) và câu chuyện chấm dứt bằng việc nhắc đến Phêrô đã ba lần chối Chúa, và bằng sự tín nhiệm của Đức Giêsu đem lại cho người tội lỗi ấy một sứ mệnh!

Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Simon, cũng kinh ngạc như vậy

Ở đây trong quá trình câu chuyện, Luca kể lại cho chúng ta tên những người khác như để làm nổi bật Phêrô trước đó.

Và các người bạn ấy của Phêrô được kể ra để nói rằng họ chia sẻ niềm kinh ngạc lạ lùng của Phêrô là cũng là những người sẽ có đặc ân đáng sợ là bộ ba chứng kiến (Phêrô, Giacôbê và Gioan) sự sống lại của một bé gái (Lc 8,51), sự biến hình trên núi (Lc 9,28), sự hấp hối trong vườn cây dầu (Mt 26,37).

Ngày nay, sự sợ hãi mà điều thánh thiêng gây ra dường như biến mất. Nhưng đó không phải là sự biến mất. Đó là một sự di chuyển: Khi người ta mất đi sự kính sợ Thiên Chúa, thì người ta bị mọi thứ hốt hoảng và sợ hãi xâm chiếm: nguy cơ nguyên tử, sự mất quân bình đủ loại sự mỏng dòn mới về tâm lý, sự lo lắng trước tương lai.

Bấy giờ Đức Giêsu bảo ông Simon: Đừng sợ

Đó là lời an ủi mà trong Kinh Thánh các thiên sứ luôn luôn nói với những con người sững sờ vì sự hiện diện thánh thiêng (Lc 1,13-30 – 2,10). Đó cũng là lời mà Đức Giêsu sẽ luôn luôn nói sau khi Người sống lại (Mt 28,10; Kh 1,17).

Từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.

Theo hình ảnh tượng trưng của biển cả được khai triển bên trên, vấn đề là “cứu sống những con người khỏi vực thẳm quỷ quái”: Đó là vai trò của Giáo Hội. Nhân loại là mồi ngon của những sức mạnh đáng sợ muốn nuốt trửng nhân loại. Bạn”hãy là “kẻ đánh lưới người”, bạn hãy cứu họ!

Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người

Phép lạ thật sự không phải là đánh cá ngoài khơi xa mà là đánh cá trong các tâm hồn; họ đã chọn lựa sự liều lĩnh ấy của Đức tin để theo Đức Giêsu và bỏ hết mọi sự.

 

46. Chú giải của Fiches Dominicales

BÊN BỜ HỒ GHEN-NÊ-XA-RÉT, NGƯ PHỦ SIMON

ĐƯỢC CHÚA KÊU GỌI TRỞ THÀNH PHÊRÔ,

KẺ BẮT NGƯỜI NHƯ BẮT CÁ

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Một chiếc thuyền đánh cá.

Một lần nữa, chúng ta lại sắp được thấy Luca vẽ nên bức tranh này một cách rất tài tình. Khi đặt việc Đức Giêsu kêu gọi những môn đệ đầu tiên trong bối cảnh một mẻ lưới lạ lùng, mà ta sẽ gặp lại Phúc âm Gioan 21, 1-11, Luca có ý lấy Simon-Phêrô làm một nguyên mẫu, và dùng chiếc thuyền làm biểu tượng Giáo Hội truyền giáo.

Theo Phúc âm Máccô và Matthêu, hành động đầu tiên của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ là kêu gọi các môn đệ. Còn trong Phúc âm Luca, đầu tiên Đức Giêsu lại được giới thiệu xuất hiện một mình đứng trước đám đông, rồi chỉ sau đó Người mới kêu gọi các môn đệ.

+ Trước tiên là “Simon”, chủ chiếc thuyền mà lát nữa Đức Giêsu sẽ ngồi vào vị trí của ông. Chỉ trong có ít dòng mà tên ông được nói tới năm lần, trong đó có một lần và là lần đầu tiên ông được gọi là Simon-Phêrô Lúc này ông là târn điểm của bài tường thuật, mà cũng sẽ là tâm điểm trong Phúc âm của Luca nữa.

+ Rồi đến “hai con ông Zêbêđê là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simon”

+ Cả ba ông, được kêu gọi trước tiên, sẽ là những chứng nhân đặc tuyển được chứng kiến việc hồi sinh cho con gái ông Giai-rô, việc Chúa biến hình sáng láng trên núi Taborê (Lc.9,28).

– Khung cảnh là “ven bờ Biển hồ Ghennêxarét”: Đức Giêsu giảng dạy bên bờ hồ, bao quanh người là đông đảo dân chúng chen lấn nhau “để nghe lời Thiên Chúa “. Có hai chiếc thuyền đậu gần đó. Còn “những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới”, sau khi đã đi đánh cá trở về.

    1. Meynet nhận xét: “Đức Giêsu giảng dạy bên bờ hồ, bao quanh Người là đông đảo dân chúng chen lấn nhau. Trong khi đó, những người dân chài đang lo toan công việc thường ngày của họ: họ đang giặt lưới. Đám đông có đó, nhưng họ lại không tham dự cùng với đám đông. Đám đông lắng nghe lời Chúa, còn họ đang lao dộng” (Lévangile se lon saint Luc. Phân tích tu từ “, tập 2 trg 70).

2. Trở thành toà giảng

Bỗng dưng mọi sự bắt đầu đảo lộn. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, “thuyền đó của ông Simon và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút “.

Thế là từ đây hai người, Đức Gìêsu và ông Simon, là những kẻ “đồng hội đồng thuyền” dấn thân vào cùng một cuộc phiêu lưu: Simon, người dân chài của Biển hồ sát cánh liền kề với Đức Giêsu, người đang “ngồi” trong tư thế của một vị tôn sư dạy dỗ các môn sinh của mình, để ngỏ lời với đám đông. “Con thuyền của Phêrô đã trở thành tòa để giảng dạy” (Sđd).

 3…. và cũng là biểu tượng Giáo Hội truyền giáo.

“Hãy chèo ra chỗ nước sâu, mà thả lưới bắt cá”, giờ đây Đức Giêsu lệnh cho ông Phêrô như vậy. “bắt cá”, chuyện đó các ông đã vất vả “suốt đêm rồi mà không bắt được gì cả”dù rằng đêm tối vẫn là thời điểm thích hợp nhất cho việc đánh cá. Vậy mà, đang lúc các bạn chài người Nadarét của ông từ chối đề nghị kia của Đức Giêsu, thì Simon lại đầu hàng trước lệnh của người dân quê miền đồi núi ấy vốn không biết gì về chuyện chài lưới cả, ông đáp: “Thưa Thầy, dựa vào lời Thầy tôi sẽ thả lưới”.

– Lời của Đức Giêsu tỏ ra rất hữu hiệu, vì mẻ lưới bắt được rất nhiều cá, đến nỗi lưới hầu như bị rách; họ phải “làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp”, dẫu sao hai thuyền đều đầy cá đến gần chìm.

– Đối với người dân chài chân chất kia, chẳng có gì phải nghi ngờ nữa: trong Đức Giêsu Nadarét này, đúng là Thiên Chúa đã đột nhập vào đời sống của Người. Thế là ông liền quỳ gối sấp mặt dưới chân Người hành khách trên thuyền của mình như sấp mặt trước Đức Chúa” vậy. Con người ông giờ đây bỗng dưng giống như Isaia xưa khi được thị kiến ở trong Đền Thờ (bài đọc thứ nhất), đang ý thức được khoảng cách tách biệt ông với Đấng, mà như ông thấy, đang thực hiện những việc lạ lùng trong con thuyền của ông: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”.

– Câu trả lời Simon nhận được từ Đức Giêsu sẽ đánh dấu một khúc quanh quyết định cho cuộc đời của ông: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá”.

+ “Đừng sợ “: kiểu nói thường đi theo sau mọi loan báo quan trọng trong Kinh thánh: loan báo cho Apraham trong sách Sáng thế 15, 1; loan báo cho Zacaria trong Luca 1,13; loan báo cho Đức Maria trong Luca 1,30.

+ “Từ nay” cuộc đời của Simon, vị quan thầy-ngư dân bắt đầu mở sang trang mới. Cuộc đời của ông xoay chiều đổi hướng để hướng đến một bến bờ khác.

+ “Từ nay”: một giai đoạn mới của chương trình cứu độ, giai đoạn truyền giáo, được mở ra ngay tức thì.

+ “Anh sẽ bắt người”: sát nghĩa là: anh sẽ bắt những con người sống, có nghĩa là anh sẽ giựt lên những con người đang sống, anh sẽ kéo họ ra khỏi thế lực của sự ác để bảo đảm cho họ được sống an lành. Là “ngư dân”, Simọn-Phêrô vẫn sẽ giữ nghề đánh cá, nhưng cái nghề đi tìm cá ban đêm của ông, một khi thay đổi đối tượng, thì cũng sẽ thay đổi ý nghĩa.

“Từ nay”, sứ mệnh của ông sẽ là lôi kéo người ta ra khỏi vòng kiềm tỏa của sự ác và cái chết, mà thời đó người ta vốn dùng hình ảnh biểu tượng là chỗ nước sâu, để đưa họ đến cõi sống nên R. Meynet có thể viết: “Mẻ lưới lạ lùng hôm nay chỉ là hình ảnh báo trước mẻ lưới lạ lùng đích thực. Giống như mẻ lưới lạ lùng xưa, mẻ lưới lạ lùng đích thực cũng sẽ diễn ra dựa vào Lời của Đức Giêsu” (Sđd, tr.68).

– Thế rồi, sau khi đã đưa thuyền vào bờ, Simon-Phêrô, Giacôbê và Gioan “bỏ hết mọi sự mà theo Đức Giêsu” để dấn thân vào con đường mà theo kiểu nói của Ph. Bossuyt và J. Radermakers sẽ là một cuộc thả lưới lâu dài nhất và phi thường nhất trong cả cuộc đời của các ông (“Đức Giêsu, Lời ban ân sủng theo thánh Luca” tr. 183).

 BÀI ĐỌC THÊM.

  1. “Tin là dám liều”

Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Giêsu kêu gọi ông Phêrô. Chúa xuống thuyền của ông; Người đi vào đời ông. Đúng là sáng kiến từ phía Chúa. Mà điều Chúa yêu cầu Phêrô làm cũng không có chi là hoàn toàn mới lạ cả. Người đòi Phêrô hành nghề của ông. Phêrô làm nghề đánh cá. Nghề này thì ông rành quá rồi; ông biết phải đánh bắt khi nào, đánh bắt ở đâu. Nên ông chẳng sợ hãi gì khi phải thưa với Chúa rằng ông gặp ngày không hên thôi. Dựa vào sự hiểu biết và tay nghề của mình, Phêrô thành thực nói cho Thầy biết rằng điều Thầy yêu cầu là hoàn toàn sai lầm. Vậy mà điều Chúa yêu cầu ông thực hiện lại là điều mới lạ: tin cậy vào lời của Người. Và thế là Phêrô, dù bụng dạ chẳng vững chút nào, ông vẫn mạnh dạn thả lưới” Chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả, Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới. Phêrô dám đặt cọc vào sự tin tưởng hơn cả uy tín của mình. Và cá đang ở điểm hẹn.Vai trò chủ động của con người trước sáng kiến của Chúa được Phúc âm mô tả như vậy đó. Nó hệ tại ở một lòng tin tưởng. Lòng tin tưởng ấy không phải là thái độ thụ động, mà đôi khi là sự anh hùng và luôn luôn là sự dám liều táo bạo. Lòng tin tưởng thường là một thái độ tình nguyện can đảm nhất, bởi lẽ lòng tin tưởng không bị ai chỉ huy nhưng là một sự tặng ban, một hành vi tự do.

2. “Một bài tường thuật lúc nào cũng có tính thời sự”

Nếu bài tường thuật của Luca, chỉ là kể lại một phép lạ tỏ tường, thì chúng ta chỉ cần vỗ tay ca ngợi, và bày tỏ vẻ ngỡ ngàng cùng cảm tạ Chúa vì quyền năng của Người đã được biểu lộ ra trong Đấng Mêsia của Người, thiết tưởng cũng đủ rồi. Nhưng còn hơn một phép lạ nữa.”Mẻ lưới lạ lùng” chính là một ẩn dụ mà mỗi chi tiết của câu chuyện đều quy chiếu về một thực tại thiêng liêng”, và mỗi nét biểu hiện đều đòi hỏi phải được cắt nghĩa bằng biểu tượng”. Không chỉ là một cú ngoạn mục diễn ra trên Biển hồ Ghennêxarét cách đây gần hai ngàn năm mà thôi, mà chính là một vấn đề lúc nào cũng mang tính thời sự.

Ở thế kỷ XX hôm nay cũng như ở thế kỷ đầu, Đức Kitô vẫn luôn bồn chồn đi lại dọc theo các bờ sông, bờ biển và các nẻo đường của chúng ta. Người hòa mình với dân chúng, đi vào các nhà, năng lui tới các nơi làm việc hay các khu vui chơi giải trí. Gặp lúc thuận tiện hay không thuận tiện, Đấng Mêsia vẫn không mệt mỏi loan báo, đề nghị Tin Mừng kêu gọi sám hối, Tin Mừng chữa lành, Tin Mừng giải thoát. Như thời ngôn sứ Isaia, Người là Thiên Chúa làm cho những người mắc bệnh cùi dơ bẩn được lành sạch. Người tha thứ tội lỗi và muốn cho những người hối cải đáp ứng lời người kêu gọi và tự nguyện hiến thân phục vụ Người.

Hôm nay vị Tôn sư ấy vẫn còn gặp gỡ “những ngư phủ” do ơn gọi, có năng lực, giầu kinh nghiệm và đảm đang; họ đã neo thuyền không người của họ ở bến an toàn. Họ đã được huấn luyện rất sâu và kỹ, đã theo những lớp đào tạo lại, đã phác thảo một cách ý thức và thông minh những chương trình và kế hoạch, đã chọn nơi và những hoàn cảnh thuận lợi. Họ đã trở về tay không và chán nản; lưới chẳng dính lấy được một con tép; trái tim họ bị đâm xiên và lòng trí thật ê chề.

Nhưng con thuyền của Phêrô không thể cứ trú ẩn mãi ở cảng, cũng chẳng được bỏ neo an toàn ở một vùng vịnh thanh bình không còn sợ gì nguy hiểm. Cùng với Chúa và theo lệnh Người, Giáo hội phải ra khơi, bất chấp những hiểm nguy của miền nước sâu gợi lên bao loài thủy quái cùng những hang sâu vực thẳm là vương quốc của những hung thần, của Satan và sự chết.

Không thể nào đánh cá được, những chuyên viên từng tuyên bố và lặp đi lặp lại như vậy. Còn các vị “quân tử gàn” mà lòng tin đã què quặt, nỗi sợ đã làm họ tê liệt và phần họ lại chỉ muốn được an thân thì tuyên bố: thật là sự điên rồ giết người, là sự thiếu khôn ngoan và lệch lạc, là muôn vàn khó khăn nguy hiểm không sao tính được.

Nhưng ta phải tin tưởng vào Thầy chứ.

Phêrô, các bạn đường của ông và các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cuối cùng đều đã hiểu rõ lời kêu gọi của Đấng Phục-sinh là phải rời bỏ cái nôi của buổi ấu thơ đã được những truyền thống và luật lệ lỗi thời và trì trệ bao kín. Với sự can đảm, nếu không muốn nói là anh hùng, họ đã cất đi những hàng rào bao quanh khu vực khép kín của họ để liều lĩnh đi vào miền đất dân ngoại, đối đầu với thế gian, bất chấp những cám dỗ bị lây nhiễm, bị hiểu lầm, phải thất bại hay phải chết vì đạo.

Hôm nay đức tin vẫn đủ để đương đầu với những khu vực nguy hiểm, dám đối thoại, mở toang những cánh cửa vẫn đóng kín, từ bỏ lối độc quyền cao ngạo về chân lý, về độc quyền rao giảng Tin Mừng và sự thánh thiện. Hãy tách những con thuyền của các bạn ra! Hãy ra xa bờ! Hãy tiến ra khơi và thả lưới ngay nơi mà bạn đã vất vả và thất bại ê chề!

Tuy nhiên, ẩn dụ về mẻ lưới không phải là một công cuộc đi chinh phục để chiếm đất đai, hay quyền lợi hoặc bổng lộc. Không phải là vấn đề lôi kéo những con cá ra khỏi thiên đường của chúng, để cắt xẻ thịt nó, mà ăn cho thỏa, hoặc đem đi buôn bán. Những kẻ đánh bắt người như bắt cá phải là những con người cứu nhân độ thế, những người giải phóng nô lệ và tù nhân khỏi bóng tối, giải phóng những ai bị trói buộc vì những dục vọng mù quáng, hay bị bầm dập vì những bất công, những ai ngụp lặn trong dòng tư lợi nhỏ nhen bẩn thỉu, những ai bị chới với vì những thử thách gian truân. Chính trong những vực sâu tăm tối này, chính trong những ngục tù không chắn song kia mà lưới của nhà giải phóng ấy làm nên những việc thần kỳ. Nghĩa là một bầu khí tự do, một vùng trời đầy ánh sáng, một niềm hân hoan trở về miền đất hứa, nhưng luôn luôn là có các bạn chài của chiếc thuyền kia đến giúp”.

 

47. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

GỌI BỐN MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN

  1. Luca biên soạn đoản văn này từ những chất liệu văn chương khác nhau (xem ghi chú của BJ), nhưng cách tác giả dùng để tổng hợp chúng lại thành một trình thuật mới, đặc biệt nhấn mạnh đến ý nghĩa truyền giáo của trình thuật (hay giáo hội học) hơn là phương tiện thần thiêng của nó: trước tiên, phép lạ trở thành một biểu tượng về sự phong phú của Lời Chúa (c.1) do Chúa Giêsu và sau đó là Simon Phêrô (c.5). Luca làm cho độc giả chú ý tới chính công việc tông đồ hơn là điều kiện để làm tông đồ; ông muốn người ta phải tìm xem trước biến cố phục sinh (x. Cvsđ 1,21-22) đã có sứ mệnh và những ràng buộc của công việc truyền giáo. Lời hứa với Phêrô ở đây, ngay từ đầu sứ mệnh công khai của Chúa Giêsu (“từ đây con sẽ là kẻ chài lưới người” c.10) tương ứng với lời uy quyền tại bàn tiệc ly. Khi hoàn tất sứ mệnh của Chúa Giêsu, quyền đó đã được ủy thác cho Phêrô thi hành sau phục sinh (“khi con người trở lại, hãy củng cố anh em con” Lc 22,31-32). Chính mối ưu tư đó đã hướng dẫn Luca trong trình thuật tuyển chọn (6,12-16) và ban sứ mệnh cho nhóm 12 (9,1-6) mà không cần phải ban lại cho họ sau biến cố phục sinh. Tuy nhiên, để họ có thể thi hành tốt bổn phận, Thánh Thần còn phải “mặc cho họ sức mạnh từ trời cao” trước khi họ có thể “làm chứng nhân cho Chúa Giêsu đến tận cùng trái đất” (Lc 24,49; Cvsđ 1,8).
  2. Địa vị trọng yếu của Phêrô trong trình thuật cho thấy chủ tâm của Luca, và tác giả còn làm nổi bật (Phêrô) ở nhiều đoạn khác trong phúc âm (x. Lc 45 nghịch với Mc 14,13; Lc 22,31-34; 24,34) địa vị này tương ứng với chức vụ của vị lãnh đạo công việc truyền giáo cho người Do thái, rồi sau đó cho dân ngoại mà tác giả phúc âm đã gán cho Phêrô trong phần đầu của công vụ sứ đồ (chương 1-12).

Vậy, cùng với Chúa Giêsu, Simon là nhân vật chính của trình thuật này: ông được gọi trước là Simon – Phêrô một lần (c.8) vì chỉ về sau (6,14) Simon mới được Chúa đổi tên là Phêrô. Nơi Mt 4,18-22 và Mc 1,16-20 chúng ta thấy cả hai anh em Simon và Anrê cùng thả lưới với nhau. Đây không phải chỉ có mình Phêrô (chính vì cách dùng số nhiều các câu 4,5,6,7) còn những người khác, tác giả chỉ nhắc đến một cách lờ mờ, có thể họ chỉ là những người làm thuê. Hình như Luca tránh gọi tên Anrê, và lời loan báo ơn gọi làm chài lưới người ta, chỉ nhắc đến Simon, không đả động gì đến Anrê, trong lúc Matthêu và Maccô nói đến cả hai anh em Simon và Anrê.

Chiếc thuyền là thuyền của Simon (c.3); chính với Simon mà Chúa Giêsu nói: “Hãy ra khơi” (c.4); và cũng chính Simon đáp lại Ngài (c. 5). Chính Simon còn kêu lên: “Xin thày tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (c.8). Tất cả điều gì làm cho Chúa Giêsu: đón Chúa xuống thuyền thì cũng do Simon làm; tất cả những điều gì Chúa Giêsu làm cũng để làm cho Simon; và tất cả những lời khác là lời của Simon.

Simon cũng làm lu mờ 2 con ông Giêbêđê: thuyền của họ cũng được đề cập ở câu 2, nhưng không có nói đến họ. Thuyền của họ còn được nói ở câu 7, còn họ thì được gọi trống là bạn chài của Simon. Tên của họ chỉ được nói đến ở cuối trình thuật, nơi câu 10, như là một sự vớt vát, trong đó giải thích là họ ngạc nhiên như Simon bạn của họ. Luca trì hoãn nhắc đến họ cốt để Simon độc diễn hầu như trong suốt cả trình thuật. Tuy nhiên tác giả cũng nói đến Giacôbê và Gioan ngoại trừ Anrê, chắc hẳn là ba người là nhóm được biệt đãi, là nhóm được mục kích con gái ông Gia-ia sống lại (8,51), biến cố biến hình (9,28). Anrê không được gọi tên có lẽ vì ông là bạn chài của Simon là người mà Luca muốn lưu tâm. Vì Luca liệt hai con Giêbêđê vào màn cuối của trình thuật, người ta dễ dàng hiểu rằng tác giả ít bận tâm đến trường hợp và thời gian Chúa gọi họ. Tác giả chỉ thu tóm những gì liên hệ đến lời kêu gọi của Chúa Giêsu và việc mau mắn đáp trả trong một câu kết luận vắn gọn ở cuối trình thuật (c.11).

  1. Khi các nhà chú giải đã phân vân trong việc nghiên cứu ý hướng của Luca khi đặt câu chuyện này ở đây. Một số cho rằng mục đích bài tường thuật phép lạ là để giải thích hay “nêu lý do” việc các ngư dân đáp trả lời kêu gọi của Chúa Giêsu: một khi đã chứng kiến sức mạnh phi thường của Chúa Giêsu, họ sẵn sàng tin tưởng vào Ngài. Có lẽ Luca đã làm cho sự mau mắn, mà nhờ đó nhóm dân chài Galilêa trở thành môn đệ. Chúa Giêsu từ lúc khởi đầu sứ mệnh của Ngài, được dễ chấp nhận và dễ hiểu hơn. Chắc hẳn, Luca đã biên soạn theo ý hướng này. Và dù tác giả có những ý hướng khác, thì cũng không nhất thiết phải loại trừ ý hướng này.

Nhưng nhiều nhà chú giải nhìn thấy trong trình thuật này một biểu tượng về giáo hội học: lệnh thả lưới và mẻ cá gợi đến khắp thế giới và thành quả họ sẽ thâu lượm được đối với nhân loại. Có nhiều lý chứng mạnh mẽ xác quyết giả thuyết này. Trước hết sự kiện Luca đã liên kết mẻ lưới lạ lùng này với trình thuật về ơn gọi của các môn đệ. Tiếp đến Luca ưu tư đến vấn đề truyền giáo cũng như lưu tâm đến thuyết phổ quát về ơn cứu chuộc, thường được diễn tả trong phúc âm thứ ba và Cvsđ. Cũng có sự kiện là về sau Gioan đã dùng (ch.21) trình thuật về mẻ lưới lạ lùng này để dẫn đưa vào trình thuật thiết lập chức mục tử tối cao của Phêrô nghĩa là trong bối cảnh có tính cách phi thường về giáo hội – điều này giả thiết rằng trên bình diện truyền khẩu, thì các tác giả khác ngoài Luca đã liên kết cách tự nhiên mẻ lưới kỳ lạ và biểu tượng về giáo hội. Cũng có thể là dụ ngôn về chiếc lưới (Mt 13,47-50) nếu thực sự dụ ngôn này có ý nghĩa về giáo hội, dẽ dàng liên kết chài lưới – giáo hội. Nhưng lý chứng quan trọng nhất là chính Chúa Giêsu liên kết tương quan giữa việc đánh cá và việc chinh phục người ta: trong những bản văn song song của Matthêu và Maccô, sự liên kết này ám chỉ rõ ràng về bản tính giáo hội. Vậy có thể khẳng định rằng tất cả khung cảnh này có thể rất nhiều điểm biểu tượng và là tiền ảnh của sứ vụ tương lai của các tông đồ cũng như sự thành công của sứ mệnh đó.

KẾT LUẬN

Lời Chúa Giêsu kêu mời thật đầy uy quyền, Ngài gọi người Ngài muốn và làm điều Ngài thích. Thiên Chúa cũng đã làm như vậy đối với các tiên tri. Nếu không thì Giacobê và Gioan đưa thuyền lên bờ và từ chối không làm ngư phủ: họ bỏ tất cả. Một sức sống mới tràn đầy trong đời sống của họ. Họ theo Chúa Giêsu với tư cách là môn đệ. Bây giờ họ bước theo Chúa Giêsu như các học trò đi theo thày rabbi để đồng hóa các lời dạy bảo, cách sống của họ. Từ đây điều làm cho các môn đệ tràn đầy sức sống, chính là Chúa Giêsu, Nước Thiên Chúa và việc truyền giáo. Simon đã có một kinh nghiệm về thần tính của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, ông được nhìn nhận là kẻ chài lưới và được trao nhiệm vụ cứu độ. Thời cứu độ đã bắt đầu: nhận biết ơn cứu độ qua việc thú nhận tội lỗi (1,77). Nước Thiên Chúa được tỏ hiện trong việc tiếp nhận các tội nhân.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Chính từ Thiên Chúa mà Giáo hoàng, các giám mục (hàng giáo phẩm) cũng như các linh mục lãnh nhận ơn gọi, trách nhiệm và quyền hành của mình. Các Ngài có nhiệm vụ tiếp tục công việc của Chúa Kitô để rao truyền Lời Chúa và tuyển chọn các môn đệ, giáo sĩ, cũng như giáo dân. Nhờ ân sủng của Chúa, các Ngài là những kẻ chài lưới người.
  2. Ơn gọi của những người được thánh hiến phải bắt chước gương của Simon và các bạn đồng nghiệp, từ bỏ tất cả để theo Chúa Giêsu. Thiên Chúa quan phòng sắp đặt mọi ơn gọi trong giáo hội. Điểm then chốt là đáp trả ơn gọi đó một cách quảng đại. Để được vậy, giáo dục đức tính quảng đại trong một gia đình Kitô giáo là một phương thế chuẩn bị tốt nhất. Phêrô đã chuẩn bị tiếng gọi của Chúa bằng sự quảng đại và sẵn sàng giúp đỡ của mình; ông đã cho Chúa Giêsu mượn thuyền để rao giảng; đã ý thức sự bất công của mình trước mặt Chúa.
  3. Trình thuật này của Phúc âm nhắc nhở chúng ta rằng việc tông đồ trong giáo hội phải được thực hành trong những điều kiện nào. Lúc Chúa chưa có mặt trong thuyền thì Simon thả lưới cũng không bắt được gì hết. Nhưng khi có Chúa Giêsu, ông bắt được một mẻ lưới kỳ lạ. Đó là mộ ví dụ minh chứng chân lý này là không có Chúa không thể làm gì được (Gio 15,5) với ân sủng Ngài thì không gì là không có thể (“tôi có thể chịu đựng mọi sự trong đấng ban sức mạnh cho tôi” Phil 4,13).
  4. Simon nói: “thưa thầy, chúng tôi đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết”. Cũng một cám dỗ ấy thường làm ta nản chí. Đó là đêm tối những tình trạng đầy mặc cảm, người ta chỉ thấy mình làm quá sức; một công việc đã gắng hết sức mà hình như không có được một kết quả nào, và người ta đâm ra buồn bực vì những cố gắng bền tâm của mình xem ra vô hiệu. Lúc đó muốn bỏ tất cả: có lẽ có những lúc nào đó người ta mơ đến một mẻ lưới kỳ lạ. Lúc đó hãy biết nghe lời Chúa mời gọi ta ra khơi: Hãy tiếp tục! Bắt đầu lại! Và nếu cuối cùng được thành công thì hãy biết khiêm nhượng nhận rằng những cố gắng của ta đã nỗ lực không đáng được thành công ấy, nó vượt quá những cố gắng của ta. Hãy thú nhận như Simon – Phêrô rằng chúng ta là những người tội lỗi và những thành công thu đạt được là do Chúa quảng đại ban phát cho ta.
  5. Thuyền của Phêrô chính là giáo hội. Chúa Giêsu vẫn luôn tiếp tục dậy dỗ ta từ trong chiếc thuyền này. Nhất là trong lúc cử hành Thánh lễ, đặc biệt trong phần phụng vụ lời Chúa, cũng chính Chúa Giêsu bây giờ vẫn còn tiếp tục dậy chúng ta.
  6. Dù Phêrô là người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng chọn làm môn đệ của Ngài. Chúng ta khiêm nhường thú nhận tội lỗi thì Chúa không lìa xa ta. Chỉ có óc bè phái, tưởng rằng mình thánh thiện và không thể chê trách trước mặt Thiên Chúa là dựng nên một hàng rào ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người.

 

48. Chú giải của William Barclay

NHỮNG ĐIỀU KIỆN CỦA MỘT PHÉP LẠ

Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi bằng ba tên: hồ Galilê, hồ Tibêriát và hồ Giênêdarét (Ghennêxaret), hồ này dài 20,8 km, rộng 12,8 km. Hồ ở vào một chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225m dưới mặt biển. Vì thế nó có khí hậu giống như khí hậu nhiệt đới. Ngày nay cư dân không đông lắm, nhưng vào thời Chúa Giêsu, có chín thị trấn ở chung quanh bờ hồ, không thị trấn nào dưới 15.000 dân. Giênêdarét thực ra là tên của một cánh đồng xinh đẹp nằm phía Tây bờ hồ, đó là vùng đất phì nhiêu. Người Do Thái thích chơi “lắp chữ”, họ có ba cách lắp chữ cho Giênêdarét, cả ba cách đều có nghĩa là xinh đẹp.

  1. Bởi chữ kinnor, nghĩa là cây đàn, bởi vì “trái của nó ngọt như tiếng đàn”, hoặc bởi vì tiếng sóng vỗ vui như tiếng đàn.
  2. Bởi chữ gan, nghĩa là vườn cây, và chữ sar nghĩa là vua, tức là “vua của các vườn”.
  3. Bởi chữ gan, một khu vườn và chữ asher, của cải, tức “vườn đầy của cải”.

Tại đây chúng ta đối diện một khúc quanh trong sứ vụ Chúa Giêsu. Lần trước Chúa giảng trong hội đường, bây giờ Ngài ở tại bờ hồ, sẽ ở ngoài đường cái, và toà giảng của Ngài sẽ là chiếc thuyền. Ngài sẽ đi tới bất cứ nơi nào người ta muốn nghe Ngài giảng. John Wesley đã nói: “Các ‘linh đoàn’ của chúng ta hình thành bởi những kẻ phiêu bạt trên các vùng núi non tăm tối, không thuộc về một Giáo Hội, nhưng họ đã được thức tỉnh bởi lời giảng của những người đã theo đuổi họ qua các khu rừng hoang vắng cho tới các làng mạc hẻo lánh hoặc các phố chợ sầm uất, các đồi cao trũng thấp, những người đã dựng cờ thập giá trên các đường phố, cùng ngõ hẻm của các đô thị, trong các thôn xóm, trong các nhà kho, trong các nhà bếp trại quê, v.v… và các việc đó được thực hiện như chưa từng có ai làm kể từ thời các tông đồ”. Wesley còn nói: “một căn phòng tiện nghi, một cái gối quỳ êm ái, và một toà giảng xinh xắn tiện nghi thật, nhưng giảng ngoài đồng cứu được nhiều linh hồn hơn”. Khi hội đường đóng cửa thì Chúa Giêsu giảng ngoài đường, bên bờ hồ…

Trong chuyện này có một điều có thể gọi là bảng liệt kê các điều kiện của một phép lạ.

  1. Có mắt biết nhìn xem. Chúng ta không cần suy nghĩ rằng Chúa Giêsu đã dựng nên bầy cá lớn đó trong trường hợp này. Biển Galilê có nhiều bầy cá đông đảo đến nỗi có thể che đặc mặt biển trong một khu vực rộng lớn. Có lẽ con mắt thấu suốt của Chúa Giêsu đã nhìn thấy bầy cá lớn đó mà những người ngư phủ không thấy. Chúng ta cần cặp mắt biết nhìn. Nhiều người đã thấy nước sôi làm bật cái nắp vung nhưng chỉ một mình James Watt đã nhìn và sáng chế ra máy hơi nuớc. Nhiều người đã nhìn thấy trái táo rơi, nhưng chỉ một mình Isaac Newton đã tìm ra định luật hấp lực của trái đất. Thế giới đầy dẫy những phép lạ cho những đôi mắt biết nhìn xem.
  2. Có tinh thần biết cố gắng. Khi Chúa Giêsu nói vậy, dù rất mệt nhọc, Phêrô cũng sẵn lòng thả lưới một lần nữa. Nhiều người đành chịu thảm bại trong cuộc đời vì họ đã ngã lòng quá sớm.
  3. Có tinh thần dám cố gắng trong trường hợp hầu như tuyệt vọng. Đêm đã qua rồi, đêm mới thuận tiện cho việc đánh bắt. Tất cả hoàn cảnh đều không thuận lợi, nhưng Phêrô nói: “Tuy hoàn cảnh như vậy nhưng nếu Thầy bảo thì chúng con xin vâng”. Chúng ta thường chờ đợi vì thời cơ chưa thuận lợi, nếu cứ đợi cho tới lúc mọi sự đều thuận lợi thì chắc sẽ không bao giờ chúng ta bắt đầu được. Nếu chúng ta theo đúng lời Chúa Giêsu truyền dạy khi Ngài bảo chúng ta làm một việc không thể thực hiện thì phép lạ sẽ xảy ra.

 

49. Hãy ra khơi thả lưới bắt cá

(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH: Mau mắn đáp lại ơn Chúa kêu gọi làm tông đồ

Bài Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu đã ngồi trên thuyền của Simon mà rao gảng Tin mừng cho dân chúng, và sau đó đã cho Simon đánh bắt được một mẻ cá lạ lùng. Trước phép lạ này, Simon đã tuyên xưng đức tin: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và đã “Từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”.

CHÚ THÍCH:

C 1-2: + Bờ hồ Ghennêxarét: Đây là chiếc hồ lớn hình quả trám nằm tại miền Galilê, được thánh sử Luca gọi là hồ Ghennêxarét (x Lc 5,1), Mát-thêu gọi là biển hồ Galilê (x. Mt 4,13) Máccô gọi trống là Biển Hồ (x. Mc 4,1), còn Gioan gọi là Biển hồ Tibêria (x Ga 21,1).

C 3-4: + Người bảo ông Simon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”: Ra chỗ nước sâu hay “ra khơi”, là chỗ “nước trên vực thẳm”. Đức Giêsu ra lệnh cho thuyền Hội thánh tiến vào nơi vực thẳm của thế gian với nhiều nguy hiểm đang chờ đón (x. Lc 10,3).

C 5-7: + Chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả: Câu nói của Phêrô cho thấy sự yếu đuối bất lực của các ông. Nhưng chính sự bất lực này lại làm nổi bật quyền năng mạnh mẽ vô song của Thiên Chúa (x Ga 15,5).

C 8-9: + Simon Phêrô: Ở đây Luca dùng biệt danh Phêrô (nghĩa là Đá) mà sau đó Đức Giêsu sẽ chính thức đặt cho ông khi chọn ông vào danh sách 12 Tông đồ (x. Lc 6,14; Mt 16,18). + Sấp mình dưới chân Đức Giêsu: Trước sự hiện diện của Thiên Chúa, Simon cảm thấy mình tội lỗi bất xứng và đã run sợ sấp mặt xuống đất vì không dám diện kiến thánh nhan của Chúa như Môsê (x. Xh 2,6) hay như Isaia xưa (x. Is 6,4). + “Lạy Chúa”: “Kurios” trong tiếng Hy-lạp có nghĩa là “Chúa”, một danh hiệu dành riêng để gọi Đức Giêsu sau khi phục sinh (x. Lc 24,34-35; Pl 2,6-11).

C 10-11: + “Đừng sợ”: Đây chính là một lời an ủi thường được các thiên sứ nói với những kẻ đang sững sờ khi gặp điều linh thánh (x. Lc 1,13.30; 2,10); là lời Đức Giêsu nói với các Tông đồ đang sợ hãi giữa biển khơi (x. Mt 14,27), và khi Người hiện ra vào buổi chiều ngày phục sinh (x. Mt 28,10). + Bỏ hết mọi sự mà theo Người: Các Tông đồ đã đáp trả ơn Chúa kêu gọi bằng việc quảng đại từ bỏ mọi sự mà đi theo Người và sẵn sàng cộng tác với Người chu toàn sứ vụ truyền giáo (x. Lc 5,11).

CÂU HỎI:

1) Hồ Galilê còn được các sách Tin mừng gọi bằng những tên gì khác nữa? 2) Ra khơi có liên quan thế nào đến công việc truyền giáo được Chúa trao cho Hội thánh? 3) “Đức Giêsu” được gọi là “Chúa” từ khi nào? 4) Câu “Đừng sợ” có nghĩa là gì?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5,5).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) Ơn gọi của ngôn sứ Isaia:

Khi chứng kiến vinh quang của Đức Chúa nơi Đền thờ, Ngôn sứ Isaia đã thốt lên: “Khốn cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn!” (Is 6,5). Nhưng sau khi được một thiên thần lấy than hồng từ bàn thờ đến thanh tẩy môi miệng, ông đã tình nguyện xin lãnh nhận nhiệm vụ: “Lạy Chúa, này con đây, xin hãy sai con” (Is 6,8).

2) Ơn gọi ra khơi của tông đồ Simon Phêrô:

Bài Tin mừng hôm nay cho biết ông Simon đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì. Ông đã khiêm tốn nói lên sự bất lực của mình với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào Lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc 5,5). Quả thật nhờ vâng Lời Chúa mà Simon đã đánh bắt được một mẻ cá lạ lùng. Trước kết quả lớn lao này, ông đã tin Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, ông sấp mình dưới chân Người và thưa rằng: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con ra, vì con là kẻ tội lỗi!”. Kẻ tự nhận mình là tội lỗi bất xứng ấy sau này đã trở thành “đá tảng” của đức tin, mà trên đức tin đó, Hội thánh đã được xây dựng và sẽ tồn tại bền vững đến muôn đời (x. Mt 16,16-18). Từ đây, Phêrô trở thành thủ lãnh của Nhóm 12, được Chúa Giêsu trao chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc tháo cởi (x. Mt 16,19) và được trao nhiệm vụ chăn dắt đoàn chiên của Người là Hội thánh (x. Ga 21,15-17).

3) Ơn gọi của Cha Gioan Viannây:

Khi bị giáo sư thần học quở trách là dốt như con lừa! Thầy Viannây đã khiêm tốn thừa nhận sự dốt nát của mình, và chỉ biết trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa. Cuối cùng Vi-an-nây bất tài vô lực kia đã trở thành một vị thánh lớn trong Hội thánh, được đặt làm bổn mạng của các linh mục chăm sóc các linh hồn và nên gương mẫu cho các mục tử noi theo. Chính nhờ ơn Chúa giúp, mà cha Viannây đã làm được việc hoán cải các tâm hồn, đưa được nhiều tội nhân trở về với Chúa.

4) Những cuộc ra khơi của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II:

Noi gương Chúa Giêsu, đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II đã liên tục ra khơi, chèo ra chỗ nước vừa sâu lại vừa nguy hiểm. Qua 26 năm của triều đại giáo hoàng, ngài đã thực hiện 146 chuyến công du bên trong nước Ý (không tính Rôma), 104 chuyến công du ra ngoài nước Ý để thăm viếng hơn 130 quốc gia trên thế giới. Tưởng cũng cần thêm rằng trong số đó, ngài đã tám lần đến thăm viếng các nước Hồi Giáo, đặc biệt là vị giáo hoàng đầu tiên bước vào một ngôi Đền thờ Hồi giáo cổ kính tại Syria vào năm 2001.

Tính ra, Thánh Gioan Phaolô II đã đi công du 1,400,607 km, tương đương 28 lần vòng quanh trái đất. Ngoài ra mỗi ngày Ngài còn làm việc đến 18 tiếng đồng hồ.

Ngài đã ‘chèo’ đến những vùng biển nhiều sóng gió: đến thăm cả những miền đất thù nghịch với Hội Thánh, vào những ‘miền đất thánh’ của Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo hay Chính Thống giáo… vào cả những nơi mà một số đông dân chúng sở tại không muốn cho ngài đến, lại đòi ngài phải xin lỗi họ (như trong chuyến tông du tại Hy Lạp vào tháng 5 năm 2001), đến cả những nơi mà tính mạng bị đe doạ… Ngài là vị giáo hoàng can đảm nhất trong lịch sử, sẵn sàng ra khơi, dấn thân vào những ‘chỗ nước sâu’, những vũng xoáy, những nơi sóng gió nguy hiểm cho tính mạng… mà không hề biết sợ là gì, miễn sao Tin Mừng được loan báo.

3. THẢO LUẬN:

1) Phêrô trong Tin mừng hôm nay đã thưa với Chúa Giêsu: “Dựa vào Lời Thầy con sẽ thả lưới” và sau đó ông đã bắt được mẻ cá lạ lùng. Vậy để làm được những việc tông đồ vượt quá sức tự nhiên, chúng ta phải cậy dựa vào ai?

2) Trong những ngày này tôi sẽ làm gì để ra khơi, hầu đưa được nhiều đồng bào lương dân Việt Nam về làm con cái Thiên Chúa?

4. SUY NIỆM:

Sau khi đã trải qua thử thách bị đồng hương bất tín hãm hại, Đức Giêsu vẫn tiếp tục chu toàn sứ vụ rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Tin Mừng hôm nay đan kết việc rao giảng của Đức Giêsu trên thuyền với phép lạ mẻ cá lạ lùng giúp đỡ ông Simon, nhằm kêu gọi ông và các bạn bè thuyền chài của ông quyết tâm từ bỏ mọi sự mà đi theo làm môn đệ của Người, tích cực góp phần vào sứ vụ loan báo Tin Mừng đi khắp thế gian.

1) Gương đáp tại ơn Chúa kêu gọi của tông đồ Phêrô:

– Đức Giêsu xuống thuyền của Simon giảng đạo và kêu gọi ông: Sau một đêm vất vả chài lưới luống công vô ích, Simôn và các bạn đã neo thuyền gần bờ để giặt lưới. Đức Giêsu đã chọn xuống thuyền của ông Simon và yêu cầu ông chèo thuyền ra xa bờ một chút, rồi Ngừơi sử dụng thuyền như một giảng đài lộ thiên để công bố Tin Mừng cho đám đông dân chúng đang đứng đầy trên bờ hồ.

– “Hãy ra khơi thả lưới bắt cá”: Giảng xong, Đức Giêsu bảo ông Simon “Hãy chèo thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Trước lời mời gọi ấy, tuy cảm nhận được sự bất lực của mình do đã vất vả làm việc suốt đêm cách vô ích, nhưng sau khi nghe Đức Giêsu giảng đạo trên thuyền, ông Simon đã tin vào sứ vụ Thiên Sai của Chúa. Lòng tin yêu Chúa đã khiến ông mạnh dạn thưa với Người: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Kết quả thật bất ngờ: Simon đã bắt được một mẻ cá lớn. Sự thành công này cho thấy không phải do tài sức của ông mà hòan tòan do quyền năng của lời Đức Giêsu đem lại, khiến ông xác tín Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai và tình nguyện xin đầu phục Chúa.

– “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”: Phêrô đã ý thức thân phận tội nhân yếu đuối của mình và sự cao cả khôn lường của Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai, nên ông đã khiêm tốn thưa với Người rằng: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Đây cũng là thái độ của các ngôn sứ như Môsê đã sấp mình xuống khi đối diện với Đức Chúa hiện ra với ông trong ngọn lửa bụi gai cháy mãi; như Isaia khi được Chúa gọi đã cảm thấy mình dơ bẩn bất xứng… Còn chúng ta hôm nay phải có thái độ thế nào khi lên rước lễ mỗi ngày?

– “Từ nay, anh sẽ là người cứu sống người ta”: Qua câu này, Đức Giêsu đã chọn Simon vào hàng ngũ tông đồ của Người. Thực ra Si-môn được Đức Giêsu chọn làm tông đồ không phải vì sự tài giỏi: Về văn hóa chắc Simon học không cao. Về tài năng thì ngoài nghề lưới cá cũng không có gì giỏi giang. Về tính khí thì hay nóng nảy phát ngôn bộc trực… Nhưng ông vẫn được Đức Giêsu chọn đứng đầu Hội Thánh là nhờ đức tin (x Mt 16,15-19) và lòng mến của ông dành cho Thầy (x Ga 21,15-17). Từ giây phút này tên của Simon được Đức Giêsu gắn liền với tên mới Phêrô nghĩa là Đá Tảng đức tin (x Mt 16,18). Chính ơn Chúa đã biến đổi Simon từ một người bắt cá ngoài biển trở thành kẻ chuyên đi đánh bắt các linh hồn.

2) Chúng ta phải làm gì?

– Quảng đại góp phần và khiêm tốn cậy nhờ ơn Chúa giúp: Trong Tin Mừng hôm nay, chính nhờ vâng nghe và làm theo lời Chúa mà ông Simon đã ra khơi thả lưới và đã bắt được một mẻ cá lạ lùng. Trong việc tông đồ, các tín hữu chúng ta cũng chỉ đạt kết quả nếu biết năng học sống Lời Chúa và cậy trông vào Thần Khí của Chúa trợ giúp như Người đã cho biết: “Vì không có Thầy anh em không làm được gì” (Ga 15,5).

– Bỏ hết mọi sự mà đi theo Chúa: Đức Giêsu không từ chối thiện chí của chúng ta. Bất kể chúng ta là ai, có khả năng gì, yếu đuối tội lỗi như thế nào… Người luôn mời gọi chúng ta đồng hành để loan báo Tin Mừng cho những anh em lương dân chưa biết Thiên Chúa. Chúng ta hãy mau mắn đáp lại ơn Chúa kêu gọi bằng việc năng tham dự các buổi học sống Lời Chúa dưới ơn soi dẫn của Thánh Thần, quyết tâm chừa bỏ các thói hư, xin ơn Chúa biến đổi chúng ta nên hòan thiện hơn, chu tòan được sứ vụ loan báo Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa, hầu giúp mọi người được hưởng ơn cứu độ.

5. NGUYỆN CẦU:

– Lạy Chúa Giêsu. Trước đây con cứ thắc mắc không biết tại sao Chúa lại chọn ông Simon, một người thuyền chài ít học và đã có vợ con, đi theo làm môn đệ của Chúa, trở thành người đứng đầu Nhóm 12 Tông Đồ. Xem ra Chúa đã xây dựng Hội thánh trên tảng đá Phêrô không mấy vững chắc, vì ông đã từng hèn nhát chối Chúa ba lần và có nhiều khuyết điểm khiến Chúa đã phải uốn nắn, có những lời nói theo ý riêng khiến Chúa phải nặng lời quở trách là Satan! Nhưng qua bài Tin mừng hôm nay, con nhận ra rằng: Chúa thường sử dụng những gì thế gian coi thường, những con người yếu đuối, dốt nát… như các người thuyền chài, người thu thuế, gái điếm… cộng tác với Chúa trong sứ vụ loan báo Tin Mừng. Chúa cũng chọn một Vi-an-nây bị đánh giá dốt như con lừa làm linh mục… để qua những con người yếu đuối này, Chúa biểu lộ quyền năng cao cả của Chúa.

– Lạy Chúa. Xin dạy con biết sống quảng đại: Biết phụng sự Chúa cho xứng đáng. Biết cho đi mà không cần tính toán. Biết chiến đấu mà không sợ thương tích. Biết làm việc mà không tìm an nghỉ. Biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đã thi hành thánh ý Chúa- AMEN” (Thánh Inhaxiô Loyôla).

X) Hiệp cùng Mẹ Maria. Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

=> Tài liệu dạng Word, xin nhấn vào đây để tải về máy