Các bài suy niệm LỄ THÁNH GIA – Năm C
Lời Chúa: 1Sm 1, 20-22. 24-28;(1Ga 3, 1-2. 21-24); Lc 2, 41-52
MỤC LỤC
- Cả nhà thương nhau.
- Trở về Nagiarét
- Một nền giáo dục tuyệt vời – ViKiNi
- Gia đình.
- Gia đình nhân loại.
- Để gia đình nên thánh – Lm. Anthony Trung Thành.
- Con có bổn phận.
- Gia đình hạnh phúc – Cố Lm. Hồng Phúc.
- Con đường hạnh phúc.
- Gia đình- mái ấm..
- Gia đình gương mẫu – Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
- Mẫu gương sáng ngời
- Lối đi riêng – Lm. Nguyễn Hữu Thy.
- Gia đình thánh – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm..
- Sống đức tin theo gương gia đình Thánh Gia.
- Suy niệm của Lm. Minh Trân, CRM.
- Sinh ra nơi gia đình để cứu các gia đình.
- Gia đình là kiệt tác của Thiên Chúa.
- Kết hợp (Lễ Thánh Gia)
- Lễ Thánh Gia – Lm. Minh Anh.
- Tìm thấy – Flor McCarthy.
- Thiên Thần này là ai?.
- Theo gương Thánh Gia.
- Bài học của gia đình – Lm. Vũ Xuân Hạnh.
- Lễ Thánh Gia Thất
- Thánh Gia – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An.
- Thưa vâng với Thiên Chúa mỗi ngày.
- Hạnh phúc – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng.
- Mái Ấm Tình Thương – Thiên Phúc.
- Lễ Thánh Gia Thất.
- Suy niệm Lễ Thánh Gia.
- Trân trọng mái ấm gia đình.
- Công cha – nghĩa mẹ.
- Lễ Thánh Gia Thất 145
- Đang ngồi giữa các thầy dạy.
- Xây dựng trên tình yêu – Gia đình sẽ hạnh phúc.
- Mái ấm gia đình.
- Học được gì nơi Thánh Gia.
- Gia Đình Đại Phúc -Alphonse Marie Trần Bình An.
- Suy niệm của Lm. Guse Nguyễn Văn Nghĩa.
- Bí quyết gia đình hạnh phúc – AM Trần Bình An.
- Gia đình là Hội Thánh thu nhỏ.
- Lễ Thánh Gia Thất.
- Gia đình mẫu mực cho mọi gia đình.
- Những thánh gia Nagiarét thời đại mới.
- Thánh gia, gương sáng của tin yêu.
- Gia đình hạnh phúc.
- Có một lý do.
- Cầu nguyện.
- Gia đình thánh thiện.
- Gia đình.
- Tài sản.
- Thánh Gia.
- Lễ Thánh Gia.
- Suy niệm..
- Noi gương.
- Lễ Thánh Gia Thất
- Thánh Gia lên đền thờ – Lm. Augustinô SJ.
- Mẫu gương gia đình hạnh phúc.
- Mái ấm tình thương.
- Bí quyết hạnh phúc gia đình.
- Kiểu mẫu của mọi gia đình.
- Đức Giêsu tại đền thờ.
- Thánh Gia mẫu gương gia đình hạnh phúc.
***********************
(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Trải dài suốt 20 thế kỷ, Thánh Kinh và Giáo hội không ngừng giới thiệu đồng thời đề nghị chúng ta chiêm ngắm và sống theo mô hình gia đình Nazarét: Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria, và Chúa Giêsu. Có người cho rằng gia đình này toàn là thánh cả nói làm gì, bắt chước sao nổi! Còn gia đình chúng ta hôm nay khác, toàn là những con người mỏng dòn, yếu đuối. Đúng thế, mọi người trong gia đình Nazarét là thánh nhưng sự thánh thiện đó không phải tự nhiên trên trời rớt xuống. Nó không miễn chước các thành viên trong gia đình khỏi đau khổ và thử thách thể xác là tâm linh. Đâu phải đời sống gia đình này lúc nào cũng thuần vợ thuận chồng, êm thắm thuận hòa cha mẹ con cái cả đâu, vì các ngài là con người như chúng ta mà. Cho nên, họ cũng phải đương đầu với mọi khó khăn, đau khổ tư bề và cả những mâu thuẫn trong gia đình nữa.
Trước hết, sự kiện cô Maria mang bầu trước khi cưới anh Giuse. Ngày nay chúng ta bị cám dỗ bởi xã hội hưởng thụ nên các đôi trai gái yêu nhau sống chung với nhau trước khi cưới, chuyện có bầu xem ra quá thường. Nhưng đối với những gia đình đạo đức, những anh thanh niên có học thức, lịch sự, đứng đắn, các anh sẽ nghỉ sao và làm gì khi biết người yêu hiền lành, dễ thương của mình đột nhiên có thai, mà cái thai đó không phải là tác phẩm của mình? Anh Giuse đau khổ đắng cay, mất ăn mất ngủ vì tức tối, tính chuyện kiện thưa cho họ ném đá chết cô gái phụ tình này cho rồi. Nhưng Thánh Kinh nói vì là người công chính, nên anh Giuse suy nghĩ, cầu nguyện và được Thiên Chúa can thiệp. Anh thương xót đón cô Maria về nhà. Còn cô Maria trước khi thành hôn với anh Giuse, thì Thiên thần Chúa truyền tin cô sẽ thụ thai Con Thiên Chúa bởi phép Chúa Thánh Thần. Cô biết, nếu chấp nhận thì mối tình của cô với Giuse sẽ bị cắt đứt, xã hội sẽ lên án cô vì tội ngoại tình. Nhưng cô vẫn thưa xin vâng, vì cô đã lấy ý Thiên Chúa làm lẽ sống, và coi Lòng Thương Xót của Thiên Chúa như giá trị cao nhất trong đời sống ngõ hầu mang lại lợi ích cho mình, gia đình và cả nhân loại. Rồi hôm nay, khi bị lạc con trong Đền thờ 3 ngày, cha tưởng mẹ dẫn về, mẹ tưởng con đi với cha. Hai ông bà mất hồn, hết vía vội chạy tìm con. Khi tìm được con mừng hết lớn, nhưng khi nghe Chúa Giêsu trả lời: Cha mẹ không biết con phải lo chuyện của Cha con sao? Thử hỏi anh chị em có tức không? Mâu thuẫn cha mẹ, con cái lại xảy ra trong gia đình vì thánh Giuse và Đức Mẹ chưa hiểu rằng Chúa Giêsu đặt mối quan hệ giữa Người và Chúa Cha trên mọi mối quan hệ khác.
Hoàn cảnh gia đình Nazarét thật éo le, bi đát, khó khăn đau khổ trăm bề, cộng thêm đời sống đức tin của ông bà cũng tối tăm chứ đâu thấy và biết trước được hết mọi sự rõ ràng như hôm nay. Nếu các ngài biết trước thì còn gì là công phúc nữa. Mọi thành viên trong gia đình này đều là con người cả nhưng lấy Lòng Thương Xót Chúa làm giá trị tuyệt đối và làm động lực để vượt qua mọi khó khăn thử thách. Các ngài có chung một hướng đi trong cuộc sống là thực hiện kế hoặch yêu thương của Thiên Chúa trong gia đình mình và gia đình nhân loại. Chính mục tiêu này làm cho họ có khả năng vượt lên trên mọi khác biệt, những mâu thuẫn trong gia đình đồng thời hóa giải được những khó khăn trong cuộc sống. Cho nên, nhà văn Pháp Antoine de Saint Exupery nói: “yêu nhau không phải nhìn nhau mà nhìn về một hướng”. Hướng này không chỉ dừng lại trên bình diện xã hội trần thế mà xa hơn đến tận chương trình tình yêu thương xót của Thiên Chúa nữa.
Bài học gia đình thánh gia vẫn còn hiệu lực đối với chúng ta. Trong nhiều gia đình hôm nay có nhiều mâu thuẫn vợ chồng và con cái do khác biệt tâm lý, cái nhìn hay cách suy nghĩ, tuổi tác, thời đại, lối sống… Chẳng hạn, chồng thì thích bóng đá, vợ thích phim tình cảm Hàn quốc; cha mẹ muốn con cái ăn mặc lịch sự kín đáo, nhưng con cái thích hở hang sành điệu, tóc tai phải vàng đỏ óng ánh chứ đen thui thui là quê mùa… Rồi vì chuyện làm ăn, cha mẹ không quan tâm con cái, thêm vào đó con cái chạy theo lối sống thực dụng hiện đại làm hủy hoại thân xác và tinh thần. Ý lực sống Năm Thánh này là: như Chúa đã thương xót chúng ta, chúng ta phải thương xót nhau. Vì thế, cha mẹ phải biết thương xót con cái, có nghĩa rằng cha mẹ là lá chắn, đem con chạy trốn để bảo vệ tinh thần, thể xác cho con cái. Đừng quên nguyên tắc căn bản rằng cha mẹ, và con cái phải đồng tâm nhất trí với nhau, cùng chung một hướng đi dù khác biệt nhau về nhiều mặt. Hướng đi chung ấy là lấy Lời Chúa chi phối đời sống gia đình chứ không phải tiền bạc của cải để rồi gia đình mất hạnh phúc, con cái hoang đàng hút chít bỏ nhà ra đi thì nào có ích gì. Ngược lại, con cái cũng biết thương xót cha mẹ, có nghĩa rằng phải thảo hiếu, vâng lời cha mẹ, phụng dưỡng cha mẹ già, bệnh tật.
Ước gì qua thánh lễ gia thất năm nay, xin cho mỗi gia đình biết lấy Lòng Thương Xót Chúa làm hướng đi trong gia đình làm ngõ hầu mang hạnh phúc đích thực và bền vững. Đặc biệt biết lấy Tin Mừng làm giá trị tuyệt đối và chi phối mọi biến cố trong cuộc sống qua việc thươnng xót và phục vụ nhau hầu đem lại tình yêu trong sáng trong gia đình mình và đại gia đình nhân loại hôm nay.
Trong cuộc đời, Chúa Giêsu cũng đã phát triển và lớn lên. Thực vậy, tại hang đá Bêlem, Ngài chỉ là một hài nhi mới được có một ngày. Vào lễ đặt tên, Ngài vẫn chỉ là một hài nhi mới được có tám ngày. Còn ba vua đến thờ lạy Chúa Giêsu khi nào? Chúng ta không được biết rõ, nhưng có thể phỏng đoán lúc đó Ngài đã là một trẻ nhỏ được chừng một tuổi, bởi vì Hêrôđê ra sắc chỉ truyền giết tất cả các con trẻ tại Bêlem và vùng phụ cận từ hai tuổi trở xuống. Sở dĩ Hêrôđê hành động như vậy vì nghĩ rằng Chúa Giêsu cũng nằm trong đám trẻ này. Và đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại biến cố khi lên mười hai, Ngài theo cha mẹ hành hương lên Giêrusalem. Rồi sau đó, chúng ta thấy Ngài đến tuổi trưởng thành, chịu phép rửa của Gioan bên bờ sông Giócđan và làm phép lạ đầu tiên biến nước lã trở thành rượu ngon tại tiệc cưới Cana. Chúa Giêsu đã trải qua những giai đoạn của cuộc đời, từ ấu thơ cho đến trưởng thành. Và Phúc Âm cũng nói cho chúng ta hay: Ngài càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan nhân đức trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta. Với lời kết luận này, Giáo Hội muốn áp dụng cho mỗi người chúng ta. Đúng thế, Chúa Giêsu không phải chỉ sống và lớn lên tại Nagiarét, mà Ngài còn muốn sống và lớn lên trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Ngài muốn phát triển trong trái tim chúng ta, như xưa Ngài đã phát triển dưới mái nhà Nagiarét. Tất cả chúng ta đều biết: Ngài được sinh ra nhiều lần. Với bản thân từng người, thì đó là ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội. Nhưng sinh ra mà thôi chưa đủ, Ngài còn phải lớn lên. Ngài muốn chúng ta giúp đỡ Ngài. Chúng ta có thể giúp đỡ Ngài bằng nhiều cách. Đặc biệt là việc lãnh nhận các bí tích.
Nếu có dịp lên Đalạt, quan sát một ngọn thác, như thác Cam Ly chúng ta sẽ thấy gì? Nước từ hồ Than Thở, từ hồ Xuân Hương và từ nhiều nơi khác góp lại thành thác Cam Ly. Khi đổ xuống, dòng nước của thác Cam Ly được chia thành những con suối nhỏ, dẫn nước tới những thung lũng, để những người trồng rau, trồng hoa có nước tưới và làm nên những thửa vườn xanh tươi. Tôi nghĩ rằng thửa vườn là hình ảnh mỗi tâm hồn chúng ta. Nó xanh tươi là nhờ giòng nước ơn sủng. Giòng nước ấy được chuyển tới nhờ những con suối nhỏ, đó là các bí tích. Vì thế, chúng ta càng siêng năng lãnh nhận các bí tích một cách sốt sắng, thì giòng nước trong lành là các ơn sủng của Chúa càng chảy vào tâm hồn chúng ta, biến nó trở thành một thửa vườn xanh tươi, cũng như nhờ đó mà Chúa Giêsu càng lớn lên trong cõi lòng chúng ta.
Mỗi bí tích là một con suối. Nó không bao giờ được ngừng chảy như lời Ngài đã phán: Nước Ta ban cho nhân loại sẽ trở thành mạch suối hằng sống và sẽ vọt tới cuộc sống vĩnh cửu. Tuy nhiên, chỉ có một vật cản trở, ngăn chặn giòng suối, đó là tội trọng. Khi phạm tội trọng, chúng ta làm cho giòng suối ân sủng bị khô cạn. Giòng suối ấy chỉ hoạt động trở lại một khi chúng ta ăn năn và xưng thú nơi tòa giải tội. Và như thế, chúng ta hiểu được sự sống của Chúa thật là yếu ớt nơi nhiều người và dường như nó không còn nữa. Đó là những kẻ họa hiếm lắm mới lãnh nhận các bí tích. Mặc dù họ đã trưởng thành, nhưng nơi họ Chúa Giêsu mới chỉ là một hài nhi bé bỏng. Trái lại, Chúa Giêsu được phát triển cách trọn hảo nơi nhiều người, kể cả người già và trẻ nhỏ, miễn là chúng ta thường xuyên lãnh nhận các bí tích.
3. Một nền giáo dục tuyệt vời – ViKiNi
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Vũ Khắc Nghiêm)
Người xưa đã nói: Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người, để nhấn mạnh đến việc giáo dục con em là rất quan trọng. Rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến cả trăm năm sau, hữu ích cho xã hội đến cả trăm năm sau, không phải mười năm như trồng cây.
Trong bài Tin Mừng, Thánh Luca đã đề cao nền giáo dục tuyệt hảo của Thánh gia bằng câu: “Hài nhi lớn dần về vóc dáng dũng mạnh, tràn đầy khôn ngoan và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta” (Lc. 2, 40-52: Bản dịch Cha Nguyễn thế Thuấn). Mạnh khỏe, khôn ngoan và ân sủng là mục đích nền tảng của giáo dục hoàn thiện nhất cho con người mà đường lối giáo dục tiến bộ nhất đang nhắm tới.
Nói đến nền giáo dục, người ta kể đến hai nền giáo dục Tây phương và Đông phương:
– Hy lạp là nguồn gốc của nền giáo dục Tây phương, chú trọng luyện tập thân thể cường tráng, phát triển thể dục thể thao với những môn chơi: ném lao, chạy, nhảy, bơi lội, nhiều khi dùng đến cả võ lực: đô vật, đấu gươm, đấu người, đấu vật, đánh đòn, mục đích tạo ra những lực sĩ, những chiến binh hùng dũng hiếu chiến, hiếu thắng. Nền giáo dục này đã đưa Tây phương chú ý đến kỹ thuật chiến tranh và lao động sản suất ra nhiều của cải, đi xâm chiếm đất đai theo luật rừng khỏe được yếu thua, gây ra biết bao cuộc diệt chủng.
– Giáo dục Đông phương phát nguồn từ Ấn độ và Trung hoa lại quá chú trọng về nội tâm, phát triển về tình cảm như diệt dục, nhân nghĩa lễ trí tín với những môn học: thiên về chiêm niệm, cầm, kỳ, thi, họa, tạo nên lớp người thoát tục: văn sĩ, chí sĩ, ấn sĩ, nho sĩ.
Cả hai nền giáo dục Đông Tây đó có nhiều thiếu sót, mất quân bình: Tây thiên vế vật chất, thể xác, hướng ngoại. Đông nặng về tình cảm hướng nội. Nền giáo dục ngày nay chịu ảnh hưởng sâu đậm của hai nền giáo dục mất thăng bằng đó. Một đàng quá thiên về vật chất, khoa học kỹ thuật để phát triển tiền của, kinh tế, tạo ra hai hạng người giàu quá, nghèo quá. Hạng giàu lo ăn chơi, văn nghệ phim ảnh và tiểu thuyết ướt át, suy nhược. Hạng nghèo phải lao động cật lực, cực khổ. Cả hai đều đánh mất nhân phẩm làm người.
Phúc âm đã đề ra một nền giáo dục thật hoàn hảo theo bốn chiều, khác với nền giáo dục một chiều vật chất, hướng ngoại của Tây phương hay một chiều tình cảm, hướng nội của Đông phương. Bốn chiều của Phúc âm là thể dục, trí dục, đức dục và Thiên nhân tương dữ.
Thể dục cần luyện tập thân thể lớn lên mạnh dũng bằng việc làm lao động chân tay cho con người cường tráng: Trẻ Giêsu lớn lên vóc dáng mạnh mẽ đầy sức lực nhờ lao động chân tay, xẻ cưa, vác gỗ. Lên mười hai tuổi đã đi bộ suốt bốn năm ngày đàng lên Giêrusalem để dự lễ, vẫn không biết mệt mỏi. Sau này, đi giảng đạo, Đức Giêsu đã đi khắp các thành phố, làng mạc của đất nước và các vùng lân cận.
Về trí đức càng tuyệt vời hơn nữa: Mới lên mười hai tuổi, một cậu bé của làng Nagiaret quê mùa vô danh tiểu tốt, ở tít vùng sâu vùng xa miền bắc Galilê, đã đàng hoàng vào trong đền thánh thủ đô Giêrusalem của miền nam, ngồi giữa các thầy tiến sĩ vừa nghe vừa hỏi. Ai nghe cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu. Cậu là con bác thợ mộc nghèo, cậu phải vừa làm vừa học, nhất là học và nghe giảng giải sách luật kinh Torah. Ngưòi ta thấy những trẻ em, những thiếu niên thanh niên trưởng thành và người già say mê học hàng giờ về Kinh thánh và những những lời bình giảng trong sách Talmud. Những luật sĩ thời Đức Chúa Giêsu là những chuyên gia cắt nghĩa lời Chúa, luật Chúa để hướng dẫn đời sống tinh thần cho mọi giới đến học hỏi, thảo luận và chia sẻ. Mỗi ngày sabat là một ngày cầu nguyện lâu giờ và qui tụ nghiên cứu tìm hiểu giới luật của Chúa một cách miệt mài, đi sâu vào những chi tiết chi li, thiếu niên Giêsu đã sống say sưa trong những đam mê học hỏi đó, đã thuộc lòng bộ luật đó, đã đọc đi đọc lại với các bạn bè, đã thảo luận, tham luận với nhau rất nhiệt tình (Noel Quesson Parole Dieu pour chaque dimanche: 31c).
Nhờ đó Đức Giêsu đã tràn đầy khôn ngoan về đạo cũng như đời, về trí cũng như về đức. Chiều kích thứ bốn: đầy ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta. Đức Giêsu là Con chí ái, chí hiếu đẹp lòng Chúa Cha mọi đàng, vì thế tất cả ân sủng của Cha là của Con. Chúa Con lại ban phát ân sủng cho loài người, dù loài người chẳng xứng đáng được những ân sủng đó. Do lòng nhân hậu từ ái hay thương xót, Chúa Con đã không chấp tội chúng ta và còn ban hết ơn này ơn khác cho chúng ta được nên đồng thừa tự với Đức Giêsu.
Vậy trong việc giáo dục của chúng ta, chúng ta phải theo đường lối sống của Hài Nhi Giêsu: Lớn lên mạnh mẽ, tràn đầy khôn ngoan và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và người ta, mới thực sự phát triển con người hoàn hảo toàn diện. Xin Chúa cho chúng con sống được như vậy. Amen.
Gia đình là cửa ngõ để Con Thiên Chúa đi vào nhân loại như mọi con người bình thường khác. Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu không thể không nỗ lực, mỗi người ở địa vị của mình, xây dựng một gia đình gương mẫu. Thế nhưng phụng vụ không muốn chỉ đóng khung trong phạm vi gia đình. Thực vậy, Con Thiên Chúa giáng sinh làm người đâu phải chỉ để làm con Thánh Giuse và Mẹ Maria, những bậc làm cha làm mẹ của Ngài ở trần gian, nhưng Ngài còn phải thực hiện nhiệm vụ Cha trên trời đã trao phó. Thánh Giuse và Mẹ Maria đã không thể hiểu ra ngay điều đó. Sự không hiểu được này đã tạo nên những khổ đau cho cả hai ông bà.
Tình yêu trong gia đình bao gồm những nỗ lực vươn lên để thông cảm và hiểu rõ những công việc của nhau, để xây dựng một sự đồng tâm nhất trí ở mức độ cao hơn. Đoạn Tin Mừng không chỉ mô tả cảnh thân mật, đầm ấm của thánh gia. Những tâm hồn đạo đức nói về sứ mạng của hài nhi Giêsu, đã tiên báo nỗi sâu xé nát ruột nát gan như bị lưỡi gươm đâm thâu qua của Mẹ Maria. Vượt thắng được nỗi đớn đau ấy, như Mẹ Maria đã làm, khi Mẹ đứng dưới chân thánh giá, chứng kiến hơi thở cuối cùng của người con yêu dấu, trong thái độ dâng hiến, như Mẹ đã từng xin vâng với sứ thần Gabriel trong hoạt cảnh truyền tin, như thế mối quan hệ giữa Mẹ Maria và Chúa Giêsu sẽ mật thiết hơn, khắng khít hơn.
Ở đây không chỉ còn là một gia đình ruột thịt, huyết thống mà còn là một gia đình thiêng liêng, mọi người đều yêu thương, đồng tâm nhất trí với nhau trong việc tuân giữ những ý định của Chúa và giúp đỡ lẫn nhau để trở nên tốt lành thánh thiện hơn.
Trong cuộc đời rao giảng của mình, Chúa Giêsu không ngừng kêu gọi chúng ta hãy vươn tơi loại gia đình này, trong đó sợi dây liên kết mọi người lại với nhau, sẽ không còn phải là máu thịt, mà là chính Lời Chúa và ý định tuyệt vời của Ngài. Gia đình là nơi đào tạo con người và giúp đỡ con người đi vào xã hội. Riêng gia đình Kitô giáo còn phải là nơi đào tạo và giúp nhau đi vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Cũng như đi vào công trình xây dựng nhân loại thành một gia đình thánh, một gia đình của những người con được Thiên Chúa tuyển chọn. Cuộc sống gia đình sẽ không chỉ là một sự xuôi chảy của những bổn phận tự nhiên, mà còn là một nỗ lực vươn lên không ngừng, dù có phải ngang qua những mâu thuẫn gay gắt, những giằng co có thể xé nát con tim người cha, người mẹ, người con.
Thế nhưng chính những hy sinh ấy sẽ làm cho gia đình có được nền tảng vững chắc trước mọi cơn phong ba bão táp.
Giáo Hội đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng gia đình Kitô hữu thành một cái nôi của tình thương, thành một mái trường dạy cho chúng ta những bài học làm người. Trong chiều hướng đó, Thánh Gia với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse vốn được coi là những mẫu gương sáng chói của gia đình công giáo.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không muốn đóng khung nhãn giới của chúng ta trong khuôn khổ một gia đình theo huyết thống. Bài học lớn nhất Ngài để lại cho chúng ta đó là bài học làm người trong xã hội. Ngài không vun xới cho gia đình riêng của mình, nhưng Ngài lại xây dựng đại gia đình nhân loại được cứu chuộc.
Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu ngay từ lúc lọt lòng mẹ đã phải trải qua một cuộc bôn ba, đã là một con người bị ruồng bắt bởi quyền lực thế gian. Con đường trốn qua Ai Cập cũng chính là con đường dân riêng của Chúa đã đi qua thuở xưa, con đường dẫn tới cuộc sống nô lệ trong suốt 400 năm. Nhưng rồi Ngài cũng được đưa về lại Galilê tượng trưng cho cuộc xuất hành của dân riêng khỏi đất nô lệ Ai Cập. Như thế Phúc Âm đã tóm gọn cuộc đời Chúa Giêsu và đặt cuộc đời ấy trong lịch sự của dân Chúa.
Qua Ai Cập và từ Ai Cập trở về, Chúa Giêsu đã không chỉ đi với cha mẹ Ngài mà còn đi với dân của Ngài. Qua cái chết và sống lại của Ngài, một dân mới được thiết lập và các môn đệ của Ngài được sai đi đến tận cùng trái đất để mọi người, không phân biệt màu da, tiếng nói, ý thức được mình là con Thiên Chúa và là anh em với nhau.
Việc xây dựng đại gia đình nhân loại nhiều khi vượt lên trên quyền lợi của gia đình ruột thịt hay dòng họ. Chúa Giêsu đã khẳng định điều đó một cách thật rõ ràng. Ngài đã từng cho người ta hiểu rằng Ngài đến không phải để đem hoà bình mà là gươm giáo, đến để chia rẽ con cái khỏi cha mẹ, nàng dâu khỏi mẹ chồng và làm coh những người trong gia đình trở thành kẻ thù của nhau. Những lời lẽ quả là lạ lùng, khó nghe. Dĩ nhiên chúng ta không thể coi Ngài như một kẻ chủ trương phá hoại gia đình hay coi nhẹ giá trị gia đình. Nhưng Ngài muốn cho người ta hiểu rằng: Còn một gia đình khác lớn hơn phải được xây dựng. Cái mối quan hệ lớn lao, cao quý mà người ta cần phải quan tâm thiết lập và vun xới, không phải là mối quan hệ cha con, anh em theo máu huyết. Mà là mối quan hệ cha con, anh em theo việc thực thi ý định của Chúa: Ai là mẹ Ta và ai là anh em Ta. Đó là người nghe và thực hành lời Chúa.
Nếu mọi thành phần trong gia đình cùng nhìn về một phía, cùng theo đuổi một lý tưởng phục vụ hạnh phúc của con người trong xã hội. Đó chính là gia đình gương mẫu, thánh thiện theo cái nhìn của Tin Mừng. Để đạt tới lý tưởng ấy, mỗi người trong gia đình cần phải tìm hiểu và đào sâu những đòi hỏi của Tin Mừng, thấy rõ trách nhiệm làm người và làm môn đệ của Chúa trong xã hội và trong thế giới hiện tại, đồng thời cố gắng giúp nhau chu toàn trách nhiệm ấy.
6. Để gia đình nên thánh – Lm. Anthony Trung Thành
Gia đình là nền tảng của Giáo hội và xã hội. Gia đình là trường học, là chủng viện đầu tiên. Nói như vậy để chúng ta thấy được tầm quan trọng của gia đình trong Giáo hội và xã hội. Hôm nay, chúng ta mừng lễ kính Thánh Gia Thất. Đây là một gia đình thánh: Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse. Các Ngài là mẫu mực cho mỗi chúng ta. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng mong muốn có được một gia đình hạnh phúc, mọi người đều trở nên thánh. Để mong muốn của chúng ta trở thành hiện thực, xin gợi ý với anh chị em mấy điểm sau đây:
- Vâng theo thánh ý Chúa
Đây là điểm trọng yếu trong gia đình Thánh Gia. Đức Maria quyết giữ mình đồng trinh nhưng khi biết thánh ý Chúa muốn Mẹ cưu mang Đấng Cứu Thế, Mẹ liền thưa xin vâng: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (Lc 1,38). Thánh Giuse đã “ầm thầm rút lui” khi biết Mẹ có thai, nhưng khi biết được thánh ý Chúa, Ngài đã đón nhận Mẹ Maria về nhà mình. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã hạ mình vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá (x. Pl 2,8). Trong thời gian hoạt động công khai, Ngài còn nói: “Tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5,30).
Noi gương gia đình Thánh Gia, mỗi thành viên trong gia đình chúng ta hãy luôn vâng theo thánh ý Chúa mỗi ngày. Thánh ý Chúa thể hiện qua giáo huấn của Chúa và Giáo hội.
Noi gương gia đình Thánh Gia, mỗi thành viên trong gia đình chúng ta phải sống có tôn ti trật tự: Bề dưới vâng lời bề trên. Con cái vâng lời cha mẹ. Cháu chắt biết vâng lời ông bà (x.Hc 3, 3-7. 14-17a). Vợ biết phục tùng chồng (x. Cl 3,18). Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta về điều này. Mặc dầu Ngài là Thiên Chúa nhưng khi còn sống trong gia đình Na-da-rét, Ngài luôn vâng lời Đức Mẹ và thánh Giuse, như Phúc Âm thánh Luca kể: “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục hai ông bà” (Lc 2,51).
- Biết lắng nghe nhau
Bình thường thì người dưới phải lắng nghe bề trên. Con cái phải nghe lời cha mẹ. Vợ phải lắng nghe lời chồng. Cháu chắt phải lắng nghe lời ông bà. Nhưng trong thực tế có đôi lúc bề trên phải lắng nghe bề dưới. Cha mẹ phải lắng nghe con cái. Chồng phải lắng nghe vợ.
Mới đây, có một người phụ nữ khóc sướt mướt tới gặp tôi xin cầu cứu. Chị kể rằng: Chồng chị luôn bài bạc. Chị khuyên nhiều lần không được. Hôm nay, chị tới nơi “sòng bạc” để gọi chồng về. Anh tức giận và đánh cho chị một trận. Một câu chuyện tương tự khác: Có một người con trong gia đình, tuổi mới lên 14, nhắn tin cho tôi với nội dung sau: “Xin cha cầu nguyện cho cha mẹ con được hoà thuận thương yêu nhau. Hằng ngày con phải chứng kiến cảnh cha mẹ con cãi vã nhau, thậm chí là chửi bới, đánh đập nhau nữa. Con đã cầu nguyện nhiều mà chưa thấy Chúa nhậm lời. Có lần con mạnh dạn khuyên cha mẹ đừng chửi bới đánh đập nhau nữa. Chẳng những cha mẹ không nghe mà còn bảo con là ‘đồ mất dạy’”.
Đó là hai trong muôn vàn trường hợp xảy ra hằng ngày trong nhiều gia đình. Trong cuộc sống, đôi khi người dưới thấy bề trên làm không đúng nên góp ý, mong muốn bề trên sửa đổi để sống tốt hơn, nhưng bề trên không chịu nghe, thậm chí còn ngược đãi, nghĩ xấu cho bề dưới. Ước gì, các bậc bề trên không chỉ truyền lệnh mà còn phải lắng nghe lời góp ý của người dưới trong những điều hợp tình hợp lý.
- Cầu nguyện với nhau và cho nhau
Kinh nguyện trong gia đình hết sức quan trọng. Chúa Giêsu nói: “Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”(Lc 21,36). Đó là một mệnh lệnh. Người Việt nam chúng ta có thói quen cầu nguyện hôm sớm trong gia đình. Hồi còn nhỏ, cha mẹ tôi thường qui tụ mọi thành viên trong gia đình cầu nguyện chung với nhau trước khi đi ngủ và sau khi thức dậy. Có lẽ nhờ thế mà Chúa Mẹ gìn giữ gia đình chúng tôi vượt qua được mọi gian nan khốn khó. Ngày hôm nay, do ảnh hưởng của xã hội, công việc, Internet, phim ảnh…nhiều gia đình bỏ mất thói quen tốt này. Thư chung HĐGM Việt Nam năm 2013 mời gọi: “Gia đình là cộng đoàn cầu nguyện, thờ phượng Thiên Chúa, đền thờ tại gia. Hiệp thông trong kinh nguyện vừa là hoa trái vừa là đòi hỏi của sự hiệp thông bắt nguồn từ bí tích Rửa Tội và Hôn Phối. Chúa Giêsu hiện diện trong gia đình khi vợ chồng, cha mẹ, con cái cùng cầu nguyện, và khi đó, chính cuộc sống gia đình trở thành lời kinh sống động. Hoàn cảnh sống hiện nay gây nhiều khó khăn trở ngại cho việc gia đình cùng sum họp cầu nguyện. Tuy nhiên, đây là đòi hỏi quan trọng trong đời sống gia đình công giáo. Vì thế, cùng với việc siêng năng tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận các bí tích, chúng tôi tha thiết xin anh chị em duy trì giờ kinh chung trong gia đình, và cố gắng đưa Lời Chúa vào giờ kinh này”(số 6). Đó là những lời tâm huyết của các Giám Mục Việt nam gửi tới các gia đình công giáo. Vì vậy, muốn giữ được hạnh phúc gia đình, muốn cả gia đình chu toàn bổn phận nên thánh hãy giữ giờ kinh tối sáng để cầu nguyện với nhau và cầu nguyện cho nhau.
- Sống liên kết và yêu thương nhau
Sự “vô cảm” đang thống trị xã hội chúng ta. Sự vô cảm cũng đang len lỏi vào nhiều gia đình. Hơn lúc nào hết, chúng ta phải sống liên đới với nhau: giữa cha mẹ con cái, anh em ruột thịt, họ hàng, làng xóm láng giềng với nhau. Không chỉ liên đới với nhau trong lời cầu nguyện mà còn liên đới với nhau trong cuộc sống khi vui khi buồn, như thánh Phaolô nhắn nhủ: “Hãy vui với người vui, khóc với người khóc”(Rm 12,15). Thư chung Hội Đồng Giám Mục Việt Nam năm 2013 mời gọi: “Gia đình là cộng đoàn yêu thương bằng tình yêu hợp nhất thủy chung, xuất phát từ Thiên Chúa Tình Yêu. Mối tương quan giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái cũng như giữa anh chị em với nhau, phải là dấu chỉ sống động của Tình Yêu Thiên Chúa. Vì thế, các gia đình công giáo phải loại bỏ mọi thứ bạo hành, ‘hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa, nhẫn nại, chịu đựng và tha thứ cho nhau’ (Cl 3,12-13)” (Số 6). Ngày hôm nay, bạo hành giữa các thành viên trong gia đình đang ở mức báo động, rất nhiều gia đình thiếu đức yêu thương, đánh mất sự liên đới. Đau lòng khi thấy Cha mẹ từ khước con cái. Con cái từ bỏ cha mẹ. Anh chị em ruột thịt loại trừ nhau. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hậu quả đó, nguyên nhân mà tôi thường gặp là do vấn đề kinh tế: tranh nhau từng tấc đất hay tài sản của cha mẹ, ông bà để lại. Hy vọng những chuyện đau lòng đó và những chuyện khác tương tự không diễn ra trong các gia đình của chúng ta. Nếu có, chúng ta hãy ngồi lại với nhau để xin lỗi, tha thứ và nối lại tình liên đới trong yêu thương.
Lạy Chúa, xin ban cho mỗi gia đình chúng con noi gương gia đình Thánh Gia, luôn biết vâng theo thánh ý Chúa, biết quý trọng đức vâng lời, biết lắng nghe nhau, biết cầu nguyện với nhau và cho nhau, đặc biết mỗi thành viên trong gia đình luôn biết bỏ qua những giận hờn, ghen ghét để sống liên kết với nhau trong tình yêu thương. Amen.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Mầu nhiệm Nhập Thể bắt đầu từ tiếng Xin Vâng ở Nadarét.
– Nadarét là nơi Ngôi Lời làm người sống phần lớn thời gian. Mái ấm Nadarét thật khác thường, và rất đỗi bình thường. Đây là một gia đình có bầu khí yêu thương, đạo hạnh.
– Nadarét là trường học đầu tiên huấn luyện Chúa Giêsu, chuẩn bị Ngài gánh vác sứ mạng Cha giao sau này. Nadarét là trường dạy cầu nguyện, dạy giáo lý, dạy lao động, dạy yêu thương đến hiến mình cho người khác.
Chúa Giêsu đã vâng phục kỷ luật của trường này. Ngài đã chấp nhận những vị thầy đầu tiên là cha mẹ, và Ngài đã lớn lên, chững chạc, trưởng thành, quân bình cả về thân xác, trí tuệ lẫn tâm linh.
Con Thiên Chúa đã tập làm người ở Nadarét, và nền giáo dục ở Nadarét đã thành công khi trao cho ta một Giêsu khôn ngoan, đạo đức và nhân hậu, ở tuổi ngoài 30. Nền giáo dục gia đình được coi là tốt khi giúp con cái mở ra trước những đòi hỏi của Thiên Chúa và tha nhân.
“Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà CHA con sao?” – Từ năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã ý thức mình là Con của Thiên Chúa, Đấng mà cậu trìu mến gọi là Cha. Cậu đã sống mối tương quan thân tình độc đáo này và cậu cảm thấy điều đó kéo theo những bổn phận: ở lại trong nhà Cha hay lo việc của Cha. Càng lúc Chúa Giêsu càng ý thức về mình, trong tương quan với Cha và trong sự thúc bách của sứ mạng.
Con Thiên Chúa cần mẹ cha, cần một mái ấm để lớn lên, nhưng cả mối dây thân thương tự nhiên ấy cũng có lúc phải chịu hy sinh, nếu nó cản trở sứ mạng Cha trao phó. Ta không rõ tại sao cậu Giêsu rất mực khôn ngoan đã ở lại Đền Thờ mà không báo cho cha mẹ. Nhưng chắc chắn sau này cậu sẽ phải chia tay với Mẹ Maria. Chúa Giêsu không chỉ là người con hiếu thảo với mẹ cha, nhưng trên hết và trước hết, Ngài là Con vâng phục CHA. CHA trên trời là ưu tiên vượt trên mọi ưu tiên khác.
Đức Maria không hiểu câu trả lời của Con mình. Dù Mẹ đã nghe bao mạc khải về Con từ Gabrien, Simêon, nhưng những biến cố đời thường vẫn làm Mẹ ngỡ ngàng. Con vẫn là một mầu nhiệm vừa gần, vừa xa đối với Mẹ. Mẹ không hiểu nổi, không hiểu hết hay không hiểu ngay, nên Mẹ vẫn cung kính đứng trước mầu nhiệm bằng thái độ vâng phục của lòng tin và nghiền ngẫm mãi.
Mẹ chẳng giữ Con lại trong vòng tay của mình. Mẹ để Con lên đường, Mẹ dâng Con trên Núi Sọ. Chỉ biến cố Phục Sinh mới làm Mẹ thật hiểu Con. Cha mẹ vừa đùm bọc ấp ủ, vữa tiễn con mình vào đời. Gia đình cung ứng những công dân tốt và tín hữu nhiệt thành.
Mỗi đứa con là một mầu nhiệm cần tôn trọng. Giáo dục là giúp con sống cuộc đời rất riêng của nó. Ước gì mọi bà mẹ đều như Maria, sinh các con như Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
– Cuộc sống gia đình hôm nay gặp nhiều khó khăn (chung thủy, giáo dục con cái, thiếu thốn vật chất… ) Theo bạn, đâu là khó khăn lớn nhất? Làm sao khắc phục?
– Theo bạn, thế nào là một gia đình lý tưởng? Để xây dựng một gia đình như thế cần có những điều kiện gì?
Cầu Nguyện
Lạy Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.
– Xin thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
– Xin Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng dưng.
Lạy Cha, xin nhìn đến những trẻ em trên thế giới, những trẻ em cần sự chăm sóc và tình thương những trẻ em bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán, những trẻ em lạc lõng bơ vơ, không được đến trường, những trẻ em bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
– Xin Cha thương bảo vệ gìn giữ từng gia đình là hình ảnh của thánh Gia Thất, từng trẻ em là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
– Xin Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con. Amen.
8. Gia đình hạnh phúc – Cố Lm. Hồng Phúc
Hôm nay, Giáo hội mời chúng ta đi thăm một gia đình: Gia đình Thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng. Một gia đình ngàn xưa nêu gương cho các gia đình soi chung.
Thánh Matthêô thường thích những tường thuật dài có kết cấu, nhưng ở đây Người chỉ trình bày cho chúng ta một gia đình, gia đình Kitô giáo đầu tiên. Trong gia đình ấy có ba nhân vật: Giuse bác thợ mộc làm gia trưởng, Maria, cô nội trợ khiêm tốn, Chúa Hài Nhi là con của gia đình.
Trước mặt xã hội thì Giuse lớn hơn cả vì là gia trưởng, nhưng trước mặt Thiên Chúa thì người nhỏ nhất lại lớn nhất vì Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Hạnh phúc gia đình ấy được xây dựng trên 3 yếu tố.
Trước tiên, họ rất hòa thuận khắng khít: Không có một khó khăn sóng gió nào có thể làm lung lạc tình nghĩa vợ chồng, mặc dầu họ gặp bao nhiêu trắc trở. Chỉ cần nói đến cuộc di cư gấp gáp qua Ai cập giữa đêm thâu, chỉ cần nhắc lại cuộc hồi hương trở về trong lo âu và đến định cư trong làng bé nhỏ Nagiarét.
Họ rất trung tín: Vợ chồng lấy chữ tín làm đầu. Và chúng ta biết đối với Giuse không phải là dễ, khi nhìn thấy Đức Mẹ có dấu đã mang thai. Cần có một lệnh truyền bởi trời, mối hoài nghi mới chấm dứt trong sung sướng, khi biết mình được gọi đễ chia sẻ mầu nhiệm con Thiên Chúa giáng trần. Và từ đó, cả hai tuân phục Thánh Ý Chúa, sẵn sàng hy sinh tất cả cho hạnh phúc của con mình cũng là con Thiên Chúa.
Họ sống khiêm tốn, nghèo nàn, theo khả năng, theo gia cảnh. Giuse là bác thợ mộc thì con nối nghề Cha cũng làm thợ mộc.
Gia đình Nagiarét là một gia đình hạnh phúc vì 2 lý do nữa sau đây:
– một là, xét về tương quan nội bộ, vì trong gia đình ấy có trật tự và đâu có trật tự là ở đó có hòa bình hạnh phúc.
– Hai là vì trong gia đình ấy có Thiên Chúa hiện diện, mà đâu có Thiên Chúa hiện diện là ở đó có hạnh phúc, ở đó là Thiên đàng.
Ngày nay, chúng ta thấy nhiều gia đình xuống dốc vì thiếu trật tự mà Chúa đặt để an bài. Trong gia đình không có trên dưới, không có quyền bính, đường ai nấy đi, hạp thì ở, chán thì đi, con mặc kệ con, đã có chính phủ nuôi!
Vậy muốn có hạnh phúc, trước tiên mỗi người phải biết ở trong địa vị của mình là chồng là vợ là con cái, ngày nào trật tự ấy bị đảo lộn, bị lấn át thì gia đình sẽ bị lung lạc tan rã. Một tờ báo ở Luân đôn, Anh quốc, đã mở cuộc điều tra nơi các ông chồng và xin các độc giả mày râu trả lời câu hỏi sau đây: Trong gia đình bạn, ai làm chủ thật sự? Kết quả là có 80% trả lời: vợ tôi làm chủ; 20% trả lời: mẹ vợ tôi làm chủ. Chỉ có một số ít trả lời: chính tôi làm chủ, vì vợ tôi đã chết! Không lạ gì mà sau nước Mỹ, nước Anh có nhiều gia đình đổ vỡ nhất. Cứ hai đám cưới thì có một đám ly dị.
Yếu tố quan trọng thứ hai là một gia đình muốn có hạnh phúc phải có Chúa hiện diện ở giữa, như Chúa Giêsu hiện diện ở trong gia đình Nagiarét.
Có Đức Tin, có lòng đạo mới biết thương yêu nhau, nhường nhịn nhau. Chồng biết thương yêu vợ, vợ biết thương yêu chồng, con cái biết thương yêu nhau. Vì thế trong bài đọc II, Thánh Phaolô căn dặn: “Anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại, chịu đựng nhau… Anh em hãy làm mọi việc vì sáng danh Chúa”. Trong đời sống vợ chồng có lúc vui và có lúc buồn, có lúc phải chịu đựng nhau, vác thánh giá của nhau, vác cho đến cùng đến chết, để đền tội. Trong một tuần Đại phúc, Cha giảng phòng tổ chức làm phép Thánh giá. Cha rao: Ai có Thánh giá mang lên làm phép. Một cụ già đưa vợ lên và nói: đây là Thánh giá con, xin Cha làm phép cho con chịu khó vác… đến cùng! Vợ là thánh giá cho chồng thì chồng cũng có thể là thánh giá cho vợ.
Thánh Matthêô viết: “Người sẽ được gọi là Nagiarêô”. Cha Charles de Foucault đã đến định cư ở làng Nagiarét, sống đời sống Chúa Giêsu như một người Nagiarêô. Ngài cầu nguyện cùng Thánh Gia: “Lạy Đức Trinh nữ, lạy Thánh Giuse, là mẹ là cha của con, hãy đưa dẫn con đến cùng Chúa Giêsu. Xin cho con, sau khi được Chúa ban ơn được chia sẻ hoàn hảo khung cảnh bên ngoài của đời sống các Đấng thì cũng được chia sẻ đời sống nội tâm các Đấng… trong tình yêu, chiêm nghiệm và thờ lạy trong tinh thần khó nghèo, gạt bỏ con đi để được tràn đầy Chúa”.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Những tranh ảnh về Thánh Gia thường diễn tả một gia đình ấm êm hạnh phúc. Thánh Giuse làm thợ mộc trong nhà. Đức Mẹ ngồi may vá. Đức Giêsu phụ giúp Thánh Giuse. Phải chăng Thánh Gia luôn sống trong êm đềm thư thái, không hề biết đến khổ đau? Phải chăng cuộc sống gia đình thánh cứ phẳng lặng trôi như mặt nước mùa thu không gợn sóng gió? Không phải, trái lại Thánh Gia đã biết đến rất nhiều sóng gió, thử thách.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải qua những kinh nghiệm đớn đau của kiếp nghèo. Bị xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn non nớt đã phải bồng bế nhau chạy trốn, xa quê hương đất nước.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà Thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu Thánh Giuse đã bị giày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà Thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền Thờ mà không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu quý đã cãi lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vẫn giữ được hạnh phúc gia đình. Nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Hôm nay, gia đình chúng ta hãy biết noi gương Thánh Gia: Bỏ ý riêng để tìm thánh ý Thiên Chúa; mau mắn vâng lời Chúa; và hạ mình khiêm nhường, quên mình để phục vụ người khác. Có như thế chúng ta mới hy vọng giữ được hạnh phúc gia đình, nhất là khi phải đối phó với những khó khăn ngày càng nhiều trong đời sống hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Mỗi khi gia đình có việc rắc rối, tôi thường làm gì trước: cầu nguyện, đọc Phúc Âm, hay là đi xem bói?
2. Mỗi khi có bất đồng ý kiến, tôi thường khiêm nhường xét mình, hay là tự ái bắt người khác phải nhận lỗi?
3. Qua tấm gương của Thánh Gia, tôi có quyết tâm gì để xây dựng hạnh phúc gia đình trong năm mới?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Không có nơi nào thuận tiện cho bằng gia đình, để xây dựng một tổ ấm gồm những người yêu thương nhau. Nơi gia đình, vợ chồng yêu thương nhau và sẵn sàng bỏ tất cả để chung sống với nhau, để có thể lo cho nhau một cách trọn vẹn. Con cái do cha mẹ sinh ra, cha mẹ yêu thương con cái. Con cái thảo hiếu với cha mẹ vì được sinh ra nuôi nấng yêu thương và dạy dỗ. Nếu những người trong một gia đình không yêu thương nhau, thì họ còn tìm đâu ra một môi trường thuận lợi yêu thương như vậy nữa!
Thực tế cho thấy có những cặp vợ chồng sống với nhau không vì yêu thương; có những người con không được yêu thương ngay từ trong dạ mẹ và không được sinh ra; có những người được sinh ra, nhưng không được nhìn nhận như con, và không được cha mẹ nuôi nấng yêu thương cưng chiều; có những người con được sinh ra, được nuôi nấng nhưng không được yêu thương chăm sóc nên đã bỏ nhà đi hoang. Có những người cảm thấy gia đình không còn là mái ấm nhưng lại là hỏa ngục; và như vậy, có những em bỏ nhà sống bụi đời, và cho rằng thà như vậy còn hạnh phúc hơn ở trong “hỏa ngục trần gian”. Người con rất đau khổ khi thấy cha mẹ mình không yêu thương nhau: gây gỗ và dùng bạo lực với nhau.
Nếu gia đình gồm những người có tương quan máu mủ ruột thịt mà không yêu thương nhau, không tạo nổi một mái ấm nơi đó những thành viên trong gia đình cảm thấy được yêu thương săn sóc, thì làm sao xã hội gồm những người khác nhau, không có tương quan máu mủ, lại có thể yêu thương nhau cho được! Tạo một gia đình yêu thương hạnh phúc, đó là điều khó nhưng cũng vẫn khả thi. Tạo một gia đình hạnh phúc thì dễ hơn tạo một xã hội an ninh hạnh phúc; tạo một gia đình hạnh phúc thì dễ hơn tạo một thế giới hòa bình yêu thương nhau.
Nếu mình không kiếm chế mình, nếu mình để cho những đam mê và những xu hướng xấu ảnh hưởng quá mạnh trên mình, để rối ngay cả mình cũng không chấp nhận chính mình, thì làm sao người khác có thể chấp nhận mình, cho dù người đó là người thân trong gia đình? “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Để có thể có một gia đình hạnh phúc, mỗi người trong gia đình phải tập làm chủ chính mình. Tu thân, là điều mỗi người phải cố gắng hằng ngày, để vươn tới mức hoàn hảo hơn.
Mỗi thành viên trong gia đình phải biết yêu thương nhau, nghĩa là, quan tâm đến nhau với những nhu cầu của nhau, đến những bận tâm của nhau. Nếu mỗi người trong gia đình, và ngay cả trong một đơn vị, biết quan tâm đến nhau, săn sóc cho nhau, hy sinh cho nhau, thì đời sống của mỗi thành viên trong đơn vị đó sẽ mỗi ngày một triển nở và hạnh phúc hơn.
Vợ diễn tả ý Thiên Chúa cho chồng; chồng diễn tả ý của Thiên Chúa cho vợ; con cái diễn tả ý của Thiên Chúa cho cha mẹ; cha mẹ diễn tả tình yêu của Thiên Chúa cho con cái. Có người vợ người chồng nào không muốn người bạn đời của mình triển nở hạnh phúc? Có người cha người mẹ nào không yêu thương con cái, không muốn điều tốt nhất cho con cái, không tìm cách làm điều tuyệt nhất cho con cái mình? Nếu người chồng người vợ có một tật xấu, thì người chồng người vợ người con cũng mong ước người đó bỏ thói hư tật xấu đó. Thiên Chúa cũng muốn điều đó. Ý của Thiên Chúa được diễn tả qua những người thân yêu trong gia đình.
Mỗi người hãy cố gắng diễn tả ý của Thiên Chúa cho những người trong gia đình mình. Mỗi người trong gia đình hãy cố gắng diễn tả tình yêu của Thiên Chúa cho những phần tử khác trong gia đình. Cha mẹ được trao trách nhiệm yêu thương chăm sóc dạy dỗ con cái nhân danh Thiên Chúa. Con cái phải vâng phục cha mẹ, vì cha mẹ đại diện Thiên Chúa yêu thương mình, muốn điều tốt lành cho mình, dạy dỗ mình trở nên những người tốt nhất theo ý Thiên Chúa.
Mỗi người trong gia đình hãy sống tốt, để trở thành tình yêu của Thiên Chúa cho người khác. Đừng ảo tưởng: nếu ta không xây dựng được một gia đình hạnh phúc, thì không thể xây dựng một xã hội hạnh phúc được. Ta cũng chẳng có thể xây dựng một gia đình hạnh phúc, nếu mỗi người không tự tu thân sửa mình mỗi ngày. Hãy biến gia đình thành thiên đường hạ giới. Nếu không làm gia đình mình thành một mái ấm thân thương, thì mình cũng chẳng có thể xây dựng được một cộng đoàn nào thoải mái và hạnh phúc thật sự được. Nếu ta không tu sửa chính mình mỗi ngày, thì cũng chẳng có thể sống tốt với người khác, cũng không thể xây dựng một gia đình hạnh phúc được, cũng không thể xây dựng một cộng đoàn hạnh phúc thật sự được.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
- Bạn có thể tạo lập một gia đình hạnh phúc không?
- Theo bạn, làm sao để có một gia đình hạnh phúc?
- Nếu một người không lập gia đình với người họ yêu họ thương, thì họ có thể tạo lập một gia đình hạnh phúc không? Bạn có thể chấp nhận lập gia đình với người bạn không yêu không?
11. Gia đình gương mẫu – Lm Carôlô Hồ Bặc Xái
- Dẫn vào Thánh lễ
Con Thiên Chúa đã sinh ra làm người và sống trong một gia đình. Gia đình của Ngài gồm có Thánh Giuse, Đức Mẹ Maria và Ngài. Một gia đình rất thánh thiện, gương mẫu. Hôm nay dâng lễ mừng kính Thánh Gia, chúng ta hãy học nơi các Ngài những đức tính cần có trong cuộc sống gia đình, và chúng ta xin các Ngài ban ơn cho gia đình chúng ta.
- Gợi ý sám hối
- Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì những thiếu sót của chúng ta đối với những người trong gia đình mình.
- Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì chưa dành chỗ xứng đáng cho Chúa trong gia đình mình.
- Chúng ta hãy ăn năn sám hối vì những gương xấu mà gia đình mình đã gây ra cho những gia đình chung quanh.
III. Lời Chúa
- Bài đọc I: 1 Sm 1,20-22.24-28
Vợ chồng Anna và Elqana son sẻ, nhờ cầu xin Chúa nên cuối cùng sinh được đứa con trai, đặt tên là Samuel. Vì ý thức rằng con cái là ơn ban của Chúa, cho nên vừa sinh con thì hai ông bà đã đem nó dâng cho Chúa.
- Đáp ca: Tv 83
Đây là một Thánh Vịnh hành hương. Điều đáng chúng ta lưu ý là mặc dù hôm nay là lễ Gia đình, nhưng Phụng vụ đã chọn đọc một Thánh vịnh hành hương “Lạy Chúa Tể càn khôn, cung điện Ngài siết bao khả ái. Mảnh hồn này khát khao mòn mỏi, mong tới được khuôn viên đền vàng… Phúc thay người ở trong Thánh điện”. Nghĩa là: ngoài ngôi nhà gia đình, chúng ta còn một ngôi nhà khác, đó là Nhà Chúa.
- Tin Mừng (Lc 2,41-52)
a/. Tường thuật chuyện Thánh gia hành hương lên Giêrusalem dự lễ Vượt qua:
Luật hành hương chỉ buộc những “nam nhân”, tức là người nam và từ 13 tuổi (tuổi được luật pháp công nhân là trưởng thành) trở lên. Thế mà cả Đức Mẹ và Chúa Giêsu năm đó mới 12 tuổi cũng đi.
Lễ Vượt qua kéo dài 7 ngày. Nhưng luật chỉ buộc dự 3 ngày đầu thôi, những ngày sau tuỳ ý. Thánh gia đã dự cho đến “xong kỳ lễ”.
Như thế, Thánh Gia đã giữ luật đạo rất chín chắn, hơn cả mức đòi buộc của Luật.
b/. Sau khi kỳ lễ đã xong, trong khi mọi người ra về thì Chúa Giêsu còn ở lại trong Đền thờ. Khi cha mẹ tìm gặp Ngài thì Ngài đáp “Con có bổn phận ở nhà của Cha con”. Qua thái độ và lời nói này, Chúa Giêsu muốn chuẩn bị cho cha mẹ Ngài biết và chấp nhận rằng Ngài còn có bổn phận đối với Chúa Cha.
c/. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một đứa con bất hiếu, bởi vì Tin Mừng thuật tiếp rằng “Sau đó Ngài cùng cha mẹ trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài”.
- Bài đọc II: 1 Ga 3,1-2.21-24
Thánh Gioan lưu ý rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vì thế hãy mạnh dạn đến với Thiên Chúa là Cha chúng ta, mặt khác hãy tuân giữ các giời răn của Ngài, nhất là giới răn yêu thương nhau.
- Gợi ý giảng
* 1. Những bài học từ Lời Chúa hôm nay
a/ Từ bài đọc I: (1) Con cái là ơn ban của Chúa: Vợ chồng Anna và Elqana ý thức rằng đứa con của họ là ơn ban của Chúa, vì thế nên vừa sinh con ra thì họ đã đem lên Đền thờ dâng hiến cho Chúa. (2) Ý hướng của đứa con: Khi lớn lên cậu bé Samuen đã từ giã gia đình vào đền thờ Silô dâng mình cho Chúa. Cha mẹ nào cũng có những ý định cho tương lai con cái. Nhưng cha mẹ không thể thay con cái mà sống cuộc đời của nó. Vì thế Cha mẹ cũng phải tôn trọng chọn lựa của con. (3) Ơn gọi của đứa con: Chúa đã gọi Samuel, cậu đã đáp lời, cha mẹ cậu chẳng những không ngăn cản mà còn đưa con vào sống trong đền thờ để tạo điều kiện thuận lợi cho cậu đáp lời Chúa gọi.
b/ Từ bài Tin Mừng: (1) Chuyện trẻ Giêsu ở lại Đền thờ khiến Thánh Giuse và Đức Mẹ lo lắng cho thấy dù là đối với một gia đình tốt lành thánh thiện đến mức nào đi nữa, vẫn không tránh khỏi những buồn phiền, va chạm. Tuy nhiên gia đình thánh thiện biết giải quyết và vượt qua những lúc u tối đó bằng cách làm theo ý Thiên Chúa. (2) Ta thường nói rằng trẻ Giêsu bị lạc mất trong Đền thờ. Thực ra Chúa Giêsu không đi lạc vào một nơi xa lạ, mà Ngài đến ở trong Nhà của Cha Ngài. Điều này cho chúng ta thấy ngoài ngôi nhà ở gia đình, chúng ta còn một ngôi nhà khác nữa, là Nhà Thờ, Nhà của Cha trên trời. Nhiều kẻ vô phúc không nhà không cửa đã tìm được hạnh phúc khi đến với Chúa trong Nhà thờ; nhiều người ngột ngạt khổ sở ở nhà mình đã tìm được an ủi và sức mạnh trong Nhà thờ.
c/ Từ bài đọc II: Thánh Gioan nhắc nhở rằng: cũng như Chúa Giêsu vừa là con của Thánh Giuse và Đức Mẹ, vừa là con của Thiên Chúa, thì chúng ta cũng thế. Đừng quên mình là con Thiên Chúa nên hãy sống thân mật với Ngài và sống theo giới luật yêu thương Ngài dạy.
* 2. “Mất con”
Tiến trình lớn lên của đứa con có thể khiến cho cha mẹ cảm thấy như mình dần dần bị mất con. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay giúp ta hiểu thêm nhiều khía cạnh tâm lý về vấn đề này:
– “Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem mà cha mẹ chẳng hay biết”: Không phải Chúa Giêsu vì mãi chơi mà ở lại. Ngài cố ý ở lại. Các nhà tâm lý giáo dục lưu ý rằng khi một đứa con cứ quấn quít mãi bên cạnh cha mẹ thì đó là dấu hiệu không tốt, cho thấy rằng dù tuổi nó đã lớn nhưng nó vẫn cảm thấy không an toàn nên không dám tự lập. Còn khi đứa con đã an tâm về tình thương của cha mẹ thì nó dám rời xa cha mẹ để đi khám phá thế giới của nó. Cha mẹ đừng buồn vì chuyện đó, cũng đừng vì thế mà giảm bớt yêu thương. Thật là dễ khi yêu thương đứa con lúc nó còn nhỏ cứ bám víu lấy mình. Nhưng khi nó lớn, bắt đầu rời xa vòng tay che chở của mình mà mình vẫn yêu thương nó thì tình thương đó phải lớn hơn và khéo léo hơn nhiều.
– “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”: Có lẽ thánh Giuse và Đức Mẹ – cũng như mọi cha mẹ khác – vẫn coi Chúa Giêsu là một đứa trẻ và mãi mãi là một đứa trẻ. Lời Chúa Giêsu nhắc nhở hai Đấng rằng Ngài đã lớn, Ngài có cuộc đời riêng của Ngài và Ngài có bổn phận phải sống ơn gọi riêng ấy. à Khi đứa con bắt đầu có những suy nghĩ riêng và những dự định riêng của mình, cha mẹ đừng vội rầy là hay phản đối kẻo bóp chết đi đà phát triển của nó. Khôn ngoan hơn, hãy lắng nghe và nếu thấy đúng thì hãy khuyến khích, tạo điều kiện.
– “Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”: Thánh Giuse và Đức Maria không rầy la, nhưng im lặng và suy nghĩ. à Im lặng, lắng nghe và tìm hiểu con cái, đó là điều mà nhiều cha mẹ không biết; cha mẹ không lắng nghe và không tìm hiểu, đó cũng là điều mà nhiều đứa con trách cha mẹ mình; và cũng là mấu chốt khiến mối liên hệ giữa cha mẹ với con cái càng thắm thiết hơn hay càng ngày càng xấu đi.
– “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài”: Sau biến cố này, Chúa Giêsu càng thấy rõ hơn tình thương, sự lo lắng và sự tôn trọng của cha mẹ đối với mình, nên Ngài càng yêu mến, tôn kính và vâng phục hai đấng. Hạnh phúc gia đình không phải vì gia đình không gặp sóng gió. Hạnh phúc gia đình là do cha mẹ con cái hiểu nhau, yêu thương nhau và tôn trọng nhau. Những sóng gió, va chạm nhiều khi còn làm cho người ta hiểu nhau và thương nhau hơn, do đó hạnh phúc gia đình càng được củng cố thêm.
* 3. Gia đình Nadarét và gia đình chúng ta
Thánh Gia Nadarét là một gia đình như hầu hết các gia đình khác nhưng lại khác hẳn tất cả những gia đình khác. Như hầu hết các gia đình gia đình Nadarét. Nghèo
- Vì nghèo không có vốn đầu tư kinh doanh, gia đình Nadarét phải lấy sức mình ra làm việc để sinh sống: thánh Giuse làm thợ mộc, Đức Maria làm nội trợ suốt ngày bận rộn với những việc nấu nướng, giặt giũ, may vá, quét dọn… Chúa Giêsu khi còn nhỏ thì phụ giúp cha mẹ, lớn lên nối nghiệp thánh Giuse làm nghề thợ mộc. Đây là một gia đình lao động, tay chân.
Lao động tay chân thì vất vả: đổ mồ hôi, tay chân chai sạm, quần quật suốt ngày… Mặc dù quần quật suốt ngày nhưng cũng chỉ đủ ăn không dư giả. Trong Tin Mừng ta tìm thấy hai bằng chứng về tình trạng không dư dả của gia đình Nadarét: Khi đem con đầu lòng dâng vào Đền Thờ cùng với lễ vật theo luật định, những gia đình khác người thì dâng tiền, người thì dâng chiên cừu, còn gia đình của thánh Giuse chỉ dâng có một đôi chim câu là thứ lễ vật của những người nghèo. Khi đi Bêlem, hai ông bà không có tiền thuê nhà trọ nên đành phải trú chân trong hóc đá, chỗ làm nơi tạm trú cho súc vật. Gia đình này không dư dả.
- Vì không có dư giả nên dĩ nhiên cũng có những lúc túng thiếu, những ngày lo âu vì miếng cơm manh áo.
- Vì túng thiếu nên dĩ nhiên cũng không được người đời coi trọng mà còn bị khinh chê. Ta nhớ lúc Chúa Giêsu đã đi rao giảng mà vẫn còn có người nhận xét về Ngài bằng một giọng khinh chê “Con ông thợ mộc như thế mà là Đấng Cứu thế cái nỗi gì!”
Nhưng gia đình Nadarét lại khác tất cả các gia đình khác:
- Khác ở chỗ tự ý chọn cuộc sống: lao động chân tay nghèo nàn, là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu có thể chọn sinh ra trong một gia đình giàu có nhưng Ngài đã chọn sinh ra trong một gia đình lao động nghèo nàn như thế.
- Khác ở chỗ mặc dù nghèo nhưng những người trong gia đình này không lục đục với nhau như thường thấy trong các gia đình chúng ta: khi túng thiếu chúng ta sinh ra bực bội, gắt gỏng, gia đình hay cãi và xung đột với nhau.
- Khác ở chỗ dù nghèo nhưng không gian tham, trộm cắp như thường thấy trong nhiều gia đình khác.
Tóm lại gia đình Nadarét dù nghèo, dù làm lụng vất vả nhưng rất hạnh phúc rất thánh thiện.
Gia đình Nadarét của thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Giêsu thật là
- Một niềm hãnh diện cho các gia đình lao động nghèo nàn.
- Một nguồn an ủi khích lệ cho các gia đình lao động nghèo nàn.
- Và là Một tấm gương sáng cho chúng ta noi theo. Nhìn vào nếp sống gia đình này ta có thể học được rất nhiều bài học quý giá.
a/ Bài học thứ nhất là: trong gia đình, mọi người đều phải làm việc.
Thánh Giuse làm thợ mộc, Đức Mẹ làm nội trợ, Chúa Giêsu khi nhỏ giúp cha giúp mẹ và lớn lên cũng làm nghề thợ mộc. Người nào việc ấy, người mạnh làm việc nặng, người yếu làm việc nhẹ, người chưa rành thì phụ giúp những người khác, ai cũng có công việc theo khả năng của mình.
Cổ nhân đã nói “nhàn cư vi bất thiện” ở không thì sinh ra hư đốn làm điều không tốt. Những gia đình giàu có ở không riết rồi chồng thì say sưa, ngoại tình, vợ thì cờ bạc, ngồi lê đôi mách, con cái thì đua đòi, chơi bời lêu lỏng, tập tành nhiều thói xấu. ngay cả những gia đình nghèo nhưng không biết thu xếp công việc, cho con cái đi chơi suốt ngày thì chúng cũng hư: làm biếng, trộm cắp, ăn nói sàm sở, chửi thề nói tục, đủ thứ…
Một số gia đình tổ chức công việc rất khéo: con cái những đứa còn nhỏ thì giao cho chúng những việc nhỏ, như quét nhà, rửa chén, giữ em; những đứa lớn hơn thì tập cho chúng may vá, nấu cơm, nuôi heo, làm gia công những đồ tiểu thủ công nghiệp… Giờ nào học thì học, còn những giờ khác thì làm việc, ai cũng có việc nấy. Dần dần thành nếp, mọi người đều cần cù siêng năng, biết dùng thời giờ của mình làm việc hữu ích, biết giá trị của đồng tiền và nhờ đó biết tiết kiệm không hoang phí, cũng không có những thói xấu như chơi bời lêu lỏng, ngồi lê đôi mách, trộm cắp gian tham…. Những gia đình biết thu xếp như vậy tuy nghèo nhưng không đến nỗi thiếu thốn vì ai cũng siêng năng và biết xoay sở.
Ngược lại trong một số gia đình chúng ta, cha mẹ thì làm ăn rất là vất vả nhưng con cái thì lại không tập cho chúng làm, để chúng đi chơi hầu như suốt ngày. Chúng vừa chẳng giúp gì cho gia đình, vừa là một gánh nặng cho gia đình, lại vừa lây nhiễm đủ thứ thói xấu ngoài xã hội.
b/ Bài học thứ hai là ta phải nên thánh ngay trong những việc lao động hằng ngày của chúng ta.
Có rất nhiều người than rằng vì bận rộn làm ăn nên đạo hạnh bê trễ. Đây là một quan niệm sai lầm, tách đời ra khỏi đạo, chia cách việc làm với đạo đức. Dĩ nhiên người bận rộn làm việc thì không có nhiều giờ để đọc kinh, để đến nhà thờ. Nhưng mỗi sáng dành ra vài phút để cầu nguyện, mỗi tối dành vài phút cầu nguyện nữa, Chúa nhật thu xếp đi lễ khoảng hơn 1 tiếng đồng hồ, như vậy đâu phải là nhiều. Và thậm chí nếu mình quá bận rộn thực sự để không thể làm những việc đó thì Chúa cũng không bắt tội chúng ta, Chúa chỉ bắt tội lười không có thể làm mà không làm thôi. Vả lại sống đạo đâu phải chỉ là đọc kinh cầu nguyện, mà là đem tinh thần đạo vào chính cuộc sống của mình.
- Người sống đạo thật không đợi đến lúc tới nhà thờ mới nhớ tới Chúa, nhưng họ luôn dâng mọi việc họ làm hằng ngày cho Chúa, kết hợp với Chúa trong chính công việc của mình.
- Người sống đạo thật cố gắng tránh những cám dỗ trong khi làm việc: cám dỗ làm cẩu thả, gian dối, cám dỗ lười biếng, cám dỗ trộm cắp. Như vậy vừa làm việc họ vừa rèn luyện đạo đức và lập công trước mặt Chúa.
- Người sống đạo thật biến việc làm hằng ngày thành những công nghiệp, những lễ vật dâng lên Thiên Chúa và họ nên thánh bằng chính những công việc họ làm.
Chúa Giêsu đã dùng 30 năm trong số vỏn vẹn 33 năm ở trần gian để sống trong gia đình Nadarét, để làm việc lao động chân tay cực nhọc. Điều đó rất có ý nghĩa: Chúa muốn cho chúng ta thấy giá trị thánh thiện của việc lao động hằng ngày và Chúa muốn nêu gương cho chúng ta. Chúng ta hãy nhớ dạy cho con cháu mình biết làm việc cần cù siêng năng, và chúng ta hãy tự thánh hóa đời mình bằng chính những công việc hằng ngày.
* 4. Những cánh cửa mở ra phía nhân loại
Ánh sáng soi cho các dân tộc.
Thánh Luca là người Hy lạp. Ngài loan báo tin mừng cho đồng bào mình và đôi khi ngài phải chống lại những Kitô hữu gốc Do thái cứ muốn bắt những tân tòng người nước ngoài phải tuân giữ luật lệ và lễ nghi Do thái. Khi trình thuật sự kiện “Đức Bà dâng Con trong đền thờ”, thánh Luca có dụng ý cho ai nấy hiểu rằng, sứ điệp tin mừng không chỉ dành riêng cho dân Israel, mà được gởi cho hết mọi người đàn ông, mọi người phụ nữ trên toàn thế giới.
Vì vậy mà việc “dâng con” thay vì chỉ là việc riêng của gia đình diễn ra trong vòng ấm cúng thân mật, lại trở nên một biến cố có liên quan đến cả loài người mọi nơi mọi thời. Cái nghi thức theo truyền thống chỉ là nghi thức thanh tẩy người mẹ, lại trở thành cuộc biểu dương sứ mệnh đặc biệt của người con, như nói với cả thế giới rằng: Đây là Đấng Thiên Sai sắp khai trương một thời đại mới. Hai cụ già Simêon và Anna tượng trưng cho các thế hệ mòn mỏi chờ mong Đấng Cứu Thế.
Cha mẹ Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse là những người miền Bắc, người Nadaréth và lễ cung hiến người con lại diễn ra tại Giêrusalem, trong Đền Thờ. Đó là những chi tiết mang nhiều ý nghĩa. Giêrusalem là thành Thánh có Đền Thờ làm trung tâm. Chính tại Đền Thờ, Chúa Giêsu nhận được tước hiệu là Cứu Chúa muôn dân, là ánh sáng soi cho các dân ngoại, là sự biểu hiệu của Thiên Chúa vô hình.
Ơn cứu độ không thể bị cất giấu trong một đền thờ duy nhất cho dù đền thờ ấy có uy thế lẫy lừng cách mấy. Mà cả vũ trụ sẽ là đền thờ. Đền Thờ sẽ là tấm lòng của bất cứ người nào đón nhận Lời của Thần Khí. Thánh Luca cho biết, Đức Mẹ và thánh Giuse rất đổi ngạc nhiên. Mà các ngài ngạc nhiên cũng phải, vì các ngài lên đền thờ chỉ để cử hành một nghi thức gia đình, vậy mà lại vỡ lở ra thành lời tụng ca của muôn người muôn thế hệ.
Trong niềm vui được tin Đấng Thiên sai đến, lại có lẫn nỗi lo âu. Đấng có sứ mạng gom các dân tộc về một mối, một dân tộc duy nhất gồm những người anh em, thì lại nên dấu chỉ cho sự chia rẽ.
Bởi vì những kẻ từ chối Đấng Thiên Sai phổ quát (cho cả loài người, chứ không riêng dân Israel) sẽ nổi lên chống lại Ngài. Những người cứ khăng khăng không muốn thoát ra khỏi những cái khung suy nghĩ hẹp hòi, những cái khung đức tin và cuộc sống thiển cận, cũng sẽ nổi lên chống lại ngài, chứ không muốn theo chân Ngài đi gặp gỡ mọi người, thuộc mọi tiếng nói mầu da, chủng tộc, để sống với nhau trong tình anh em.
Ngày nay, những hình thái mới của đời sống xã hội, đặc biệt là trong lao động và giải trí, đang khiến các gia đình lung lay.
Mừng lễ Thánh Gia Thất, liệu chúng ta sẽ đón nhận Đấng Thiên sai của thời mới, Đấng có những lời lẽ phát minh và sáng tạo? Lễ này cho chúng ta biết rằng gia đình theo Chúa Giêsu có những cánh cửa mở ra phía gia đình nhân loại bao la rộng lớn (CgvDt, số đặc biệt Giáng sinh ’99)
* 5. Mái Ấm Tình Thương – Lc 1,41-52
Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa, thấy người đào, chôn, lăn, khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn, khóc. Bà mẹ thấy thế, nói: chỗ này không phải chỗ con ta ở. Rồi dọn nhà ra gần chợ.
Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước cách buôn bán đảo điên. Bà mẹ thấy thế, lại nói:
“Chỗ này cũng không phải chỗ con ta ở. Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học.
Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, về nhà cũng bất chước học tập lễ phép. Bấy giờ bà mẹ mới vui lòng nói: “Chỗ này là chỗ con ta ở đây.
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết lợn, về hỏi mẹ: “Người ta giết lợn làm gì thế. Bà mẹ nói đùa: “Để cho con ăn đấy”. Nói xong, bà nghĩ lại, hối rằng: “Ta nói lỡ mồm rồi. Con ta thơ ấu, tri thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng ra ta dạy nó nói dối hay sao!”. Rồi bà đi mua thịt lợn, đem về cho con ăn thật.
Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi, trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng: “Con đang đi học, mà bỏ học, thì cũng như mẹ đang dệt tấm vải này mà cắt đứt như vậy”. Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần. Về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ công giáo dục quí báu của bà mẹ hay sao?
***
- Thánh Gia Thất là mẫu gương giáo dục tuyệt vời cho các gia đình cũng như cho các cộng đồng tu viện.
- Thánh Gia Thất là trường huấn luyện cho Chúa Giêsu, chuẩn bị ngày lãnh nhận sứ mạng Chúa Cha giao phó.
- Thánh gia thất là chuẩn mực chính xác nhất cho các người cha, người mẹ và con cái trong gia đình.
- Giuse đích thực là một người cha: Sáng ngời trong đức tin mạnh mẽ, nêu cao niềm phó thác cậy trông và tận tình chăm lo cho trẻ Giêsu cùng mẹ thánh Người. Người làm chủ gia đình với tinh thần đầy trách nhiệm, và siêng năng cần cù lao động, trong làng quê nghèo Nadarét.
- Maria chính là người mẹ: Gương mẫu trong đời sống nội tâm, và sâu lắng trong tâm tình cầu nguyện. Mẹ chính là người nội trợ đảm đang, chu toàn công việc gia đình, và chăm sóc dạy dỗ con trẻ Giêsu.
- Chúa Giêsu là người con thảo hiếu: “Hằng vâng phục cha mẹ” Giuse và Maria, lớn lên mỗi ngày trong sự khôn ngoan và nhân đức, nhất là luôn lo việc “bổn phận ở nhà Cha”.
Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình có thuận hoà, thì xã hội mới an vui. Lễ Thánh Gia chính là lễ của mọi gia đình. Noi gương Thánh Gia Thất, các gia đình chúng ta luôn sống có trật tự trên dưới, liên đới trong tình hiệp thông, và chăm lo cho nhau trong tình yêu thương đầm ấm.
Con Thiên Chúa chỉ ra giảng đạo có ba năm, nhưng đã phải chuẩn bị ở mái trường Nadarét suốt ba mươi năm. Nadarét là trường dạy cầu nguyện dạy lao động, dạy yêu thương. Nadarét là một vùng quê hẻo lánh, nhưng lại mang một mái ấm tình thương. Mái ấm Nadarét rất đỗi bình thường, nhưng cũng lại rất khác thường.
- Một mái ấm luôn chan hoà bầu khí yêu thương và đạo hạnh.
- Một mái ấm luôn ngập tràn tiếng cười vui vì hạnh phúc.
- Một mái ấm mà các thành viên luôn để ý quan tâm cho nhau
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, trước tiên phải có Chúa hiện diện.
Mái ấm Nadarét luôn hạnh phúc vì lúc nào cũng có Chúa ở giữa Giuse và Maria. Nếu mỗi gia đình chúng ta đều mời được Chúa đến ở trong gia đình thì chính Người sẽ là dây liên kết để chúng ta yêu thương nhau, là sức mạnh để chúng ta vượt thắng mọi sóng gió, là mẫu gương để chúng ta nhẫn nhịn và tha thứ cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, mỗi người chúng ta cũng hãy sống cho đúng cương vị của mình là cha, là mẹ, là chồng là vợ, là con cái. Thánh Phaolô khuyên: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng hãy thương yêu vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự. Vì đó là đẹp lòng Chúa ” (Cl 3,21)
***
Lạy Chúa, là nguồn mọi tình yêu, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con tấm gương Thánh Gia Thất, làm khuôn mẫu cho mọi quan hệ giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình. và giữa cộng đoàn tu viện với nhau.
Xin cho chúng con biết kính trọng và yêu thương Nhau, không phán xét khi hồ nghi, không kết án khi chưa tường, không phụ rẫy khi còn cứu vãn được, nhưng thông cảm và tìm hiểu, nâng đỡ và tha thứ, và trên hết luôn tìm sống theo thánh ý Chúa. Amen (Thiên Phúc “Như Thầy Đã Yêu”)
* 6. Hy sinh cho con cái
Có câu nói “Một người mẹ có thể chăm sóc cho 10 đứa con. Nhưng 10 đứa con không chăm sóc nổi một người mẹ”. Chúng ta hãy suy nghĩ xem câu nói này đúng không.
Một con chim mẹ có một con chim con. Chim mẹ thương yêu chim con vô cùng. Mùa đông đến, các loài chim phải rời xứ lạnh để bay đến những xứ ấm áp hơn. Chim mẹ biết chim con còn yếu không bay xa nổi nên cõng con trên lưng. Ban đầu chim mẹ còn khoẻ nên bay khá nhanh. Nhung sau một đoạn đường dài, chim mẹ mệt và cảm thấy đứa con trên lưng mình ngày càng nặng, nhưng vẫn cố bay. Tuy nhiên một ngày kia chim mẹ đuối sức nên đành phải đáp xuống nghỉ. Trong lúc nghỉ ngơi, chim mẹ hỏi chim con: “Con ơi, hãy nói thật cho mẹ nghe nhé. Sau nay khi mẹ đã già, không còn sức bay về phía nam ngang qua những đại dương bao la thì con có cõng mẹ trên lưng như mẹ đang làm cho con bây giờ không?” Chim con trả lời: “Con e rằng không mẹ ạ!”. Chim mẹ ngạc nhiên hỏi tiếp: “Sao vậy?”. Chim con lại đáp: “Vì khi đó, con phải cõng con của con”.
Câu trả lời của chim con gợi cho ta thấy hai điều:
a/ Một sự thật phũ phàng: Cha mẹ nào cũng hết lòng thương con và hy sinh tất cả vì con. Nhưng con cái thì đáp lại không được bao nhiêu. Ca dao Việt Nam có câu: “Cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày”.
b/ Một quy luật tự nhiên: Cũng có câu “Nước luôn chảy xuống”. Cũng như dòng nước luôn chảy xuống thấp chứ không chảy lên cao. Chảy xuống là chảy xuôi, còn chảy lên là chảy ngược. Cha mẹ yêu thương con cái và hết lòng chăm sóc con cái là quy luật tự nhiên.
Trước hai điều hiển nhiên trên, chúng ta phải làm sao? Một mặt, chúng ta hãy làm tất cả những gì có thể làm được để đền đáp công ơn trời biển của cha mẹ; và mặt khác chúng ta hãy hết lòng chăm sóc con cái chúng ta. Hết lòng chăm sóc con cái mình cũng là một cách để đền đáp công ơn cha mẹ trước đây đã hết lòng chăm sóc mình vậy.
* 7. Chuyện minh họa
a/ Làm thế nào chịu thế ấy
Một Cha sở ở miền núi trước khi lên giường ngủ quỳ xuống quay mặt về hướng nghĩa địa và cầu nguyện. Đêm yên lặng, những nấm mộ chập chờn trong bóng tối, những cây thánh giá lô nhô trong nghĩa địa. Tất cả những cái đó làm cho ngài cầu nguyện thật sốt sắng. Một đêm kia ngài nghe có tiếng chân người và tiếng đá rơi. Trong bóng tối ngài thấy một hình người đang trèo lên thành nghĩa địa và đi giữa những nấm mồ. Một kẻ trộm? Một tên điên? Qua đêm thứ tư, ngài núp sau một cây, ngài thấy rõ người lạ mặt đến quỳ trước ngôi mộ và khóc than thảm thiết: “Cha ơi, cha có tha cho con không? Cha nói đi, cha nói đi”
Cha sở nhìn kỹ và biết đó là một người bổn đạo trong họ. Người này đã ngỗ nghịch làm cho người cha phiền muộn quá đến chết đi.
– Ồ con, con còn bị cắn rứt không thể nào ngủ được sao?
Người bổn đạo khiếp sợ quá nhưng khi nhận ra tiếng cha sở thì định thần lại nói:
– Thưa cha, con không được bằng an chút nào cả. Hình ảnh cha con đang tức giận luôn theo dõi con.
– Con biết con đã xử tệ với cha con, con cái của con cũng sẽ xử tệ với con như vậy. Ngày mai con hãy đem con cái đến đây và xin chúng đừng bắt chước gương xấu của con đã làm.
10 năm sau, người bổn đạo đó chết và được chôn cất trong nghĩa địa ấy. Trong khi cha sở đang làm phép mộ, con cái ông ta lên tiếng nhạo báng và chửi rủa. Ôi các bạn trẻ, đừng bao giờ quên truyện này. (Trích “Phúc”)
b/ Không phải khách
Một bé gái 5 tuổi. Sau khi làm dấu ăn cơm, được mẹ dậy nên em thường nói: “Lạy Chúa Giêsu, xin dùng cơm với gia đình chúng con!” Lần đó, em đột ngột ngó mẹ, nói:
– Mẹ ơi, con không muốn Chúa là khách nhà mình.
– Sao vậy con?
– Vì khách thỉnh thoảng mới đến. Con muốn Chúa ở luôn đây cơ!
c/ Bận lắm!
Một thiếu niên phải ra trước vành móng ngựa vì tội làm bạc giả. Vị thẩm phán biết rõ gia đình em. Bố em là một luật gia nổi tiếng, từng viết nhiều bài báo nói về “Sự thật”. Vị thẩm phán hỏi:
– Cháu có nhớ bố mình không? Người bố mà cháu đã bôi nhọ thanh danh của ông.
– Có, cháu nhớ ông ấy rất rõ. Nhưng mỗi khi cháu muốn lại gần xin bố chỉ dạy, bố cháu thường mắng: “Nhóc con, cút đi, tao bận lắm!” Bố cháu thường dành hết thời giờ cho công việc, ít quan tâm đến cháu, nên giờ cháu mới ra thế này.
Vị luật gia thường viết về sự thật, nhưng lại quên mất sự thật lớn lao nhất là con mình. Thật là sai lầm.
- Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, bà Anna đã cầu nguyện với lòng tin mãnh liệt và Chúa đã ban cho bà một đứa con trai mà bà đã kiên trì khấn xin. Cùng với bà Anna, chúng ta hãy khẩn cầu Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót:
- Ngày hôm nay có rất nhiều trẻ em bị tổn thương tình cảm vì cha mẹ ly dị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn quan tâm và tìm mọi cách nâng đỡ những trẻ em bất hạnh này.
- Nhiều gia đình tan vỡ vì gặp cảnh hiếm muộn / hoặc đôi khi niềm tin bị lung lay vì cái chết của đứa con yêu quý / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ xác tín rằng / Chúa luôn yêu thương hết thảy mọi con cái của Người.
- Một trong những tội ác làm thiệt hại cho đời sống hôn nhân và gia đình / đó là vấn đề đồng tình luyến ái / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / thức tỉnh những ai đang sống trong tình trạng sai trái này.
- Để tình yêu được bền vững / và hạnh phúc gia đình được bảo đảm / việc học hỏi giáo lý hôn nhân là một việc làm hết sức cần thiết / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các thanh niên nam nữ trong giáo xứ chúng ta / biết tích cực chuẩn bị trước khi kết hôn.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin ban thêm ơn trợ giúp cho các bậc làm cha làm mẹ, để giữa muôn vàn thử thách trong đời sống hôn nhân và gia đình, các ngài vẫn có thể luôn chu toàn bổn phận giáo dục nhân bản và đức tin cho con cái của mình. Chúng con cầu xin
- Trong Thánh Lễ
Trước Kinh Lạy Cha: Ngoài gia đình tự nhiên, người kitô hữu chúng ta còn có được một gia đình siêu nhiên trong đó Thiên Chúa là Cha, mọi người là anh em với nhau, và Chúa Giêsu là anh cả. Trong tình nghĩa gia đình ấy, chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa lời kinh Lạy Cha.
VII. Giải tán
Sau khi được khuyến khích bởi tấm gương gia đình Nadarét, giờ đây anh chị em trở về sống với gia đình mình và các gia đình hàng xóm. Anh chị em hãy sống theo gương thánh gia. Chúc anh chị em bình an.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
- DẪN NHẬP
Hằng năm, lễ Thánh gia được tổ chức vào Chúa nhật sau lễ Giáng sinh để nêu lên một tấm gương sáng chói cho các gia đình noi theo. Sách Tin mừng thuật lại rất ít sự kiện có liên quan đến lễ này. Tuy nhiên, chúng ta cũng gặp thấy những gương nhân đức của từng thành phần trong gia đình thánh gia như: các nhân đức âm thầm của Đức Maria, đức tin phó thác của thánh Giuse và sự vâng phục của Đức Giêsu.
Đấy là những mẫu gương sán lạn, những bài học quí giá cho chúng ta. Nếu mỗi thành phần trong gia đình thực hành được những nhân đức ấy thì gia đình sẽ trở nên một cộng đoàn yêu thương, sống đùm bọc lẫn nhau, trong cảnh trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm.
Ngày nay các gia đình trên thế giới nói chung, và gia đình Công giáo nói riêng, đang trên đã xuống dốc: ly dị lan tràn khắp nơi, gia đình tan vỡ ly tán, gây ra cho xã hội biết bao cảnh thương tâm. Nếu mỗi thành phần trong gia đình biết noi gương Thánh gia mà xây dựng gia đình, cố gắng trung thành thi hành nhiệm vụ của mình một cách hoàn hảo thì gia đình sẽ thành một cộng đoàn hạnh phúc, một “Giáo hội tại gia” đúng nghĩa.
- TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Hc 3,3-7.14-17a.
Sách Huấn ca hôm nay dạy con cái phải thảo kính cha mẹ. Thảo kính cha mẹ không phải chỉ là một tình cảm tự nhiên mà còn là ý muốn của Thiên Chúa:”Thứ bốn thảo kính cha mẹ”. Việc thảo kính cha mẹ sẽ đem lại nhiều ơn ích:
– Đền bù các tội lỗi đã phạm.
– Khi cầu xin, sẽ được Thiên Chúa nhận lời.
– Nếu ai hiếu thảo với cha mẹ thì sau này sẽ dược con cháu thảo hiếu lại vì như người ta nói:” sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy”.
+ Bài đọc 2: Cl 3,12-21.
Trong thư mục vụ gửi cho tín hữu Colossê và Eâphêsô, thánh Phaolô rất chú trọng đến đời sống gia đình. Theo đó, trong đời sống gia đình phải có những đức tính như: từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau.
Trong các đức tính ấy, thánh Phaolô đặc biệt chú trọng đến việc tha thứ. Ngài khuyên:”Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em hãy tha thứ cho nhau”. Nhưng muốn thực hiện được các đức tính trên, cần phải có một nhân đức nền tảng: đó là đức bác ái yêu thương.
+ Bài Tin mừng.
Năm A: Mt 2,13-15.19-23.
Thánh Matthêu làm nổi bật vai trò của thánh Giuse trong gia đình Nazareth, với tư cách là gia trưởng, Thiên Chúa hướng dẫn và điều khiển gia đình Thánh gia qua vai trò của thánh Giuse. Vì thế, thiên thần Chúa báo mộng cho thánh Giuse phải đem hài nhi Giêsu và mẹ Người trốn sang Ai cập vì vua Hêrôđê đang tìm giết con trẻ Giêsu. Khi vua Hêrôđê băng hà, thiên thần Chúa lại báo mộng cho Giuse phải đem con trẻ và Mẹ Người trở về quê hương. Giuse đã mau mắn đem gia đình trở về và định cư tại Nazareth. Trong mọi bước đường gian nay buổi ban đầu, thánh Giuse hoàn toàn theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, còn Đức Maria và Đức Giêsu hoàn toàn sống theo sự hướng dẫn của thánh Giuse. Do đó, đây là một gia đình trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm.
Năm B: Lc 2,22-40.
Thánh Luca tường thuật cho chúng ta việc Đức Maria và thánh Giuse lên đền thờ dâng con trẻ Giêsu cho Thiên Chúa theo Lề Luật. Và trong dịp này có hai người là ông già Simêon và cụ bà Anna nói tiên tri về tương lai của con trẻ. Qua sự kiện này, chúng ta cần lưu ý đến mấy điểm:
- a) Thánh gia là những người giữ Luật rất chín chắn. Thi hành đầy đủ mọi luật: như luật thanh tẩy người mẹ sau khi sinh con, luật cắt bì cho con trẻ, luật dâng con đầu lòng cho Thiên Chúa, mặc dầu các Ngài không bị buộc phải giữ những luật này.
- b) Gia đình Thánh gia rất hiệp thông: lúc nào mọi thành phần trong gia đình cũng cùng chung nhau thi hành Luật. Lúc nào cũng có sự hiện diện của nhau.
- c) Cha mẹ rất kinh ngạc về tương lai của con trẻ Giêsu khi ông già Simêon và bà Anna tiên báo vận mệnh vừa bi thương vừa vinh quang của con. Tuy Đức Maria và thánh Giuse chưa hiểu hết mầu nhiệm con mình, nhưng các Ngài vẫn sẵn sàng tuân theo sự chỉ dẫn và sắp xếp của Thiên Chúa.
Năm C: Lc 2,41-52.
Theo lối giải thích của các thầy rabbi thì dường như luật buộc phải đi hành hương Giêrusalem mừng lễ Vượt qua hằng năm chỉ bắt đầu áp dụng lúc 13 tuổi và chỉ bắt buộc các nam nhân. Lễ Vượt qua kéo dài 7 ngày, nhưng luật buộc chỉ phải dự 3 ngày đầu thôi. Tuy thế, Đức Maria và thánh Giuse tham dự cho đến cuối:”Khi lễ đã chấm dứt…”. Như vậy, Thánh gia đã giữ luật rất chín chắn hơn cả mức đòi hỏi của luật.
Sau kỳ lễ chấm dứt, các Ngài ra về nhưng Đức Giêsu còn ở lại Giêrusalem. Sau ba ngày đi tìm Đức Giêsu thì cha mẹ Ngài mới tìm thấy Con và các ngài hết sức bỡ ngỡ khi thấy Con mình đàng ngồi đàm đạo với các tiến sĩ luật. Được hỏi lý do thì Đức Giêsu chỉ trả lời với cha mẹ:”Con có bổn phận ở nhà của Cha Con”. Câu trả lời như thế khiến hai ông bà chưa hiểu hết ý nghĩa của nó.
Dù là người con ngoan, vào lúc 12 tuổi, Đức Giêsu đã làm một cuộc “thoát ly gia đình” để ưu tiên sống cho một Đấng mà Ngài gọi là “Cha” bằng một giọng thân thương nhất. Qua thái độ và lời nói này, Đức Giêsu muốn chuẩn bị cho cha mẹ Ngài biết và chấp nhận rằng Ngài còn có bổn phận đối với Chúa Cha. Tuy thế, Ngài luôn là người con có hiếu với cha mẹ:”Sau đó, Ngài cùng cha mẹ trở về Nazareth và hằng vâng phục các Ngài”(Lc 2,52).
- THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Xây dựng gia đình hạnh phúc.
- LÝ DO CỦA NGÀY LỄ THÁNH GIA.
Phong trào “gia đình Công giáo” đã có từ thế kỷ 16, nhưng đến cuối thế kỷ 19, Đức Giáo hoàng Lêô XIII cổ vũ mạnh và đặt ra “Lễ Thánh Gia” nhằm thúc giục mọi người theo gương thánh gia thất mà sống trên thuận dưới hòa để tạo lập những gia đình hạnh phúc.
Năm 1994 Liên hiệp quốc cũng như Giáo hội chọn làm năm quốc tế về gia đình. Gia đình đang gặp cơn khủng hoảng, đang trên đà xuống dốc một cách trầm trọng. Gia đình là nền tảng của xã hội, mà nền tảng hư hỏng thì xã hội cũng sụp đổ.
Do đó, Giáo hội muốn cho ta tổ chức lễ kính Thánh gia là để đề cao vai trò của gia đình và đưa ra mật mẫu gương tuyệt vời cho mọi người bắt chước, hầu củng cố lại gia đình và giúp cho xã hội thêm vững chắc.
- SỰ QUAN TRỌNG CỦA GIA ĐÌNH
Chúng ta thấy mối liên hệ giữa gia đình và Hội thánh rất sâu sắc và nhiều đến nỗi có thể gọi gia đình công giáo là “Giáo hội tại gia” (Lumen gentium, số 11). Vì thế, công đồng Vatican II nói:”Sự lành mạnh của con người cũng như của xã hội tự nhiên và Kitô giáo liên kết chặt chẽ với tình trạng tốt đẹp của cộng đoàn hôn nhân và gia đình” (MV số 47).
Trong tông huấn về gia đình “Familiaris Consortio”, Đức giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã khẳng định:”Gia đình là “trường học đầu tiên” dạy các đức tính xã hội mà không đoàn thể nào khác có thể vượt qua”(Gđ số 3).
III. PHÂN NHIỆM TRONG GIA ĐÌNH.
- Gia đình Thánh gia.
Nhìn vào gia đình Thánh gia, theo bài Tin mừng hôm nay, ta thấy Đức Maria và Đức Giêsu không làm gì cả. Nói đúng ra, hai Đấng không làm gì khác ngoài việc làm theo sự chỉ đạo của thánh Giuse; còn thánh Giuse thì không làm gì khác ngoài việc làm theo sứ thần Thiên Chúa. Đúng như người ta nói: ”Kim chỉ phải có đầu” (Tục ngữ).
Có sự thuận ý từ trên xuống: Thiên Chúa điều khiển thánh Giuse, thánh Giuse lại điều khiển Đức Maria và Đức Giêsu mà không có điều gì trục trặc, các ngài đã thực hiện chữ “thuận” vì người ta thường nói: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn” (Tục ngữ). Theo đó, các Ngài đã thuận vợ, thuận chồng và cả con cũng thuận nữa. Tất cả đều hài hòa để qui hướng về một mối là “Thuận Thiên” như người ta nói: ”Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”, nhờ đó, gia đình có thể vượt qua được mọi sự khó khăn chủ quan cũng như khách quan.
- Gia đình chúng ta.
Gia đình Thánh gia là một mô hình tuyệt vời trong sự phân công các thành viên trong gia đình cho có lớp lang thứ tự, hợp tình hợp lý để tạo nên sự hài hòa trong các thành phần.
Trong việc giáo dục gia đình, Đức Khổng Tử đã đưa ra một công thức giáo dục rất hay, đó là: quân, thần, phụ, tử, nghĩa là vua phải sống cho ra vua, tôi phải sống ra tôi, cha phải sống xứng với vai trò của cha, và con phải sống theo bậc làm con; bậc nào phải sống theo bậc ấy, đừng bao giờ đảo lộn. Trong gia đình có ba cấp thành viên: cha, mẹ và con cái. Chúng ta sẽ phân tích từng thành viên.
- a) Người cha trong gia đình.
Người ta nói: Kim chỉ phải có đầu”. Vậy ai nên làm chủ gia đình? Đương nhiên là người cha và người mẹ là hai vai trò quan trọng nhất. Còn nếu so sánh người cha với người mẹ thì có lẽ vai trò người cha quan trọng hơn vì người cha đồng thời cũng là người chồng; và theo thánh Phaolô thì “Người chồng là đầu của người vợ cũng như Đức Kitô là đầu của Hội thánh”(Ep 5,23). Tại sao vậy? Vì người cha có khả năng tốt hơn, có cái nhìn bao quát hơn, cả trong gia đình lẫn ngoài xã hội, có uy tín hơn để hướng dẫn các con. Gia đình nào có người cha tốt thì hầu như mọi sự trong nhà đều dễ trở nên tốt, vì người cha là cột trụ cho cả nhà dựa vào, là vị chỉ huy điều khiển mọi người, là người cầm lái đưa cả gia đình theo một hướng. Nếu ngược lại, thì người ta bảo:”nhà dột từ nóc”, gia đình bị hư hỏng từ đầu:”cá thối từ đầu”(Piscis a capite vivit et a capite faetet”. Hậu quả sẽ xẩy ra như người ta nói:
Người trên ở chẳng chính ngôi,
Làm cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào.(Ca dao)
Nói thế không phải là một mình người cha điều khiển gia đình, vẫn có sự tham gia của người mẹ một cách rất nhẹ nhàng mà người ta không ngờ. Đôi lúc vì người cha thiếu khả năng nên người mẹ đã lấn át vai trò của người cha.
Truyện vui: Hư danh.
Con chạy về hỏi cha:
– Ba ơi, Ba giảng cho con thế nào là “hư danh”.
Người cha trả lời:
– Hư danh hả? Ví dụ như má con giới thiệu Ba là chủ gia đình !!!
Hoặc truyện khác:
Đôi tân hôn chưa sống với nhau được bao lâu, người chồng hiền lành, điệu bộ có vẻ cù lần, nhưng vợ tinh anh sắc xảo, cần phải có tác phong bảo vệ quyền bính, nhất là con nhà có đạo phải dựa vào Kinh Bổn mới có nền tảng vững chắc, kẻo người nội trợ lấn át quyền gia trưởng.
– Thứ nhất dựa vào Kinh:
Một hôm gặp cơ hội bị chị vợ lấn át, anh ta mới dõng dạc tuyên bố: Mày phải biết ngày chịu phép Hôn phối, cha giảng: chồng là gia trưởng, là chủ , chồng giữ địa vị thánh Giuse trong nhà Nazareth. Mày không nhớ trong kinh cầu ông thánh Giuse: thánh Giuse làm đầu thánh gia. Thế tao là đầu trong nhà, thay địa vị thánh Giuse, mày phải nhận điều đó mới được.
– Thứ hai, sách Bổn dạy làm sao?
Sách bổn dạy:”Cha mẹ phải săn sóc con cái, chồng phải coi sóc vợ, chúa nhà phải coi sóc đầy tớ: bấy nhiêu “Đấng ấy” phải coi sóc kẻ thuộc về mình, hầu bằng cha mẹ phải săn sóc con cái vậy, chả gì tao cũng vào số “các đấng”. Đừng có mà khinh tao”. (Nguyễn duy Phượng, Thực chuộng vâng phục, 1969, tr 241-242)
- b) Người mẹ trong gia đình.
Thiên Chúa đã dựng nên người nam nữ có bản chất riêng, khác nhau mà không dẫm chân lên nhau. Dường như trong gia đình đã vốn sẵn có một sự phân nhiệm tự nhiên cho hai người:
- Nếu người chồng là rường cột chống đỡ gia đình, thì người vợ là sợi dây thân ái ràng buộc mọi người trong yêu thương hạnh phúc.
- Nếu người chồng là người đứng mũi chịu sào, đặt kế hoạch, tạo điều kiện kinh tế cho gia đình, thì người vợ lại là người quản lý tốt, quán xuyến sắp xếp mọi công việc trong nhà và bảo vệ tổ ấm gia đình hơn mọi người khác.
- Nếu người chồng là lý trí, là khối óc sáng suốt để chỉ huy, hướng dẫn gia đình như một ông thuyền trưởng chỉ huy con tầu, thì người vợ chính là người tài công khéo léo điều động con tầu đến mục tiêu đã định.
- Nếu người chồng là biểu tượng của quyền uy, nghiêm nghị và cứng cỏi, là khuôn mẫu, là kỷ luật, thì người vợ là sự dịu dàng, mềm mỏng cởi mở để con cái được thoải mái, dễ chịu trong khuôn khổ gia đình.
- Và sau cùng, nếu cần phải đối phó với một xã hội, một cuộc sống đa đoan, phức tạp, muôn mặt, khi sự cứng rắn và sức mạnh của người chồng không đủ đáp ứng, thì đã có sự khôn ngoan, tế nhị, mềm mỏng của người vợ bổ sung vào để đạt được kết quả.
Quan niệm “Phu xướng phụ tùy” của xã hội ta ngày xưa không còn phù hợp nữa. Nếu chồng là giám đốc thì vợ phải là quản lý hay phụ tá giám đốc chứ không phải là tôi tớ:”Cha đã đặt người nữ làm trợ tá bất khả phân ly của người nam… Xin cho anh biết trọn niềm tin tưởng ở chị, nhìn nhận chị là người bình đẳûng và cùng được thừa hưởng sự sống là hồng ân Chúa ban”(Lời cầu lễ Hôn phối).
Truyện: Tài tử Galicopter và người vợ.
Một trong những ngôi sao điện ảnh nổi tiếng nhất trong thập niên 50 là nam tài tử Galicopter. Ôâng nổi tiếng không những vì tài nghệ diễn xuất mà còn vì cuộc sống hôn nhân mẫu mực của ông. Vào khoảng cuối đời, quằn quại trong thể xác, ông đã nói về Rochi người vợ đã chung sống với ông trong gần 30 năm như sau: “Rochi là một người đàn bà tuyệt vời. Nàng là một người vợ đã biết thích nghi với tính khí và công việc của tôi. Nàng cũng biết cảm thông với những lỗi lầm của tôi. Nhất là nàng đã biết ở cạnh tôi khi nàng có thể, mỗi khi tôi cần đến n àng. Nàng là người vợ đích thực”.
Những lời khen tặng trên đây của tài tử Galicopter là một khẳng định rằng: người nắm giữ hạnh phúc gia đình, người nắm vai chủ động trong việc xây dựng hạnh phúc hôn nhân chính là người vợ. Dĩ nhiên sự thành công của hôn nhân là do sự hợp tác của hai vợ chồng. Nhưng người vợ vẫn giữ vai trò chủ yếu: “Đàn ông dựng nhà, đàn bà xây tổ ấm”(Tục ngữ).
- c) Con cái trong gia đình.
Còn Đức Giêsu trong gia đình Nazareth đã được thánh Luca mô tả vài nét trong Tin mừng:”Và Ngài đã xuống với ông bà về Nazareth. Và Ngài hằng tùng phục hai ông bà. Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ hết các điều trong lòng bà. Và Đức Giêsu cứ tấn tới thêm về khôn ngoan, vóc dáng và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người ta”(Lc 2,51-52).
Đức Giêsu tuy là Thiên Chúa, nhưng với cương vị làm con, Ngài vẫn phải vâng phục thánh Giuse và Đức Maria với tâm tình con thảo. Sách Huấn ca hôm nay dạy ta:”Ai kính sợ Thiên Chúa thì hiếu thảo với cha mẹ, ai thờ cha kính mẹ thì sẽ bù đắp lỗi lầm và sẽ được đền bù tội lỗi”.
Hiếu thảo đối với cha mẹ không phải là một tình cảm tự nhiên mà còn là một điều luật của Chúa:”Ngươi phải hiếu thảo với cha mẹ, như Thiên Chúa ngươi đã truyền dạy, để được sống lâu và được hạnh phúc trên phần đất Thiên Chúa dành cho ngươi”(Đnl 5,16).
Ngày xưa khi cắp sách đi học, các em nhỏ đã được đọc trong sách Quốc văn giáo khoa thư một bài học căn bản về đạo làm con:
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho trọn chữ hiếu mới là ĐẠO CON.
Không thiếu gì những bậc danh nhân trên thế giới đã làm gương cho chúng ta về lòng thảo hiếu đối với cha mẹ, ngay khi các ngài còn ở bậc cao trong danh vọng.
Truyện: Nhà bác học Louis Pasteur.
Ngày 14.07.1883, hội đồng thành phố Dole quyết định đặt tấm đồng ghi danh trên cửa nhà mà Pasteur đã sinh ra. Hôm ấy, trong bài đáp từ cao thượng, nhà bác học trứ danh đã để lòng trào ra trên nỗi biết ơn cha mẹ:
‘Ôi ! hỡi cha con, mẹ con ! Ôâi, hỡi những người thân yêu đã chết ! Các ngài đã sống bình dị quá trong căn nhà nhỏ bé này, con đã chịu ơn tất cả bởi các ngài. Những nhiệt tình của người, hỡi mẹ can đảm của con, mẹ đã chuyển nó cho con. Nếu con bao giờ cũng đã nối kết vinh quang khoa học vào vinh quang tổ quốc, chính là vì con đã thấm nhuầãn những cảm tình mà mẹ phấn khích ở trong con. Và còn người, hỡi cha thân yêu, mà đời sống cũng nặng nhọc như nghề nghiệp, cha đã tỏ cho con biết đức kiên nhẫn trong cố gắng lâu dài có thể làm được những gì… Con chúc tụng cả hai, hỡi cha mẹ thân yêu, cho cuộc sống con người, và xin để cho con hướng về các ngài cái vinh hạnh mà người ta hiến lên căn nhà này ngày hôm nay” (Bùi Đức, Vinh quang bà mẹ, 1959, tr 59-60).
- TRUNG THÀNH TRONG HÔN NHÂN.
Còn một vấn đề rất quan trọng trong hạnh phúc hôn nhân mà ngày nay người ta đã coi thường, đó là trung thành trong đời sống hôn nhân. Ngày xưa người ta chỉ chú trọng vào sự chung thủy của người phụ nữ màø không đề cập đến đàn ông. Người ta đã có một cái nhìn thiên lệch về phụ nữ với quan niệm “chồng chúa vợ tôi”. Người đàn bà trong lễ giáo Khổng Mạnh phải tuyệt đối chung thủy với chồng mình. Họ phải giữ cái đạo “Tam tòng”:
Tại gia tòng phụ
Xuất giá tòng phu.
Phu tử tòng tử
Nghĩa là: người con gái ở nhà thì theo cha, đi lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con.
Chữ “chung thủy” của người xưa thật đáng ca tụng, nhưng tôi thấy nó rất thiên lệch và không công bằng. Lễ giáo của Khổng Mạnh đã áp đặt chặt chẽ trên người đàn bà, trong khi đó thì người đàn ông được thả lỏng:
Trai thì năm thê bảy thiếp.
Trong khi đó thì:
Gái chính chuyên chỉ có một chồng.
Và nếu có một vợ một chồng thì theo sự diễn tả một cách châm biếm, đó là:
Nhất phu nhất phụ
Mỗi mụ mỗi nơi.
Còn thời nay thì sao? Đối với xã hội Tây phương thì chữ “chung thủy” thời nay đã biến mất. Người ta thay vợ đổi chồng như thay áo theo phương châm “Hay thì ở, dở thì đi”. Có nơi số đôi hôn phối ly dị lên tới 50% hay hơn nữa. Các hôn ước không còn giá trị nữa. Chính vì thế mà gia đình bị lung lay tận nền tảng, tận gốc rễ để rồi đi đến chỗ đổ vỡ vì những lý do không đâu.
Truyện: Trên chuyến xe đò.
Có một lần trên chuyến xe đò đi Sàigòn, tôi được nghe mẩu tâm sự vụn giữa mấy bà mấy cô với nhau. Bà thì than rằng chồng của mình bê bối. Bà thì bực tức thấy ông nhà đèo bòng mà chẳng làm gì được. Nói ra thì xấu thiếp hổ chàng, còn để vậy thì ấm ức trong lòng. Sau cùng, có một bà kết luận: chỉ có mấy bà công giáo là sướng. Đạo của họ cấm chỉ việc lang bang. Dù sao chăng nữa, thì họ cũng vẫn một lòng một dạ với nhau.
Nghe mẩu tâm sự ấy, tôi cũng thấy mừng vì từ xưa và cho đến nay, sự chung thủy, một vợ một chồng vốn dĩ đã là nét son của hôn nhân công giáo. Vì ai cũng biết hôn nhân công giáo là một khế ước song phương được ký kết giữa hai người nam và nữ. Do đó, hôn nhân của công giáo có hai đặc tính là “đơn nhất và vĩnh viễn”. Không ai có thể hủy bỏ hôn ước khi cả hai người còn sống vì “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9).
Nếu chúng ta đòi buộc người bạn đời phải tuyệt đối trung thành với mình, thì chúng ta cũng phải có bổn phận phải tuyệt đối trung thành với người bạn đời như thế. Chúng ta không thể nào chấp nhận những chia sẻ trộm vụng của người bạn đời thì chúng ta cũng không được chia sẻ tình yêu một cách thầm lén cho kẻ khác không phải là bạn đời của mình. Nếu như hành vi thầm lén vụng trộm của chúng ta bị đổ bể, bởi vì “đi đêm lắm có ngày gặp ma”… thì lúc bấy giờ chắc chắn dư luận sẽ không buông tha chúng ta và gia đình ta chắc chắn sẽ gặp nhiều sóng gió.
Để kết luận, chúng ta hãy dâng lên Thánh Gia lời cầu xin cho các gia đình:
Lạy Chúa Giêsu,/ chúng con xác tín rằng: / Hôn nhân và gia đình là công trình sáng tạo của Thiên Chúa,/ công trình của yêu thương,/ khôn ngoan và thanh thiện./ Chúng con tin rằng,/ Chúa muốn và Chúa luôn ban ơn,/ để hôn nhân được hạnh phúc,/ trong sự duy nhất và bền bỉ,/ trong việc truyền sinh và phát huy sự sống.
Lạy Chúa,/ Chúa đã yêu thương mà nâng hôn nhân lên hàng Bí tích./ Xin Chúa cho các đôi vợ chồng sống trung thành với nhau,/ cho cha mẹ biết ý thức trách nhiệm giáo dục con cái,/ cho con cái biết vâng phục và yêu mến cha mẹ./ Xin Chúa làm cho các thế hệ trẻ,/ tìm được nơi gia đình sự nâng đỡ chắc chắn cho giá trị làm người của họ / và được trưởng thành trong Chân lý và Tình thương.
Lạy Thánh gia Nazareth,/ là gương mẫu của đời sống thánh thiện,/ công bình và yêu thương./ Xin cho gia đình chúng con,/ trở nên nơi đào tạo nhân đức,/ trong hiền hòa,/ phục vụ và cầu nguyện./ Xin cho chúng con xây dựng gia đình thành mối an ủi cho cuộc đời đầy thử thách./ Xin cho chúng con biết làm cho mọi người trong gia đình,/ đều được thăng tiến để góp phần vào việc phát triển xã hội,/ và cộng tác trong việc xây dựng Giáo hội.
13. Lối đi riêng – Lm. Nguyễn Hữu Thy
Trước hết, bài Tin Mừng hôm nay tường trình những sự thể như sau: Sau khi ngày lễ chấm dứt, cha mẹ và trẻ Giêsu trên đường từ Giê-ru-sa-lem trở về nhà đã không cùng đi chung với nhau, nhưng mỗi người chọn một lối đi riêng. Và sau đó, không phải cậu con lên 12 tuổi đi tìm cha mẹ, nhưng là cha mẹ đi tìm kiếm cậu!
Câu trả lời của trẻ Giêsu trước lời trách móc của mẹ mình, xem ra bất cẩn: “Tại sao cha mẹ đi tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải ở nhà cha của con sao?” Ðiều ngạc nhiên ở đây là đã không xảy ra chuyện cãi cọ giằng co giữa hai bên. Trái lại, trẻ Giêsu ngoan ngoãn “hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51), chứ không hề tỏ ra bất kính. Còn cha mẹ Người – hai ông bà Giuse và Maria – cũng không nhắc đi nhắc lại hay đưa ra phân tích mổ xẻ sự việc đã xảy ra.
Chắc chắn là đã có những khó khăn xảy ra. Nhưng với những khó khăn, người ta cũng vẫn có thể sống chung với nhau được, miễn là mọi thành viên trong gia đình đều biết tôn trọng và yêu thương lẫn nhau. Ðó chính là điều đã làm cho một gia đình đơn sơ Na-da-rét thành một thánh gia thất!
Lời đầu tiên mà các bản Tin Mừng đã tường thuật lại từ miệng trẻ Giêsu, là một lời hết sức tự tín: “Tại sao cha mẹ đi tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải ở nhà cha của con sao?” Lời nói này biểu lộ sự tự lập của trẻ Giêsu khỏi tất cả mọi ràng buộc nhân loại. Nói đúng hơn, vì sứ mệnh Thiên Sai của mình, Ðức Giêsu không ràng buộc gắn bó với cha mẹ mình như là điều tiên quyết, nhưng là với Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha của Người và sứ mệnh của Người là chu toàn mọi ý định của Thiên Chúa.
Cuộc đời Ðức Giêsu được gắn liền với chữ “phải”, và chữ “phải” đó định đoạt cuộc sống và mọi hoạt động của Người. Thí dụ:
- Người phải ở nhà Cha của Người;
- “Thầy cũng phải loan báo tin Mừng của Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa” (Lc 4,43);
- “Con Người phải chịu nhiều đau khổ” (Lc 9,22);
- “Phải chăng Ðấng Messia không phải chịu tất cả những điều đó, để đạt tới được sự vinh quang của Người” (Lc 24,26); v.v…
Chữ “phải” đó được đặt nền tảng trên thánh ý Thiên Chúa, mà Ðức Giêsu cảm thấy có bổn phận phải chu toàn. Ðối với Ðức Giêsu, không có gì quan trọng hơn thánh ý Thiên Chúa. Vì thế, việc chu toàn thánh ý Thiên Chúa chính là lối đi riêng của Người, và không có bất cứ lý do ngoại tại nào có thể ngăn cản hay làm lạc hướng được!
Trong cuộc hành hương về giáo đô Giê-ru-sa-lem, Ðức Giêsu phải ở nhà Cha Người. Người phải ở nơi mà Danh Thiên Chúa được tôn kính và Lời của Thiên Chúa được công bố. Trong cuộc hành hương của mình, Ðức Giêsu đã tìm kiếm và đã gặp được Thiên Chúa, Cha của Người.
Qua thái độ rõ ràng và dứt khoát của mình đối với Thiên Chúa, trẻ mười hai tuổi Giêsu đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ và tự xấu hổ. Tại sao chúng ta lại không định hướng đời chúng ta về cùng Thiên Chúa một cách hoàn toàn và trọn vẹn như Người? Ðức Giêsu đã tìm được lối đi riêng cho mình và qua đó Người cũng đã tìm gặp được ý nghĩa đích thực của đời mình, đó là khi Người hoàn toàn sống một cuộc sống vì Thiên Chúa và cho Thiên Chúa.
Ðối với chúng ta cũng thế, chúng ta không còn có sự lựa chọn nào khác, khi đi tìm kiếm cho mình một lối đi riêng. Vì thế, Thiên Chúa phải luôn luôn là đề tài và nội dung của cuộc sống chúng ta! Ðiều “phải” của cuộc sống chúng ta hệ tại việc chúng ta phải tự lập và trưởng thành. Thiên Chúa muốn mỗi người trong chúng ta là một nhân vị cá biệt, độc lập và bất tráo đổi. Người đã trao ban cho mỗi người trong chúng ta những ơn huệ và những bổn phận riêng biệt.
Ðứa trẻ có bổn phận phải lớn lên và trưởng thành cả hai mặt: tâm-sinh lý. Các bậc cha mẹ có bổn phận phải là những nhà giáo dục tốt, để giúp đỡ con cái trong suốt tiến trình trở thành tự lập của chúng.
Người thanh niên có bổn phận phải học hỏi và phải tập tự nắm lấy định mệnh của mình, nghĩa là: Có tư duy riêng, có những quyết định và lựa chọn riêng với đầy đủ ý thức trách nhiệm; nói tắt, có cuộc sống tự lập. Vì thế, người thanh niên sẽ thiếu sót bổn phận của mình cách trầm trọng và qua đó sẽ làm mất định hướng cho cuộc đời mình, nếu chỉ bán bíu và lệ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ. Tiến trình tự nhiên và bình thường của cuộc sống con người là “sinh ra, lớn lên, trưởng thành và sống đời tự lập!” Ngoài tiến trình đó ra là không bình thường, là thiếu sót, là lệch lạc!
Do đó, người thanh niên sẽ bỏ lỡ đời mình, nếu anh chỉ biết làm theo điều người khác làm; nếu anh chỉ nhắm mắt chạy theo người khác từng bước trên đường đời. Mỗi người chỉ tìm gặp được con đường riêng của mình, nếu người đó biết khám phá ra được các ân huệ mà Thiên Chúa đã ban riêng cho mình để mang lại hạnh phúc và sự cứu rỗi cho mọi người. Một điều vô cùng quan trọng và có tính cách quyết định là việc ý thức được rằng chúng ta có bổn phận phải chu toàn thánh ý Thiên Chúa trên hết mọi sự, trên tất cả mọi mệnh lệnh, mọi chương trình và ý muốn nhân loại.
Nhưng ai tìm cách bước đi trên con đường đời của mình một cách đầy đủ ý thức và nghiêm chỉnh như thế, thường sẽ phải đối mặt với những va chạm và đụng độ: với môi trường sống, với những người hữu trách và cả với chính mình nữa. Tuy nhiên, trong cuộc sống mọi sự được đan kết và gắn bó chặt chẽ với nhau, chứ không hoàn toàn sòng phẳng rõ ràng, để có thể nói được rằng đây là con đường duy nhất khả dĩ đối với tôi, ngoài ra không có con đường nào khác nữa. Nhưng điều đó cũng không phủ nhận là trong suốt dòng thời gian, người ta thường cảm nhận được rằng Thiên Chúa đã tiền định cho mỗi người một điều hoàn toàn riêng biệt. Ðiều quan trọng là mỗi ngày và trong mỗi hoàn cảnh phải luôn luôn biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa. Ðó chính là điều kiện để vượt thắng được những thử thách trên bước đường đời và để đạt tới được mục đích. Và qua gương sống của mình, trẻ mười hai tuổi Giêsu sẽ đỡ nâng và truyền sức mạnh cho chúng ta để có thể hiên thực được điều đó. Amen.
14. Gia đình thánh – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Ai cũng có một gia đình. Trong đó, con cái phát triển và trưởng thành nhờ tình yêu của cha mẹ, và cha mẹ có thể được trổi trang vinh dự nhờ con cái. Đối với một vài người, gia đình cũng có thể là nơi người ta cảm thấy bị đàn áp và muốn thoát ra, nhưng cứ bình thường gia đình là mái ấm mà mọi người mong ước được trở về. Để gia đình thành tổ ấm thân thương, mỗi người được mời gọi để noi gương Thánh Gia mà Giáo Hội mừng kính hôm nay.
Con cái là qùa tặng của Thiên Chúa cho cha mẹ
Anna hiếm mọn không con, bị những người láng giềng cười chê, cho là người vô phúc, bị Thiên Chúa nguyền rủa. Dù được chồng Elkana cưng chiều nhưng bà vẫn buồn. Bà thường cầu xin với Chúa, để Chúa cho bà được một người con. Mỗi năm người Do Thái đều đi lên Giêrusalem để thờ phượng Chúa theo luật, và bà Anna đã cầu nguyện sốt sắng trong dịp này trước mắt thầy thượng tế Hêli. Thầy tưởng bà say rượu nói nhảm, nên khuyên bà đi giải rượu. Được bà Anna giải thích, thầy hiểu và đã chúc lành cho bà. Khi trở về bà có thai và sinh ra Samuel, một thẩm phán nổi tiếng kế vị Hêli, đã xức dầu phong vương cho cả Saul lẫn Đavit.
Samuel là qùa tặng Thiên Chúa ban cho bà Anna. Điều bà Anna mong ước, Thiên Chúa đã ban cho bà, và bà đã dâng Samuel lại cho Chúa như bà đã khấn nguyện. Con cái là qùa tặng Thiên Chúa ban cho cha mẹ, nên các bậc làm cha mẹ hãy cố gắng sẵn sàng dâng con cho Chúa, đừng bao giờ ngăn cản con “thuộc về Chúa”.
Con cái ngoan hiền tài giỏi, là vinh dự và niềm tự hào của cha mẹ; nhưng con hư lại là mối tủi nhục, thế nên những người làm con đừng làm hổ danh hoặc đau lòng cha mẹ mình. Hãy cố gắng thành người tốt, để cha mẹ được hãnh diện về mình.
Cách thức cha mẹ đối xử với con cái
Mỗi năm cha mẹ Đức Giêsu đều đi Giêrusalem dự lễ hội Vượt Qua. Đây là lễ kỷ niệm Thiên Chúa giúp dân Do Thái vượt qua biển đỏ, thoát khỏi sự truy lùng của người Aicập. Từ Nadarét tới Giêrusalem xa khoảng trên 100 cây số, và vì hồi đó chưa có phương tiện di chuyển như bây giờ, cũng như các ngài là những người nghèo, nên các ngài phải đi bộ khoảng ba ngày đường. Gian nan cực khổ để đi thờ phượng Chúa. Sự kiện trên cho thấy thánh Giuse và Đức Mẹ đạo đức như thế nào. Cách các ngài sống đạo rất gần với lối sống đạo của đa số dân quê Việt Nam.
Khi Đức Giêsu lên 12 tuổi, Đức Giêsu được đi cùng cha mẹ lên Giêrusalem dự lễ. Sau lễ hội khoảng một tuần, gia đình thánh cùng với tất cả người làng Nadarét ra về, nhưng Đức Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Ngài không biết, tưởng Ngài đi chung với những người khác cùng làng Nadarét. Sau một ngày đường, cha mẹ Ngài mới nhận ra Ngài không có trong đoàn lữ hành, và cha mẹ Ngài đã lập tức đi tìm. Hãy hình dung để cảm nghiệm nỗi lo lắng của Đức Mẹ và thánh Giuse như thế nào. “Tại sao con làm thế, này cha con và mẹ phải lo lắng tìm con”. Đức Giêsu đáp lại: “tại sao lại tìm con, lại không biết rằng con phải ở nhà Cha con sao?” Đức Maria và thánh Giuse không hiểu lời của Đức Giêsu. Tại sao con của mình nói như vậy? Tuy vậy Mẹ im lặng, và thánh Giuse không nói một lời.
Ở vào địa vị chúng ta, nếu con cái của chúng ta làm như Đức Giêsu đã làm, chúng ta đã đối xử với con cái của chúng ta như thế nào? Chúng ta học được gì qua cách đối xử với con của Đức Mẹ và thánh Giuse?
Cung cách hành xử của người con
Đức Giêsu trở về Nadarét cùng với Đức Mẹ và thánh Giuse, và hằng tùng phục các Ngài. Đức Giêsu càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan và được nhiều người yêu mến. Vâng phục cha mẹ, đó là điều dễ nhất và khó nhất mà Ngài không thua bất cứ ai.
Ngài đối xử rất tốt với các bạn cùng trang lứa, kính trọng các người lớn tuổi, chu toàn phận vụ làm con: thảo hiếu và giúp đỡ cha mẹ. Ngài đã sống như tất cả các thiếu niên khác trong làng, nhưng tâm hồn Ngài luôn hướng về Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa vẫn là nhất đối với Ngài, dù Ngài sống ở đâu và vào bất cứ thời điểm nào.
Thánh Gia, gia đình gồm những con người thánh, nghĩa là những người chọn Thiên Chúa trên tất cả, yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Thánh Giuse tôn trọng và yêu mến Đức Mẹ cùng Đức Giêsu. Đức Mẹ yêu mến và trân trọng thánh Giuse và con mình. Đức Giêsu luôn yêu mến, kính trọng và tùng phục cha mẹ. Khi còn sống ở Nadarét, Đức Giêsu không làm cái gì đặc biệt khác người, trừ chính thái độ sống khiêm tốn và dễ thương đối với Thiên Chúa và con người.
Trong ngày lễ Thánh Gia, mỗi người hãy cầu nguyện cho mọi gia đình, cho cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, được bắt chước thánh Giuse, Đức Mẹ, Đức Giêsu, để nên thánh qua cách đối xử với nhau. Nên thánh, nằm trong tầm tay của mỗi người nhưng dường như mỗi người đều bất lực. Xin Chúa giúp để chúng ta làm được tất cả, để mỗi người chúng ta nên thánh và làm cuộc sống của mình và của những người thân được hạnh phúc hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
- Theo bạn, thánh Giuse làm được điều gì đặc biệt hơn một người chồng và một người cha bình thường? Đức Mẹ làm được gì đặc biệt hơn một người vợ và một người mẹ bình thường? Và Đức Giêsu làm được gì đặc biệt hơn một người con bình thường?
- Theo bạn, thập giá lớn nhất của đời sống gia đình là gì?
- Theo bạn, “Đức” Giuse và Đức Maria nên thánh bằng cách nào?
15. Sống đức tin theo gương gia đình Thánh Gia
Gia đình hạnh phúc, ấm êm đó là mơ ước của nhiều người. Cũng vậy, gia đình Công Giáo mong muốn hạnh phúc và người ta thật sự hạnh phúc khi có Chúa hiện diện trong gia đình mình, khi gia đình mình sống theo gương gia đình Thánh Gia.
Ai trong chúng ta cũng muốn sống trong gia đình hạnh phúc. Phải, gia đình chính là cái nôi để con cái phát triển toàn diện. Trong đạo Công giáo gia đình là nơi để con cái được giáo dục trong đức tin, cha mẹ thực thi quyền lợi và nghĩa vụ theo tinh thần gia đình Thánh gia. Trong ngày lễ Thánh Gia hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm, học hỏi và bắt chước gia đình Thánh Gia Nagiareth, nơi đó có sự hiện diện của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse.
Chắc hẳn ngày nay chúng ta đang chứng kiến và có thể trở thành nạn nhân của cuộc khủng hoảng trầm trọng về sống gia đình. Rất nhiều gia đình trong xã hội đang là những gia đình nghèo, nghèo vì thiếu tình thương, què quặt, tan nát vì nạn ly thân, ly dị và phá thai; những gia đình phân tán, chia ly vì chiến tranh, bạo lực và áp bức; những gia đình bất hoà vì nạn thất nghiệp, với đời sống vật chất kinh tế khó khăn eo hẹp hay vì nạn cờ bạc, rượu chè…
Phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy mẫu gương gia đình sống đức tin. Đây là một gia đình như bao gia đình khác, nhưng họ đã chu toàn bổn phận của mình là từng thành viên trong gia đình. Đây là một cộng đoàn yêu thương và hiệp nhất. Như thế, chúng ta bắt chước gia đình Thánh gia sống đức tin.
Gia đình sống đức tin là gia đình luôn tìm kiếm và thực thi thánh ý Chúa. Nói cách khác gia đình sống đức tin là gia sống đạo theo ý muốn của Thiên Chúa. Thánh Gia là một gia đình Thánh vì ngoài sự hiện diện của Chúa Giêsu, gia đình các Ngài còn tuân giữ và sống theo Thánh Ý Chúa, sống gắn bó với Chúa. Các Ngài thể hiện việc sống gắn bó với Chúa qua việc chu toàn lề luật, dâng con vào đền thờ, đi hành hương….(Lc 2, 41). Nhờ chính việc chu toàn lề luật, siêng năng cầu nguyện và sống gắn bó với Chúa nên các Ngài nhận ra và mau mắn thi hành ý Chúa trong cuộc sống. Gia đình kitô hữu chúng ta ngày nay cũng là một gia đình thánh. Thánh trong việc sống gắn bó với Chúa qua kinh nguyện, trong việc giữ các giới răn và qua việc sống bái ái.
Gia đình sống đức tin cần được xây dựng trên tình yêu. Nhưng làm sao có tình yêu khi người cha, người mẹ không chu toàn bổn phận của mình cũng như không hết tình thương con cái. Làm sao có được hạnh phúc khi con cái trong gia đình không thảo hiếu với cha mẹ và làm sao có hạnh phúc khi mọi người trong gia đình luôn sống bất hoà với nhau. Gia đình là tế bào của xã hội, là trường dạy đầu tiên, là cơ sở cho cuộc sống xã hội trong tương lai. Nơi gia đình con cái được học hỏi và sống tình thương yêu, sự quan tâm chăm sóc, sống liên đới với tha nhân. Hơn nữa, gia đình Kitô hữu là mảnh đất tốt sống đức tin, biết thờ phượng Chúa cho phải đạo, kính mến cha mẹ, yêu thương tha nhân và biết sống lễ phép, lễ độ, lễ nghĩa. Điều này trong Chương 3 sách Huấn ca đã nhắc lại điều răn thứ tư , dạy con cái phải tin yêu và thảo hiếu với cha mẹ và những lý do luân lý tự nhiên với câu ca dao Việt Nam:
“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Hãy noi gương Thánh Gia, nơi đó Đức Mẹ và Thánh Giuse yêu thương nhau, cùng hợp sức nuôi dạy Chúa Giêsu. Còn Đức Giêsu thì hằng yêu thương và vâng phục cha mẹ mình. Nhưng trên hết tình yêu của Thánh Gia đặt nền tảng trên tình yêu dành cho Thiên Chúa.
Gia đình sống đức tin khi từng thành viên góp phần của mình vào việc xây dựng gia đình. Mỗi người hãy sống đúng bổn phận của mình trong gia đình. Thánh Giuse là một người cha mẫu mực, khôn ngoan quán xuyến mọi sự trong chức vụ gia trưởng nhưng cũng hết tình phục vụ Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Những người cha trong gia đình hãy biết học đòi nơi mẫu gương ấy. Người làm mẹ cũng hãy học hỏi nơi Mẹ Maria mẫu gương về tình yêu, đức nết na, đức tin, sự phục vụ và khiêm tốn hết lòng. Dù là Mẹ Đấng Cứu Thế nhưng Mẹ Maria đã xưng mình là tôi tớ của Thiên Chúa. Những người con hãy học nơi Chúa Giêsu đức vâng lời, lòng tôn kính biết ơn. Là Thiên Chúa nhưng Người đã chấp nhận trở nên một người con nhỏ nhất trong gia đình hằng vâng phục cha mẹ trong tình yêu.
Thiên Chúa không xa vời, Người hiện diện trong cuộc sống bình thường mỗi ngày của chúng ta, bởi vì Người đã sống giữa con cái loài người, đồng hành với con người và chia sẻ mọi niềm vui, mọi âu lo, khó nhọc của cuộc sống con người. Khi biết nhìn thực tại với đôi mắt của đức tin, thì mọi sự trong thế giới hữu hình đều được biến đổi là điều nói lên sứ điệp Thiên Chúa muốn nhắn gởi chúng ta. Một gia đình trong đó mọi thành phần biết kính sợ Thiên Chúa, biết yêu thương tôn trọng nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau và sống vì nhau sẽ là một gia đình được tràn đầy phúc lành và sức sống thiêng linh của Thiên Chúa.
Như thế, gia đình sống đức tin khi mỗi người trong gia đình biết noi gương Thánh Gia, sẵn sàng và quảng đại cộng tác với nhau để tạo lập và duy trì tình thương, sự hiệp nhất. Sống đạo bằng cách thực thi ý Chúa trong cuộc sống và thể hiện tình yêu qua việc chu toàn bổn phận của mình, đóng góp vai trò của từng thành viên trong gia đình để quên mình phục vụ người khác trong yêu thương. Nếu gia đình luôn đặt ý Chúa lên trên và đặt tình yêu trong từng việc phục vụ thì mới hy vọng giữ được hạnh phúc gia đình, nhất là khi phải đối phó với những khó khăn ngày càng nhiều trong đời sống hiện nay.
Lạy Thánh Gia Nagiareth, xin giúp từng thành viên trong gia đình chúng con biết sống đạo, sống đức tin theo tinh thần của Chúa, tìm kiếm và thực thi ý Chúa, chu toàn bổn phận và sống tình yêu thương như Thiên Chúa muốn. Amen.
16. Suy niệm của Lm. Minh Trân, CRM.
Tại sao con lại làm như thế cho cha mẹ? (Mc 10:35-45)
Một trong những câu hỏi mà có lẽ các bậc cha mẹ, không nhiều thì ít, đã thốt lên. Có thể khi:
- Đứa con nhỏ dùng bút mực vẽ hình lên tường.
- Cậu con trai bị cảnh sát dẫn về nhà.
- Ban đêm vào phòng xem con ngủ như thế nào thì lại thấy giường trống.
- Cô con gái mất học bổng chỉ vì cái tội party quá mức và không chăm chỉ học hành.
Hoặc hôm nay trong trường hợp của Đức Mẹ và Thánh Giuse – khi con của các ngài ở lại trong Đền Thờ mà các ngài không hay biết.
“Cha con và Mẹ đã vất vả lo lắng tìm con.”
Một trong những thách đố của việc đọc cũng như học hỏi Thánh Kinh là đặt mình vào những người và những hoàn cảnh được trình bày trong đó. Và thường thường trong Thánh Kinh, người ta nói toàn là những điều hay điều tốt, hoặc làm toàn là những việc quá anh hùng vĩ đại, hay những việc không có thể xảy ra. Trong những trường hợp như vậy, thật là rất khó cho chúng ta nhìn ra được những điều tương tự giữa chúng ta và họ. Do đó, nó tạo ra một “khoảng cách” giữa chúng ta và họ, một vực thẳm hầu như không thể vượt qua. Và thường thường đưa đến kết quả là làm cho chúng ta đứng đằng xa mà chiêm ngưỡng họ, thán phục họ, biết ơn họ, hoặc ngạc nhiên vì những việc họ làm – nhưng lại ít khi cho chúng ta thấy một chút gì nơi chúng ta ở trong họ.
Câu chuyện chúng ta nghe trong Phúc Âm ngày hôm nay thấy nó đẹp, gần gũi, và nguyên thủy là dường nào. Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse hành động giống y như các bậc cha mẹ vậy. Chúng ta cũng thế, cũng rất có thể hành động y như vậy trong trường hợp tương tự.
“Này con, tại sao con lại làm như thế cho cha mẹ? ”Chúng ta có thể nghe được sự lo lắng trong giọng nói của Đức Mẹ. Chúng ta có thể nghe được phần nào sự bực dọc, khó chịu bọc lộ ra. Chúa Giêsu nói là Ngài cần ở trong nhà của Cha Ngài. Và Đức Mẹ, Thánh Giuse đã làm gì? Hiển nhiên, từ bản văn, chúng ta không thấy ghi lại nhiều. Thật ra, các ngài chẳng hiểu Chúa Giêsu nói gì cả. Chúng ta thử nghĩ xem… cha mẹ chẳng hiểu con cái mình. Nghe thấy quen quen? Hôm nay toàn thể Giáo Hội mừng Lễ Thánh Gia.
Hôm nay chúng ta không có hình ảnh đẹp, an bình, tuyệt hảo của Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria, và Thánh Cả Giuse hiện ra trong tâm trí như trong đêm Giáng Sinh. Sự thật hoàn toàn khác xa. Và không chỉ đêm thánh đó mà thôi, nhưng là mỗi một ngày trong đời sống của các ngài. Các ngài luôn lo lắng làm thế nào để lo cho con và cho gia đình, lo lắng về những lời của sứ thần có ý nghĩa gì, lo lắng không biết cuộc đời của Chúa Giêsu rồi đây sẽ ra sao, lo lắng không biết cuộc đời của Chúa sẽ là niềm vui lớn hay là nỗi sầu bao la. Nói tắt là không khác gì với cuộc sống của các gia đình trong mọi nơi mọi lúc, trải dài suốt dòng lịch sử. Thánh Giuse và Đức Mẹ Maria không phải là những người rô-bô. Các ngài là những con người thật – với những quan tâm thật, những hy vọng thật, những thất vọng thật, và những lo lắng thật.
Dẫu thế, chúng ta gọi gia đình này là “thánh”. Và đó cũng chính là điều mà chúng ta cần suy nghĩ. Thật thế, Gia Đình Thánh Gia là thánh không phải tại vì cuộc sống của các ngài không lo lắng gì cả. Không phải thế! Cũng không phải tại vì cuộc sống của các ngài chẳng có những ngăn trở, thất vọng, và những sự bấp bênh. Có chứ! Và cũng không phải tại vì cuộc sống của các ngài đã xảy ra đúng như mọi chuyện đã được xếp đặt. Không phải thế! Gia Đình Thánh Gia được gọi là thánh chính yếu là vì cách thức mà các ngài đã cố gắng để giữ tín trung giữa những cái éo le cuộc đời, giữa những hoàn cảnh mà ngay cả các ngài cũng không thể hiểu, giữa tất cả mọi sự mà chẳng dễ dàng, đơn giản, và rõ ràng tí nào cả. Có lẽ, ơn thánh Chúa đã đến với những tấm lòng mở rộng của Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse. Và phần còn lại, là lịch sử.
Và như thế, thách đố cho chúng ta ngày hôm nay là, một cách nào đó, đừng ngưỡng mộ Gia Đình Thánh Gia từ đằng xa, nhưng hãy ôm chặt vào lòng – để rồi chúng ta cũng có thể cố gắng nên thánh ngay trong chính gia đình của chúng ta, để rồi chúng ta cũng thưa tiếng “xin vâng” với Chúa ngay chính trong những éo le của cuộc đời. Nói cách khác, thay vì nhìn lên Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria, và Thánh Giuse và nói rằng “con không bao giờ có thể làm được những điều như các ngài đã làm,” chúng ta có thể nói rằng (trong đức tin) “con thật sự muốn sống và noi gương các ngài. Và với ơn Chúa, con biết bất cứ sự gì cũng đều có thể.”Thánh thiện không có nghĩa là hoàn hảo. Thánh thiện không có nghĩa là trở nên ngọt ngào, êm ái, và đạo đức 24/7. Thánh thiện không có nghĩa là hoàn toàn không có những xung khắc, lo lắng, căng thẳng, thất vọng, hay nóng nẩy tức giận. Thánh thiện là danh từ để chỉ đến những ai bước theo đường Chúa dẫn. Đức Mẹ đã làm. Thánh Giuse đã làm. Và Chúa Giêsu cũng đã làm một cách anh hùng nhất.
Ước mong sao chúng ta và gia đình chúng ta cũng cố gắng làm như vậy.
17. Sinh ra nơi gia đình để cứu các gia đình
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay chúng ta cùng nhau cử hành lễ kính Thánh Gia Thất, trong bối cảnh Giáo hội Việt Nam lấy năm 2019 là năm quan tâm cách đặc biệt đến việc “Đồng hành với các gia đình gặp khó khăn”, với ba đối tượng phạm trù là: các gia đình di dân, các gia đình của các cặp hôn phối khác tôn giáo/tín ngưỡng, và các “gia đình” li thân, li dị tái hôn.
Đẹp biết bao khi nhìn vào hang đá chúng ta thấy Chúa Cứu Thế đến trần gian đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại mà chính Người đã thành lập để cứu các gia đình. Mừng Chúa Cứu Thế đến cũng là mừng Thánh Gia Thất, nơi Ngài sinh sống.
Các bài đọc hôm nay từ Cựu Ước đến Tân Ước thật là đẹp, đẹp về cách hành văn, đẹp về nội dung, nhất là đẹp tuyệt vời về cách sống trong gia đình. Nếu bài đọc I trích sách Đức Huấn Ca dạy con cái phải thảo cha kính mẹ: “Hỡi kẻ làm con, hãy gánh lấy tuổi già cha ngươi, chớ làm phiền lòng người khi người còn sống”, cùng với những phần phúc cho những người con biết tôn kinh mẹ cha là: “Ai yêu mến cha mình, thì đền bù tội lỗi; ai thảo kính mẹ mình, thì như người thu được một kho tàng”, nhất là được trường thọ: “Ai thảo kính cha mình, sẽ được sống lâu dài. ” Thì bài đọc II, Thánh Phaolô khuyên những người làm vợ làm chồng: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó”. Ngài cũng khuyên cha mẹ phải tôn trọng, yêu mến con cái: “Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt” (Cl 3, 21). Bài Tin Mừng nêu bật vai trò quan trọng của Thánh Giuse, mẫu gương cho bậc làm cha, làm chủ, làm chồng trong các gia đình.
Thảo kính cha mẹ
Để giữ cho gia đình hạnh phúc, Thiên Chúa đã ban cho Giới răn thứ Bốn trong Mười Điều răn: “Thứ Bốn thảo kính cha mẹ”,
Có nhiều kẻ làm con đã hỏi: Vậy, tước phẩm làm cha làm mẹ là thế nào để con cái phải tôn kính. Quyền bính cha mẹ tự đâu mà có?
Để có một cuộc sống đích thực, nhân loại phải có quyền bính, nếu không xã hội không thể có được, và phải đi tới nguyên tắc căn bản: không có Thiên Chúa, không có quyền bính. Vì thế, kẻ làm con, người làm bề dưới phải vâng lời cha mẹ, tùng phục người trên là vì thấy trong trật tự ổn định là quyền lực, là thế giá của Thiên Chúa. Đứa trẻ thấy quyền lực Thiên Chúa nơi cha mẹ, học trò ở nơi thầy cô, người dân thấy ở nhà cầm quyền. Phải, quyện lực của cha mẹ là do Thiên Chúa mà ra.
Chúa dạy: “Hãy tôn kính cha ngươi và mẹ ngươi”. Và Thánh Phaolô khuyên: “Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự” (Cl 3, 20). Giới răn không nói yêu mến nhưng là tôn kính. Người ta yêu anh chị em, yêu tha nhân, song đối với cha mẹ, phải tôn kính. Đó là điều mà phận làm con, kẻ bề dưới ngày nay không muốn biết nữa. Tôn kính có nghĩa là khi cha mẹ nói, dạy điều gì, con cái phải im lặng, lập tức thi hành, dù là ước muốn nhỏ nhất: “Vì đó là đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 20). “Hãy tôn kính cha con và mẹ con”; “Đứa con nào mà đánh đập cha mẹ mình thì phải chết” (Xh 20;21).
Phu phụ tương kính như tân
Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ giống hình ảnh Chúa, và cho hai người kết hợp với nhau nên một bằng mối giây loài người không thể tháo cới, để mỗi người phát triển nảy nở trong hạnh phúc, và sinh con cái nối giòng dõi loài người và Hội Thánh.
Khi nói thế, người chồng có thể đòi người vợ phụng tùng chồng một cách mù quáng không? Không, người này phải phục tùng người kia cho phải đạo, cả hai đều phải phục tùng Đức Kitô như toàn thể Giáo hội. Người nam có biết khi được làm đầu thì phải làm gì không? Thánh Phaolô kêu gọi: ” Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó” (Cl 3, 20).
Người ta thường nói: chồng là đầu gia đình, vợ là trái tim gia đình. Nói đúng hơn: chồng là cả hai, vừa là đầu, vừa là trái tim. Người ta cũng ví người chồng giữ vai trò như người lái thuyền, phải đưa thuyền đi đúng hướng, là bảo vệ sự an toàn cho mọi người trong thuyền, phục vụ mọi người với tình yêu thương, như yêu thương chính mình, để cùng nhau hướng tới hạnh phúc.
Cha mẹ tôn trọng và yêu mến con cái
Giới răn thứ Bốn này có hai chiều: con cái và cha mẹ, cha mẹ và con cái. Nếu con cái phải tôn kính cha mẹ, thì cha mẹ cũng phải tôn trọng, yêu mến con cái: “Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái”. Cha mẹ quí mến con cái, vì con cái trước hết không thuộc về các cha mẹ mà thuộc về Thiên Chúa. Con cái là kho tàng Thiên Chúa trao cho, một ngày kia Chúa sẽ đòi cha mẹ phải trả lẽ. Vậy, cha mẹ phải yêu quí, tôn trọng sự sống con cái, ngày từ khi còn trong lòng mẹ, chớ làm phương hại đến chúng. Tôn trọng con cái từ lúc còn thơ đến tuổi trưởng thành…
Chăm lo cho con cái về mặt tinh thần cũng như thể xác, nhất là linh hồn, vì trước hết chúng thuộc về Thiên Chúa. Cha mẹ không thể lên thiên đàng một mình, phải có con cái đi theo. Con cái không lên thiên đàng được, cha mẹ cũng không lên được. Chúng ta thấy Mẹ Maria, Thánh Giuse, và Chúa Giêsu, cả Ba Đấng đều lên Đền thờ dự lễ theo luật.
Khi có chuyện chẳng lành trong gia đình, lời thánh Phaolô sau đây như là khuôn vàng thước ngọc về lẽ sống và cách đối nhân xử thế của các thành viên trong gia đình: “Anh em thân mến, như những người được chọn của Thiên Chúa, những người thánh thiện và được yêu thương, anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện”.
Noi gương Mẹ Maria và Cha thánh Giuse, mỗi gia đình kitô giáo hãy đón rước Chúa Giêsu, lắng nghe Người, nói chuyện với Người, gìn giữ Người, che chở Người, lớn lên với Người, và như thế chúng ta mới phúc âm hóa gia đình, canh tân giáo xứ và cải tiến thế giới được. Hãy dành cho Chúa một chỗ trong trái tim và ngày sống của chúng ta. Chúng ta hãy phó thác gia đình nhân loại nói chung, và gia đình chúng ta nói riêng cho Thánh Gia Thất che chờ phù trì. Amen.
18. Gia đình là kiệt tác của Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Hôm nay chúng ta cùng nhau cử hành lễ kính Thánh Gia Thất. Mừng Chúa Cứu Thế giáng sinh cũng là mừng Gia Đình Thánh, nơi Người sinh sống.
Gia đình là tác phẩm tuyệt đẹp của Thiên Chúa
Quả thật, Gia đình là điều đẹp đẽ nhất mà Thiên Chúa đã dựng nên. Người dựng nên loài người có nam có nữ, và ban cho họ mọi sự. Người ban cho họ quyền toàn thế giới! Họ chan hòa trong tình yêu của Người. Mọi tình yêu Thiên Chúa, mọi vẻ đẹp Thiên Chúa, mọi sự thật Thiên Chúa có trong Chúa, Chúa đều ban hết cho gia đình. Ađam và Evà sống tình thân nghĩa thiết với Thiên Chúa và với nhau, rất hạnh phúc, không phải đau khổ và không phải chết.
Gia đình tan vỡ do Tội Nguyên Tổ
Nhưng rồi con người tự tách ra khỏi Đấng đã dựng nên họ. Thế là đánh mất tất cả, tình nghĩa vợ chồng phân tán, hết anh em (huynh đệ tương tàn), hết hòa bình, hết tình yêu, cái đẹp và sự thật. Hậu quả là từ đó cho đến nay gia đình luôn ở trong tình trang bị đe dọa do tội lỗi, phá thai, coi thường người già, bất hiếu, sống chung, ly dị.
Thiên Chúa cứu vớt trong tình thương
Tuy nhiên, Thiên Chúa không bỏ rơi gia đình. Vì gia đình được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa trong tình yêu. Nếu Thiên Chúa không yêu thương chúng ta thì Ngài không tạo dựng nên chúng ta. Ngài không dựa vào những gì chúng ta làm, hay thành quả chúng ta có được, Ngài chỉ nhờ vào công nghiệp của Con Ngài là Đức Giêsu giáng thế. Ngài yêu thương chúng ta vô bờ bến. Không ai yêu chúng ta bằng Thiên Chúa. Ngài yêu chúng ta hơn cả chúng ta yêu chúng ta. Muốn cứu vớt gia đình nhân loại, Thiên Chúa đã chọn một gia đình để đến cứu vớt! Đẹp biết bao khi nhìn vào hang đá chúng ta thấy Chúa Cứu Thế đến trần gian, đã chọn sinh ra trong một gia đình nhân loại, mà chính Người đã thiết lập.
Noi gương Thánh Gia
Các bài đọc hôm nay từ Cựu Ước đến Tân Ước thật là đẹp, đẹp về cách hành văn, đẹp về nội dung, nhất là đẹp tuyệt vời về cách đối nhân xử thế trong gia đình. Nếu bài đọc I trích sách Đức Huấn Ca dạy con cái phải thảo cha kính mẹ, kèm theo phần phúc là sống lầu dài (x. Hc 3, 3-7. 14-17a). Thì bài đọc II, Thánh Phaolô khuyên: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt” (Cl 3, 21). Bài Tin Mừng nêu bật vai trò quan trọng của Thánh Giuse, mẫu gương cho bậc làm cha, làm chủ, làm chồng trong các gia đình.
Gia đình ngày hôm nay rất cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa và sự thương cảm lẫn nhau trong cách sống trong gia đình nói riêng và gia đình nhân loại cả thể nói chung. Chúng ta thấy ai bị thương một cơ phận nào đó, không phải chỉ một cơ phận mà thôi, nhưng là cả con người bị. Không ai là không bị đau thương về thể lý, tinh thần, tình cảm…dẫn đến hậu quả cũng khác nhau. Tất cả đều chịu ảnh hưởng, và những vết thương đó càng đau khổ khi người thân của chúng ta đau khổ, nhất là những người trong gia đình. Bởi vậy, rất cần sự cảm thông. Nhiều nơi không quan tâm đến tương quan giữa người với người nữa. Nhưng gia đình vẫn là nơi có thể mang lại an ủi, và có thể hàn gắn vết thương.
Có nhiều loại vết thương rất lớn và sâu do thiếu thốn nhu cần cần thiết, thiếu tiền bạc, thiếu giáo dục. Những chính sách không ủng hộ gia đình, kỳ thị tôn giáo, văn hoá, hành hạ trẻ em, bạo động trong gia đình, chiến tranh, xung khắc giữa các chủng tộc, biến đổi khí hậu. Tất cả đều hằn sâu những thương tích.
Đó là những lý do khiến Đức Giêsu Kitô phải thân hành xuống thế để rao giảng, để chữa lành những vết thương, kèm theo nhưng dấu lạ. Người đi vào trong các làng mạc và chữa lành mọi bệnh tật (x. Mt 10, 7-8).
Người không chỉ cứu chúng ta khỏi sự yếu đuối, nhưng Ngài muốn trở nên như chúng ta để cảm nghiệm được những đau khổ, sự thất lạc, vô gia cư, sỉ nhục khi ở trên thánh giá, chết và an táng trong một ngôi mộ không phải của mình. Người mang lấy vào thân những đau khổ của chúng ta, ngoại trừ tội lỗi, Ngài sống lại vẫn còn vết thương.
Gia đình nào trong chúng ta cũng cần được Chúa thương xót, thì chúng ta phải xót thương nhau trong gia đình. Chúa Giêsu Kitô, người mang thương tích và cầu nguyện với Chúa Cha. Khi sống lại, chan tay và hình hài của Ngài vẫn còn những vết sẹo, những dấu ấn.
Nguyện xin Thiên Chúa ban cho tất cả chúng ta trở thành những ngôn sứ loan báo Niềm Vui Phúc Âm về gia đình, về tình yêu gia đình, trở thành những ngôn sứ như môn đệ của Chúa, và xin Chúa ban cho chúng ta ơn được xứng đáng với con tim thanh khiết, không cảm thấy bị vấp phạm vì Tin Mừng.
(Suy niệm của Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
Kể câu truyện vui có ý nghĩa: Vào một tối nọ, ông Ađam về nhà trễ và bà Evà đổ lỗi cho ông là đi lại với người đàn bà khác. Ađam năn nỉ: Tại sao, em yêu, không thể có một người đàn bà nào khác. Tuy nhiên, sau khi ông Ađam ngủ say, bà Evà đã hết sức cẩn thận đếm lại những cái xương sườn còn lại của ông. Thiếu tin tưởng lẫn nhau là một trong những đầu mối gây phiền hà trong đời sống gia đình. Gia đình là một tổ ấm có cha mẹ và con cái. Cha mẹ là rường cột và là kiên thuẫn chở che để con cái có chỗ nương thân.
Thiên Chúa đã sáng tạo con người theo hình ảnh của Chúa. Chúa đã kết hợp gia đình đầu tiên giữa người nam và người nữ. Ông Ađam và bà Evà đã nhận lãnh sự sống trực tiếp từ Thiên Chúa. Chúa trao cho hai ông bà trách nhiệm truyền sinh giống nòi theo hình ảnh của Thiên Chúa. Sự khác biệt của nam nữ về sự kết cấu giới tính, lý trí, ý chí, tình cảm, tâm sinh lý và sở thích làm nên sự trọn hảo khôn lường. Giữa phái nam va phái nữ có sự thu hút tìm đến với nhau để xây dựng sống chung gia đình. Theo ý định của Thiên Chúa và theo lẽ sống tự nhiên, trải qua bao đời con người đã và đang sống để hoàn thành sứ mệnh cao cả này.
Trước khi được làm cha làm mẹ, ai cũng từng là những người con. Chúng ta biết rằng là con người, ai cũng được cưu mang ngay từ khi khởi đầu cuộc sống. Có nghĩa là, ai cũng đã được thụ thai trong lòng mẹ và phát triển theo ngày tháng để trở thành người. Khi suy về sự sống, chúng ta nhận ra vai trò liên đới quan trọng của mỗi người trong cuộc sống này. Với thời gian và trong không gian, mỗi người phát triển từ trẻ thơ tới tuổi già. Không thể có bước nhảy vọt từ loài này sang loài kia hay đột biến vượt thời gian. Lần lượt từng bước là con thơ, sau trở thành cha mẹ và rồi thành ông bà nội ngoại. Dòng dõi này nối tiếp dòng dõi kia để truyền sinh sự sống. Ý nghĩa cuộc sống gia đình quá linh thiêng và tốt lành. Ấy thế mà giá trị hôn nhân gia đình ngày nay dần dần bị xao lãng. Có nhiều người không còn chấp nhận những giá trị tự nhiên và truyền thống của gia đình nữa.
Thời đại văn minh tiến bộ, từ ngữ ‘gia đình’ đã bị lạm dụng theo những suy tư không thuận với luân lý truyền thống. Tại một số nơi, đời sống gia đình có nhiều khác lạ, bao gồm cả các tín hữu công giáo. Tôi nhận thấy nhiều lối sống gia đình lạ ngay trong cộng đoàn nơi đang sinh sống và phục vụ. Kìa, gia đình một cha hay một mẹ sống chung với con cái. Gia đình gồm có bạn trai và bạn gái sống tạm với nhau không khế ước hôn nhân. Gia đình vợ chồng sống ly thân hoặc ly dị, con cái nheo nhóc. Gia đình một mẹ với ba bốn người con và có khi con cái cùng mẹ khác cha hoặc cùng cha khác mẹ. Trong khi người nam, người nữ bình thường không còn muốn lập khế ước hôn nhân, thì những cặp đồng tình luyến ái lại muốn lập hôn thú hợp pháp trước tòa án. Vấn đề đời sống chung gia đình rất bén nhậy và đầy thử thách! Cách sống này có thể vì ảnh hưởng lối sống theo văn hóa và quan niệm xã hội riêng. Nhiều người kết hợp lối sống gia đình theo như thế hệ trước, cha mẹ thế nào và con cái thế ấy. Nhiều bạn trẻ bắt đầu vào đời, liên hệ nam nữ trước hôn nhân nên đành bước lỡ này kéo theo cái lỡ khác. Nhiều bạn sợ hãi trước tương lai bất định nên tìm sống hưởng lạc ngay trong hiện tại. Xảy một ly đi một dặm là thế. Như thế, các thế hệ trẻ lớn lên trong bầu khí gia đình bất thường như thế sẽ bị ảnh hưởng không ít bởi cách sống quá ồn ào, tự do và hưởng thụ.
Tự hỏi làm sao chúng ta có thể tìm được sự an lạc, bình an và hạnh phúc trong đời sống gia đình? Hình như càng đi tìm hạnh phúc, hạnh phúc càng vượt tầm tay. Câu truyện hay: Chó con hỏi chó mẹ: Mẹ ơi hạnh phúc là gì? Chó mẹ bảo: Hạnh phúc là cái đuôi con đấy! Và thế là chó con quay lại tóm cái đuôi của mình, nhưng không tài nào tóm được. Chú ngồi xuống oà khóc và lại hỏi mẹ: Tại sao con không thể nào bắt được hạnh phúc hả mẹ? Chó mẹ mỉm cười và nói rằng: Con trai, tại sao con không tiến về phía trước và hạnh phúc sẽ theo sau con. Vậy tại sao chúng ta cứ phải đi tìm hạnh phúc, khi mà hạnh phúc luôn đi theo mình. Hãy sống và cảm nhận hạnh phúc mà cha mẹ đã tặng ban cho ta. Chúng ta hạnh phúc vì được sống bên những người mà mình yêu thương.
Giáo Hội trung thành với lời Thiên Chúa đã ban truyền trong đời sống gia đình khi một người nam va một người nữ đã kết bạn: Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly. ” (Mt 19, 6). Thiên Chúa đã phối hợp con người trong đời sống gia đình để mong tìm hạnh phúc. Vai trò của mỗi thành viên trong gia đình rất quan trọng. Cha mẹ phải là mẫu gương tốt cho con cái noi theo. Thánh Phaolô nhắn nhủ:Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng (Col 3, 21). Còn con cái có những bổn phận quan trọng đối với đấng bậc sinh thành. Đối với cha: Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm (Hc 3, 3) và đối với mẹ: Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu (Hc 3, 4). Tất cả sự hiếu nghĩa là bày tỏ sự tôn kính và hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ.
Thánh Phaolô khuyên dạy vợ chồng phải tương kính lẫn nhau sống cho có đức độ: Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau (Col 3, 13). Cha mẹ có bổn phận và nhiệm vụ nuối nấng, dạy dỗ và nêu gương mẫu mực trong đời sống. Cha mẹ hiền lành để đức cho con. Cha mẹ là mái che và lá chắn che chở đời con. Người ta ví rằng: Con có cha như nhà có nóc hoặc còn cha thì gót đỏ như son, đến khi cha chết, gót mẹ gót con đen xì. Tình cha nghĩa mẹ thật sâu nặng. Sách Đức Huấn Ca đã khuyên dạy con cái rằng: Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng (Hc 3, 6).
Bài phúc âm tường thuật câu truyện Chúa Giêsu ở lại trong đền thờ để gặp gỡ các chức sắc và lo lắng cho sứ mệnh. Nghĩ rằng con bị lạc, Giuse và Maria lo lắng đi tìm:Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con! “(Lc 2, 48). Cha mẹ đau buồn vì vắng con. Với những lời trách cứ nhẹ nhàng của cha mẹ, Chúa Giêsu hé mở một chút về sứ vụ của ơn cứu độ:Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? “(Lc 2, 49). Nhưng rồi Chúa Giêsu cũng đã vâng lời đi theo cha mẹ trở về quê hương tiếp tục sống những tháng ngày âm thầm chờ đợi. Một mẫu gương cao cả, Con Thiên Chúa vâng phục loài người là cha và mẹ. Đây là điều vô cùng đẹp lòng Chúa và làm hài lòng cha mẹ. Thánh Phaolô viết: Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa (Col 3, 20).
Chúa Giêsu đã sống an vui trong khung cảnh gia đình. Gia đình là nền tảng và là vườn ươm mầm sống. Mọi sự tốt lành bắt nguồn trong đời sống gia đình. Chúng ta hãy qúy trọng mọi vai trò trong đời sống gia đình. Dù biết rằng đôi khi cha mẹ có thể bị thất học, thấp kém, nghèo nàn, bệnh hoạn tật nguyền nhưng vai trò làm cha làm mẹ không suy giảm. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta hãy tôn kính hiếu thảo và yêu thương các ngài. Chúa Giêsu đã trải qua từng ngày sống bên cha cạnh mẹ và Chúa đã trưởng thành: Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta (Lc 2, 52).
Lạy Chúa, gia đình là tổ ấm của tình yêu. Chỉ có yêu thương mới khỏa lấp mọi yếu đuối, hờn ghen và giận ghét. Chỉ có tình yêu mới khơi nguồn hạnh phúc đích thực trong đời sống gia đình. Thánh Phaolô khuyên:Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo (Col 3, 14). Xin cho chúng con biết yêu thương như Chúa đã yêu.
20. Lễ Thánh Gia – Lm. Minh Anh
Khi các bài ca của thiên thần ngưng bặt,
Khi những chòm sao trên nền trời Bêlem lặng khuất,
Khi ba vua đã trở lại quê nhà,
Khi các mục đồng cùng đoàn vật đã rút lui,
Thì bấy giờ, công việc Giáng Sinh lại bắt đầu
để tìm kiếm những gì đã mất,
để hàn gắn những gì đổ gãy,
để các tâm hồn được chữa lành,
để các nước được dựng xây trên công lý và hoà bình…
và để nhân loại được sống trong một nền văn minh mới, văn minh tình thương Kitô.
Vậy mà tất cả ấy lại được bắt đầu từ một mái ấm, từ một gia đình, gia đình Nazareth mà chúng ta quen gọi là gia đình Thánh Gia.
Như bao gia đình khác, Thánh Gia cũng đã trải qua những ngày nắng ấm, những chiều giông bão; cả những khoảnh khắc an vui lẫn những phút giây bồi hồi; nhiều lúc rộn rã tiếng cười, bao lần sùi sụt tiếng khóc.
Thử nhìn lại cái thuở ban đầu lưu luyến ấy của đôi bạn trẻ Giuse – Maria. Từ phút truyền tin, từ buổi đón nhau về cho đến ngày sinh con giữa đồng không mông quạnh, hay khi phải ẵm con đỏ hỏn làm khách trọ quê người…, Thánh Gia phải đương đầu với bao thử thách. Thử thách bên ngoài do hoàn cảnh, thử thách bên trong như câu chuyện Tin Mừng chúng ta vừa nghe, “Con ơi, sao con làm thế, này cha con và mẹ phải lo lắng tìm con?”. “Cha mẹ không biết rằng con phải lo việc nhà Cha con sao?”. Đó là cả một thử thách, một hiểu lầm. Ngước nhìn lên hang đá, bóng thánh giá đã thấp thoáng ở đó.
Ấy thế, kính thưa Anh chị em,
Gia đình ấy vẫn là một gia đình hạnh phúc nhất trần gian, gia đình ấy vẫn trở nên thước ngọc khuôn vàng cho mọi gia đình trong nhân loại. Đó là một gia đình kính sợ Thiên Chúa, một gia đình cầu nguyện, một gia đình mà con cái là tất cả của cha mẹ và cha mẹ là tất cả của con cái. Ở đó, cha mẹ là cả một bầu trời cho con cái và con cái là cả một bầu trời của cha mẹ.
Ở đó, có một người cha chăm chỉ làm việc, một người mẹ ít nói nhưng cầu nguyện nhiều và cả hai cùng ra sức làm gương tốt để nuôi dạy và giáo dục trẻ Giêsu. Ở đó, người con Giêsu hằng vâng lời tùng phục cha mẹ mình.
Trước bao khủng hoảng của cuộc sống hôm nay, nền đạo đức luân lý gia đình đang hấp hối, không ít gia đình đang đối diện bên bờ vực đổ vỡ. Đời sống vật chất của một xã hội tiêu thụ và hưởng thụ đang chực nuốt chửng cái giá trị đạo đức truyền thống của gia đình. Cha mẹ ít có thời giờ cho nhau, chẳng có thời giờ để ở với con cái. Chưa bao giờ mà con cái vuột mất khỏi tầm tay cha mẹ như hôm nay. Cha mẹ mất con ngay khi con đang ở trong nhà. Gương lành gương tốt đang trở nên một cái gì xa xỉ và hiếm hoi. Đó là chưa nói đến gương mù gương xấu nhan nhản trên báo chí, trên phim ảnh…
Hỡi những người làm cha làm mẹ, cả những người làm con, hãy nhìn lên Thánh Gia. Hãy chiêm ngắm Giuse, Maria và trẻ Giêsu: những tấm gương ngời sáng của một người cha, một người mẹ và một người con hết lòng vì gia đình. Hãy làm sống lại truyền thống gia phong Á Đông của cha ông.
Chuyện kể về một người chuyên nuôi cá cảnh. Một hôm, trong kỳ hè, khi đang dạo chơi trước các quầy hàng dọc theo bờ biển, anh thấy một con cá ngũ sắc tuyệt đẹp trong một chậu thủy tinh ở quầy. Đó là một con cá nước mặn xinh xắn mà anh chưa từng thấy, anh quyết định mua về. Về đến nhà, anh ra sức chăm sóc nó và áp dụng những phương pháp tốt nhất của một nhà chuyên môn.
Trước hết, anh đặt cá vào chậu nước mặn, cá lội tung tăng trong môi trường quen thuộc. Thế nhưng, một tuần sau, với sáng kiến, anh thêm vào một ít nước ngọt, mỗi ngày một ít. Cứ thế, anh tăng dần nước ngọt cho đến khi chú cá quen hẳn với môi trường mới. Không dừng lại ở đó, anh tiếp tục luyện cá. Mỗi ngày, anh bắt đầu đổ vào chậu một ít bùn, và cứ thế, sau nhiều tháng, lượng bùn được tăng lên cho đến khi con cá quen hẳn với việc ngày ngày nằm trên mặt bùn đớp mồi như một loài bò sát. Chưa hết, anh tập cho cá ra khỏi chậu và lẽo đẽo theo anh như một con cún cưng. Anh đã thành công, vì mỗi lần anh đi đâu, con cá màu ngoan ngoãn theo sau. Cho đến một ngày kia, chuyện đã xảy ra khi anh có việc sang nhà bạn, có chú cá cùng đi. Lúc trở về, trời đổ mưa, anh phải chạy thật nhanh và quên mất chú cá. Sực nhớ, anh quay lại tìm, nhưng chẳng thấy đâu cho đến khi gặp một vũng nước trên đường, thì hỡi ôi, chú cá yêu quý của anh nằm chết trong đó vì nó không biết bơi.
Câu chuyện khiến chúng ta rùng mình sởn ốc khi nhớ đến trách nhiệm và bổn phận của một người làm cha làm mẹ trong việc giáo dục và làm gương sáng cho con cái. Vì “nửa cuộc đời còn lại của một con người được hình thành từ những thói quen có được từ nửa cuộc đời trước đó”. Thói quen cầu nguyện, thói quen đạo đức, thói quen lễ phép, thói quen dùng thời giờ, thói quen học hành, thói quen dùng tiền…, nghĩa là giáo dục thế nào, kết quả thể ấy.
Muốn được như thế, gia đình chúng ta phải là một gia đình mà Thiên Chúa phải chiếm địa vị tối thượng tuyệt đối trong bậc thang các giá trị. “Không ai hơn Chúa, không chi bằng Chúa, Chúa trên hết, Chúa trước hết”. Bởi lẽ, gia đình được dựng xây và phát xuất từ gia đình yêu thương của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nếu Thiên Chúa không chiếm địa vị độc tôn tối thượng, mọi trật tự sẽ đảo lộn. Có Chúa, gia đình sẽ là một gia đình cầu nguyện. Nhưng để trở nên một gia đình cầu nguyện, để nuôi dưỡng đời sống đức tin, phải lưu ý đến ba hình thức cầu nguyện:
- Trước hết là hình thức cầu nguyện riêng tư, cá nhân. Mỗi người trong gia đình cầu nguyện riêng với Chúa. Đời sống đức tin phải được đặt nền tảng trên việc trải nghiệm cá nhân với Chúa. Một trong những món quà quý báu nhất mà cha mẹ có thể ban tặng cho con cái là tập tành dạy dỗ và làm cho chúng biết yêu thích cùng thưởng thức những giây phút cầu nguyện một mình. Không cách nào để thực hiện điều đó tốt hơn là dùng chính những gương sáng cầu nguyện của mình.
- Hình thức thứ hai của việc cầu nguyện trong gia đình là cầu nguyện chung: kinh nguyện gia đình. Kinh nghiệm cho thấy, các gia đình bỏ kinh, bỏ cơm chung… là dấu hiệu cho thấy sự rạn nứt. Có hình ảnh nào dễ thương hơn khi mọi người được lắng nghe Lời Chúa trong những giây phút này. Hãy để Chúa Thánh Thần dạy dỗ mỗi khi đêm về nhiều hơn thay vì cả nhà ngồi chầu trước con quái vật một mắt để nghe con người dạy bảo.
Thống Tướng Douglas MacArthur, Tham Mưu Trưởng Lục Quân Hoa Kỳ Quân Đội Philippines thập niên 1930, người đã để lại một câu nói bất hủ: “In war, there is no substitute for victory”, “Trong chiến tranh, không có gì thay thế được chiến thắng”. Vậy mà trong tiểu sử của ông còn có một câu nói bất hủ hơn: “Tôi là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy. Nhưng tôi còn hãnh diện hơn, hãnh diện hơn rất nhiều vì được làm một người cha…và niềm hy vọng của tôi là: Khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con tôi vẫn nhớ đến tôi không phải với những hình ảnh ở trận chiến mà là những hình ảnh ở nhà tôi, khi tôi cùng đọc với nó những lời kinh thường đọc hằng ngày: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”.
- Cuối cùng, cầu nguyện với cộng đoàn, Nhà Thờ phải là ngôi nhà thứ hai của mỗi gia đình. Ở đó, cùng với cộng đoàn, mỗi người thờ phượng và tạ ơn Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và các Bí Tích cùng những sinh hoạt không thể thiếu khác với cộng đoàn dân Chúa.
Lễ Thánh Gia hôm nay là dịp để chúng ta tự vấn về việc cầu nguyện trong gia đình của mình. Cầu nguyện có phải là một phần sống chết của gia đình tôi không? Cụ thể hơn là chúng ta – cha mẹ, con trai, con gái – đã góp phần và làm gương sáng vào đời sống cầu nguyện trong gia đình thế nào?
Để kết thúc, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện với Nguyên Soái Douglas McArthur khi ông đang ở chiến trường Philippines trong những ngày mở đầu cuộc chiến Thái Bình Dương. “Lạy Cha, xin ban cho đứa con của con đủ sức mạnh để biết được lúc nào nó yếu đuối, đủ dũng cảm để đối diện với chính mình khi nó cảm thấy sợ hãi…
- Xin đừng để cho đứa con của con chỉ biết ước muốn mà không dám hành động…
- Xin đừng để nó đi vào con đường dễ dãi tiện nghi, nhưng hãy hướng dẫn nó đi vào con đường bắt buộc nó phải cố gắng vượt qua những khó khăn thử thách.
- Xin hãy tập cho nó đứng vững trong bão tố, nhưng lại biết thông cảm với những ai gục ngã.
- Xin hãy ban cho đứa con của con có một trái tim trong sạch, có một mục đích cao cả, biết tự chủ lấy mình trước khi muốn làm chủ người khác, biết lo lắng cho tương lai mà không bao giờ quên quá khứ.
- Và khi Chúa đã ban cho nó tất cả những điều ấy, xin cũng hãy ban cho nó có đủ tính hài hước để có thể luôn nghiêm nghị nhưng không bao giờ nghiêm nghị một cách quá đáng. Như vậy, là cha nó, con dám tự nhủ rằng, con đã không sống một cách vô ích”.
Mừng kính Thánh Gia hôm nay, chúng ta cầu nguyện cho các bậc làm cha mẹ luôn ý thức tầm quan trọng của việc hình thành những chiếc khuôn giáo dục nhân cách, đạo đức cho con cái. Xin cho mọi thành phần trong gia đình luôn biết làm gương sáng cho nhau, gương sáng cầu nguyện, gương sáng yêu thương quên mình. Ở đó, tình yêu, chứng tá hùng hồn nhất của Tin Mừng luôn được hâm nóng và toả sáng cho mọi người chung quanh. Nguyện xin Thánh Gia luôn che chở, cầu bầu và ban bình an cho gia đình Anh Chị em trong Mùa Giáng Sinh hồng ân này và suốt cả Năm Mới. Amen.
(Tham khảo thêm New Sunday & Holy Day Liturgies by Flor McCarthy).
SUY NIỆM 1
Chúa Giêsu lên 12 tuổi – đây là thời gian mà Người phải thực hiện những quy định của lề luật. Như vậy, Đức Maria và thánh Giuse đưa Người lên Giêrusalem, để cử hành lễ Vượt Qua. Các bậc cha mẹ có nhiệm vụ từng bước một đưa con trẻ hội nhập vào cộng đồng rộng lớn hơn, và dạy dỗ cho con trẻ những truyền thống của cộng đồng. Những đứa trẻ cũng cần phải được chỉ dạy con đường đi tới giếng nước thiêng liêng; nếu không, chúng sẽ luôn luôn bị khát nước. Nhưng khi Đức Maria và thánh Giuse thực hiện cuộc hành trình trở về, thì Chúa Giêsu vẫn còn ở lại, và mãi cho đến hết ngày đầu tiên, các ngài mới phát hiện ra rằng Người bị thất lạc. Đó không phải là một chuyện đùa – một đứa trẻ còn nhỏ, đã bị thất lạc trong một thành phố rộng lớn. Tuy nhiên, không ai đáng trách cả. Đây chỉ là do hiểu lầm mà thôi. Sự hiểu lầm vẫn có thể xảy ra, ngay cả trong những gia đình tốt lành nhất.
Các ngài bắt đầu lo lắng tìm kiếm Người. Khi không tìm được Người trong số những khách hàng quen biết, các ngài liền quay trở lại thành phố để tiếp tục tìm kiếm Người. Các ngài không thể hiểu nổi tại sao Người lại gây ra cho mình nỗi lo lắng đến thế. Nhưng khi một đứa con gây ra cho bạn nỗi lo lắng, thì nó vẫn là con của bạn, và bạn vẫn là cha mẹ của nó. Thật dễ dàng yêu thương con cái khi chúng còn nhỏ dại, khi tất cả những điều mà chúng cần đến là sự quan tâm chăm sóc và những nụ cười. Nhưng không dễ dàng yêu thương con cái, khi chúng bắt đầu khẳng định ý riêng của chúng.
Khi một đứa trẻ hay quanh quẩn bên cha mẹ nó, thì đó là một dấu hiệu tốt. Điều có có nghĩa là đứa trẻ này được an toàn. Có khi một đứa trẻ tin tưởng chắc chắn vào tình yêu thương của cha mẹ, nó có thể quên mất cha mẹ, và đi ra ngoài để khám phá thế giới. Đây là trường hợp của Chúa Giêsu. Người không thực sự bị thất lạc, mà đang có một cuộc mạo hiểm. Người đang nhận biết mình ở đâu. Người đang ở trong nhà của Thiên Chúa.
Cuối cùng, khi tìm thấy Chúa Giêsu, câu hỏi đầu tiên của Đức Maria và thánh Giuse rất dễ hiểu: “Con ơi, sao con lại cư xử với cha mẹ như vậy?”. Và Người trả lời “Cha mẹ không biết rằng con có bổn phận phải ở nhà của Cha con sao?”. Mặc dù không hiểu được lời giải thích của Chúa Giêsu, nhưng các ngài vẫn không trách mắng Người. Khi làm như vậy, các ngài có thể tước đoạt của Ngài những thành quả của những cảm nghiệm tuyệt vời. Đôi khi, các bậc cha mẹ không biết được cách làm thế nào để khích lệ con cái, ngay cả khi họ chú ý đến những điều đáng giá. Nhưng Đức Maria ghi nhớ những lời nói của Chúa Giêsu, và suy niệm trong lòng. Lắng nghe là một phần rất quan trọng của vai trò làm cha mẹ. Chúng ta phải lắng nghe những lời con cái nói. Trái ngược lại với cách tìm kiếm những nguyên nhân để kết án, lắng nghe có nghĩa là tìm kiếm những lý do thực sự, phía sau những vấn đề. Mặc dù sự kiện xảy ra là một điều gây đau lòng, thì sự kiện đó vẫn có thể mang lại hiệu quả là đưa người ta đến với nhau hơn. Chúa Giêsu đánh giá được sự quan tâm mà Đức Maria và thánh Giuse dành cho mình nhiều đến như thế nào, nên Người đã vui vẻ vâng phục các ngài. Đức Maria và thánh Giuse đã nhận ra rằng Chúa Giêsu là một đứa trẻ thật đặc biệt. Các ngài bắt đầu dành cho Người cơ hội để phát triển, mặc dù điều này có nghĩa là Người đang bắt đầu xa rời khỏi các ngài.
Bài học mà Đức Maria và thánh Giuse học được, chính là bài học mà tất cả các bậc cha mẹ cần phải bắt chước. Mỗi ngày qua đi, con cái chúng ta dần dần bớt thuộc về chúng ta, và trở nên con người của chúng nhiều hơn. Ngày sinh con cái trên đời chính là ngày mà cha mẹ bắt đầu đi vào cuộc chia tay lớn lao với chúng. Khi đã mang sự sống đến cho con cái, các bậc cha mẹ không được lấy lại cuộc sống đó. Nếu họ muốn có quyền sở hữu đối với con cái, thì họ sẽ không bao giờ biết được tình yêu thực sự của con cái họ.
Khi chúng ta nói rằng đứa trẻ nào là một đứa con “ngoan”, hiếm khi chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó nhạy cảm về mặt luân lý hoặc một cách phong phú. Nhưng chúng ta có ý muốn nói rằng đứa trẻ đó dễ bảo và biết vâng lời. Nhưng sự vâng lời không phải là một đức tính cao đẹp nhất.
Chúa Giêsu không bị thất lạc tại Đền thờ. Nói đúng hơn, Người bắt đầu tìm thấy chính mình tại nơi đó, và phát hiện được căn tính đích thực của mình với tư cách là Con Thiên Chúa. Về phương diện này, gia đình Kitô hữu có thể giúp chúng ta rất nhiều.
SUY NIỆM 2:
Cuối bài Tin Mừng hôm nay, có một câu nói rất gây ấn tượng. Đó là “Đức Maria hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”. Và sau cuộc thăm viếng của các mục đồng tại máng cỏ, chúng ta nhận thấy cũng có một câu tương tự như vậy. Thánh Luca nói rằng “Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Đức Maria ghi nhớ những sự kiện này trong tâm hồn của Mẹ, với quan niệm là để nhận thức được ý nghĩa ẩn giấu phía sau những sự kiện tuyệt vời đó.
Rõ ràng Đức Maria đã không ngay tức khắc thấu hiểu được ý nghĩa của những gì xảy ra với mình, và điều mà Thiên Chúa đang đòi hỏi nơi mình. Nhưng những sự kiện luôn luôn diễn ra theo cách thế đó. Những kinh nghiệm sâu xa lúc nào cũng bắt đầu bằng sự phức tạp. Vào một lúc nào đó, chúng ta không bao giờ nhận biết được điều gì đang xảy ra cho chúng ta. Chỉ sau đó, có lẽ rất lâu, đôi mắt của chúng ta mới mở ra, và chúng ta bắt đầu hiểu được. Do đó, điều qaun trọng là phải biết suy niệm.
Hơn một lần, chúng ta đọc được trong các bài đọc. Tin Mừng kể rằng Đức Maria đã từng bối rối. Lúc đó, Mẹ làm gì? Mẹ ngẫm nghĩ, suy niệm và cầu nguyện, tìm cách hiểu được điều gì đang xảy ra cho bản thân Mẹ và cho con Mẹ. Cách ngẫm nghĩ này không tránh khỏi sự bất an và lo lắng.
Đức Maria là một con người âm thầm, hay suy nghĩ. Trong suốt cuộc đời của mình, Mẹ luôn suy nghĩ và cầu nguyện về cách thức Thiên Chúa đối xử với mình. Khi không hiểu được điều gì, thì Mẹ ngẫm nghĩ trong tâm hồn, cho đến khi thấu hiểu được mục đích của Thiên Chúa qua những sự kiện đó. Bằng cách này, Mẹ đã đạt được sự thấu hiểu và khôn ngoan.
Emerson nói: “Cuộc sống ở phía sau chúng ta, giống như một cái mộ đá, mà từ đó, chúng ta khai thác đá và gạch ngói, dành cho người thợ nề ngày nay”. Chỉ bằng cách suy niệm, chúng ta mới thấu hiểu được những sự kiện diễn ra. Chúng ta có thể có được những sự kiện, nhưng thiếu mất ý nghĩa của những sự kiện đó, bởi vì chúng ta không biết suy nghĩ về chúng. Nhưng bằng cách suy niệm, thì chúng ta có thể rút ra được những hiểu biết quí giá từ các sự kiện đó.
Khi muốn nhớ lại những sự kiện thú vị, đó là một điều thật dễ dàng. Nhưng không hề dễ dàng chút nào, khi nhớ đến những sự kiện đau lòng. Chúng ta có khuynh hướng hay đè nén những ký ức đau thương. Ngay cả khi làm như vậy, chúng vẫn có thể ảnh hưởng trên chúng ta. Chúng ta có thể nhỏ một giọt chất độc vào tâm hồn chúng ta. Chúng ta cũng cần phải nhớ lại những sự kiện đau lòng nhưng cách thức chúng ta nhớ lại những sự kiện đó mới là vấn đề. Chúng ta có thể cung cấp những chất liệu sống để rồi từ đó, chúng ta hiểu biết được lòng thương xót và sự khôn ngoan. Sự kiện Chúa Giêsu bị thất lạc ở Giêrusalem là một sự kiện đau lòng đối với Đức Maria. Tuy nhiên, Mẹ ghi nhớ sự kiện đó trong tâm hồn, và bằng cách làm như vậy, Mẹ đã học hỏi được từ sự kiện đó.
Thật đáng buồn, có những người dường như không hề học hỏi được gì từ các sự kiện xảy ra. Nhưng đối với những người khác, thì sự kiện là một trường học đích thực. Không ai có thể trở thành con người khôn ngoan, nếu chỉ trong một ngày, hoặc thậm chí trong một năm. Khôn ngoan là thành quả của sự suy nghĩ lâu dài.
Các bậc cha mẹ cần có rất nhiều sự khôn ngoan. Những điều mà Đức Maria học hỏi được từ việc cầu nguyện và suy nghĩ, Mẹ đã chuyển sang cho con Mẹ, Đấng học hỏi được từ việc cầu nguyện và suy nghĩ, Mẹ đã chuyển sang cho con Mẹ, Đấng mà thánh Luca kể cho chúng ta rằng “ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến”. Chúa Giêsu đã được dạy dỗ, nuôi dưỡng và đào tạo do một người phụ nữ khôn ngoan, kính yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim và linh hồn.
MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC
Có một câu nói “Một bà mẹ có thể nuôi được mười đứa con, nhưng mười đứa con không thể nuôi được một bà mẹ”. Tất nhiên, không phải lúc nào cũng đơn giản là thế, như câu chuyện minh hoạ dưới đây.
Ngày xưa, một con chim mẹ có một con chim non mới ra ràng, mà nó rất mực yêu thương. Thế rồi đến thời kỳ di trú. Biết rằng con chim non còn quá bé nhỏ, không thể bay đi xa được, nên chim mẹ cõng chim non trên lưng.
Và thế là hai mẹ con nhà chim bắt đầu cuộc hành trình bay về phía nam. Ban đầu, chuyến bay tương đối dễ dàng. Nhưng thời gian trôi qua, con chim non trở nên nặng hơn, và chim mẹ bắt đầu cảm thấy mệt mỏi. Tuy nhiên, nó vẫn tiếp tục bay. Ngày kia, trong khi cả hai mẹ con đang nghỉ ngơi, chim mẹ quay sang chim con và nói “Con của mẹ, con hãy nói sự thật cho mẹ nghe, khi mẹ già rồi, thì mẹ sẽ không đủ sức mạnh để bay xuyên qua đại dương xuôi về phía nam, thế con sẽ cõng mẹ trên lưng và bay chứ?”.
Con chim con đáp “Mẹ ơi, con không thể hứa gì với mẹ về điều đó”.
Chim mẹ hỏi “Mà tại sao lại không được?”
“Bởi vì có thể chính con cũng bận rộn, vì phải cõng những đứa con của con trên lưng, giống như mẹ đang làm cho con bây giờ vậy”.
Trong khi đòi hỏi của bà mẹ là không thể nào hiểu được, là hơi ích kỷ, thì người ta vẫn phải làm điều mà mình có thể làm được, để chăm sóc cha mẹ già. Bổn phận đầu tiên và thánh thiện nhất của chúng ta, là cư xử tử tế đối với người họ hàng của mình. Nhưng có lẽ chăm sóc chính những đứa con của mình lại là cách thức tốt nhất, để đền đáp công ơn cha mẹ đã săn sóc chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Mark Link, SJ.)
Chủ đề: “Truyền thống Giáo hội dạy về các thiên thần rất rõ ràng, tuy ít nhấn mạnh đến thiên thần bản mệnh”
Có một truyền thuyết xa xưa về cuộc chạy trốn của Thánh Gia sang Ai Cập như sau: giữa một cuộc hành trình các ngài gặp phải một lũ cướp và bị chúng bao vây. Vừa khi nghe chúng nhào tới tính trấn lột đôi vợ chồng trẻ, thì một đứa trong bọn tên là Dismas nhận ra tay Đức Maria có ẵm một hài nhi. Hắn quá xúc động trước vẻ mặt hài nhi Giêsu, nên đã khuyên can đám cướp để cho các ngài được an toàn ra đi. Trước khi cả bọn rút lui, Dismas nghiêng mình trên hài nhi Giêsu và nói: “Xin hãy nhớ đến tôi và đừng bao giờ quên giờ phút này”. Truyền thuyết kể rằng về sau tên cướp ấy đã trở thành tên trộm lành bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu và chính Ngài đã nói với hắn rằng: “Hôm nay đây ngươi sẽ ở cùng Ta trên nước thiên đường”. (Lc 23: 43)
Dĩ nhiên đây chỉ là một truyền thuyết có lẽ đã chẳng xảy ra. Tuy nhiên nó bộc lộ cho thấy hai điều quan trọng. Thứ nhất là khi trốn chạy sang Ai Cập, Thánh Gia đã gặp phải nhiều nguy hiểm. Thời xưa, hầu hết mọi người đều đi thành từng đoàn đông đúc vì nhiều con đường bị lũ cướp kiểm soát. Điên rồ lắm mới đi một mình, trừ khi nguy cấp giống trường hợp Thánh Gia mà thôi. Thứ đến, truyền thuyết trên còn đề cao sự quan phòng đặc bịêt của Chúa đối với Thánh Gia lúc Chúa Giêsu vừa mới chào đời. Thánh sử Matthêu kể rằng đang khi thánh Giuse ngủ, một thiên thần Chúa đã truyền lệnh cho ngài trốn sang Ai Cập và sau đó một thiên thần lại truyền cho ngài trở về khi tình hình đã lắng yên.
Chúng ta hãy lưu tâm tới điểm thứ hai nói về vị thiên thần lãnh nhiệm vụ che chở đặc biệt cho Chúa Giêsu. Thiên thần ấy là ai?
Ngày nay, khi nhắc đến từ ngữ Thiên Thần có lẽ mỗi người hiểu một cách khác nhau. Khán giả xem truyền hình có lẽ sẽ nghĩ rằng chúng ta đang nói đến một chương trình truyền hình hấp dẫn của Michael Landon. Chương trình này mang tên “Highway to heaven” (xa lộ về trời). Trong đó Landon đóng vai thiên thần chuyên nguỵ trang đi cứu giúp người nguy khốn; còn khán giả thích xem chiếu bóng khi nghe từ Thiên thần có lẽ sẽ nghĩ đến bộ phim “The Heavely kid” (chú bé thiên thượng). Trong đó có một người bố trẻ đã lên thiên đường nhưng lại trở về trái đất để lo đám cưới cho con trai mình. Còn người Kitô hữu có lẽ sẽ nghĩ những sinh vật thần thiêng thường che chở chúng ta trong cơn nguy khốn. Về điểm này chúng ta nên phân tách ra hai ý niệm: ý niệm Thiên thần nói chung và ý niệm thiên thần bản mệnh nói riêng.
Đầu tiên ta hãy bàn đến các thiên thần nói chung. Vài năm trước đây, Billy Graham có viết một quyển sách nhan đề Thiên Thần (Angels). Ngay tức khắc cuốn sách bán rất chạy, được hơn triệu cuốn. Graham đã quảng diễn lời dạy của truyền thống Giáo hội, cho rằng các thiên thần là loài thiêng liêng. Dưới nhãn quan công giáo, truyền thống Giáo hội tin rằng các thiên thần là thụ tạo vô hình của Chúa. Chúng ta thường ám chỉ đến các vị ấy trong kinh Tin Kính đọc trong thánh lễ: “Tôi kinh kính một Thiên Chúa… Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình”. Chúng ta cũng nhắc đến các vị ấy lúc khởi đầu thánh lễ qua lời kinh Cáo Mình: “Tôi xin Rất Thánh Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, các Thiên Thần, các Thánh và anh chị em, khẩn cầu cho tôi trước toà Thiên Chúa, Chúa chúng ta”. Ngoài ra trong kinh tiền tụng, chúng ta vẫn thường đọc: “Vì thế, cùng với các thiên thần và toàn thể các thánh, chúng con đồng thanh tung hô vinh quang Chúa rằng: Thánh, Thánh, Thánh…”. Trong Kinh thánh, chúng ta thấy các thiên thần cũng thường được nhắc đến, từ cuốn đầu tiên tức Sáng Thế Ký đến cuốn sau cùng tức Khải Huyền. Đặc biệt các vị này được nhắc đến trong cuộc Giáng Sinh của Chúa Giêsu. Thánh Kinh thường phác hoạ các vị như là những sứ giả của Chúa, chẳng hạn như trong bài Phúc Âm hôm nay. Thêm vào đó, dường như Thánh Kinh còn dùng từ ngữ Thiên Thần để ám chỉ việc Chúa hiện ra, chẳng hạn trong Cựu Ước, Hagar đã nói về một thiên thần của Chúa như sau: “Làm sao tôi trông thấy Chúa mà lại còn sống được?” (St 16: 13)
Tiếp theo, chúng ta hãy bàn đến các thiên thần bản mệnh, tức các vị được Chúa chỉ định che chở chúng ta. Thánh Kinh ít nói rõ về điểm này. Tuy nhiên Chúa Giêsu có nhắc đến khi Ngài nói về các trẻ em như sau: “Thiên thần của chúng…. hằng chiêm ngưỡng Thánh nhan Cha Ta ở trên trời” (Mt 18: 10). Giáo hội chưa bao giờ buộc ngặt chúng ta phải tin rằng mỗi người đều có riêng thiên thần bản mệnh, tuy nhiên khái niệm về thiên thần bản mệnh rất được Giáo hội kính chuộng, vì ít nhất nó cũng làm nổi bật một trong những giáo huấn nền tảng của Đức tin chúng ta. Theo đó, Thiên Chúa luôn luôn yêu thương và quan tâm đặc biệt đến mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ về tình yêu và sự quan tâm đặc biệt này như sau: “Không một con chim sẻ nào mà không được Thiên Chúa lưu tâm đến… đừng sợ, các con còn quí giá hơn chim sẻ rất nhiều”. Vậy, để kết luận chúng ta nên nhớ rằng Giáo hội dạy chúng ta hai điều liên quan đến các thiên thần; thứ nhất, các thiên thần có thực, các vị ấy là những sứ giả và có lẽ là những biểu lộ của chính Thiên Chúa; thứ đến, mỗi người chúng ta là đối tượng được Chúa yêu thương và quan tâm đặc biệt, đôi khi tình thương và lòng quan tâm của Ngài được hình ảnh hoá thành một thiên thần bản mệnh. Tuy nhiên Giáo hội không có buộc chúng ta phải tin có một thiên thần bản mệnh nơi từng người.
Để kết thúc, tôi xin trưng dẫn một bài thơ của một nhà thần học hiện đại tên là John Shea, mô tả vai trò quan trọng của ý niệm thiên thần bản mệnh trong tuổi thơ của ông đồng thời muốn truyền đạt ý niệm ấy cho đám trẻ ngày nay. Shea nói:
“Tôi thực buồn cười khi nhớ lại vào năm lớp hai, Dì Phước dạy giáo lý đã bắt chúng tôi ngồi xích ra một chút để nhường chỗ cho thiên thần bản mệnh của mình. Tôi thì mập ú mà cái ghế ngồi thì nhỏ xíu, nên tôi thường bị tuột ra khỏi thành ghế giống như một chiếc bánh săng-uých trét bơ nhão nhoẹt, và đau đớn thấy rằng sao Thiên Chúa lại gần gũi đến thế! Nhưng rồi tôi đã vượt xa thiên thần đó, để ngài lại sau lưng như dấu thánh giá trước khi ném trái banh vào rổ.
Nhưng nếu muốn nói cho con tôi biết một điều khôn ngoan, có lẽ tôi sẽ nói thầm vào tai nó rằng con có một thiên thần của chính con, không như đầy tớ hay một người bạn tưởng tượng, nhưng là một người bạn đích thật–như Tôbia trên hành trình cuộc đời. Nếu không, có lẽ nó sẽ quên sự trưởng thành đức tin của cha nó mà đôi cánh của tình yêu Thiên Chúa trổi vượt hơn tất cả chúng ta. Khi nhớ lại, tôi mỉm cười nhưng làm sao để trao truyền lại điều đó.”
(Trích trong bài A praver of Inheritance trong cuốn The God Who Fells from Heaven (Thiên Thần từ trời rơi xuống), Tabor xuất bản năm 1979).
(Suy niệm của Lm. Jb Nguyễn Minh Phương, C.Ss.R)
Lẽ tự nhiên, ai ai cũng mong muốn cho gia đình mình được ấm êm hạnh phúc. Trong thực tế, không ít người thường than phiền về cuộc sống gia đình của mình. Ý thức sự bất toàn nơi con người, các tín hữu hướng về Thánh Gia khẩn xin gương sáng của Thánh Gia chiếu soi, nâng đỡ gia đình sống: Tin mừng – Gia-đình – Làm việc
- TIN MỪNG
Là con, Ngôi Hai Thiên Chúa đã chọn Thánh Gia để nhập thể vào trần gian. Người chính là Tin Mừng, là ơn cứu độ, cho toàn thể nhân loại. Nơi Thánh Gia, Người đã xuất hiện “cách đơn sơ, khiêm tốn và dễ thương” và đã sử dụng những phương thế: khung cảnh, địa điểm, phong tục, ngôn ngữ, nghi lễ tôn giáo… để mặc khải chính mình cho thế gian.
Là chủ của Thánh Gia, thánh Giu-se, người công chính luôn tìm kiếm thánh ý Chúa: vâng theo lời thiên thần đón Trinh Nữ Ma-ri-a về làm vợ, theo luật tôn giáo dâng con vào đền thờ, tránh bạo vương Hê-rô-đê đang đêm đưa con trốn sang Ai cập, khi vua Hê-rô-đê chết chuyển gia đình hồi hương về Na-da-rét, thi hành bổn phận thờ phượng hàng năm đưa gia đình lên thành Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua.
Là hiền mẫu, Mẹ Ma-ri-a xin vâng như lời thiên thần truyền lãnh nhận nhiệm vụ cưu mang con Thiên Chúa nhập thể làm người, vội vã lên miền núi phục vụ bà chị họ, sinh con trong cảnh khó khăn, chăm lo phục vụ gia đình, suy gẫm lời Chúa và những kỷ niệm được Chúa ban cho.
Như vậy, từng thành viên trong Thánh Gia đều là tin mừng cho nhau và cho muôn người, cùng dắt dìu nhau trong ân sủng và tình thương của Thiên Chúa.
Ước mong mọi thành viên trong các gia đình trần thế hôm nay cũng trở nên tin mừng cho bản thân và cho nhau, cùng giúp nhau sống tình yêu thương hầu trở nên ánh sáng tin mừng cho muôn người.
- GIA ĐÌNH
Tự bản chất, con người là một sinh vật xã hội, luôn sống cùng và sống với nhau. Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội tốt.
Gia đình chính là nơi đầu tiên để người ta học biết các giao tiếp xã hội. Bài học đầu đời luôn bắt đầu từ gia đình “học ăn học nói, học gói học mở”. Thầy cô giáo đầu tiên của mỗi người là chính người cha, người mẹ.
Như bao gia đình, Thánh Gia chính là một xã hội thu nhỏ, một Hội Thánh tại gia. Nơi ấy, Con Thiên Chúa được sinh ra làm người, được bắt đầu bập bẹ những tiếng nói nhân loại, được dạy dỗ để trở nên một người giữa mọi người.
Thánh Gia tuy nghèo hèn khắc khổ nhưng sáng ngời, chan chứa yêu thương hòa điệu với mọi người:
– Hàng ngày, Thánh Gia chia sẻ cuộc sống với khoảng năm mươi gia đình gắn bó với nhau nơi làng quê Na-da-rét hẻo lánh.
– Hàng năm, Thánh Gia cùng với bà con thân thích, bạn bè thân hữu dắt dìu nhau trẩy hội lên đền Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua.
– Đến mùa cưới, Thánh Gia cũng đi dự tiệc cưới để chia sẻ niềm vui với mọi người.
– Đến chân thập giá, Thánh Gia cũng không lẻ loi một mình, bởi dưới chân thập giá, cùng hiện diện với Mẹ Ma-ri-a còn có một số người nữa.
Thánh Gia đã sống hòa điệu với cuộc đời, đã đồng hành với mọi người trên từng bước đường của cuộc sống.
Gương Thánh Gia như đang mời gọi các gia đình hãy tái khám phá ý nghĩa và giá trị của gia đình, đồng thời ý thức vai trò nền tảng của gia đình trong trật tự xã hội. Nhờ vậy, các gia đình sẽ nghiêm túc thực hiện việc huấn luyện tại gia thể hiện qua việc: chỉ bảo cho nhau những ứng xử tích cực trong gia đình và với mọi người, giúp nhau vượt ra khỏi sự ích kỷ, hẹp hòi đóng khung khép kín của bản thân và gia đình mình để chia sẻ sự sống cho nhau và cho những người xung quanh, cùng nâng đỡ nhau xây dựng thế giới chan chứa yêu thương…
III. LÀM VIỆC
Sóng gió hiểm nguy đã qua, từ nơi đất khách quê người Ai-cập Thánh Gia đã hồi hương về làng quê Na-da-rét.
Tại đây, thánh Giu-se dùng nghề thợ mộc mưu sinh, kiếm tìm miếng cơm manh áo cho gia đình.
Mẹ Ma-ri-a tần tảo sớm hôm, chăm lo cho những sinh hoạt của cả nhà.
Trẻ Giê-su học nghề của cha nuôi để tìm kiếm sinh nhai. Rõ ràng, trong thân phận con người, Đức Giê-su đã có những trải nghiệm cụ thể. Từ trải nghiệm ấy, từng lời giảng dạy của Người đều chất chứa những hình tượng, những kinh nghiệm từ thiên nhiên từ sự quan sát cuộc sống…
Như vậy, Thánh Gia đã sống giữa những người đồng hương nghèo khổ bằng đôi tay lao động chân chính của mình.
Ngày nay, rất nhiều nơi, người ta than phiền về tình trạng nhiều người chẳng làm việc gì mà việc gì cũng xen vào, than phiền về tình trạng nhiều người chỉ muốn ngồi mát ăn bát vàn, hậu quả là tham nhũng, gian xảo, dối trá…than phiền về tình trạng người trẻ lạm dụng những tiện ích nên không biết đến giá trị của lao động, giá trị của những đồng tiền mồ hôi nước mắt, nên đã vô cảm đòi hỏi hưởng thụ quá đáng…
Ước mong gương lao động của Thánh Gia chiếu soi các gia đình, thúc đẩy mọi thành viên trong gia đình ý thức giá trị của lao động, hầu rèn luyện bản thân và đóng góp phần mình trong việc cộng tác với Chúa tiếp tục tạo dựng vũ trụ tốt đẹp, cộng tác với nhau xây dựng thế giới văn minh tình thương.
KẾT: Lúc này, tương quan nhiều gia đình lỏng lẻo và tình thân nhiều gia đình đang bị đe dọa bởi nhiều lý do.
Khát khao hạnh phúc cho gia đình, người tín hữu tìm về với Thánh Gia để học sống: Tin Mừng yêu thương, tình thân gia đình, cộng tác làm việc.
Nguyện xin gương Thánh Gia tỏa sáng trong các gia đình, cùng giúp nhau chia sẻ niềm vui và hạnh phúc.
24. Bài học của gia đình – Lm. Vũ Xuân Hạnh
Chưa bao giờ đời sống gia đình đang đứng trước những thách đố lớn lao như ngày hôm nay. Bởi vậy, lễ Thánh Gia Thất mà chúng ta mừng kính hôm nay như là một cơ hội để chúng ta tái khám phá lại giá trị không thể thay thế được của đời sống gia đình.
Khủng hoảng gia đình khởi sự từ chính cá nhân của từng thành viên trong gia đình, mà mấu chốt chính là việc đề cáo tự do cá nhân quá trớn, đến độ đánh mất ý thức trách nhiệm đối với các thành viên khác trong gia đình. Từng thành viên chỉ biết đòi hỏi hơn là trở thành quà tặng cho nhau. Tự ái và tính ích kỷ là nguyên nhân xô đẩy gia đình đến bên bờ vực thẳm của gẫy đổ.
Nơi Thánh Gia Thất, chúng ta thấy một sự hài hòa tuyệt vời trong từng vai trò. Nơi Thánh Gia Thất chúng ta đọc được một bản hòa tấu nhịp nhàng trong ba nhân vật với ba cá tính khác nhau. Thánh Giuse, người thợ mộc chất phác, thâm trầm, con người đắn đo trong các quyết định, nhưng cương quyết trong hành động; Đức Maria, người phụ nữ đạo đức, sống nội tâm, dịu dàng và nỗ lực đọc Thánh Ý Chúa trong mọi biến cố cuộc cuộc đời; Chúa Giêsu luôn bị thôi thúc bởi sứ vụ Cha trao, nhưng cũng không bao giờ bỏ quên chỗ đứng của mình trong gia đình Thánh Gia.
Sự hòa nhịp được thể hiện trong chính đời sống đạo đức của gia đình Thánh Gia. Tất cả đều hướng về Thánh Ý. Từ lòng đạo đức nẩy sinh sự tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng ơn gọi của từng người, sứ vụ của từng thành viên. Sự tôn trọng đó là sợi chỉ đỏ liên kết các thành viên trong gia đình Thánh Gia trở thành mẩu mực cho mọi gia đình. Bởi từ sự tôn trọng, các thành viên sống cho nhau, bảo vệ giữ gìn nhau.
Đời sống gia đình hôm nay càng ngày càng gãy vụn, bởi thay vì tôn thờ Thiên Chúa, thì người ta tôn thờ tiền bạc, vật chất và sự hưởng thụ. Từ chỗ đó, người ta thiếu hẳn sự tôn trọng lẫn nhau, coi nhau như là dụng cụ phục vụ cho sở thích của riêng mình. Trong gia đình, người ta đòi hỏi lẫn nhau thay vì trở thành quà tặng cho nhau. Tình yêu gia đình không còn là một tình yêu trao ban hiến tặng cho nhau, nhưng là một tình yêu cho mình và vì minh, một tình yêu quy ngã ích kỷ.
Lạy Chúa, chưa bao giờ xã hội phải đối diện với những khủng hoảng lớn lao như ngày hôm nay, vì tế bào nền tảng của xã hội là gia đình đang bị phá vỡ. Xin cho gia đình kitô hữu chúng con vượt qua được những cơn giông bão này, bằng việc học cách sống nơi gia đình Thánh Gia Chú: Sống đạo đức, lấy Chúa làm chỗ dựa, sống tôn trọng lẫn nhau, sống cho nhau và sống vì nhau. Amen.
(Trích tài liệu Giờ Kinh Gia Đình Với Lời Chúa của giáo phận Phú Cường)
(Suy niệm của Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin Mừng Lc 2: 41-52: Tin Mừng theo Thánh Luca trình thuật biến cố Chúa Giêsu biến mất sau khi kết thúc cuộc hành hương cùng với cha mẹ lên Giêrusalem, năm Ngài 12 tuổi.
- Tìm Hiểu Lời Chúa: Lc 2, 41-52
Hôm nay chúng ta đọc trong Tin Mừng theo Thánh Luca trình thuật biến cố Chúa Giêsu biến mất sau khi kết thúc cuộc hành hương cùng với cha mẹ lên Giêrusalem, năm Ngài 12 tuổi. Trình thuật này như là câu kết và điểm hội tụ của toàn thể Tin mừng thời thơ ấu. Đồng thời, đó cũng là một bài giáo lý với hai khía cạnh: Khía cạnh luân lý, trình bày sự vâng phục của Chúa Giêsu và khía cạnh màu nhiệm, biểu lộ màu nhiệm phục sinh. Trong bối cảnh của lễ Thánh Gia Thất, chúng ta rút ra được những bài học giá trị cho đời sống gia đình qua trinh thuật này.
- Đức Maria và Thánh Giuse bối rối bởi thái độ của Chúa Giêsu: Các Ngài đi từ ngạc nhiên khi thấy Chúa Giêsu ngồi giữa những thầy luật sĩ nghe và hỏi các ông rồi đến việc không hiểu nổi câu trả lời của Người. Các Ngài không lĩnh hội được ngay ý nghĩa đích thực của lời Chúa Giêsu. Kông phải vì các Ngài không biết về nguồn gốc Thần linh siêu việt của Người, các Ngài biết rất rõ điều này hơn ai hết. Nhưng các Đấng không hiểu ngay là Chúa Giêsu muốn nói đến Cha Người trên trời, nhất là các Ngài không thể đoán được mọi ý nghĩa sâu sa ẩn giấu sau lời nói, một lời nói đầy tính cách tiên tri, mạc khải cách đơn sơ một tương lai hoàn toàn vượt quá khả năng hiểu biết. Thiên Chúa không mạc khải trước chương trình sống của Người mà chỉ cho biết chi tiết vào ngày giờ của Người.
- “Những công việc của Cha con”, câu nói này xem ra dịch như vậy chưa chính xác lắm. Lo việc của Chúa Cha là việc mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện từ khi bắt đầu chịu phép rửa. Công việc duy nhất, công việc vĩ đại của Ngài là hoàn thành công trình cứu độ của Thiên Chúa Cha. Nhưng công việc này không phải là từ lúc lên 12 tuổi, khi lên đền thờ với cha mẹ. Lúc này Ngài chỉ muốn đến ở đền thờ là nhà Cha Ngài thôi. Theo Cha R. Laurentin giải thích thì theo từng nghĩa chữ Hy lạp chỉ có nghĩa là: “Ở trong nhà cha con” (Chez mon père). Công thức này lột tả chính xác ý nghĩa Luca muốn nói và phù hợp với văn phạm Hy lạp, với lối chú giải của các Giáo phụ Hy lạp và với chính văn mạch của đoạn này. Từ đây Ngài ở trong nhà Cha Ngài, trong nhà Ngài, sự hiện diện này còn hơn là sự hiện diện thể lý trong đề thờ.
- Câu trả lời của Chúa Giêsu, thái độ của Ngài hiển nhiên là khó hiểu. Xét cho kỹ, câu trả lời không giải thích gì cả, không nhằm bào chữa cách cư xử của Ngài mà chỉ kêu mời Đức Maria và Thánh Giuse vươn lên khỏi những bình diện của những mối bận tâm thường nhật để đến bình diện thiêng liên, nơi mà Ngài luôn ở với Cha Ngài. Qua những chuyện thường nhật, nếu đọc dưới ánh sáng đức tin sẽ nhận ra được thánh ý Chúa và sẵn sàng thực thi chúng trước những công việc khác. Trong bối cảnh lễ Thánh Gia Thất, trình thuật này là lời mời gọi mọi thành viên gia đình Công giáo cần xác định rằng gia đình chúng ta, nơi cư ngụ của gia đình thuộc về một gia đình lớn hơn đó là gia đình Thiên Chúa.
- Gợi Ý Sống Lời Chúa
- Gia Đình, cộng đồng sự sống: Con cái được sinh ra từ tình yêu của cha mẹ, được triển nở từ tình yêu gia đình và cũng được nuôi dưỡng giáo dục và khôn lớn trong gia đình. Cho nên, có thể nói gia đình là cộng đồng của sự sống. Từ nơi cha mẹ con cái được được kế thừasự sống. Ở nơi Thiên Chúa, cha mẹ được Thiên Chúa mời gọi tham dự vào công trình sáng tạo của Người, sáng tạo nên một sự sống mới cho thế giới qua việc sinh con. Trong sự phát triển của xã hội, gia đình là môi trường định hình nên nhân cách. Gia đình là môi trường cần thiết để con cái phát triển thể xác, tâm lý, trí khôn và đời sống tâm linh. Chiêm ngưỡng gia đình Thánh Gia Thất chúng ta thấy rõ một cộng đồng của sự sống: Đức Maria can đảm đón nhận một mầm sống trong cung lòng; Thánh cả Giuse thay vì lên án tố cáo Đức Maria và thạm chí cũng đã định tâm lìa bỏ Ngài cách kín đáo để gìn giữ danh dự và bảo vệ một mầm sống trong lòng Trinh Nữ, nhưng rồi Ngài đã can đảm đón nhận và hết lòng yêu thương chăm sóc con trẻ được sinh ra. Trong gia đình đó Đức Giêsu ngày càng tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng. Ngày nay, nhiều gia đình do ảnh hưởng của trào lưu thực dụng, nền văn minh của sự chết đã biến gia đình mình thành cộng đồng của sự chết. Biết bao tệ nạn đã và đang diễn ra giết chết gia đình: phá thai, ngừa thai phi luân; vợ chồng không còn tình yêu ly dị nhau … Gia đình không còn là môi trường tốt và cần thiết để con cái lớn lên và phát triển.
Với hoàn cảnh xã hội hôm nay, mỗi gia đình Công giáo phải biết noi theo gia đình Thánh Gia Thất để phát triển sự sống trong gia đình mình bằng việc cha mẹ yêu thương can đảm đón nhận con cái là hoa trái của tình yêu mình, là quà tặng của Thiên Chúa.
- Gia Đình, Cộng đồng của tình yêu: Thánh Gioan Tông đồ, trong bài đọc II, nhắc nhở mọi Kitô hữu biết rằng chúng ta là con cái Chúa, là anh chị em của nhau, chúng ta thuộc về gia đình Thiên Chúa. Gia đình Kitô hữu như vậy không chỉ liên kết với nhau bằng mối dây huyết nhục nhưng còn bằng mối dây thiêng liêng của gia đình Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu nên gia đình Thiên Chúa là gia đình của tình yêu. Mọi người sống tình yêu thương dành cho Thiên Chúa là cha; tình yêu thương huynh đệ dành cho nhau. Gia đình chính là nơi tốt nhất để thể hiện mối tương quan tình yêu của gia đình Thiên Chúa. Làm sao con cái biết được Thiên Chúa là Cha nhân lành nếu như cha mẹ trong gia đình không sống đúng trách nhiệm của bậc mẹ cha, không dành cho con cái tình yêu thương. Làm sao có thể thảo hiếu với Thiên Chúa là Cha nếu như con cái trong gia đình chẳng thiết gì đến việc thảo hiếu với cha mẹ. Làm sao có thể đón nhận yêu thương mọi người vì tất cả là anh em con cùng một Cha trên trời, nếu như anh chị em trong gia đình lại lâm vào cảnh bất hòa, huynh đệ tương tàn. Ngày nay vì ích kỷ, vì tiền, vì quyền lợi mà không hiếm những gia đình đã biến thành nơi chốn của hận thù, đố kỵ, chia rẽ … Cha mẹ và con cái chia rẽ nhau; anh chị em hạn thù nhau, vợ chồng lôi nhau ra toà tố cáo nhau.
Noi gương gia đình Thánh Gia, nơi đó, Đức Maria và Thánh Cả Giuse yêu thương nhau cùng hợp sức nuôi dạy Đức Giêsu. Còn Đức Giêsu yêu thương vâng phục cha mẹ mình. Đúng là một gia đình của tình yêu, là gương mẫu cho các gia đình.
- Gia Đình, Cộng đồng thánh thiện: Sự thánh thiện hiểu theo nghĩa là sống theo đúng giới luật của Chúa, gắn bó với Chúa và luôn có Thiên Chúa ở cùng thì gia đình chính là một cộng đồng thánh thiện. Đức Giêsu, Đức Maria và Thánh Cả Giuse hợp thành một gia đình gọi là gia đình thánh vì không chỉ nơi các Ngài là các Đấng Thánh mà chính vì gia đình của các Ngài luôn sống theo Chúa, gắn bó với Chúa. Đức Maria và Thánh Cả luôn là những mẫu gương sáng chói về sự vâng phục theo thánh ý Chúa. Con Đức Giêsu thì vâng phục ý Chúa Cha là lương thực của mình. Sự vâng theo ý Chúa của các Ngài con được thể hiện qua việc luôn chu toàn lề luật, dâng con vào đền thờ, đi hành hương … Nhưng quan trọng hơn cả là mọi thành viên luôn gắn bó với Thiên Chúa. Chính nhờ gắn bó chặt chẽ với Chúa trong đời sống cầu nguyện mà các Ngài dễ dàng nhận ra ý Chúa và mau mắn thi hành. Ngày nay, gia đình Kitô hữu cũng là những gia đình thánh. Thánh trong việc gắn bó với Chúa qua cầu nguyện. Ở đâu có hai ba người cầu nguyện thì có Chúa ở giữa họ, kinh nguyện gia đình giúp mọi người gần với nhau và gần với Chúa; Thánh trong việc mọi thành viên trung thành sống theo đường lối và giới răn của Chúa và Thánh trong việc sống tình bác ái của Thiên Chúa dành cho mọi người chung quanh.
Sự thánh thiện của gia đình Công giáo đang có nguy cơ bị phá huỷ bởi biết bao áp lực của môi trường xã hội hôm nay. Tệ nạn xã hội, thói sống vô luân, đồng tiền ngự trị như những vòi bạch tuộc len lỏi vào từng gia đình làm băng hoại nếp sống đạo đức gia đình, xua đuổi Chúa ra khỏi ra đình. Hơn lúc nào hết sự thánh thiện của gia đình Công giáo đang bị đe dọa mạnh mẽ, muốn xây dựng gia đình thành cộng đoàn của sự thánh thiện thì mọi thành viên phải đấu tranh mạnh mẽ với cái xấu, cái ác bằng sức mạnh của tình yêu, của đức tin và của ơn Chúa.
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, gia đình là nền tảng của xã hội, của Giáo Hội. Chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa những ước nguyện của chúng ta cho gia đình, cho xã hội và cho Giáo Hội.
- Giáo Hội là gia đình của Thiên Chúa được mở rộng để đón nhạn tất cả mọi người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho gia đình Giáo Hội luôn có sự hiệp nhất yêu thương nhau.
- Xã hội ngày nay đang có những xu hướng xấu phá huỷ nền tảng đạo đức và tình yêu của gia đình. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong xã hội luôn ý thức và đề cao cũng như nỗ lực xây dựng những phẩm giá cao quí của gia đình.
- Chúng ta cùng cầu nguyện cách đặc biệt cho mỗi gia đình chúng ta, xin Chúa ban ơn cho mỗi thành viên của gia đình luôn hết lòng cùng nhau xây dựng gia đình mình thành cộng đoàn của sự sống, tình yêu và sự thánh thiện theo gương gia đình Thánh Gia Thất.
* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa là Cha nhân ái, Chúa đã yêu thương đón nhận chúng con vào gia đình của Chúa. Xin cho các gia đình chúng con nhiều ơn lành để tất cả biết noi theo gương gia đình Thánh Gia sống trung thành với giao ước tình yêu, trung thành với đức tin và thực sự trở nên những gia đình thánh. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
26. Thánh Gia – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Thư Mục Vụ Năm Đức Tin HĐGMVN hướng dẫn các gia đình: “Trong suốt lịch sử mấy trăm năm của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, gia đình vẫn là cái nôi thông truyền đức tin cho con cái, là trường dạy giáo lý đầu tiên cho thế hệ trẻ, là nơi đào tạo những Kitô hữu vững mạnh trong đức tin và gương mẫu trong đời sống đạo đức. Ngày nay, dù phải đối diện với nhiều lo toan trong cuộc sống, xin anh chị em cố gắng duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp này của gia đình công giáo. Hãy xây dựng gia đình mình thành ngôi nhà thờ phượng Chúa, trường dạy đức tin, và mái ấm tình thương. Đây là phương thế cụ thể và hữu hiệu nhất để anh chị em góp phần vào công cuộc Tân Phúc Âm hoá mà Chúa Giêsu đã trao phó cho Giáo Hội và từng người chúng ta. ” (số 9).
Từ mẫu gương Thánh Gia, mỗi gia đình Công Giáo “hãy xây dựng gia đình mình thành ngôi nhà thờ phượng Chúa, trường dạy đức tin, và mái ấm tình thương”.
- Mẫu gương Thánh Gia
Phúc Âm Lễ Thánh Gia kể chuyện: gia đình Thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu đi hành hương về Giêrusalem. Hai ông bà là người sùng đạo, tuân giữ lề luật cách trung tín. Theo luật quy định, người Do thái phải hành hương về Đền Thánh “mỗi năm ba lần mọi người nam phải trình diện trước Đấng toàn Năng là Đức Chúa”. Họ đi bộ về Nhà Chúa phải mất một tuần lễ. Vừa đi vừa hát “thánh vịnh lên đền”: tôi vui sướng biết bao khi người ta nói với tôi rằng nào ta tiến về Nhà Chúa.
Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cùng cha mẹ và đoàn hành hương tiến về Đền Thờ theo tập tục ngày lễ. Đối với người Do thái, 12 tuổi là tuổi trưởng thành. Chúa Giêsu bộc lộ sự khôn ngoan trước các bậc thông thái. Sau khi dự lễ vượt qua, Người ở lại Đền Thờ tranh luận với các tiến sĩ luật “mọi kẻ nghe Ngài đều sửng sốt về trí thông minh và các lời Ngài đối đáp”.
Sau đó cả gia đình trở về Nazareth. “Chúa Giêsu hằng vâng phục hai ông bà”. Con Thiên Chúa làm người và thuộc về một gia đình, một mái ấm có cha có mẹ. Con Thiên Chúa đã lớn lên trong bầu khí gia đình. Mái nhà là trường học đầu tiên. Cha mẹ là thầy cô căn bản. Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt trong Thánh Gia đạo hạnh. 30 năm sống dưới mái nhà Nazareth, Đức Giêsu đã thành một người chín chắn và trưởng thành, sẵn sàng lãnh nhận sứ vụ Chúa Cha trao phó. Đức Giêsu đã học nơi Thánh Giuse tinh thần lao động miệt mài, tâm tình tín thác và luôn thi hành thánh ý Thiên Chúa, lòng nhiệt thành chu toàn trách nhiệm đối với gia đình. Đức Giêsu học nơi Đức Mẹ nét đẹp hiền lành đơn sơ tế nhị, tận tụy phục vụ, tin tưởng phó thác, cầu nguyện thâm trầm. Nếp sống đạo đức của cha mẹ đã ảnh hưởng sâu xa đến cuộc đời Đức Giêsu. Người thừa hưởng nơi cha mẹ lòng yêu mến lề luật, gắn bó với Đền Thờ, thói quen siêng năng nghe và đọc Lời Chúa. Người học nơi cha mẹ tâm tình vâng phục thánh ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình, chuyên chăm làm việc, ân cần âu yếm đối với con cái. Gia sản quý báu từ Thánh Gia bàng bạc trong những lời Người giảng dạy, trong đời sống của Người.
- Gia đình “ngôi nhà thờ phượng Chúa”
Công Đồng Vaticanô II đã ví “gia đình như một Hội Thánh nhỏ” (Hiến chế Ánh sáng muôn dân số 11). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã định nghĩa: “gia đình là Hội Thánh tại gia” (Tông huấn đời sống gia đình số 11).
Gia đình là Hội Thánh tại gia, bởi lẽ:
– Chúa Giêsu đã sinh ra và lớn lên trong gia đình Nazareth, có Thánh Giuse và Đức Mẹ. Thánh gia là mẫu mực cho mọi gia đình.
– Gia đình Công giáo là trường học đức tin đầu tiên, là môi trường sống các bí tích và thực hành các nhân đức Kitô giáo. “Gia đình Công Giáo trở thành nơi gặp gỡ đặc biệt, có sức thánh hoá với tình yêu của Đức Kitô” (Tông Huấn Kitô Hữu Giáo Dân số 15).
– Cha mẹ là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của con cái.
– Gia đình là cộng đoàn thờ phượng Thiên Chúa. Qua đời sống cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích, gia đình toả sáng sự bình an, trổ sinh nhiều hoa trái thánh thiện.
Để trở thành Hội Thánh tại gia, mỗi thành viên phải ý thức về căn tính cao cả và chức năng quan trọng của mình. Mỗi ngày, thể hiện rõ nét hơn những tính chất căn bản của Hội Thánh tại gia như hiệp thông, liên đới, yêu thương, thuận hoà, tôn ti trật tự, kinh nguyện sáng tối, sống phục vụ, làm chứng nhân Tin mừng.
- Gia đình “trường dạy đức tin”
Gia đình là nơi trẻ em và thanh thiếu niên hấp thụ nền giáo lý chân chính từ cha mẹ. Công đồng Vaticanô II mong muốn các bậc cha mẹ là những người đầu tiên “dùng gương lành và lời nói, truyền dạy đức tin cho con cái”. (Hiến chế tín lý về Giáo hội số 11). Gia đình chu toàn được sứ mệnh cao cả này nhờ yêu thương, cùng nhau học hỏi và cầu nguyện để hạt giống đức tin được triển nở. (Sắc lệnh tông đồ giáo dân số 11).
Cha mẹ chăm lo giáo dục nhân bản và giáo dục tâm linh cho con cái.
Với con cái, cha mẹ là những sứ giả đầu tiên của Chúa (GLTC # 2225). Hạt giống đức tin nơi trẻ em được gieo và chăm sóc trong môi trường gia đình sẽ phát triển thành cây đức tin. Gia đình là vườn ươm, là thửa đất tốt. Dạy giáo lý như cung cấp chất dinh dưỡng. Tuỳ theo mức độ hấp thụ, tuỳ theo thời điểm, cây đức tin nơi đứa trẻ sẽ phát triển và đơm bông kết trái. Dạy giáo lý tại gia đình, cha mẹ góp phần với Hội Thánh trong sứ vụ đào tạo đức tin cho con cái.
Những yêu cầu của giáo lý tại gia
– Giáo lý đơn giản: Giáo lý tại gia mang tính đơn sơ dễ hiểu, không bài bản nhưng lại rất hiệu nghiệm vì nó có sức tác động đúng thời điểm phát triển thể lý và tâm linh của một con người.
– Giáo lý cơ hội: Giáo lý tại gia có tính uyển chuyển, tuỳ dịp, tuỳ việc. Dựa vào những việc tự nhiên xảy ra trong gia đình mà dẫn con cái tới chân lý tôn giáo.
– Giáo lý kinh nghiệm: Giáo lý tại gia mang tính cụ thể và thiết thực vì dựa trên những kinh nghiệm xảy ra ở gia đình và xã hội. Giải đáp những vấn đề quan trọng do trẻ em gợi ra. Những câu hỏi “tại sao” thường xuyên của trẻ thường gợi lên nhiều vấn đề nhân sinh quan trọng mà cha mẹ không thể né tránh, viện cớ trẻ chưa hiểu.
Một vài việc cụ thể của giáo lý tại gia
– Dạy con từ thuở còn thơ: Phải giáo dục đức tin cho con cái từ những năm đầu của tuổi thơ nhi. Dạy dạy giáo lý trong gia đình luôn đi trước, đi kèm và phong phú hoá các hình thức giáo lý khác. Cha mẹ có sứ mạng dạy cho con cái biết cầu nguyện và khám phá ra ơn gọi làm con Thiên Chúa (GLCG # 2226). Những kinh đọc vắn tắt mà trẻ nhỏ bập bẹ sẽ là khởi điểm cho một cuộc đối thoại đầy tình yêu mến với Thiên Chúa mà sau này nó sẽ bắt đầu nghe lời. (Tông huấn dạy giáo lý, số 36).
– Dạy con cầu nguyện: Những giờ đọc kinh cầu nguyện là những giờ giáo lý sống động nhất vì bản chất và mục đích của việc dạy giáo lý là truyền đạt sức sống Tin Mừng và đưa đến đối thoại, gặp gỡ chính Đức Kitô; và như vậy đọc kinh cầu nguyện là thể hiện chiều kích hàng dọc này (GLCG # 2685).
– Dạy con làm quen với Lời Chúa: Cha mẹ kể chuyện Thánh Kinh, chuyện về Đức Giêsu, chuyện các Thánh, chuyện người tốt việc tốt để chúng làm quen với Lời Chúa. Có thể lợi dụng nhiều cơ hội để kể chuyện Phúc Âm, giảng giải Lời Chúa một cách đơn sơ, ấm cúng và đầy ý vị.
– Dạy con học giáo lý: Thiếu nhi học giáo lý ở các lớp học, chúng cũng cần được bồi dưỡng, nhắc nhở để những điều đã học được thông hiểu và ghi vào ký ức. Những dịp con cái được nhận lãnh bí tích (Xưng Tội, Rước Lễ, Thêm Sức), cha mẹ cần lưu tâm đến giáo lý nhiều hơn và tích cực giúp chúng nhận lãnh bí tích cách sốt sắng. Giáo lý tại gia không những nhắm đến con cái mà chính các bậc cha mẹ cũng phải học hỏi trau dồi giáo lý. Cha mẹ là người hướng dẫn chăm sóc cho con cái biết Chúa Kitô nhưng đồng thời cùng với con cái, cha mẹ cũng là những người cần được học hỏi để yêu mến Chúa Kitô hơn.
- Gia đình “mái ấm tình thương”.
Gia đình là cộng đoàn hiệp thông và liên đới chặt chẽ giữa các thành viên với nhau, bình đẳng về phẩm giá, về ơn gọi trước mặt Chúa và trước mặt nhau. Nhờ đó gia đình trở nên mái ấm với cuộc sống an hoà, yêu thương đầm ấm, chia sẽ, giúp đỡ, hy sinh quên mình vì hạnh phúc của nhau.
Gia đình là cộng đoàn phục vụ yêu thương. Luật yêu thương thúc đẩy gia đình Công Giáo gắn bó chặt chẽ với Hội Thánh là dân Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế, để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, cùng cộng tác với Hội Thánh trong sứ mạng truyền bá đức tin. Noi gương Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, hiến thân phục vụ mọi người.
Từ “GIA ĐÌNH” bao gồm người cha, người mẹ và con cái. Trong Anh ngữ, gia đình là “FAMILY”, từ này có một ý nghĩa rất sâu đậm, được diễn đạt như sau: Family = (F)ather (A)nd (M)other, (I) (L)ove (Y)ou! Nghĩa là: “Cha Và Mẹ Ơi, Con Yêu Thương Cha Mẹ. “
Hãy gìn giữ mái ấm gia đình. Hãy đặt ưu tiên cho hạnh phúc gia đình.
Ngày nay, trong xã hội tiêu thụ, vì bận rộn với công việc kiếm tiền, một số cha mẹ không gần gũi, không dành thời giờ cho con cái. Vì thế, chúng cảm thấy bị bỏ rơi, thiếu tình thương. Theo mức độ, con cái sẽ lâm bệnh chán nãn, buồn phiền, không thích học nữa, lỳ lợm, xấc láo, ích kỷ, vô cảm, đua đòi thiếu suy nghĩ. Một số phụ huynh chỉ mong con mình học giỏi, thành đạt, kiếm được nhiều tiền. Họ ít quan tâm đến đời sống đạo đức của con, không lo giáo dục đức tin cho con. Có cha mẹ quan niệm, lo cho con được Xưng Tội, Rước Lễ, Thêm Sức là đủ rồi; vì thế có em sau khi Thêm Sức là bỏ nhà thờ. Sự đa dạng của vi tính và internet quá hấp dẫn lôi kéo con cái chúng ta ra khỏi thực tế rồi đi vào thế giới ảo. Lối sống hiện đại cũng dễ đánh mất bầu khí mái ấm. Mỗi người có một phòng riêng, một thế giới riêng nên mọi người ít quan tâm đến nhau, ít giúp đỡ nhau. Hãy nhớ gia đình là thiêng liêng cao quý, còn công việc chỉ là vật chất tầm thường. Mọi thành viên có thể hy sinh công ăn việc làm cho mái ấm gia đình.
Tình yêu từ mái ấm sẽ làm trổ sinh hoa trái cho đời sống gia đình.
– Lòng bác ái: Trên mọi đức tính hãy có lòng bác ái, đó là mối giây liên kết tuyệt hảo (Col 3, 14). Bác ái là tình yêu rộng lớn; là tình yêu mạnh hơn tội lỗi, sự dữ, khổ đau và cái chết. Tình yêu mãnh liệt như thế mới liên kết mọi sự và mọi người lại với nhau. Chính Thiên Chúa đã gieo vào lòng chúng ta lòng bác ái đó.
Là tình yêu được tiếp sức bởi tình yêu của Thiên Chúa, lòng bác ái giúp mọi người gắn bó với nhau làm nên mái ấm gia đình. Lòng bác ái làm cho mọi người chấp nhận nhau, chịu đựng lẫn nhau, tha thứ hy sinh cho nhau, chia sẻ cho nhau, ban tặng cho nhau bản thân mình. (Col 3, 12-13).
– Niềm vui: Hạnh phúc là niềm vui của mỗi người và mọi người trong gia đình chung sống với nhau. Niềm vui của chồng vợ, con cái cháu chắt. Niềm vui đời thường, niềm vui nhỏ làm thành hạnh phúc. Niềm vui từ tình yêu làm cho gia đình thành mái ấm.
– Bình an trong gia đình: Tâm hồn bình an là tâm hồn đạo đức. Chúng ta được bình an khi hòa giải với Chúa, tin và yêu Chúa. Chúng ta được bình an khi hòa giải với chính mình, khi hòa giải với những người sống chung quanh. Chúng ta được bình an khi tâm hồn không chất chưa tham vọng, không chất chứa oán hờn ganh ghét. Chúng ta được bình an khi tâm hồn không bị xáo trộn bởi đam mê bất chính. Chúng ta được bình an khi là con người tự do đích thực và tôn trọng người khác. Đó là bình an Chúa Kitô ban tặng cho chúng ta.
Thật đúng như nhận định của thư HĐGMVN: “Gia đình vẫn là cái nôi thông truyền đức tin cho con cái, là trường dạy giáo lý đầu tiên cho thế hệ trẻ, là nơi đào tạo những Kitô hữu vững mạnh trong đức tin và gương mẫu trong đời sống đạo đức”.
Gia đình thật quan trọng. Chính gia đình quyết định tương lai của trẻ thơ. Gia đình là vườn ươm. Hạt giống tuổi thơ lớn mạnh được là nhờ vườm ươm có đầy đủ nước, phân bón và sự ân cần chăm sóc. Gia đình là bầu khí quyển. Bầu khí có trong lành thì trẻ thơ mới phát triển được mọi mặt. Gia đình là con đường. Đường có ngay thẳng có định hướng thì tương lai trẻ mới tươi sáng không đi vào ngõ cụt cuộc đời.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hằng nhắc nhở về sự thánh thiêng của gia đình khi Ngài gọi gia đình là nền tảng của Giáo Hội. Đức Thánh Cha Phaolô VI gọi gia đình là Cung Thánh của Giáo Hội, là trường học đầu tiên của con cái mà cha mẹ là thầy cô.
Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận cũng từng viết: “Chủng Viện thứ nhất, Đệ Tử Viện thứ nhất, trường Sư Phạm thứ nhất là Gia Đình Công Giáo. Không vị giám đốc tài ba nào, hay chuyên môn đến đâu có thể làm thay cha mẹ được. Nếu cơ sở bậc nhất ấy bị hỏng, tương lai Hội Thánh và xã hội cũng rung rinh sụp đổ”.
Từ mái ấm gia đình, cha mẹ con cái siêng năng tham dự Thánh Lễ, chuyên chăm Kinh Nguyện tại gia, biết dùng Lời Chúa làm ánh sáng soi đường chỉ lối, luôn sống hoà thuận yêu thương nhau, thì “Đây là phương thế cụ thể và hữu hiệu nhất để anh chị em góp phần vào công cuộc Tân Phúc Âm hoá mà Chúa Giêsu đã trao phó cho Giáo Hội và từng người chúng ta”.
Năm Đức Tin, theo gương Thánh Gia, mỗi gia đình hãy nỗ lực thi lời mời gọi của HĐGMVN: “Ngày nay, dù phải đối diện với nhiều lo toan trong cuộc sống, xin anh chị em cố gắng duy trì và phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình Công Giáo”.
27. Thưa vâng với Thiên Chúa mỗi ngày.
(Suy niệm của Achille Degeest)
Trên bình diện thuần tuý nhân loại, đây là một lối giới thiệu kỳ lạ. Đấng là khuôn mẫu đời sống của mọi Kitô hữu trọn lành, được mô tả trong hoạt cảnh bỏ nhà ra đi! Nói đúng ra, thánh sử mời gọi chúng ta hãy vượt qua cái bề ngoài, chỉ nên chú ý tới nội dung câu chuyện. Trước hết chẳng có gì là bi thảm, chúng ta để sang một bên nỗi lo âu nhất thời của hai ông bà. Sau đó, chúng ta học được ba thái độ đạo đức căn bản:
1) Thiên Chúa không cho chúng ta biết trước tình tiết cuộc đời chúng ta sẽ như thế nào. Đức Maria và thánh Giuse biết rõ con trẻ Giêsu là AI. Tuy nhiên, hai ông bà không hiểu biết theo lối chúng ta hiểu biết ngày nay nhờ thần học và giáo lý. Mỗi ngày một chút, hai ông bà phát hiện thêm sự thật của mầu nhiệm bao phủ cuộc đời mình và tầm mức bao la của số mệnh Chúa. Đối với Đức Maria và thánh Giuse, mỗi giai đoạn tăng trưởng của Chúa, là một khám phá, luôn luôn đòi hỏi hai ông bà phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa, mỗi ngày phải đáp ứng bằng một tiếng vâng. Ngày này qua ngày khác, hai ông bà lúc nào cũng phải hành động, quyết định, suy xét và nhiều phen chẳng hiểu tại sao, luôn luôn phải thích ứng với những đoạn đường Chúa thúc đẩy phải tiến tới. Chúng ta chẳng khác gì Đức Maria và thánh Giuse. Sau khi thưa vâng với Thiên Chúa để chấp nhận số mệnh mình, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi hãy suy xét và hành động ngày này qua ngày khác, để mỗi ngày lại thưa vâng với Người. Trước hết Thiên Chúa đòi chúng ta gia nhập toàn diện vào số mệnh Người đề nghị. Sau đó, Thiên Chúa đòi chúng ta một sự gia nhập có tính cách chi tiết hơn và đặt giá cho sự gia nhập từng ngày trên đuờng định mệnh mình.
2) Công việc của Thiên Chúa phải đặt trước mọi sự, chúng ta phải hiểu như vậy khi đọc lên câu trả lời của Chúa Giêsu: “Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?”. Câu đáp đối với chúng ta có đôi chút sỗ sàng. Chúng ta cần giữ lại điều này: Thiên Chúa đáng chúng ta dành cho Người một sự ưu tiên tuyệt đối trong cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa là trên hết và trước hết trong đời ta, điều đó có nghĩa là không được suy tôn bản ngã của chúng ta lên bằng Thiên Chúa. Bởi lẽ chúng ta có được hạnh phúc là nhờ ơn Thiên Chúa chứ không nhờ khả năng của ‘cái ta’.
3) Chúng ta phải tìm Chúa Giêsu ở nơi chốn Người đang ngự. Sự giải thích cổ xưa nhất về lời đáp của Chúa Giêsu làm nổi rõ sự việc Người ở trong đền thờ, trong nhà Cha Người, là điều tất nhiên, và muốn tìm Người thì phải đến đền thờ mà gặp Người. Khi nào chúng ta có ấn tượng đã mất Chúa, tất nhiên chúng ta hãy đến thánh đường cầu nguyện dưới chân nhà tạm, nếu có thể được.
28. Hạnh phúc – Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
Đối với những người Kitô-hữu, để sống một cuộc đời có ý nghĩa, là sống theo “thánh ý Thiên Chúa”. Chúa Kitô đã dạy cầu nguyện, trong phần đầu Kinh Lạy Cha: “Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
Để trung thành với hướng đi ấy, con người không được nô lệ thế gian với lối sống hưởng thụ sa đọa, có một trái yêu thương tha thứ, và khôn ngoan trước bẩy rập Sa-tan. Chúa Giêsu đã dạy cầu nguyện, phần tiếp theo trong Kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con khỏi mọi sự dữ”.
Sống trọn lời nguyện ấy, con người sẽ được Hạnh Phúc.
Vậy Hạnh Phúc là hoàn toàn thuộc về Chúa. Là hoàn toàn vâng theo Thánh Ý Của Chúa.
Nhân vật chính trong Thánh Gia Thất là Chúa Giêsu. Ngài vâng phục Thiên Chúa để “đến thế gian”, và đến thế gian để “thi hành thánh ý Chúa Cha”. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xuất hiện khi Ngài mới 12 tuổi, nhưng lời nói của Ngài đã khẳng định sứ mệnh của Ngài ngay khi Ngài còn bé sống với cha mẹ trong gia đình. “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của cha con sao?”.
Kế đến là Mẹ Maria. Khi Mẹ Maria nghe lời sứ thần truyền, Mẹ đã “xin vâng”. “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc.1,38).
Cuối cùng là Thánh Giuse, ngài đã vâng lời Thiên Chúa sau khi sứ thần Chúa đến báo mộng cho ngài: “Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt.1,24).
Để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa, không phải dễ dàng. Nói một cách khác, không phải lúc nào cũng có thể vâng theo thánh ý Thiên Chúa với lòng vui tươi thanh thản. Phải chiến đấu với nội tâm và lắm khi đầy đau khổ, lạc lỏng, bơ vơ.
Ta có thể suy niệm những giờ phút chiến đấu nội tâm của Chúa Giêsu trong cuộc thương khó của Ngài. Lời nguyện của Chúa Giêsu ở vườn cây dầu: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha”. “Người lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc.22,42). Trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã kêu lớn tiếng: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt.27,46).
Mẹ Maria tràn ngập niềm vui với bài Magnificat, nhưng Mẹ cũng phải chiến đấu dữ dội với những niềm đau trong lòng Mẹ. Bị chồng là Giuse hiểu lầm định tâm từ bỏ, lời ra tiếng vào của thiên hạ. Những đau buồn và lo âu theo từng bước đi của con mình. Như ông cụ Si-mê-on đã nói với Mẹ Maria: “Còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà…” (Lc.2,35)
Thánh Giuse khi vâng theo thánh ý Chúa cũng phải chịu rất nhiều những đau khổ. Tôi nhớ khi còn nhỏ, tháng Thánh Giuse, thường nghe đọc “bảy sự buồn và bảy sự vui ông Thánh Giuse”. Có nhiều người thường nói: “Tội nghiệp thánh Giuse, mấy Thánh sử không cho ông thánh Giuse nói câu nào cả! Ngay cả như trong Tin Mừng hôm nay, bầu khí có vẻ “căng thẳng” như vậy, mà không thấy ông thánh Giuse có ý kiến gì”. Nhưng những gì được kể lại rất ít về thánh Giuse lại cho ta thấy rất nhiều về tâm hồn của ngài. Từ đêm thao thức toan trốn đi, đến đêm huyền diệu ở Hang Đá BêLem, rồi trốn sang Ai Cập, rồi quay về quê nhà, cuối cùng về làng Nagiarét… cho thấy một tâm hồn phong phú đầy nhẫn nhục, can đảm và luôn trung thành tuân theo thánh ý Chúa.
Vị trí mỗi một thành viên trong Thánh Gia Thất được phân chia rõ rệt, bổn phận và trách nhiệm cụ thể, khác nhau, nhưng đan kết vào nhau thành một, yêu thương cho nhau và vì nhau, ngay cả Chúa Giêsu, Ngài khẳng định sứ mạng của mình đối với Chúa Cha, nhưng cũng sống tròn đạo làm con và liên đới trong tình gia đình chặt chẽ. “Người đi xuống cùng cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc.2,51).
Có thể có một điều gì đó, những thành viên trong gia đình chưa hiểu nhau trọn vẹn, nhưng tình thương luôn là cuộc hành trình nhẫn nại, tiếng nói con tim là những suy niệm thầm kín sâu thẩm, nên hạnh phúc không dễ gì tan vỡ. Cuộc sống Thánh Gia Thất thật êm ái và bình an ở làng Na-da-rét. Một cuộc sống thanh bần, đầy yêu thương và thánh thiện. Mầu nhiệm về Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đâu thể một sớm một chiều mà hiểu thấu được. Thánh Gia Thất còn cần thêm một thời gian để suy niệm về thánh ý Thiên Chúa, về chương trình của Thiên Chúa..“Nhưng ông bà không hiểu lời Người nói”. “Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu thì ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc.2,50-51).
Ngày nay, cuộc sống Gia Đình gặp nhiều thử thách. Một nửa những cuộc hôn nhân tan vỡ. Lý do sâu xa nhất vì người ta không có tình yêu chân chính. Tình yêu chân chính chỉ có được khi người ta biết sống theo thánh ý Chúa. Khi trong gia đình mọi người đều biết sống vì thánh ý Chúa, vì Đức Tin, thì họ sẽ biết sống vì nhau và cho nhau. Nguồn tình yêu đến từ tình yêu Thiên Chúa là tình yêu vô tận, không bao giờ cạn kiệt, là tình yêu bất tử.
Không sống vì Chúa, con người sẽ vì mình. Sự đổ vỡ của hôn nhân ngày nay phần lớn là từ lối sống chạy theo sự hưởng thụ ích kỷ. Sự hưởng thụ đi dần vào bản năng thống trị đòi hỏi được cung phụng và mất dần lòng bác ái. Lối sống hưởng thụ là con đường thênh thang dẫn đến sa chước cám dỗ và sự dữ. Thực tế cho thấy, có nhiều gia đình khi nghèo thì rất hạnh phúc, khi trở nên giàu có thì xáo trộn và tan vỡ. Vợ chồng thi nhau hưởng thụ đủ kiểu và họ choáng ngợp trước những thú vui tạm bợ mà họ lầm tưởng là hạnh phúc dài lâu. Những thống kê cho thấy những học sinh giỏi và thành đạt phần lớn là con nhà nghèo, còn một lượng rất lớn những học sinh bỏ học, ăn chơi, phá phách là những hạng con ông cháu cha hoặc con nhà giàu có.
Lạy Thánh Gia Thất,
Xin thánh hóa mọi gia đình. Xin cho mọi gia đình tìm thấy hạnh phúc trong thánh ý Chúa. Xin cho tình yêu mái ấm Na-da-rét sưởi ấm tất cả mọi gia đình trong thế giới hôm nay. Amen.
29. Mái Ấm Tình Thương – Thiên Phúc
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ nhà ở gần nghĩa địa, thấy người đào, chôn, lăn, khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn, khóc. Bà mẹ thấy thế, nói: chỗ này không phải chỗ con ta ở. Rồi dọn nhà ra gần chợ.
Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước cách buôn bán đảo điên. Bà mẹ thấy thế, lại nói:
“Chỗ này cũng không phải chỗ con ta ở. Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học.
Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, về nhà cũng bất chước học tập lễ phép. Bấy giờ bà mẹ mới vui lòng nói: “Chỗ này là chỗ con ta ở đây.
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết lợn, về hỏi mẹ: “Người ta giết lợn làm gì thế. Bà mẹ nói đùa: “Để cho con ăn đấy”. Nói xong, bà nghĩ lại, hối rằng: “Ta nói lỡ mồm rồi. Con ta thơ ấu, tri thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng ra ta dạy nó nói dối hay sao!”. Rồi bà đi mua thịt lợn, đem về cho con ăn thật.
Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi, trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng: “Con đang đi học, mà bỏ học, thì cũng như mẹ đang dệt tấm vải này mà cắt đứt như vậy”. Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần. Về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ công giáo dục quí báu của bà mẹ hay sao?
***
Thánh Gia Thất là mẫu gương giáo dục tuyệt vời cho các gia đình cũng như cho các cộng đồng tu viện.
Thánh Gia Thất là trường huấn luyện cho Chúa Giêsu, chuẩn bị ngày lãnh nhận sứ mạng Chúa Cha giao phó.
Thánh gia thất là chuẩn mực chính xác nhất cho các người cha, người mẹ và con cái trong gia đình.
Giuse đích thực là một người cha: Sáng ngời trong đức tin mạnh mẽ, nêu cao niềm phó thác cậy trông và tận tình chăm lo cho trẻ Giêsu cùng mẹ thánh Người. Người làm chủ gia đình với tinh thần đầy trách nhiệm, và siêng năng cần cù lao động, trong làng quê nghèo Nadarét.
Maria chính là người mẹ: Gương mẫu trong đời sống nội tâm, và sâu lắng trong tâm tình cầu nguyện. Mẹ chính là người nội trợ đảm đang, chu toàn công việc gia đình, và chăm sóc dạy dỗ con trẻ Giêsu.
Chúa Giêsu là người con thảo hiếu: “Hằng vâng phục cha mẹ” Giuse và Maria, lớn lên mỗi ngày trong sự khôn ngoan và nhân đức, nhất là luôn lo việc “bổn phận ở nhà Cha”.
Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình có thuận hoà, thì xã hội mới an vui. Lễ Thánh Gia chính là lễ của mọi gia đình. Noi gương Thánh Gia Thất, các gia đình chúng ta luôn sống có trật tự trên dưới, liên đới trong tình hiệp thông, và chăm lo cho nhau trong tình yêu thương đầm ấm.
Con Thiên Chúa chỉ ra giảng đạo có ba năm, nhưng đã phải chuẩn bị ở mái trường Nadarét suốt ba mươi năm. Nadarét là trường dạy cầu nguyện dạy lao động, dạy yêu thương. Nadarét là một vùng quê hẻo lánh, nhưng lại mang một mái ấm tình thương. Mái ấm Nadarét rất đỗi bình thường, nhưng cũng lại rất khác thường.
Một mái ấm luôn chan hoà bầu khí yêu thương và đạo hạnh.
Một mái ấm luôn ngập tràn tiếng cười vui vì hạnh phúc.
Một mái ấm mà các thành viên luôn để ý quan tâm cho nhau
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, trước tiên phải có Chúa hiện diện.
Mái ấm Nadarét luôn hạnh phúc vì lúc nào cũng có Chúa ở giữa Giuse và Maria. Nếu mỗi gia đình chúng ta đều mời được Chúa đến ở trong gia đình thì chính Người sẽ là dây liên kết để chúng ta yêu thương nhau, là sức mạnh để chúng ta vượt thắng mọi sóng gió, là mẫu gương để chúng ta nhẫn nhịn và tha thứ cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, mỗi người chúng ta cũng hãy sống cho đúng cương vị của mình là cha, là mẹ, là chồng là vợ, là con cái. Thánh Phaolô khuyên: “Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng hãy thương yêu vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự. Vì đó là đẹp lòng Chúa ” (Cl 3,21)
***
Lạy Chúa, là nguồn mọi tình yêu, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con tấm gương Thánh Gia Thất, làm khuôn mẫu cho mọi quan hệ giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình. và giữa cộng đoàn tu viện với nhau.
Xin cho chúng con biết kính trọng và yêu thương Nhau, không phán xét khi hồ nghi, không kết án khi chưa tường, không phụ rẫy khi còn cứu vãn được, nhưng thông cảm và tìm hiểu, nâng đỡ và tha thứ, và trên hết luôn tìm sống theo thánh ý Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Tin Mừng Chúa Nhật’)
Sau biến cố năm mười hai tuổi, Chúa Giêsu cùng cha mẹ lên Giêrusalem dự lễ Vượt Qua và Ngài tự ý ở lại ba ngày. Đức Giêsu đã trở về Nadaret, thực hiện đúng lời Em-ma-nu-en-Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta đã được tiên tri loan báo. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy Thiên Chúa đang dự phần vào những công việc thân thiết quen thuộc nhất trong gia đình, đây là Thiên Chúa đang tự mặc lấy hình người, đang sống cuộc đời chúng ta. Sự thật là như vậy, và chúng ta có thể nói nhiều điều quý báu về Thiên Chúa.
- Thiên Chúa đã bước vào một căn nhà tầm thường và gia đình tầm thường.
Ai cũng nghĩ rằng nếu Thiên Chúa đến thế gian, chắc Ngài phải đến với tư cách một nhà vua, đến sống trong cung điện nguy nga của bậc đế vương đầy thế lực, quyền quý, sang trọng. Nhưng ở Nadaret Chúa Giêsu đã sống như mọi người khác, nhà Ngài ở và cách Ngài ăn mặc cũng giống như người đương thời (Lc 8, 44), Ngài ăn uống như người đồng hương (mt 9, 19). Ngài dùng tiếng nói nơi Ngài ở, trong Phúc Âm, không ai tìm được một danh từ chuyên môn nào, Ngài trình bày những mầu nhiệm tôn giáo cao siêu bằng những từ ngữ thông thường của nơi Ngài sống, Ngài dùng cách diễn tả tư tưởng cùa người đồng thời và lối văn họ quen dùng. Ngài biết những bận tâm, những nhu cầu của họ và không ngạc nhiên khi nghe họ nói: “Chúng ta sẽ ăn gì? Chúng ta sẽ mặc gì?” Ngài dùng những thành ngữ của họ, dầu có nhiều khuyết điểm và thiếu văn hoa. Tỷ như để định vị trí cho một người không những không nghe theo những lời khuyên nhủ kín đáo nhưng cả những cảnh cáo của Giáo Hội, Ngài dùng diễn ngữ này: “Ngươi hãy coi nó như một dân ngoại hay một người thu thuế” (Mt 18, 17). Trong mọi sự Chúa Giêsu không có gì tỏ ra xa lạ với những người đến để được cứu rỗi. Ngài thật sự ở giữa chúng ta, chung sống với chúng ta, nên giống chúng ta hoàn toàn ngoại trừ tội lỗi. Như vậy, qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thánh hoá một lần đủ cả việc con người được sinh ra, thánh hoá mái gia đình khiêm nhượng của giới bình dân và thánh hoá toàn thể tuổi ấu thơ.
- Thiên Chúa đã bằng lòng làm công việc của loài người mà không xấu hổ.
Suốt ba mươi năm trường, Ngài đã không làm một điều gì ngoại thường, Ngài âm thầm sống như một người dân thường, học nghề nơi cha nuôi và tự tay làm việc nuôi sống bản thân và gia đình. Ngài hoàn toàn giống mọi người dân làng đến nỗi họ ngạc nhiên khi Ngài bắt đầu giảng dạy: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria, anh em của ông không phải là các ông Giacôbê, Gioxep, Simon và Giuđa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?” (Mt 13, 54-56). Thiên Chúa trong Chúa Giêsu đã đến thế gian như một công nhân. Chẳng bao giờ chúng ta nhận thức đầy đủ sự kiện Thiên Chúa thấu hiểu công việc hằng ngày của chúng ta tới mức độ nào. Ngài biết nỗi khó nhọc để kiếm đủ sống của chúng ta; Ngài biết nỗi khó khăn khi gặp khách hàng khó tính hay khách hàng không chịu trả tiền. Ngài biết tất cả những khó khăn trong cuộc sống chung trong một gia đình, và Ngài biết từng vấn đề chúng ta thường gặp hằng ngày. Theo Cựu Ước, lời rủa sả sau khi loài người phạm tội trong vườn Địa đàng: “Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có đủ mà ăn” (St 3, 19), nhưng theo Tân Ước, sự làm việc thông thường được khoác lên một ánh hào quang khi có bàn tay Thiên Chúa chạm vào.
- Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy một Thiên Chúa yêu thương.
Lúc tình yêu thương bước vào đời sống thì đau đớn cũng vào theo, nếu chúng ta có thể sống hoàn toàn tách biệt mọi người, có thể thu xếp cuộc đời thế nào cho mình dửng dưng được với hết mọi sự, mọi người, thì cũng sẽ không còn đau đớn, buồn khổ, lo lắng. Nhưng trong Chúa Giêsu chúng ta thấy Thiên Chúa đang hết sức chăm sóc cho loài người và tha thiết với loài người. Ngài cảm thấy đau đớn cho loài người và với loài người. Thật ra, chính tình yêu là khởi điểm của sự hiện diện của Chúa Cứu Thế nơi chúng ta. Chính vì Ngài yêu chúng ta nên Chúa Cha ban Ngài cho chúng ta. Thật vậy, như lời Thánh Gioan: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Và cùng chính vì tình yêu mà Chúa Giêsu đã xả diệt thân mình “trở nên hoàn toàn giống anh em Ngài” vì Ngài “không lấy làm xấu hổ gọi chúng ta là anh em Ngài” (Dt 2, 17. 11). Tình yêu đòi phải nên giồng. Vì Ngài quá yêu anh em của Ngài sống trong thế gian nên có thể nói dĩ nhiên Ngài đẩy mạnh đến cùng mức độ nên giống họ (Ga 13, 13). Cécil Northcott trong quyển “Chúa hiển hiện đời nay” thuật lại một cuộc thảo luận trong trại hè dành cho thanh thiếu niên đại diện nhiều quốc gia trên thế giới: “Một đêm mưa khi các trại sinh thảo luận về nhiều phương cách khác nhau làm sao nói cho người khác biết về Chúa Giêsu. Họ hỏi một nữ trại sinh Phi châu: “Maria, ở nước cô thì cô làm thế nào?” Maria trả lời: “Chúng tôi không có hội truyền giáo, cũng không phát truyền đơn về đạo. Chúng tôi chỉ sai một hoặc hai gia đình tín hữu đến sống, làm việc trong làng. Khi dân làng thấy cuộc sống Kitô như thế nào, họ đều muốn trở thành Kitô hữu”.
- Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa sống trong trắng và thánh thiện giữa loài người.
Nếu sau này Ngài có thể quả quyết: “Ai thấy Ta là thấy Cha” thì trong thời gian sống tại Nadaret, Ngài cũng vẫn luôn mang đặc tính ấy mặc dầu nhiều người không nhận ra. Ngài quả thật có nên giống chúng ta trong mọi sự, nhưng không trong tội lỗi. Không những suốt đời Ngài không hề có một khuyết điểm nào, nhưng qua cuộc sống, Ngài đã biểu lộ thiên tính. Không bao giờ Ngài thông đồn, dù bằng lời nói hay bằng việc làm, bằng cử chỉ với những tội lỗi nơi người đồng hương, vì Ngài thấy ở đó khởi đầu để đồng bào Ngài ghét Ngài.
Biến cố Ngôi Lời Nhập Thể là biến cố quan trọng trong lịch sử nhân loại. Vì thế ngay khi mừng biến cố trọng đại này, Giáo Hội không quên nhắc nhở chúng ta gương mẫu gia đình Thánh Gia. Nơi gia đình này đã cộng tác tích cực trong công trình Cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người.
Giáo hội mời gọi ta chiêm ngắm cảnh Thánh gia chạy trốn bạo vương Hêrôđê giữa đêm khuya. Thánh gia đã nhận ra những hiểm nguy đe doạ hạnh phúc gia đình và đã biết cách gìn giữ gia đình bình an qua cơn dông tố. Các bài sách thánh hôm nay trình bày cho ta những bí quyết mà Thánh gia sử dụng để giữ được hạnh phúc gia đình.
Bí quyết thứ nhất đó là nghe Lời Chúa. Thánh Giuse nghe lệnh Chúa truyền một cách mau mắn và tuyệt đối. Dường như chúng ta thấy lệnh truyền này được ban ra không rõ ràng trong đêm khuya, điều này thật sự không mấy dễ dàng đối với người bình thường; tuy nhiên, khi nghe lệnh truyền trong đêm khuya, Thánh Giuse thức giấc thi hành ngay. Xem chừng lệnh truyền khó khăn nhưng Ngài vẫn mau mắn thi hành. Đức Maria và Chúa Giêsu cũng có một thái độ vâng phục tuyệt đối như thế. Thánh ý Thiên Chúa là tuyệt đối. Lời Chúa dạy là kim chỉ nam. Thiên Chúa chính là người điều khiển gia đình các Ngài. Vì thế, dù gặp nhiều gian nan thử thách, gia đình các Ngài vẫn giữ được hạnh phúc.
Bí quyết thứ hai đó là coi con cái là hồng ân, là báu vật quí nhất Chúa ban cho gia đình. Con cái là hồng ân, là báu vật quí nhất nên các Ngài đã đem hết sức lực ra bảo vệ. Khi có những nguy cơ đe doạ, các Ngài đem con cái chạy trốn tránh xa. Các Ngài sẵn sàng hi sinh tất cả: thời giờ, nhà cửa, tài sản, nghề nghiệp và công việc làm ăn, mong đem con cái đến nơi an toàn. Vì con cái là hồng ân, là báu vật quí nhất Chúa ban cho gia đình nên các Ngài không ngần ngại nâng niu phục vu. Hình ảnh Thánh Giuse đi bộ dắt lừa cho Đức Giêsu và Đức Maria là hình ảnh của một người chủ gia đình hết lòng nâng niu phục vụ vợ con. Vì con cái là hồng ân, là báu vật quí nhất Chúa ban cho gia đình nên Đức Maria đã theo dõi con đến cùng, nhẫn nhục đứng bên thập giá chia sớt đau khổ với con.
Bí quyết thứ ba đó là con cái luôn hiếu thảo với cha mẹ. Đức Giêsu là một người con hiếu thảo. Tin mừng tóm tắt cuộc sống thơ ấu của Người bằng một câu ngắn gọn: “Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các Ngài” (Lc 2, 51). Sự hiếu thảo của Đức Giêsu được thấy trong tiệc cưới Ca-na. Khi đám cưới thiếu rượu, Đức Maria xin Người giúp. Tuy chưa đến thời điểm, nhưng Đức Giêsu vẫn làm phép lạ cho nước biến thành rượu để giúp đám cưới theo yêu cầu của Mẹ. Cảm động hơn hết là giây phút cuối đời, khi bị treo trên thập giá, Đức Giêsu vẫn quan tâm đến Mẹ nên đã gửi gấm nhờ thánh Gio-an, môn đệ yêu quí, chăm sóc Mẹ.
Ngày nay, nhiều gia đình đang trong tình trạng báo động. Từ thời mở cửa, gia đình Việt Nam đã biến chuyển mãnh liệt theo chiều hướng nguy hiểm. Số cặp vợ chồng li dị tăng nhanh một cách đáng sợ. Con cái không còn vâng lời cha mẹ như xưa. Theo đà tiến triển kinh tế, nhiều gia đình trở nên giàu có hơn, nhưng con cái lại bỏ bê học hành, lao vào con đường ăn chơi, vướng vào tệ nạn xã hội, làm cho cha mẹ buồn lòng, gia đình tan nát.
Để bảo vệ gia đình trước làn sóng văn minh vật chất hưởng thụ và cá nhân chủ nghĩa, ta hãy học hỏi gương mẫu Thánh gia.
Trước hết, cha mẹ phải coi con cái là hồng ân, là báu vật quí nhất Chúa ban cho gia đình. Báu vật này cần được quan tâm chăm sóc không phải chỉ bằng phương tiện vật chất mà quan trọng hơn, bằng tình thương, sự chăm sóc, dạy dỗ ngay từ khi tuổi còn thơ. Thiết nghĩ sự hiểu biết, cảm thông khi đến tuổi trưởng thành là điều hết sức cần thiết. Dù thành công trong xã hội mà con cái hư hỏng thì vẫn là thất bại cả cuộc đời.
Đáp lại, phần mình là con cái thì phải có lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu thảo là một yếu tố nhân bản cần thiết của con người, nó còn vừa là một đức tính của người có lương tri vừa là một thái độ khôn ngoan của người khiêm tốn. Có lương tri và có sự khôn ngoan, con người mới phát triển toàn vẹn và trở nên hữu ích cho xã hội. Quan trọng hơn nữa, hiếu thảo với cha mẹ là điều răn thứ tư của Thiên Chúa mà người Kitô phải thi hành.
Sau cùng, cả gia đình phải sống theo Lời Chúa dạy. Lời Chúa là nền tảng của gia đình. Sống theo Lời Chúa là xây dựng gia đình trên nền đá vững chắc. Gia đình sống theo Lời Chúa sẽ vững vàng qua mọi bão lốc thời đại.
Gia đình Công giáo sống theo Lời Chúa không những giữ được hạnh phúc cho gia đình mà còn đóng góp vào việc xây dựng xã hội trong hoàn cảnh đạo đức đang xuống cấp hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin giúp gia đình chúng con sống theo gương lành của các Ngài. Amen.
32. Trân trọng mái ấm gia đình
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay lễ thánh gia thất. Nói đến thánh gia là nói đến một gia đình hạnh phúc. Một gia đình luôn đồng cảm với nhau, chia sẻ vui buồn với nhau và cùng dìu nhau đi qua những thăng trầm của dòng đời. Gia đình thánh gia nơi có thánh Giuse, một người cha luôn là lá chắn chở che cho gia đình. Gia đình thánh gia, nơi có Mẹ Maria luôn sống âm thầm, tận tuỵ trong công việc của mình. Và nhất là có Chúa Giêsu luôn kính trọng và vâng lời cha mẹ. Chính các ngài đã tạo nên một mái ấm gia đình. Các ngài đã làm cho gia đình trở thành thiên đường tại thế khi mỗi thành viên đều sống có trách nhiệm với gia đình và cùng nhau vun trồng hạnh phúc cho gia đình. Nhất là các ngài luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc đời.
Là người ai trong chúng ta cũng có một gia đình. Gia đình là chỗ chúng ta tựa nương. Gia đình là thành trì vững chãi cho cuộc đời chúng ta. Gia đình mang lại cho chúng ta niềm vui, tiếng cười. Gia đình là chiếc nôi êm ái cho cuộc đời chúng ta. Thế nên, khi xa gia đình, chúng ta vẫn luôn cảm thấy mất mát, trống vắng trong cõi lòng.
Có một lời bộc bạch của một người con vừa chập chững bước chân vào đời đã tâm sự:
“Em nghĩ tới mẹ em lúc em đi học về, lúc em đói bụng. Nghĩ hồi trước về nhà, đi học về, có mẹ nấu đồ ăn, có cơm sẵn cho mình ăn. Bây giờ, đi học về, ngồi gặm bánh mì thui thủi một mình hay nấu mì gói.
Em nhớ mẹ trong lúc đi làm, khi bị người ta nói này nói kia. Mình nghĩ lúc ở nhà, ba mẹ la mình thì mình giận, nghĩ là không thương mình. Rồi bây giờ, đi ra ngoài đi làm, người ta khó khăn với mình thì mình cũng phải chịu thôi, không nói lại được. Nên nghĩ lại thấy thương nhớ cha mẹ.”
Lời tâm tình này cũng là tâm sự của nhiều bạn trẻ – những chú chim non vừa bay ra khỏi tổ, tự một thân một bóng phải vật lộn, chống chọi lại mọi thứ để tồn tại trong khoảng không gian bao la vô tận mà trước đây bầu trời xanh trong với những ước mơ bay bổng từng thu hút và đầy quyến rũ để các chú chim luôn khao khát mau được bay ra khỏi tổ một cách tự do, độc lập.
Chính vì thế mà có nhiều bạn trẻ khi va vấp những khó khăn trong cuộc sống mới giật mình xót xa:
“Có đôi lúc,
Mải mê quay với dòng đời ồn ã
Những đô hội thị thành
Những phương trời lạ
Chợi giật mình tỉnh giấc nhớ mẹ cha.”
Có một sự thật là khi còn trong mái ấm gia đình chúng ta lại sống dửng dưng. Chúng ta luôn muốn thoát ra khỏi sự ràng buộc của gia đình. Chúng ta muốn tự do, tự tại, tự hành xử theo ý mình. Nhưng, đường đời đâu mấy khi bằng phẳng, dòng đời đâu mấy khi bình yên, đã giúp chúng ta nhận ra không ở đâu bình yên cho bằng gia đình, không ở đâu có tình yêu chân thành cho bằng tình cha mẹ yêu con. Lúc này, kẻ xa quê mới cảm thấy xót xa:
“Giữa bể đời, bao la rộng lớn.
Con bơ vơ, phố xá đông người.
Tìm lối về, mênh mông bóng tối.
Con khóc nhiều, số phận thương đau.
Cuộc đời con, cần một hạnh phúc.
Mái ấm gia đình, buổi cơm chung.
Cùng nhau sum vầy, ba ngày tết.
Mười bảy năm rồi. Có được đâu!”
Hôm nay là lễ thánh gia, ngày thánh hoá các gia đình. Chúng ta xin ơn Chúa thánh hóa từng gia đình chúng ta và ban cho chúng ta một mái ấm gia đình hạnh phúc yêu thương. Xin cho mỗi thành viên trong gia đình biết trân trọng những ngày tháng bên những người thân yêu nơi gia đình, biết hy sinh, biết sống nhường nhịn và thân ái với nhau. Xin cho chúng ta cũng biết xây dựng gia đình mình hạnh phúc bằng việc chu toàn bổn phận và sống có trách nhiệm với gia đình. Xin đừng xúc phạm đến nhau khi đang được cùng sum họp trong một mái ấm gia đình. Và xin cho mỗi thành viên biết lắng nghe tiếng Chúa và đáp lại thánh ý trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Câu ca dao này dường như là người Việt nam ai cũng thuộc nằm lòng. Có thể nói bất cứ người Việt nam nào dù sang hay hèn, dù có hay không có địa vị đều ý thức và tôn trọng chữ Hiếu. Đây chình là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt nam.
Không ai có thể phủ nhận rằng cha mẹ là những người có công lớn trong việc sinh thành và dưỡng dục ta. Lại nữa, trong đức tin ta biết rằng cha mẹ được ơn đồng sáng tạo với Thiên Chúa khi sinh ra ta. Do đó, con người dù thành đạt cách mấy mà không biết hiếu thảo với cha mẹ thì cũng được xem là thấp. Bởi vì, một trong những tiêu chuẩn để đánh giá một con người đó tấm lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ.
Với thân phận làm người, Chúa Giêsu cũng được sinh ra và lớn lên trong gia đình như ta. Người luôn ý thức và chu toàn tốt bổn phận làm con của mình. Phải công nhận gia đình Nagiareth là gia đình hạnh phúc và kiểu mẫu. Dù rằng có thể gia đình này thua sút nhiều mặt.
Trong mười điều răn Đức Chúa Trời sau ba điều về Chúa liền đó là điều dạy phải thảo kính cha mẹ. Rồi hằng năm vào mùng hai Tết âm lịch cũng như cả tháng 11 Giáo hội không ngừng nhắc nhở giáo dân nhớ đến ông bà cha mẹ. Ta không thể nào sống hiếu thảo với Chúa nếu như trước đó ta chưa sống hiếu thảo với cha mẹ.
Không biết đã có bao nhiêu bài hát, ca dao, tục ngữ, bài thơ… ca ngợi công ơn cha mẹ. Tuy nhiên, ngày nay do ảnh hưởng lối sống thực dụng nên có nhiều người dường như xem thường công ơn cha mẹ. Có nhiều kẻ làm con vì quá ích kỷ nên đã bỏ cha mẹ cô đơn, trong khi đó mình dư khả năng để lo cho các ngài. Thật đáng tiếc.
Có câu chuyện kể rằng trong gia đình nọ, ngày kia đứa con thấy cha nó gọt cái gáo dừa mới hỏi cha nó gọt làm chi. Lặng nhìn đứa con hồi lâu ông ta trả lời: “Để cho ông nội mày ăn cơm. Vì lúc này ông nội mày làm bể chén hoài, phí quá!”. Đứa con suy nghĩ và không nói gì. Vài ngày sau đó, nó cũng đem gáo dừa khác ra gọt. Tưởng là con cũng đồng tình với mình, người cha hí hởn hỏi: “Bộ mày tính giúp tao lo cho ông nội mày hả?”. Đứa con trả lời: “Đâu có, cái này con để dành cho cha. Khi nào cha như ông nội con sẽ cho cha xài”. Nghe xong câu trả lời người cha tái mặt…
Như vậy, công ơn cha mẹ không biết làm sao ta có có thể đáp đền cho cân xứng. Dù rằng ta có thành tài cách mấy đi nữa mà không có lòng hiếu thảo cha mẹ thì cũng kể bằng không. Hơn nữa, thái độ của ta với cha mẹ như thế nào thì con cháu sẽ nhìn vào đó để cư xử với ta như vậy.
(Suy niệm của Lm Alfonso)
Tin Mừng Lc 2: 41-52: Nơi gia đình, các thành viên có khi có bất đồng, giận hờn, cãi vã, bực mình do lối sống và cách nghĩ khác nhau giữa các thế hệ. Nhưng nơi đó, con người ta có thể tự nhiên khóc cười…
Suy niệm:
Hẳn là cả người lớn lẫn trẻ em đều rất thích lời bài hát “Ba Ngọn Nến Lung Linh” của tác giả Ngọc Lễ. Lời bài hát diễn tả hình ảnh gia đình thật sâu đậm: “Gia đình gia đình, ôm ấp ta những ngày thơ, cho ta bao kỷ niệm thương mến. Gia đình gia đình, vương vấn bước chân ta đi, ấm áp trái tim quay về”.
Gia đình, ở đó có thể có gia đình hạt nhân, có thể có gia đình nhiều thế hệ. Nơi ấy, con người ta có thể lột bỏ thứ mặt nạ vẫn đeo hàng ngày như nụ cười mặc định khi gặp khách hàng, tiếng nói nhỏ nhẹ để dễ ký một hợp đồng với đối tác… Nơi gia đình, các thành viên có khi có bất đồng, giận hờn, cãi vã, bực mình do lối sống và cách nghĩ khác nhau giữa các thế hệ. Nhưng nơi đó, con người ta có thể tự nhiên khóc cười, nhí nhố không cần giữ kẻ, nơi mà người ta nào là thường bị cằn nhằn nhiều nhất, nào là những sự quan tâm nhiều khi thái quá khiến ta cảm thấy phiền hà, là khi bé ta khó chịu vì bị kèm cặp muốn tung cánh, đến khi lớn lên rồi mới thấy khát thèm những nhắc nhở quan tâm, muốn được cha làm con ngựa cõng con trên lưng, muốn nũng nịu được mẹ dỗ dành, nơi chị em chí chóe khóc hờn, sum vầy bên bữa cơm đạm bạc nhưng vô cùng ấm cúng.
Người mẹ trong gia đình vốn rất hiền cũng sẵn sàng xù lông như gà mẹ để bảo vệ gà con khi con mình bị người ta ăn hiếp. Cha tưởng rằng khô khan cứng cỏi nhưng cũng lặng lẽ quay đi lau dòng lệ ngày con gái lên xe hoa. Anh cậy sức trai hay bắt nạt em, thế nhưng ngày em gái lấy chồng thì lăm le chú rể “cậu mà không tốt với nó thì tôi sẽ đón nó về nhà”. Em hay tỏ ra bướng bỉnh, nhưng lại nhắn tin “em nhớ chị quá” ngay đêm đầu tiên chị về nhà chồng. Ở nơi gia đình, có thể có cả những giọt nước mắt khổ đau, nhưng sau tất cả vẫn là tình thương yêu vô bờ bến mà dù những khi ta sai lầm lỡ bước thì vẫn có những người sẵn sàng bao dung và rộng lượng dang tay đón ta về.
Chính vì gia đình có ý nghĩa thiêng liêng thế, nên Chúa Giêsu khi nhập thể làm người, Ngài đã chọn sinh ra trong một gia đình, được nuôi nấng lớn khôn như bao trẻ để đồng hành và dẫn dắt các gia đình. Thế nhưng, phụng vụ Lễ Thánh Gia Thất hôm nay không đóng khung trong phạm vi gia đình trần thế. Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh không phải chỉ để làm con thánh Giuse và Mẹ Maria, nhưng Chúa Giêsu còn thực hiện ý Cha trên Trời khi Người thưa: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”
Dĩ nhiên cần thời gian để thánh Giuse và Đức Mẹ Maria nghiền ngẫm, cầu nguyện mới có thể có chung nhịp đập của con tim như Chúa Giêsu, mới hiểu được điều Người muốn nói, để gia đình Thánh Gia trở nên mẫu gương cho chúng ta về việc thờ phượng Chúa, về lối sống đạo và về tình yêu thương hy sinh cho nhau. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy vươn xa hơn mối dây gia đình theo máu mủ, theo huyết thống để liên kết mọi người lại với nhau bằng chính Lời Chúa: “Mẹ Ta và anh em Ta là người nghe và thực hành lời Chúa”. Nhờ vậy mới có thể làm cho ý Chúa Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Như chúng ta biết, bệnh ung thư làm hủy hoại tế bào, mà gia đình được ví như tế bào của xã hội. Vì thế, khi cuộc sống gia đình có nguy cơ bị rạn nứt, thì cũng như những ung nhọt làm hủy hoại tế bào của xã hội. Xã hội càng lung lay hơn khi ngày nay người ta làm biến dạng nền tảng gia đình vốn có “ba ngọn nến lung” là cha mẹ và con cái. Nhiều cặp bạn trẻ nam nữ sống theo kiểu “góp gạo thổi cơm chung” mà không có một cam kết chung thủy, chỉ đơn giản hợp rồi lại tan; một số người lại sống chung đồng tính nam nam – nữ nữ, những người ly dị tái hôn, những “single mom” (người mẹ đơn thân) để tự do bay nhảy…
Giữa những vấn nạn bất cập ấy, gia đình Công giáo có nhiệm vụ thật quan trọng vì là hình ảnh của sự hiệp thông nơi Thiên Chúa Ba Ngôi. Phép bí tích Hôn phối của đôi vợ chồng Công giáo còn là thể hiện sự gắn kết tình yêu giữa Chúa Giêsu Kitô với Giáo Hội của Người là Dân Thiên Chúa. Mà mối dây liên kết keo sơn trong gia đình là do tình yêu thương, có Thiên Chúa hiện diện và là trung tâm. Vì thế, xã hội cũng như Giáo Hội muốn lành mạnh và phát triển, mỗi chúng ta cần lưu tâm đến sự phát triển tình yêu và lòng đạo đức trong mỗi gia đình.
Để được như thế, người cha gia đình hãy biết noi gương thánh Giuse, là người yêu thương Đức Maria hết mực chẳng đay nghiến hay để vợ mình bị kết án, là người đứng mũi chịu sào đưa Hài Nhi và Mẹ Người lánh nạn trong cơn nguy khó, là người trụ cột gia đình trong bổn phận nghề nghiệp để chăm lo cho vợ con. Còn người mẹ gia đình hãy noi gương Đức Maria bớt đi những lời qua tiếng lại, có nhiều tình huống hãy suy đi nghĩ lại, dâng lên Chúa cả những lúc trái ý, khó hiểu. Còn con cái trong gia đình vừa luôn biết làm đẹp lòng Thiên Chúa qua việc sống đạo đức, cũng phải thảo hiếu với cha mẹ qua việc vâng lời, chăm học và trở nên bác ái với nhau. Ý thức sống tốt trong mối liên hệ gia đình, chúng ta sẽ nhận ra “con người ta có nghìn phương để đi, triệu nơi để đến nhưng chỉ có một nơi để quay về là gia đình, nơi chúng ta luôn tìm được bình an”.
Xin Thánh Gia Thất hãy nâng đỡ các thành viên gia đình chúng con, và đồng hành với các gia đình trẻ trong nỗi khó khăn của cuộc sống mưu sinh, để họ luôn ý thức mỗi ngày dành ra bữa cơm gia đình và giờ kinh chung là những chất liệu hun đúc lên sự đầm ấm gia đình. Amen.
35. Đang ngồi giữa các thầy dạy
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
Mừng lễ Thánh Gia Thất, Giáo hội tường thuật lại cho chúng ta một giai đoạn trong cuộc sống của gia đình này qua trình thuật của Luca.
Gia đình Nadaret là một trong những gia đình đạo đức Do Thái, hằng năm vẫn lên Đền thờ Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Từ Nadaret đến Giêrusalem, con đường dài 100 cây số, băng qua đồi núi, thế nhưng người ta vẫn đi hăng hái, vừa đi vừa hát những thánh vịnh “lên đền”.
Những người giàu có đi bằng lừa hay xe lừa, những người nghèo thì rủ nhau đi bộ từng nhóm hay từng xóm, từng đoàn.
Hằng năm thánh Giuse với Mẹ Maria chắc cũng đi. Năm nay em bé Giêsu đã lên 12 tuổi, thì cả gia đình cùng đi.
Trẻ em Do Thái khi lên 12 tuổi thì được xem như trưởng thành, nghĩa là đủ điều kiện để giữ Luật như một người lớn. Vì thế em phải đi lễ Vượt Qua như mọi người. Những người đạo đức đi lễ suốt 8 ngày. Họ ở trọ trong những nhà bà con.
Lúc ra về, em bé Giêsu ở lại Giêrusalem mà cha mẹ không hay biết. Tại sao? Đức Mẹ và thánh Giuse là những người rất cẩn thận, tại sao không biết? Đền thờ Giêrusalem có bốn cổng, hai cổng dành cho nữ giới, hai dành cho nam giới. Khi vào sân, nam giới một bên và nữ giới một bên không lẫn lộn, còn trẻ em từ 12 tuổi thì có thể đi với mẹ hay với cha tùy thích. Vì thế khi ra về, Chúa Giêsu ở lại mà không ai biết. Mọi người cứ vui vẻ đi với nhau (và) trò chuyện. Đến điểm hẹn ban tối để ngủ đêm, thánh Giuse với Đức Mẹ mới tìm Chúa Giêsu. Hỏi thăm mọi người không ai thấy Giêsu đâu cả. Từ từ những nhóm người quen đã có mặt, nhưng trẻ Giêsu thì không thấy. Lúc đó chúng ta có thể tưởng tượng nỗi lo lắng của Đức Mẹ và thánh Giuse. “Em tưởng nó đi với anh, anh thì tưởng nó đi với em…”
Cuộc tìm kiếm bắt đầu. Hai người phải đi ngược về Giêrusalem, hỏi thăm bao nhiêu nhóm khác gần đó, nhưng cũng không thấy.
Thôi thì đành vậy, ngày mai sẽ tìm tiếp. Thế là hai người đi ngược về Giêrusalem. Đến Giêrusalem, có lẽ hai người chưa vội vào Đền thờ mà đi khắp các gia đình bà con, sau cùng không tìm thấy em bé đành trở vào Đền thờ, may ra em còn ở lại đó.
Vào Đền thờ hỏi thăm thì mọi người đều nói rằng em bé đó đã ở đây ba ngày rồi. Vậy giờ này em đang ở đâu và đang làm gì?
– Ở nhà hội.
Ở nhà hội là nơi các bậc vị vọng trong Đền thờ họp và không ai vào đó được. Vậy em làm gì ở đó? “Em đang ngồi giữa các tiến sĩ, vừa nghe và đặt câu hỏi.”
Đức Mẹ và thánh Giuse ngạc nhiên vô cùng, không dám bước vào, đứng lấp ló ngoài cửa. Nhưng may thay, một ông tiến sĩ đã nhìn thấy và ra hỏi thăm thì biết là cha mẹ của em bé. Họ mời hai ông bà vào và tất cả đứng dậy chào mừng. Ai cũng hết lời khen ngợi, vui mừng và “ngạc nhiên vì sự thông minh và những lời đối đáp của cậu.” Đức Mẹ mới xin đem em về. Mọi người đều vui mừng tiễn chân em bé và hai ông bà. Và một ông đã mời cha mẹ em và em bé ghé nhà, để làm gì? Để tặng cho mọi người bánh và quà để đi đường vì đường còn xa.
Sau khi ra riêng một mình, Đức Mẹ mới trách: “Con ơi, sao con làm cho cha mẹ như thế? Con thấy không, cha con và mẹ đây đang phải cực lòng tìm con!” Chúng ta có để ý không? Thánh Giuse không nói tiếng nào mà chỉ có Đức Mẹ lên tiếng? Ngài tôn trọng Đức Mẹ. Câu trả lời của Chúa Giêsu thật lạ lùng: “Cha mẹ tìm con làm gì? Cha mẹ không biết rằng con phải lo cho Nhà Cha con sao?” Câu: cha mẹ không biết rằng… nghĩa là cha mẹ đã biết, con đã nói rồi, nhưng cha mẹ quên đấy. Khi đó, Đức Mẹ và thánh Giuse mới nhận thấy rằng, con của mình không phải là của riêng mình mà của Cha trên trời. Sứ mệnh của Ngài là “Ở nơi nhà Cha Ngài”. Mẹ Ngài cũng không thể hiểu ngay những lời đó, mà “ghi nhận vào lòng và suy nghĩ”.
Một chi tiết mà nhiều người chúng ta không để ý là làm cách nào mà em bé Giêsu rơi vào được trong hàng các bậc tiến sĩ, ngồi giữa các ông và thảo luận? Ngài chỉ là một em bé như bao nhiêu em bé khác, tại sao các bậc vị vọng trong Đền thờ lại xem em như một bậc thầy và ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của em?
Có lẽ sau những ngày lễ, Đền thờ cần phải được dọn dẹp. Em bé này cũng phụ với mọi người làm việc và đến bữa cơm người ta mời mọi người dùng cơm. Em bé Giêsu ngồi gần một ông nào đó và đặt một vài câu hỏi về Kinh Thánh khiến ông này không thể trả lời và sau bữa cơm ông dẫn em đến một bậc thầy giỏi hơn để giải thích cho em. Chúng ta biết rằng người Do Thái rất đam mê Kinh Thánh và họ rất thích tranh luận về Kinh Thánh. Ông thầy thứ hai này cũng không thể trả lời những vấn nạn của em và mời những bậc thầy khác đến để giải đáp. Lúc đối đáp với em, họ mới thấy rằng em bé này là một nhân tài. Họ mời em lên nhà hội và gọi nhau đến để thảo luận về Kinh Thánh vì ở đó có đủ sách thánh. Cuộc thảo luận càng ngày càng sôi nổi và kéo dài gần ba ngày cho đến khi Đức Mẹ và thánh Giuse đến. Đây chỉ là một vài chi tiết không quan trọng đến điều chúng ta suy nghĩ hôm nay.
Điều chúng ta cần tìm hiểu là cuộc sống gia đình Nadaret. Cuộc sống đơn giản nghèo nàn như bao nhiêu gia đình khác, cũng xảy ra những biến cố bất ngờ, và những đau khổ… Nhưng mọi sự đều được giải quyết êm thắm, trong yêu thương. Mẹ rầy con nhưng rất nhẹ nhàng và cho con mình đối đáp một cách tự do. Nhiều gia đình không có được một sự hài hòa như thế. Trong nhiều trường hợp, thường xảy ra những cuộc tranh luận gay gắt và đứa con thường bị những trận đòn nên thân khi không làm theo ý cha mẹ. Ngược lại nhiều cha mẹ cưng chiều con quá mức và tạo cho con một nếp sống ích kỷ, chỉ biết làm theo ý mình và không biết chịu khó. Trong gia đình Nadaret, mọi người đều có bổn phận riêng, “trẻ Giêsu trở về Nadaret và hằng vâng phục cha mẹ của Ngài”. Nhờ đó, “em càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa trước mặt Thiên Chúa và người ta.”
Các gia đình, hãy nhìn vào gia đình Nadaret để biến gia đình mình thành gia đình của Thiên Chúa vì luôn đặt Chúa ngay trong gia đình mình.
Hãy biến gia đình thành một nơi vun trồng sự tự do lành mạnh, để con cái được nuôi dưỡng, dạy dỗ trong tự do và học sử dụng tự do để phụng sự Chúa và tận tụy với mọi người.
Hãy là nơi Chúa Giêsu được nuôi dưỡng và lớn lên, vì Thiên Chúa là Tình Yêu, Ngài chỉ có thể lớn lên trong tình yêu mà thôi. Hãy yêu thương nhau trong Chúa, đừng để cho một cái gì có thể làm tổn thương cho tình yêu, để tình yêu được lan rộng ra trong thế giới nhỏ bé của chúng ta.
Chúa Giêsu nuôi dưỡng tình yêu gia đình bằng Thịt Máu Ngài, thì gia đình cũng phải nuôi dưỡng Ngài bằng tình yêu quên mình và quảng đại của mình.
36. Xây dựng trên tình yêu – Gia đình sẽ hạnh phúc
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Tin Mừng Lc 2: 41-52: Thánh sử Luca trình thuật sự kiện Đức Giêsu cùng với cha mẹ Ngài trẩy hội lên đền Giêrusalem để mừng lễ, sau kỳ lễ, Ngài đã ở lại đền thờ và: “Ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông về những chuyện liên quan đến Kinh Thánh”
Bài hát: “Ba Ngọn Nến Lung Linh” của tác giả Ngọc Lễ đã diễn tả hình ảnh gia đình thật sâu đậm và ấm cúng: “Gia đình gia đình, ôm ấp những ngày thơ, cho ta bao kỷ niệm thương mến. Gia đình gia đình, vương vấn bước chân ta đi, ấm áp trái tim quay về”. Với thi sĩ Tế Hanh, ông coi gia đình là cái nôi phát xuất tình yêu, vì thế, ông viết: “Con nằm giữa cha, con nằm giữa mẹ. Cuộc đời nằm giữa yêu thương” (Tế Hanh).
Thật thế, ai trên đời này cũng đều có một gia đình, khi nhắc đến, lòng mỗi người rộn lên bao nhiêu nhung nhớ trìu mến, vì: “Người ta có rất nhiều nơi để đến, nhưng chỉ có một chốn để quay về, đó là gia đình”. Ôi hình ảnh gia đình thật đẹp và cao quý trong tâm tưởng của mỗi người, khiến chúng ta phải trân trọng! Cao đẹp, vì nơi gia đình, mọi mối tương quan được thiết lập. Trân trọng vì gia đình là nền tảng của xã hội và Giáo Hội. Tuy nhiên, muốn cho các mối tương quan được tốt đẹp và nền tảng được vững chắc, ắt phải dựa trên tình yêu được bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Với người Công Giáo, mỗi khi nhắc đến vai trò gia đình, Giáo Hội còn nhấn mạnh và đi xa hơn khi khẳng định: Gia đình là “Giáo Hội thu nhỏ”; hay “Giáo Hội tại gia” (x. SGLC 2205; FC 52). Nơi đó: “Mỗi gia đình thể hiện đúng bản chất của mình là một cộng đoàn yêu thương, hiệp nhất và thánh thiện để làm dấu chỉ loan báo cho mọi người về Nước Thiên Chúa” (x. FC 52).
Sứ mạng ấy được nói đến cách cụ thể và thiết thực qua lời dạy của thánh Phaolô trong bài đọc II hôm nay:“Hỡi các bà vợ, hãy phục tùng chồng trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình, đừng đay nghiến nó. Hỡi những người con, hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là đẹp lòng Chúa. Hỡi những người cha, đừng nổi cơn phẫn nộ với con cái, kẻo chúng nên nhát đảm sợ sệt” (Cl 3, 18-21). Như vậy, đời sống vợ chồng được mời gọi diễn tả tình yêu giữa Thiên Chúa với dân người; giữa Đức Kitô với Giáo Hội.
Nếu Thiên Chúa luôn trung thành, yêu thương con người, không bao giờ ly dị chúng ta, dù đã nhiều lần chúng ta bất trung, bội bạc và vô ơn…; thì đời sống vợ chồng cũng luôn mời gọi chúng ta noi gương Thiên Chúa để sống trung thành với nhau trọn đời. Nếu Đức Giêsu đã yêu thương Giáo Hội và hiến thân vì Giáo Hội, thì vợ chồng cũng được mời gọi sống chết cho nhau như thế. Trong đời sống vợ chồng, chúng ta: “Hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà, nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau, và hãy tha thứ cho nhau nếu người này có chuyện phải oán trách người kia. Như Chúa đã tha thứ cho anh em, anh em cũng hãy tha thứ cho nhau. Và trên hết mọi sự, anh em hãy có đức yêu thương, đó là dây ràng buộc điều toàn thiện” (Cl 3, 12-14). Khi dạy tín hữu như thế, thánh Phaolô muốn nhắc đến điều căn bản của gia đình, đó là: một cộng đoàn đức tin và yêu thương… Sang bài Tin Mừng, thánh sử Luca trình thuật sự kiện Đức Giêsu cùng với cha mẹ Ngài trẩy hội lên đền Giêrusalem để mừng lễ, sau kỳ lễ, Ngài đã ở lại đền thờ và: “Ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông về những chuyện liên quan đến Kinh Thánh” (x. Lc 2, 46).
***
Câu chuyện kết thúc bằng việc Đức Maria và thánh Giuse sau khi biết Đức Giêsu không về với bà con thân thuộc, liền quay trở lại để tìm con. Phần Đức Giêsu khi đã gặp Đức Mẹ và thánh Giuse, Ngài đã theo cha mẹ trở về Nazareth và: hằng “vâng phục hai ông bà […], tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta” (x. Lc 2, 51-52).
Qua câu chuyện Tin Mừng, chúng ta thấy, Đức Giêsu đã đặt trung tâm đời sống của Ngài là Thiên Chúa, nên cũng như mọi người, Ngài lên đền thờ Giêrusalem dự lễ để chu toàn bổn phận trong lòng mến với Thiên Chúa. Nơi Đức Maria và thánh Giuse, thì luôn coi Đức Giêsu là trung tâm của gia đình, nên khi không thấy Đức Giêsu, các ngài đã hối hả lên đường để đi tìm! Như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng: cuộc sống của gia đình chúng ta sẽ gặp được niềm vui, bình an và hạnh phúc nếu biết gắn bó với Thiên Chúa trong đời sống cầu nguyện và luôn đặt Ngài vào trung tâm của gia đình. Nếu đi ngược lại điều đó, mọi mối tương quan sẽ bị rạn nứt và đổ vỡ vì nó không được bắt nguồn từ tình yêu Thiên Chúa.
Thật vậy, đời sống cầu nguyện nơi gia đình là tối quan trọng. Quan trọng đến độ nếu muốn có một gia đình hạnh phúc thì không thể không cầu nguyện. Tại sao vậy? Thưa! Vì khi cầu nguyện, mọi mối tương quan được khởi sắc và khăng khít.
Hãy cầu nguyện với Chúa mọi nơi mọi lúc. Cầu nguyện trong sự cảm nghiệm sâu xa về tình yêu của Thiên Chúa trong cuộc đời. Tạ ơn Chúa vì tất cả những gì Ngài đã ban cho. Ngày nay, người ta coi thường giờ kinh gia đình, thay vào đó là giờ của tivi, truyền hình, sách báo… và nhiều chuyện khác…
Tuy nhiên, hệ quả đằng sau nó chính là sự chia rẽ, rạn nứt, vì không được Lời Chúa hướng dẫn, không nhận ra khuyết điểm để sửa sai, không thấy ân lộc Chúa ban mà tạ ơn, như vậy, đây là mối nguy của sự chung thủy. Khi cầu nguyện chung với nhau, mọi người được Chúa hướng dẫn và mọi thành viên học được bài học yêu thương.
Nếu con cái tôn thờ Thiên Chúa thì chúng không thể không yêu thương, kính trọng cha mẹ là hình ảnh và đại diện Chúa trên trần gian. Nếu vợ chồng có những chuyện không thể tha thứ, khi cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy được Thiên Chúa nhân hậu và quảng đại, Ngài đã tha thứ cho mình, thì mình cũng phải tha thứ cho nhau… Trong cuộc sống, có biết bao những khó khăn cách này, cách khác… nhìn lên Thánh Giá Chúa trong tâm tình cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy được mọi lời giải đáp và tìm lại được ý nghĩa, giá trị của đau khổ trong đời sống đức tin.
Cuối cùng, tham dự các buổi cử hành phụng vụ, lãnh nhận các Bí tích, nhất là Bí tích Giải tội và Thánh Thể, chúng ta sẽ được chính lòng thương xót của Thiên Chúa dưỡng nuôi và định hướng.
Mẫu gương gia đình Thánh Gia mà Giáo Hội mừng kính hôm nay toát lên những đặc tính đó. Và, khi thiết lập lễ Thánh Gia, Giáo Hội mời gọi mọi thành phần hãy nhìn ngắm, chiêm ngưỡng đời sống của gia đình Thánh Gia. Những tấm gương ngời sáng của một người cha, một người mẹ và một người con hết lòng vì gia đình.
Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con, xin cho các bậc làm cha mẹ biết ý thức được vai trò, trách vụ quan trọng của mình trong gia đình, từ đó biết chu toàn bổn phận, yêu thương và giáo dục con cái nên người.
Xin cho các người con biết yêu mến, vâng phục cha mẹ trong tình yêu, để qua đó, được trở nên con người tốt giúp ích cho Giáo Hội và xã hội.
Xin Chúa ban cho mọi thành viên trong gia đình biết yêu thương nhau như khuôn mẫu của Gia đình Thánh Gia khi xưa. Amen.
Sinh ra làm con người ai cũng có một gia đình, có cha, có mẹ, có anh chị em…Thiên Chúa làm người Người cũng chọn cho mình một gia đình. Ngài có cha, có mẹ. Chính gia đình này là mẫu gương cho tất cả mọi gia đình. Vì sao thế?
Gia đình Nagiareth là Thánh Gia Thất vì gia đình này luôn có Chúa hiện diện. Chính Chúa là trung tâm của đời sống gia đình. Thánh Giuse và Đức Mẹ Maria luôn xác tín rằng con mình là Thiên Chúa, Thiên Chúa làm người ở với nhân loại. Nên mọi sự trong gia đình đều được sưởi ấm bởi niềm xác tín này. Là Thiên Chúa nhưng Chúa Giêsu không miễn trừ cho mình luật lên Giêrusalem hằng năm và Ngài đã ở lại trong Đền Thờ để làm công việc của Cha Ngài mà Thánh Giuse và Đức Mẹ không biết. Thánh Luca thuật lại việc lạc mất Chúa Giêsu cho ta thấy rõ vai trò của Chúa Giêsu trong gia đình quan trọng như thế nào. Sau ba ngày tìm Con mới gặp lại con trong hoàn cảnh làm cho Đức Mẹ và Thánh Giuse ngạc nhiên sửng sốt. Thánh Giuse và Mẹ Maria mặc dù biết Con mình là Ai nhưng làm sao hiểu được ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Câu trả lời của Chúa Giêsu với Đức Mẹ: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” đây cũng là một mặc khải đòi hỏi Thánh Giuse và Đức Mẹ phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa mặc dù hai ông bà chưa thể hiểu thấu.
Gia đình Kitô hữu chúng ta noi gương gia đình Nagiareth hãy để Chúa Giêsu làm trung tâm đời sống gia đình mình, hãy để Chúa Giêsu nối kết mọi thành viên trong gia đình. Có Chúa Giêsu hiện diện chắc chắn mọi sự sẽ được quan phòng, chăm nom trong tình yêu Thiên Chúa. Có những lúc gia đình chúng ta cũng lạc mất Chúa, mất niềm tin, mất hy vọng… hãy bắt chước Đức Mẹ và Thánh Giuse mau mắn đi tìm Chúa. Việc đi tìm Chúa đòi hỏi gia đình chúng ta phải có sự kiên trì và nhận ra Ngài trong những cảnh huống của cuộc sống. Xưa Thiên Chúa đòi hỏi Thánh Giuse và Đức Mẹ từng bước từng bước nhận ra mặc khải của Thiên Chúa trong cuộc sống của Chúa Giêsu thì nay Chúa cũng đòi hỏi chúng ta nhận ra Ngài, tin tưởng vào Ngài trong cuộc sống với tinh thần vâng phục cho dù ta chưa hiểu, cho dù khó chấp nhận…
Thánh Giuse và Đức Mẹ đã hoàn thành trọn vẹn ý định của Thiên Chúa là làm cha và làm mẹ Đấng Cứu Thế. Trong bản văn (Lc 2, 41-52) được đọc hôm nay ta không thấy Thánh Giuse nói lên một tiếng nói nào, hình bóng của Thánh Giuse thật mờ nhạt nhưng không vì thế mà ta có thể nói vai trò của Thánh Giuse là không quan trọng. Thánh Giuse là chủ gia đình. Gia đình có vững chắc, có nề nếp hay không là do ở người chủ này. Mười hai tuổi Chúa Giêsu được phép theo người chủ này lên Giêrusalem. Khi lạc mất con Thánh Giuse phải vất vả và tìm kiếm. Người ở người nam thường là thế, lo lắng lắm, vất vả lắm, đau khổ lắm… nhưng ít có khi bộc lộ. Ở đây ta thấy vai trò thầm lặng của Thánh Giuse thật đặc biệt. Thầm lặng dõi tìm con để nhận ra ý Chúa muốn cho cuộc đời mình. Mẹ Maria cũng thế, sau khi gặp Con, nghe câu nói của Con dù Mẹ không hiểu nhưng Mẹ không đòi giải thích hay oán trách nhưng Mẹ suy niệm những lời ấy trong lòng.
Chúa Giêsu đã chọn gia đình là bước khởi đầu cho hành trình bước lên đồi Sọ của Ngài. Ngài đã sống vâng phục cha mẹ Ngài, thánh hóa gia đình và làm cho gia đình có một ý nghĩa đặc biệt là môi trường dưỡng nuôi Con Thiên Chúa làm người. Luca hôm nay cũng cho ta thấy đâu là cùng đích thực sự mà ta phải tiến về và đâu là bổn phận mà ta phải vâng phục “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”. Hỡi các bậc làm cha mẹ hãy vâng lời Thiên Chúa chăm lo dạy dỗ con cái, hãy yêu thương nâng đỡ chúng. Hỡi những người làm con hãy vâng lời cha mẹ và như thế là vâng phục thánh ý Chúa. Hãy làm tròn bổn phận của mình trong gia đình vì gia đình môi trường để nên thánh, môi trường đã được chính Con Thiên Chúa sống và thánh hóa. Hỡi các gia đình hãy để Thiên Chúa hiện diện trong gia đình, hãy để Chúa làm trung tâm của mọi suy nghĩ , mọi sinh hoạt… khi đó chắc chắn gia đình bạn cũng sẽ là một Thánh Gia Thất.
(Suy niệm của Lm Gioan Nguyễn Văn Ty)
Tôi thấy trong các gia đình Công Giáo rất thường trưng ảnh tượng Thánh Gia trên bàn thờ, và đó là điều đáng mừng. Nhưng nhiều khi tôi tự hỏi, họ học được điều gì nơi cái gia đình ‘siêu phàm’ đó? Đối với nhiều người đó chỉ là một sự tôn thờ, tôn thờ một biểu tượng gần gũi với đời mình để dễ nhận được điều cầu được ước thấy. Nhưng cũng có nhiều người nói với tôi là họ (được dạy) coi Thánh Gia là một mẫu gương để họ noi theo bắt chước. Nhưng bắt chước điều gì mới được chứ? Những ‘công dung ngôn hạnh’, những cần cù đảm đang, những trên thuận dưới hòa… tôi đâu có thấy Phúc Âm ghi nhận chỗ nào đâu. Những điều này trong sách Huấn Ca của Cựu Ước (tư tưởng hao hao như sách Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi… và có lẽ mỗi dân tộc đều có một vài tác phẩm tương tự) đã có dư thừa và còn phong phú hơn cả Phúc âm nữa. Lời Chúa của lễ Thánh Gia hôm nay cũng chỉ trích dẫn trong bài Tin Mừng câu chuyện về ‘trẻ Giêsu vị thành niên bị thất lạc trong đền thờ Giê-ru-sa-lem’, một giai thoại chẳng liên quan gì tới các nội dung luân lý giáo điều về gia đình.
Giai thoại hiếm hoi được ghi nhận trong thời gian thật dài khi trẻ Giêsu còn chung sống trong gia đình mình, giai thoại được Maria ghi vào ký ức để suy đi nhẩm lại, có vẻ gì đó tiêu cực, nếu xét theo các tiêu chí luân lý thông thường: Trẻ Giêsu đã làm phiền lòng chính cha mẹ mình. “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Như thế thì trong đời sống của Thánh Gia đâu phải mọi sự đều trôi chảy, đều êm thắm, đều lý tưởng… để có thể trở thành mẫu gương luân lý tiết hạnh của mọi thời đại. Tôi chắc rằng Thánh Gia cũng có những diễn biến cuộc sống (tạo nên những hỷ, nộ, ái, ố) giống như mọi gia đình bình thường khác thôi. Tuy nhiên Thánh Gia đã có một điều gì đó rất khác, rất phi thường: vì đó là gia đình đầu tiên đã học biết (Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói) sống những diễn biến bình thường đó trong một tinh thần Tin Mừng thực sự. Trẻ Giêsu đã đưa ra hướng giải đáp cho vấn nạn chính đáng và thông thường của đời sống gia đình: khi có những mất lòng nhau vì nhiều nguyên nhân, khách quan hay chủ quan: hãy lo ‘bổn phận ở nhà của Cha’. Bổn phận ở nhà của Cha là gì nhỉ? Chẳng lẽ chỉ đơn thuần là ở lại trong đền thờ? Chỉ mình Giêsu đấng từ trời xuống mới biết; và Ngài đã mạc khải qua chính cuộc sống và cái chết của Ngài về cái bổn phận chưa ai từng biết đó. Thánh Gioan (mà lịch phụng vụ hôm nay 27/12 nói là không cử hành lễ kính) đã dần dần học biết được cái bổn phận căn bản đó. Và một khi đã học được, vì là người môn đệ được tựa đầu vào ngực Chúa, ngài đã mạnh mẽ thốt lên: “Anh em hãy thương yêu nhau vì tinh yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa…Tinh yêu cốt ở điều này… chính Người đã yêu thương chúng ta và đã sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta… Nếu Thiên Chúa yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau” (1Ga 4, 7-16). Thánh Gia, và mọi gia đình công giáo, đều phải học bài học này. Cả Giuse cũng phải học, cả Maria nữa. Bài học yêu thương tha thứ cho nhau vì biết rằng Thiên Chúa đã tha thứ yêu thương trước thì ai cũng phải học, đơn giản vì ai cũng có thể bực dọc hay phật lòng (cho dầu bực dọc có lý do chính đáng). Và bài học này không dễ hiểu được đâu, chưa nói đến thực hành, vì nó không dựa trên lý luận hay hợp lý, nó không công bằng chút nào. Chỗ dựa duy nhất của nó là niềm tin vào Đức Kitô Giêsu, vào sự điên rồ hay ngu xuẩn của Thập giá. Kể cả Giuse và Maria cũng thấy khó khăn như thế “Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói… Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”. Như vậy Thánh Gia thật gần với đời thường, vì là nơi niềm tin tìm được cách biểu lộ cách chân thực nhất và cũng bị thách thức nhiều nhất. Chính trong các gia đình (kể cả các gia đình tu sĩ), nơi chung sống những con người bất toàn, bất hòa hay bực dọc sẽ vẫn là chuyện cơm bữa, thì tình yêu thương xót và tha thứ (phát xuất từ Thiên Chúa) sẽ có dịp cất lên tiếng nói mãnh liệt nhất.
Lạy Chúa, xin cho con hằng biết chiêm ngưỡng Thánh Gia như nơi đã học và đã cố gắng sống bổn phận vĩ đại nhất của Thiên Chúa Tình Yêu. Xin cho con không chỉ biết tôn thờ suy tôn, mà còn biết đồng hành với Thánh Gia trong tiến trình sống niềm tin. Amen.
39. Gia Đình Đại Phúc -Alphonse Marie Trần Bình An
Cả cụ ông lẫn cụ bà đều bước qua tuổi 100. Họ gắn bó nhau gần một thế kỷ, nhưng vẫn dành cho nhau những tình nghĩa vợ chồng son sắt. Năm 2011, Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã trao giấy chứng nhận “Cặp vợ chồng sống thọ nhất Việt Nam” cho ông bà Huỳnh Văn Lạc (111 tuổi) và Nguyễn Thị Lành (107 tuổi) ngụ tại khu phố 1, phường Đông Hưng Thuận, Q.12, Sài Gòn.
Bốn thế hệ “tứ đại đồng đường” gồm 4 người con, 12 người cháu, 43 người chắt, chút nội ngoại của hai cụ sống chan hòa, đầm ấm dưới một mái nhà.
Dù đã vượt đại thọ, nhưng hai cụ vẫn rất minh mẫn. Cụ bà tỏ ra thích thú khi có khách đến thăm, vì đây cũng là dịp để cụ trò chuyện. Cô Hoa, con gái út năm nay cũng đã 72 tuổi tâm sự: “Các cụ già rồi nên nhạy cảm lắm, dễ buồn, dễ tủi thân”. Trong ký ức của cô, suốt gần một thế kỷ, chưa bao giờ ba mẹ to tiếng. Ngay từ nhỏ, cụ ông đã luôn nhắc nhở con cháu sống yêu thương nhau và không bon chen vòng danh lợi.
Cuộc sống hàng ngày của cặp vợ chồng lớn tuổi nhất Việt Nam diễn ra khá bình dị. Sau khi ăn sáng xong, ông ngồi đọc báo cho cụ bà nghe, nếu không thấy bà đâu là ông quay quắt tìm. Buổi sáng không thấy bà ra ngoài hiên ngồi, ông lại thắc thỏm gọi: “Bà ơi, bà có khỏe không? Sao bà không ra đây ngồi với tôi”.
Bữa cơm của hai vợ chồng già cũng được chính cô con gái út lo cho đã nhiều năm nay. Chẳng có bí quyết gì cao siêu, chủ yếu là các món luộc. Theo cô Hoa, điều quan trọng nhất giúp hai cụ có sức khỏe tốt, chính là tinh thần luôn bình an bởi sự quây quần, hòa thuận của con cháu. (Cặp vợ chồng sống thọ nhất Việt Nam, 24h.com.vn)
Yêu thương, trên thuận dưới hoà, thoát vòng danh lợi, gia đình cụ Huỳnh Văn Lạc vui hưởng hoan lạc hạnh phúc với “tứ đại đồng đường” sum vầy sống chung. Điều này hẳn gây ngạc nhiên, khó chấp nhận với khá nhiều người quen nếp sống tự do cá nhân theo Tây phương. Hôm nay, với trích đoạn Tin Mừng thánh Luca, Giáo Hội tôn vinh Thánh Gia Thất đại phúc, gương mẫu mực cho những ai mưu tìm hạnh phúc gia đình viên mãn. Hạnh phúc thật sự tràn đầy không chỉ nơi trần thế mà còn mãi trên Thiên Đàng.
Thánh Gia Thất gồm ba người: Thánh cả Giuse, Đức Mẹ Maria và thiếu niên Giêsu đều hưởng đại phúc ngay thế gian, vì luôn có Chúa hiện diện, luôn yêu thương, luôn hiệp nhất và phục vụ lẫn nhau.
Chúa hiện diện
Ngay từ khi bắt đầu sống chung, Thánh Gia Thất đã có Chúa Giêsu hiện hữu trong cung lòng Mẹ. Dẫu đường xa cách trở từ thành Nazareth, miền Galilê lên thành Vua Đavít, tức là Bêlem, miền Giuđê để kiểm tra dân số, Mẹ Maria nặng nề bụng mang dạ chửa, nhưng Thánh Gia vẫn không mất bình an, chẳng hề bất bình, kêu ca, than trách, xào xáo hay khủng hoảng.
Chúa luôn hiện diện, khi thực thi Thánh Ý Chúa. Mẹ Maria đã “Xin Vâng” ngay khi sứ thần loan báo tin vui. Thánh Giuse cũng tuân theo ngay, khi được sứ thần báo mộng mầu nhiệm nhập thể.
Nếu sống theo ý riêng, tựa như hình ảnh Mẹ Maria và Thánh Giuse đi hai ngã đường riêng biệt, lạc mất thiếu nhi Giêsu, không còn Chúa hiện diện, thì gia đình liền bất ổn, xáo trộn, xảy ra sự cố trầm trọng.
Mỗi thành viên đều mời Chúa hiện diện trong lòng qua Lời Chúa, sống Tin Mừng và đón rước Thánh Thể, thì gia đình luôn có Chúa hiện diện. Ngài sẽ xua tan đi giông tố, bão bùng, bất đồng, chia rẽ, phân hoá, hoặc nguy cơ tan đàn xẻ nghé.
“Chúa hiện diện bên con, không phải chỉ là một tâm tình, nhưng Chúa phải chiếm hữu cả con người con, hướng dẫn, yêu thương, an ủi con.” (Đường Hy Vọng, số 241)
Yêu thương
“Thiên Chúa là Tình Yêu; ai ở lại trong tình yêu, thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (1 Ga 4, 16)
Thánh Giuse biểu lộ tình yêu rất kín đáo qua công việc thợ mộc chăm chỉ hằng ngày. Mẹ Maria diễn tả tình yêu qua việc tận tuỵ chăm sóc cả gia đình. Thánh Gia cùng yêu thương che chở Hài Nhi chạy thoát khỏi cuộc tàn sát trẻ thơ của Hêrôđê. Mẹ còn tiếp tục vất vả theo chân Con đi rao giảng, cho đến tận đồi Calvaire. Nơi Con Mẹ trút hơi thở cuối cùng trên thập giá. Chỉ có tình yêu cao cả vĩ đại mới lý giải mối liên kết Thánh Gia Thất bền vững.
Noi gương Thánh Gia, thánh Phaolô dặn dò khuyên răn tín hữu Côlôssê “Hãy sống hiền hòa, nhẫn nại, tha thứ cho nhau, như chính Chúa tha chứ cho anh em. lấy đức bác ái làm nền tảng; đó chính là mối dây liên kết giữa mọi con cái Chúa.”(Cl 3, 12-21) Ngài không ngừng nhắc lại lòng yêu thương đặc biệt cần thiết trong gia đình: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái…Người làm vợ hãy phục tùng chồng. Như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa.” (Cl 3, 14.18)
Hiệp nhất
“Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết.” Thánh Gia luôn hiệp nhất trong tình yêu, không bao giờ, chia rẽ, lìa xa nhau. Nếu thiếu vắng ai, thì cả gia đình quan tâm tìm về. Cho nên gia đình chính là Hội Thánh thu nhỏ, luôn giang tay đón nhận và tìm lại con cái, không hề loại trừ ai dẫu tội lỗi nhuốc nhem. “Gia đình là tế bào của Hội Thánh, nói cách khác, là một “Hội Thánh cỡ nhỏ” (Ecclesiuncula) ở đó Chúa Giêsu hiện diện, sinh sống, chết, phục sinh cách mầu nhiệm trong các chi thể. Tư tưởng ấy làm sáng tỏ ý nghĩa và có sức biến đổi đời sống của gia đình Công Giáo.” (Đường Hy Vọng, số 493)
“Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: “Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con.” Một lời trách nhẹ nhàng thắm đậm tình mẫu tử, biểu lộ tình yêu thương, mối quan tâm sâu sắc, đồng thời nói lên lòng khoan dung, tha thứ để hiệp nhất. Tha thứ chính là điều quan trọng trong Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Tha thứ không giới hạn, không điều kiện.”Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt 18, 22)
Một gia đình không có lòng thương xót, khoan dung, tha thứ thì khó tránh xung đột, xung khắc, tạo nên mầm mống rạn nứt, chia tay. “Tình yêu hôn nhân có sức rút từ quả tim con người tất cả can đảm, tin tưởng và quảng đại.” (Đường Hy Vọng, số 467)
Phục vụ
“Người thưa với hai ông bà rằng: “Mà tại sao cha mẹ tìm Con? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?” Thiêu niên Giêsu thẳng thắn thưa cùng cha mẹ nhiệm vụ ưu tiên của mình. Phục vụ Thiên Chúa, cùng phục vụ gia đình, vợ chồng, con cái và tha nhân là những yếu tố cần kíp tạo nên gia đình đại phúc. Dấn thân phục vụ là hy sinh, xả kỷ vị tha, là cho đi cả tình yêu, sức lực, tâm hồn lẫn thể xác.
“Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà.” Vâng phục, thảo hiếu cha mẹ cũng là phục vụ gia đình tích cực. Thiếu nhi Giêsu làm gương sáng cho phận làm con, hầu góp phần xây dựng gia đình đại phúc. Đức Thánh Cha Bênêditô 16 kêu gọi: “Con cái có quyền có một gia đình như Thánh Gia thất. Gia đình là nơi lý tưởng để mọi người học biết cho đi và đón nhận tình yêu.”
Phục vụ lẫn nhau gia đình mới trên thuận dưới hoà, vui vẻ, bình an, hạnh phúc tràn đầy, như lời khuyên chí tình của thánh Phaolô về nếp sống gia đình: “Hỡi các người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đùng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3, 18-20)
Lạy Chúa Hài Đồng Giêsu, xin ban cho chúng con tình yêu, sự hiệp nhất, tính phục vụ, để gia đình chúng con có thể noi theo gương sáng Thánh Gia Thất, được bình an và hạnh phúc viên mãn.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy dỗ, nhắc nhủ và cầu bầu cho gia đình chúng con luôn trung thành theo Chúa, sống Tin Mừng, siêng năng đón rước Thánh Thể, để gia đình chúng con luôn có Chúa hiện diện, hầu cho tất cả thành viên gia đình đều được thánh hoá, hạnh phúc cả đời này lẫn đời sau. Amen.
40. Suy niệm của Lm. Guse Nguyễn Văn Nghĩa
GIA ĐÌNH:
TRƯỜNG ĐÀO TẠO TÌNH THƯƠNG VÀ NIỀM TIN
Đất nước chúng ta đã mở cửa cho nền kinh tế thị trường phát triển, đã gia nhập Tổ chức Thương Mại thế giới (WTO). Thế là bao tập đoàn doanh nghiệp nước ngoài ồ ạt đi vào đầu tư, kinh doanh, hợp tác trong các ngành nghề, không chỉ trong lãnh vực kinh tế mà cả trong lãnh vực văn hóa, giáo dục… Cửa mở thì gió vào. Dĩ nhiên ai ai cũng muốn đón gió lành, khí trong sạch, thế nhưng gió độc, khí ô nhiễm dù không mong cũng lùa vào và nhiều khi nhiều hơn cả lượng gió lành, khí sạch.
“Tùng thiện như đăng, tùng ác như băng”. Ngạn ngữ người xưa vẫn diễn tả đúng cái hiện thực hôm nay. Các cơn gió độc, cái bầu khí ô nhiễm luôn có sức lôi cuốn con người, nhất là các thế hệ trẻ, khi chưa đủ đầy nhân cách hay bản lãnh. Một trong những hậu quả nhãn tiền, đó là nền tảng gia đình đang lung lay và có nguy cơ bị băng hoại. Không phải vì sự trịch thượng của người Đông phương thích xét nét và phê bình lối sống Âu – Mỷ, trời Tây mà ngay cả các nhà đạo đức của những quốc gia phát triển ấy cũng từng nhìn nhận và phân tích hiện tượng xuống dốc của các giá trị nền tảng xã hội, cách riêng là sự thánh thiêng và bền vững của gia đình tại đất nước họ. Bác sĩ Benjamin Spack, trong cuốn sách “Nghệ thuật làm cha mẹ”, một trong những cuốn sách bán chạy nhất (best beller) ở nước Mỷ đã phân tích tình trạng sa sút gia đạo với các nguyên nhân như sau: (x. Tuần báo CG và Dt số 1134 trang 20-21)
- Vì thích độc lập, thích sống riêng rẽ, nên các gia đình trẻ mất sự hổ trợ, mất bầu khí đùm bọc yêu thương của cha mẹ, anh chị em.
- Cuộc sống sinh kế, nghề nghiệp thiếu ổn định khiến cho các gia đình hay thay đổi chỗ ở làm mất tình làng nghĩa xóm (bà con xa không bằng láng giềng gần).
- Cũng do kế mưu sinh mà cả cha lẫn mẹ đều bôn ba chuyện cơm áo gạo tiền một cách tất bật và thế là thiếu thời giờ dành cho nhau và dành cho con cái.
- Nạn ly hôn ngày càng phổ biến làm ảnh hưởng rất tai hại trên con cái, trên sự thánh thiêng của đời hôn nhân gia đình. Đây là một sự thật khó chối cãi.
- Óc thượng tôn của cải, lấy vật chất làm thước đo giá trị đã làm cho con người thiếu niềm tin vào các giá trị tinh thần mà đạo hiếu là một trong những số phận hẩm hiu ấy.
Chúa Nhật tiếp ngay sau lễ Giáng Sinh, Giáo hội liền mời gọi chúng ta hướng cái nhìn vào Gia đình Thánh: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse. Hẳn nhiên Giáo hội ý thức tầm quan trọng của gia đình vốn được ví là tế bào của xã hội. Không gì hơn hãy nhìn vào Ba Đấng của Thánh gia để học cách củng cố gia đạo, xây dựng cái nền tảng của xã hội đúng như thánh ý Chúa tự ban đầu buổi sáng tạo, khi Người dựng nên loài người có nam có nữ và cho họ chung sống thành gia đình (x. St 1,27-28).
- Gia đình: trường huấn luyện con tim.
Vì yêu thương hai trái tim chung nhịp đập tìm đến nhau và kết duyên vợ chồng. Tình yêu ấy trổ sinh hoa trái là các đứa con.
Con nằm giữa cha, con nằm giữa mẹ.
Cuộc đời nằm giữa yêu thương. (Tế Hanh)
Thi sĩ Tế Hanh diễn tả một hình ảnh rất thân quen mà mãi luôn chan chứa nét tình. Nhìn vào máng cỏ: một Hài nhi Giêsu bé bỏng nằm giữa mẹ cha. Tình yêu là thế đó. Các thành viên luôn sống vì nhau và cho nhau. Không hề kể công và cũng chẳng tiếc tình, đó là tình nghĩa phu thê, là tình mẹ tình cha. Có thể nói gia đình là mái trường đào luyện tình yêu thương cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Vì yêu Maria, Giuse đã không muốn làm bất cứ sự gì xấu cho người mình yêu, dù có thể làm theo luật. Trước sự kiện Maria thụ thai và khi chưa hiểu sự thể thì Giuse đã chọn con đường âm thầm rút lui và dĩ nhiên là sẽ chịu tiếng xấu cho riêng mình. Khi đã được sứ thần tỏ bày qua giấc mộng, thì Ngài đã mau mắn đón Maria và Hài Nhi trong dạ về chung sống (x. Mt 1,18-25). Chính trong gia đình, chúng ta sẽ học biết rằng đã thương thì không hề tiếc, đã yêu thì không hề tính toán, so đo, đã yêu là yêu đến cùng.
- Gia đình: trường đào tạo niềm tin.
Đã yêu thì hẳn nhiên sẽ dẫn đến sự tin cậy. Tin tưởng, tín nhiệm nhau là một trong những biẻu hiện của tình yêu chân thực. Khi nhận lời sứ thần truyền tin là mang thai do bởi phép Chúa Thánh Thần, chắc chắn Maria không chỉ tin vào quyền năng của Thiên Chúa mà còn tin vào tình yêu của Giuse, người bạn đã đính hôn. Tin cậy ở Giuse, dù đã gần đến ngày mãn nguyệt khai hoa thế mà vẫn lên đường về quê Bêlem khai nhân hộ khẩu. Tin cậy ở Giuse, dù con thơ còn quá bé, thế mà phải lặn lội lánh nạn sang Ai Cập rồi sau đó lại trở về, Maria theo chân Giuse không một lời than vãn. Dù luật không buộc, thế mà Maria vẫn theo chân Giuse và con trai đủ tuổi mười hai lên Giêrusalem dự lễ hằng năm. Đức tin là hồng ân Chúa ban nhưng lại được trao ban qua nhiều cách thế. Một trong những cách thế phổ biến và hữu hiệu đó là gương sáng cũng như sự dạy bảo của mẹ cha.
Tin Mừng làm chứng cho ta hay rằng nhân cách của Chúa Giêsu mang đậm dấu ấn của Maria và Giuse, những người theo lệnh truyền là phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu (x.Mt 1,21; Lc 1,31). Cũng thế, sự trưởng thành trong đức tin của con trẻ cũng có sự góp phần đáng kể của hai ông bà. Sau khi tìm được con trong đền thờ, trước câu trả lời của con: Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha con sao?” (Lc 2,49), thì dù không hiểu, hai ông bà vẫn im lặng đón nhận. Chúng ta có thể khẳng định rằng đã có sự tin cậy giữa con trẻ với hai ông bà. Khi sinh thời, đi rao giảng tin mừng Chúa Giêsu thường nhấn mạnh đến lòng tin như là điều kiện ắt có để có thể đón nhận Người cũng như hồng Người ban tặng.
“Ba là cây nến hồng. Mẹ là cây nến xanh. Con là cây nến hồng. Ba cây nến lung linh.” Một ca từ của nhạc sĩ Ngọc Lễ nói về sự tốt đẹp và thánh thiêng của đời gia đình đã từng được xã hội Việt Nam vinh danh trong một chương trình tất niên đón xuân mới trên truyền hình. Ba cây nến cháy lửa tình yêu. Ba cây nến thắp sáng niềm tin. Hai tiếng gia đình thật thiết thân và ấm tình. Hai tiếng gia đình cần phải ưu ái và gìn giữ. Con Thiên Chúa đã chào đời, làm người từ mái ấm gia đình. Xin Thánh Gia che chở, phù trì các gia đình để với niềm tin và tình yêu, con người mọi thời được lớn lên thành người, thành người con Chúa.
41. Bí quyết gia đình hạnh phúc – AM Trần Bình An
Một đôi vợ chồng người Anh sống ở Herefort đã được nhận giấy chứng nhận từ sách Guinness thế giới về hôn nhân bền vững nhất thế giới. Đó là cụ ông Percy 105 tuổi và cụ bà Florence Arrowsmith 100 tuồi. Vào ngày 1/6/2005, hai cụ kỷ niệm 80 năm ngày cưới. Cụ bà Arrowsmith hóm hỉnh nói: “Chúng tôi rất hạnh phúc khi gắn bó với nhau suốt 80 năm. Điều quan trọng nhất đến giờ chúng tôi vẫn yêu nhau… Từ năm 1925 đến nay, tôi cảm thấy thất vọng, nếu ngày nào ổng không nói với tôi những lời âu yếm.”
Trả lời về bí quyết hôn nhân bền vững của mình, cụ bà Arrowsmith cho biết: ”Chúng tôi ít khi cãi nhau, đôi bên không bao giờ ngại nói lời xin lỗi.” (Theo BBC & Telegraph)
Tình yêu và sự tôn trọng đã nuôi dưỡng đời sống hôn nhân mỹ mãn của ông bà Percy và Arrowsmith. Hôm nay chúng ta mừng lễ Thánh Gia, trình thuật Tin Mừng Luca phác họa đầy đủ chân dung Gia Đình Thánh còn đằm thắm, chứa chan hạnh phúc hơn nữa.
Chia sẻ & Hiệp Nhất
Theo Luật Do Thái, mỗi năm phải đi hành hương Đến Thánh ba lần, Thánh Gia cũng đã tuân thủ giữ điều này thật nghiêm chỉnh. Khi Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, tức là tuổi trưởng thành về mặt tôn giáo theo Do Thái giáo, Người cùng theo Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse lên Đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. Hình ảnh đó nêu lên sự hiệp nhất thân mật trong gia đình, cùng nhau khuyến khích chia sẻ việc đạo, cùng nhau vâng phục và tuân giữ lề luật, và nhất là cùng nhau sốt sáng thờ phượng Thiên Chúa, tôn kính, ngợi khen và cảm tạ.
Yêu thương & Trung tín
Hồn nhiên và hiếu động, Cậu Giêsu tung tăng trong đoàn lữ hành, khiến hai ông bà Thánh Gia, vốn luôn tin cậy nhau, cứ đinh ninh nghĩ Cậu Giêsu đi cùng với đám bà con, hay người quen thuộc. Nên sau một ngày đường, ông bà mới biết lạc mất người con yêu dấu. Tình mẫu tử và phụ tử đã dẩn hai ông bà trở lại Đền Thánh Giêrusalem.
Lo lắng, đôn đáo tìm kiếm, ba ngày sau ông bà mới tìm thấy Cậu Giêsu đang ngồi thảo luận, đối thoại về đạo lý cùng các thầy kinh sư, tại tiền đình trong khuôn viên Đền Thờ. Một hình thức giảng dạy rất gần gũi, bình dân, thân thiện và hiệu quả, mà sau này Người vẫn áp dụng khi đi rao giảng Tin Mừng.
Tình yêu và lòng trung tín là điều kiện tiên quyết xây dựng và củng cố gia đình vững chãi, an vui và hạnh phúc. Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse đã thể hiện lòng yêu thương vô bờ bến với Chúa Giêsu, qua tinh thần trách nhiệm, sự trìu mến, cùng quan tâm, chăm sóc. Thánh Gia hạnh phúc vì luôn có Chúa ở cùng.
Vâng theo Thánh Ý Chúa
Mẹ Maria sửng sốt khi tìm thấy Cậu Giêsu. Mẹ không hề bực bội, nóng giận, hay buồn phiền, la mắng, mà chỉ nhẹ nhàng thắc mắc về hành động bất ngờ của con: “ Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? (Lc 2, 48 – 49) Nhân dịp này, Chúa Giêsu đã mặc khải thiên tính của Người trước Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse và các thầy kinh sư. Người đặt mối quan hệ với Đức Chúa Cha bên trên mối quan hệ gia đình. Người vâng theo Thánh Ý Chúa, để rao giảng Tin Mừng.
Sau này Người còn giải thích rõ ràng về mới quan hệ đặc biệt ưu tiên này: “Phải, ai làm theo ý Cha Ta trên trời người ấy là anh em, chị em và là mẹ Ta vậy” (Mt 12. 50) Và “Mẹ Ta và anh em Ta là những ai nghe và thực hành Lời Thiên Chúa” (Lc 8. 21). Theo như Thánh Gia, một gia đình bình an và hạnh phúc là gia đình có Chúa luôn hiện diện từng giây phút. Cùng nhau hiệp thông thờ phượng và vâng phục Thánh Ý Thiên Chúa, cùng nhau hiệp nhất và chia sẻ mọi sự. Cùng nhau yêu thương và trung tín trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh.
Gia đình Công giáo làm tông đồ bằng “chứng tích.” Phải chứng minh rằng các con được gọi nên thánh và các con có thể sống một đời hôn nhân đẹp lòng Chúa. Các con chia sẻ với các gia đình khác: ân sủng, hạnh phúc, Chúa đã ban cho gia đình các con. Nhìn vào gia đình các con, thiên hạ phải đặt câu hỏi: “Tại sao họ có thể sống hiệp nhất, yêu thương, trung thành với nhau như thế?” (Đường Hy Vọng, 501)
Lạy Cha yêu quý, xin hãy giúp chúng con biến đổi gia đình chúng con thành một Nazareth khác, nơi mà tình yêu, bình an và niềm vui ngự trị. Xin cho gia đình con biết suy niệm nhiều, biết yêu quý Thánh Thể, và rạng rỡ niềm vui.
Xin giúp chúng con sống chung với nhau, trong lúc vui cũng như lúc buồn qua việc cầu nguyện chung.
Xin dạy chúng con nhận biết Chúa Giêsu hiện diện trong mỗi người chúng con, nhất là trong sự đau khổ được ẩn giấu của Ngài.
Xin Thánh Thể Thánh Tâm của Chúa Giêsu biến đổi tâm hồn chúng con nên hiền từ và khiêm tốn như tâm hồn Ngài và giúp chúng con gánh vác trách nhiệm gia đình trong phương cách thánh thiện.
Xin giúp chúng con yêu thương nhau như Thiên Chúa yêu thương chúng con mỗi ngày một hơn; và tha thứ lỗi lầm của nhau như Chúa tha tội cho chúng con.
Xin Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, là nguồn vui của chúng con, cầu cho chúng con. Xin Thánh Giuse cầu cho chúng con. Xin Thiên Thần Bản mệnh hãy ở với chúng con, xin hướng dẫn và bảo vệ chúng con. Amen. (Mẹ Têrêsa Calcutta)
42. Gia đình là Hội Thánh thu nhỏ
“Chúa Giêsu theo hai ông bà về Nadareth và luôn luôn vâng phục họ”. (Lc 2, 51)
Có một đôi vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc. Chòm xóm xung quanh rất khen ngợi, và người ta đã bầu chọn họ là gia đình gương mẫu, là gia đình hạnh phúc. Nhà báo đến làm một cuộc phỏng vấn. Họ hỏi người chồng: “Nghe nói gia đình của ông bà hạnh phúc nhất vùng này phải không?” Người chồng cười đáp: “Không hẳn thế, nhưng vợ chồng chúng tôi tự thấy với nhau là có hạnh phúc”. “Sao ông dám khẳng định như vậy?” “Chúng tôi là người công giáo; hơn nữa, tôi chưa thấy vợ tôi nặng lời với tôi khi nào, vì thế, tôi không nỡ lòng nào đối xử không tốt với bà ấy”. Nhà báo bèn đến hỏi người vợ; người vợ trả lời: “Vì tôi rất yêu chồng tôi, nên tôi luôn cố gắng nói tốt và làm điều tốt cho chồng tôi”. Hóa ra hạnh phúc gia đình được bảo vệ một cách đơn giản như vậy sao? Ngày hôm nay, chúng ta mừng kính một mẫu gương gia đình tuyệt vời: Gia đình Thánh. Hội Thánh đề cao gia đình này có quá đáng không? Đây là điều hôm nay chúng ta cùng suy niệm.
- Thế giới hôm nay, người ta đặc biệt quan tâm đến gia đình, vì có nhiều nguy cơ làm đổ vỡ hạnh phúc gia đình, ngay cả gia đình công giáo. Ảnh hưởng văn minh vật chất của xã hội ngày hôm nay, do quá chú trọng giá trị bên ngoài, đã làm cho nhiều gia đình mất phương hướng, không biết sống làm sao, cư xử thế nào…. Thực ra, ngày hôm nay hơn bao giờ hết, con người cần có ánh sáng Lời Chúa để hướng dẫn, nhất là giúp cho các gia đình hiểu ý nghĩa và sứ mạng của mình. Đức Thánh Cha Bênêditô 16 nói: “Con cái có quyền có một gia đình như Thánh Gia thất. Gia đình là nơi lý tưởng để mọi người học biết cho đi và đón nhận tình yêu.”
Bây giờ chúng ta hãy xem lại bài sách thánh ngày lễ hôm nay: Thư thánh Phaolô Tông đồ gởi tín hữu Côlôssê (3, 12-21): thánh Phaolô dạy:
Hãy sống hiền hòa, nhẫn nại, tha thứ cho nhau, như chính Chúa tha chứ cho anh em. lấy đức bác ái làm nền tảng; đó chính là mối dây liên kết giữa mọi con cái Chúa.
Ước gì ơn bình an, và Lời Chúa Kitô cư ngụ dồi dào trong anh em. Trong tâm tình tạ ơn, khi ta làm gì nói gì, cũng đều nhân danh Chúa Giêsu Kitô…
Vợ hãy phục tùng chồng; chồng hãy yêu thương vợ. Con cái hãy yêu thương cha mẹ. Cha mẹ đừng dùng uy quyền kẻo con cái nhác đãm.
Trong thư này, thánh Phaolô đã dạy rất xác đáng bổn phận của các thành viên trong gia đình: lấy đức yêu thương làm nền tảng trong việc đối xử – dùng tính nhẫn nại, tha thứ mà cử xử nhau – trong tất cả mọi sự, mọi người cư xử với nhau nhân danh Chúa. Mọi người khi có sự bình an thật sự của Chúa ở cùng, người ta sẽ dễ dàng tha thứ cho nhau; nhất là làm sao người ta nở cư xử cứng cỏi với nhau?
- Gia đình Thánh: Trong Phúc âm không ghi được bao nhiêu về cuộc sống của Gia đình Thánh. Dù vậy Hội thánh vẫn coi Gia đình Thánh chính là mẫu gương tuyệt vời về việc thực hiện những lời dạy của thánh Phaolô trên đây. Gia đình Thánh cũng chính là mẫu gương về việc lấy đức ái làm nền tảng cho gia đình, nhất là dùng đức ái làm dây liên kết với nhau.
Mẹ Maria là một Tạo Vật hoàn hảo của Thiên Chúa. Hiểu rõ chân lý này, chúng ta sẽ hiểu được chân lý tiếp theo: Mẹ là như thế đó, làm sao ta có thể hiểu được, nếu Mẹ không sống đức ái? hoặc không đặt nền tảng gia đình trên đức ái? Nói cách khác, vì Mẹ sống trong tình yêu hiệp thông liên lỉ với Con Mẹ, Đức Giêsu Kitô, nên khi ta nói Mẹ lấy đức ái làm nền tảng của gia đình, xem ra điều đó là thừa; vì tình yêu hiệp thông nơi Mẹ chính là hình bóng của tình yêu hiệp thông vĩnh cữu nơi thiên Chúa.
Còn Thánh Giuse nữa, vị thánh đồng trinh và khiêm tốn hết mực, được gọi là tôi trung của Thiên Chúa, làm sao lại không sống trong tình yêu hiệp thông như Mẹ Maria; có chăng mức độ hiệp thông của Thánh Cả không sao so sánh được với Mẹ Maria thôi. Những điều nói trên không phải là những ý niệm tưởng tượng; đó chính là sự thật thần linh trong Gia đình Thánh. Cũng chính vì lẻ đó mà ta gọi gia đình này là Gia đình Thánh…
- Gợi ý suy niệm
* “Gia đình là một cộng đoàn yêu thương và hiệp nhất, vì gia đình là một tế bào xã hội, một Hội thánh thu nhỏ”. Câu nói trên không hẳn đúng với hết mọi gia đình, nhưng lại hoàn toàn đúng với gia đình Naareth. Chính vì vậy gia đình Nadareth là gương mẫu, là bài học quí giá cho mọi gia đình công giáo. Bầu khí gia đình là môi trường tốt, để đào tạo con người tốt, người công giáo tốt. Chúng ta nghỉ thế nào? Gia đình chúng ta có sẵn sàng muốn và cố gắng sống theo gương gia đình Nadareth không?
(Suy Niệm Phúc Âm Hằng Ngày’ – Radio Veritas Asia)
Cổ tích vùng Rotal mạn Bắc nước Pháp có kể lại một câu chuyện sau đây:
Có một gia đình nọ gồm cha mẹ và một người con sống rất hiệp nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi người ngủ say, một trận giông bão to lớn chưa từng thấy, chỉ trong mấy giờ đồng hồ cả vùng đều lụt lớn, nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi bồng bềnh. Người cha của gia đình cõng vợ trên vai mình và bà vợ tay bế đứa con. Nước càng lúc càng dâng cao, chẳng bao lâu ngập đầu của hai vợ chồng. Dù ngộp thở và vô cùng mệt mỏi, bà mẹ cố giơ cao hai cánh tay nâng cao đứa con lên khỏi mặt nước để đứa bé khỏi chết ngộp. Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết, nhưng chỉ mong có ai cứu được đứa bé khỏi chết. Vừa lúc đó, có một thiên thần bay ngang qua, trông thấy cái đầu bé tí nhô khỏi mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm theo là cả cha mẹ đứa bé. Thế là nhờ yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được thoát nạn.
Có lẽ chưa bao giờ gia đình lại khủng hoảng trầm trọng trong thế giới như chúng ta đang sống hiện nay. Rất nhiều gia đình trong xã hội là những gia đình què quặt, tan nát, nạn ly thân, ly dị và phá thai, và những gia đình chia ly vì chiến tranh, bạo lực, áp bức của các chế độ vô nhân. Những gia đình bất hòa vì nạn thất nghiệp, vì nạn kinh tế khó khăn, eo hẹp hay vì nạn cờ bạc rượu chè, ma túy, thuốc sái và ham mê buông thả trong lạc thú. Vì thế, những người phải trả giá mắc mỏ nhất cho hậu quả của các cuộc khủng hoảng này là con cái, là trẻ em và giới trẻ.
Làm sao con người có thể hạnh phúc tươi vui khi phải sống trong các gia đình như thế? Làm sao thế giới có thể an bình thịnh vượng khi các tế bào nòng cốt của xã hội bị bệnh hoạn như vậy?
Qua ngày lễ Thánh Gia, Mẹ Giáo Hội kêu mời chúng ta suy tư nghiêm chỉnh trở lại ý nghĩa cuộc sống gia đình và đề nghị với chúng ta một mẫu gương, đó là mẫu gương của tổ ấm gia đình Nazareth xưa, gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse.
Chương ba sách Đức Huấn Ca là một bài quảng diễn điều răn thứ Tư của Mười Giới Luật, dạy con cái phải thảo hiếu cha mẹ. Ngoài những lý do luân lý tự nhiên như câu ca dao Việt Nam nêu lên:
“Công cha như núi thái sơn,
nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ kính mẹ cha,
cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
Tác giả sách Đức Huấn Ca còn nhấn mạnh đến lý do tôn giáo nữa. Đó là thái độ sống hiếu với cha mẹ, với những người đã dày công mang nặng đẻ đau, sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Thiên Chúa sẽ nghe lời những người con hiếu thảo khi họ kêu khấn lên Ngài.
Suy tư trên đây là một thí dụ điển hình cho thấy người sống đạo, người đạo đức như tác giả sách Đức Huấn Ca, biết nhìn ra ý nghĩa sâu thẳm siêu việt nằm trong chính cái nhân loại tầm thường của cuộc sống mỗi ngày. Thiên Chúa không xa vời đối với Chúa Giêsu nhưng Ngài luôn hiện diện ngay trong cái tầm thường nhất của mỗi ngày sống chúng ta. Bởi vì Ngài đã đến sống giữa con cái loài người, đồng hành với con người, chia sẻ mọi buồn vui, mọi âu lo khó nhọc của cuộc sống con người. Khi biết nhìn thực tại bằng đôi mắt của lòng tin thì mọi sự trong thế giới hữu hình này đều được biến đổi và nói lên được sứ điệp mà Thiên Chúa muốn nhắn gởi chúng ta: một gia đình trong đó mọi thành phần biết kính sợ Thiên Chúa, biết yêu thương tôn trọng lẫn nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau và sống vì nhau thì sẽ là một gia đình được tràn đầy phúc lành và sức sống thiên linh của Thiên Chúa.
Sự thật này được nêu bật trong Thánh Vịnh 28. Đây là bí quyết tạo hạnh phúc cho gia đình, nhưng rất tiếc cũng là điều rất thiếu sót trong các gia đình của xã hội chúng ta ngày nay. Làm sao gia đình có thể hài hòa hạnh phúc nếu mỗi người chỉ ích kỷ, sống và tìm hưởng thụ cho riêng mình mà không muốn yêu thương, không muốn chia sẻ, không muốn dâng hiến, trao ban và lo lắng cho những người khác. Tình yêu đích thực bao giờ cũng đơm hoa kết trái, và gia đình chỉ là gia đình khi cha mẹ, con cái xum vầy bên nhau.
Một tình yêu không sinh hoa trái là một thứ tình yêu cằn cỗi, què quặt, bất bình thường. Một gia đình không có con cái là một gia đình buồn tẻ và không trọn vẹn. Dĩ nhiên, vì những lý do ngoài ý muốn, gia đình có thể thiếu vắng thành phần này hay thành phần khác, nhưng tình yêu là nhân tố nòng cốt không thể thiếu được. Một cuộc hôn nhân không tình yêu là một cuộc hôn nhân lầm lẫn, bởi vì chỉ có tình yêu chân thành sâu đậm được chăm bón vun xới mỗi ngày mới khiến cho gia đình trở thành tổ ấm hạnh phúc. Còn lấy nhau vì tiền của, vì lợi lộc, lấy nhau vì chức tước và địa vị thì sẽ không bao giờ tạo hạnh phúc cho con người và hôn nhân sẽ đi đến chỗ đổ vỡ. Nhưng tình yêu không chân thành, không thôi thúc cũng chưa đủ để đảm bảo hạnh phúc cho gia đình mà cần phải có những nhân đức Kitô và nhân đức xã hội.
Trong chương III thư gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô khuyên các tín hữu chu toàn các đòi buộc của lòng tin trong cuộc sống thường ngày. Trước khi đề cập đến bổn phận của các thành phần khác trong gia đình, thánh nhân nhắc cho mọi người biết một số các bổn phận căn bản phát xuất tự lòng tin Kitô: Là những người được chọn làm con cái Thiên Chúa, là thành phần sống động của xã hội và là công dân Nước Trời, hơn ai hết người Kitô hữu phải noi gương Chúa Giêsu sống tình yêu thương bác ái trọn vẹn cao độ đến sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người khác. Bởi vì, chính thái độ sống yêu thương là thái độ sống nền tảng cho người Kitô hữu, giúp họ thực sự trở nên giống Thiên Chúa, và là nền tảng của mọi nhân đức khác, đặc biệt là các nhân đức xã hội, nhân bản.
Do đó, thánh Phaolô thôi thúc chúng ta hằng ngày biết mặc lấy tâm tình của lòng thương xót, nhân từ, khiêm tốn, dịu hiền và kiên nhẫn. Tất cả các nhân đức này đều giúp chúng ta duy trì được bầu khí hài hòa trong nội tâm, trong gia đình và giữa cộng đoàn. Bởi vì khi có lòng thương xót và nhân từ, chúng ta sẽ cảm thông với những lỗi lầm thiếu sót và yếu đuối của nhau, và dễ tha thứ cho nhau hơn bắt đầu bằng các thành phần trong gia đình mình, vợ chồng, con cái, họ hàng, bạn bè. Khi khiêm tốn, chúng ta cũng biết nhận ra những tội lỗi, những khuyết điểm, những yếu hèn và thiếu sót của chúng ta chứ không luôn luôn cho mình là phải, là hay, là giỏi, là nhất, và hung hăng chỉ trích lên án và kết tội người khác.
Khi khiêm tốn, chúng ta dễ châm chước cho người khác, vì biết rằng mình cũng như họ thôi, hay đôi khi còn tệ hơn họ nhiều và chúng ta sẵn sàng xin lỗi, sẵn sàng làm hòa, sẵn sàng đền bù sửa chữa. Khi hiền dịu và khiêm tốn, chúng ta không nóng nảy gay gắt với người khác, mà biết chịu đựng mọi thiếu sót, sơ xuất của họ, đồng thời ý thức được rằng người khác cũng đang phải kiên nhẫn chịu đựng những thiếu sót và sai quấy của mình.
Lời Chúa mà chúng ta tâm niệm và cùng với ơn thánh Chúa ban cho mỗi ngày, chúng ta có thể tập được các nhân đức trọn lành này. Sau khi khuyến khích mọi người mỗi ngày hãy mặc lấy tâm tình và tìm sống các nhân đức trên đây, thánh Phaolô đem nguyên tắc xem ra đơn sơ, nhưng thực hiện được cho đúng quả thật không dễ. Đó là mỗi thành phần trong gia đình hãy cố gắng sống bổn phận riêng trong cương vị của mình một cách phù hợp với ý Chúa muốn: “Vợ hãy phục tùng chồng và chồng hãy yêu thương vợ, đừng gắt gỏng với nàng. Còn con cái hãy thảo kính cha mẹ và vâng phục các ngài. Cha mẹ hãy biết khoa sư phạm và rành tâm lý theo kiểu cách dạy dỗ, cư xử với con cái, đừng quá khắt khe đòi hỏi kẻo chúng chán nản ngã lòng”.
Có người coi cái tôn ti trật tự của cuộc sống gia đình như thánh Phaolô trình bày là bất công, kỳ thị và lỗi thời. Vì trong xã hội nam nữ bình quyền, đặc biệt ngày nay trong liên hệ giữa vợ chồng với nhau họ được bình đẳng. Nhưng nếu chúng ta để ý đến nguyên tắc lấy tình yêu thương làm nền tảng cuộc sống thường ngày như thánh Phaolô đã nêu bật thì sẽ không có vấn đề nữa. Bởi vì trong yêu thương thì tất cả mọi người đều như nhau, không có phân chia ngôi vị. Nói như thế không có nghĩa là cuộc sống gia đình sẽ không bao giờ gặp khó khăn hay khủng hoảng, nhưng có nghĩa là cho dù có gặp những khủng hoảng, khó khăn trầm trọng đến thế nào đi nữa, nếu mỗi thành phần gia đình đều có tình yêu thương đích thật thì tất cả đều được san bằng trong yêu thương hợp nhất. và nếu sống tình yêu thương đó cách cụ thể thì sóng gió nào rồi cũng sẽ êm và con thuyền tổ ấm gia đình tiếp tục tiến tới. Sống yêu thương chân thành quảng đại vô vị lợi không phải là chuyện dễ, nhưng là điều có thể làm được và cần phải làm nếu chúng ta muốn tạo dựng hạnh phúc cho chính mình và cho người khác.
Sự thật này được minh chứng trong trình thuật Phúc Âm thánh Luca chương II: Sự thường mười hai tuổi vẫn là lứa tuổi thiên thần dễ thương và dễ mến nhất. Trong dịp cả gia đình đi hành hương ở Jérusalem hôm ấy, Chúa Giêsu đã khiến cho thánh Giuse và Mẹ Maria một lần phải rụng rời tay chân, khi Chúa Giêsu tự ý ở lại trong đền thờ mà không nói gì với hai người. Sau ba ngày hớt hải kiếm tìm và hỏi han khắp nơi, hai ông bà cảm thấy con đang đàm đạo đối chất với những tiến sĩ luật trong đền thờ.
Câu trách móc nhẹ nhàng của Mẹ Maria cho thấy tất cả tình yêu thương hiền dịu của Mẹ và của Thánh Giuse đối với Chúa Giêsu là một lời trách móc đầy yêu thương kính trọng. Sự im lặng của thánh Giuse thật vô cùng ý nghĩa: nó vừa tỏ nỗi lo âu một cách thầm kín, vừa cho thấy thái độ của thánh nhân tôn trọng tự do của Chúa Giêsu và biết chấp nhận sự kiện không thể giải thích được. Bởi vì thánh nhân biết chắc phải có lý do nào kín ẩn lắm mới khiến cho một người con ngoan ngoãn tuyệt diệu như Chúa Giêsu có thái độ hành xử này.
Câu trả lời lạ lùng của Chúa Giêsu giải thích cho hành động bất thường ấy đã minh chứng cho thấy tuy còn nhỏ tuổi, Chúa Giêsu đã ý thức được sứ mệnh và nguồn gốc của mình. Chúa Giêsu thuộc về một thế giới và có sứ mệnh phải chu toàn mà ít người có thể hiểu nổi, kể cả Mẹ Maria và thánh Giuse. Tuy không hiểu được câu trả lời của Con, Mẹ Maria ghi nhớ kỹ mọi sự và suy niệm trong lòng. Cuộc suy gẫm ấy sẽ lâu dài và đau đớn, và Mẹ chỉ hiểu được mầu nhiệm đó khi đứng dưới chân Thập Giá của Người Con trong ngày Chúa Giêsu tử nạn vì yêu thương.
Sau biến cố kể trên, Chúa Giêsu lại theo Cha Mẹ về Nazareth, lớn lên trong khôn ngoan, tràn đầy ơn thánh, yêu thương tuân phục các Ngài cho tới ngày công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ.
44. Gia đình mẫu mực cho mọi gia đình.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nếu có ai đặt câu hỏi: gia đình nào xứng đáng là mẫu mực cho mọi gia đình khác noi theo, thì câu trả lời không gì khác hơn là thánh gia thất Nadarét.
Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse đã cùng nhau xây nên một gia đình rất đẹp, rất thánh thiện và gương mẫu nhất đời.
Thành viên thứ nhất: thánh Giuse, người công chính.
Là người công chính, thánh Giuse đã không hành động cách nông nổi điên cuồng như bao thanh niên khác khi thấy người bạn trăm năm của mình mang thai trước khi về chung sống. Ngài đã xử sự đầy bao dung, quảng đại và khôn ngoan. (Mt 1, 19)
Thánh Giuse là một người cha luôn mau mắn phục vụ gia đình không quản khó nhọc, không quản ngày đêm: “Đang đêm, sứ thần hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ và bảo: “hãy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai-cập”, thì thánh Giuse tức tốc thi hành (Mt 2, 13-14). Rồi sau khi đã an cư lạc nghiệp bên Ai-cập, sứ thần Chúa lại báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en”, thánh Giuse mau mắn thi hành không do dự. (Mt 2, 19 # 21)
Thánh Giuse là người lao động cần cù để nuôi dưỡng gia đình. Ngài chuyên chăm làm nghề mộc đến nỗi nói đến bác thợ trong làng Nadarét thì người ta nghĩ ngay đến thánh Giuse. Khi người Nadarét gọi Chúa Giêsu là con bác thợ, ai chẳng biết bác thợ đó là thánh Giuse. (Mt 13, 55).
Thành viên thứ hai: Mẹ Maria, một người Mẹ tuyệt vời.
Một người Mẹ trổi vượt về khiêm nhường. Cho dù được sứ thần Gabrien gọi là “Đấng đầy ơn phúc” (Lc 1, 28), được bà Ê-li-sa-bét ca ngợi là người có phúc hơn mọi người nữ; (Lc 1, 42) thì Mẹ vẫn nhận mình chỉ là “nữ tì hèn mọn” (Lc 1, 48).
Một Người Mẹ đầy lòng yêu thương và phục vụ: khi vừa hay tin người chị họ cao niên được Chúa cho cưu mang con trai trong tuổi già, Mẹ tất tả lên đường tiến lên miền núi, tìm đến nhà bà Ê-li-sa-bét để chúc mừng và ở lại phục vụ người chị họ cao niên trong thời gian thai nghén và sinh nở ròng rã ba tháng trời.
Mẹ là người luôn quan tâm đến niềm vui và hạnh phúc người khác, thế nên khi dự tiệc cưới tại Ca-na, dù không phải là người nhà, Mẹ là người đầu tiên phát hiện tiệc cưới thiếu rượu và đã tìm cách chữa cháy cho sự việc nầy. (Ga 2, 3)
Là người Mẹ rất mực hiền lành, nên dù phải nôn nao, lo lắng, cực lòng tìm con suốt ba ngày ròng, khi gặp được con, Mẹ vẫn giữ được sự dịu dàng hiếm có: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”
Thành viên thứ ba: Chúa Giêsu.
Dù là Thiên Chúa Ngôi hai, Chúa Giêsu đã trở thành một người con hết lòng yêu thương và phục vụ cha mẹ trần thế. Trong ba mươi ba năm ngắn ngủi sống thân phận con người, Ngài đã bỏ ra đến ba mươi năm, tức 9/10 cuộc đời, để cùng với Mẹ Maria và thánh Giuse xây dựng gia đình Nadarét. Ngài đã đổ mồ hôi với công việc lao nhọc hằng ngày để nuôi dưỡng phục vụ Đức Mẹ và thánh Giuse cho đến tuổi ba mươi mới lên đường thi hành sứ mạng.
Dù là Thiên Chúa quyền năng nhập thể, nhưng Chúa Giêsu luôn tỏ ra là một người con hiếu thảo với cha mẹ trần gian. Thánh Luca tóm tắt cuộc sống tại gia của Ngài như sau: “Người hằng vâng phục cha mẹ… ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2, 51-52)
***
Thiên Chúa đã thiết kế và xây dựng một ngôi nhà rất đẹp, rất ấm cúng và thánh thiện là gia đình Nagiarét. Thiên Chúa nhận thấy đây là một mẫu nhà đẹp nhất nên Ngài mời gọi chúng ta dựa trên mô hình đó để dựng xây gia đình mình y như vậy.
Xây dựng gia đình mình theo mẫu nhà Nadarét là mọi người trong gia đình phải đối xử với nhau như ba Đấng trong thánh gia nầy, cụ thể là chồng phải yêu thương và phục vụ vợ con như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ Đức Mẹ và Chúa Giêsu; người vợ phải yêu thương và săn sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến và phục vụ thánh Giuse và Chúa Giêsu; cha mẹ phải yêu mến và chăm lo cho con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu; con cái trong gia đình phải hiếu kính mẹ cha, biết thờ cha kính mẹ, phụng dưỡng cha mẹ như Chúa Giêsu đã làm đối với Đức Mẹ và thánh Giuse.
***
Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình, nhắn nhủ: “Thiên Chúa đã tự đồng hoá với người cha, người mẹ, người con trong gia đình… Những gì mà các thành viên trong gia đình làm cho nhau là làm cho chính Chúa”.
Thế là phần thưởng đời đời sẽ được Chúa Giêsu ưu ái trao tặng cho các thành viên gia đình biết yêu thương phục vụ lẫn nhau.
Và thế là một phần thưởng vô cùng quý báu đang nằm trong tầm tay mọi người.
45. Những thánh gia Nagiarét thời đại mới.
(Suy niệm Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có họ đạo nghèo ở vùng duyên hải miền Trung có tên gọi là Thánh Gia. Sở dĩ đặt tên như vậy là vì họ đạo nầy chọn Thánh Gia Nagiarét làm bổn mạng.
Phía bên hông nhà thờ họ đạo có một hang đá khá lớn, có bộ tượng hang đá bằng thạch cao to bằng tầm vóc người trưởng thành.
Hằng năm vào dịp lễ Thánh Gia, bổn mạng của giáo xứ, theo một truyền thống đã có từ lâu đời, sau khi lễ tan, các gia đình trong giáo xứ tập trung đông đảo chung quanh hang đá cầu nguyện với thánh gia thất và mỗi gia đình cử ra một vị đại diện tuần tự tiến lên theo hàng đôi đến trước bộ tượng hang đá, dâng lên Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse những bông hoa thắm tươi và thơm ngát để tỏ lòng tôn kính mến yêu của mình.
Thế rồi một biến cố đau lòng xảy ra trong dịp trước giáng sinh năm ấy, một nhóm trẻ tinh nghịch từ làng bên vì có thù hận với nhóm trẻ trong xóm đạo, đã kéo đến vào ban đêm đập phá bộ tượng hang đá vỡ ra nhiều mảnh.
Sự việc nầy khiến cho nhiều người hoang mang và bối rối!
Biết làm sao bây giờ, khi ngày lễ thánh gia đã gần kề? Tìm đâu ra bộ tượng ba Đấng mới thế vào bộ tượng đã bị phá tan? Nghi lễ dâng hoa cho ba Đấng vào mỗi dịp lễ Thánh Gia là một nghi lễ truyền thống đã được thực hiện xuyên suốt từ hơn trăm năm qua, không có năm nào bỏ qua, lẽ nào năm nay không tổ chức được?
Vì giáo dân trong xứ quá nghèo, Cha xứ và hội đồng mục vụ không thể huy động đủ tiền để đặt làm bộ tượng mới và dù có huy động đủ tiền cũng không thể đặt một bộ mới trong khi thời gian đã cận kề.
Trước tình thế đó, Cha Xứ có một sáng kiến táo bạo: Ngài cho mời đôi vợ chồng mới sinh đứa con trai đầu lòng được chừng tháng tuổi và mới được rửa tội mấy ngày trước, mặc y phục truyền thống thật chỉnh tề, đóng vai Đức Mẹ, thánh Giuse và Chúa Giêsu thay cho bộ tượng hang đá bằng thạch cao đã bị hư hại. Ngài sắp xếp cho cặp vợ chồng quỳ bên trong hang đá, chầu hai bên đứa con thơ ở giữa họ và kêu mời đại diện các gia đình trong giáo xứ tiến lên theo hàng đôi dâng hoa cho ba vị nầy.
Sáng kiến nầy đã làm cho một số người trong họ đạo cảm thấy bị sốc. Họ cho rằng làm như vậy là quá đề cao gia đình người tín hữu và xúc phạm đến ba Đấng thánh.
Cha Sở cố gắng diễn giảng cho họ như sau:
Khi đề nghị gia đình anh chị Năm đóng vai Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu thế chỗ cho bộ tượng ba Đấng bằng thạch cao bị hư, chúng ta không làm gì xúc phạm đến ba Đấng thánh, nhưng chúng ta xem gia đình anh chị Năm đây là hình ảnh rất trung thực và cao quý về Thánh Gia của Chúa Giêsu.
Lâu nay, chúng ta quen nhìn hình tượng ba Đấng bằng thạch cao, bằng xi măng hay bằng nhựa dẻo, và chưa quen nhìn hình tượng ba Đấng bằng xương bằng thịt có sự sống, có linh hồn, có lương tri, có trí tuệ như anh chị Năm đây, nên chúng ta cảm thấy bị sốc.
Nhưng xin quý ông bà hiểu điều nầy:
Thứ nhất: mỗi một người tín hữu đều có phẩm giá rất cao và được gọi là thánh. Thánh Phaolô gọi các tín hữu thuộc các giáo đoàn (nay gọi là giáo xứ) là thánh. Họ được hiến thánh nhờ bí tích thánh tẩy. Nhờ bí tích nầy họ trở thành chi thể, thành thân mình Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô nói: “Nào Anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?” (1Cr 6, 15)
Ngoài ra, các tín hữu còn được Chúa Giêsu cho trở nên cùng một xương thịt với Người, được thông dự vào sự sống của Thiên Chúa, được thông phần bản tính Thiên Chúa nhờ đón nhận bí tích Thánh Thể.
Như vậy, không có một sản phẩm nào do tay người phàm làm ra dù bằng thạch cao, bằng gỗ, bằng đá hay bằng kim loại quý như bạc như vàng… xứng đáng được chọn làm hình ảnh của Chúa Giêsu, của Mẹ Maria, của thánh Giuse cho bằng chính mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Thứ hai: Hội Thánh công giáo xưa nay vẫn nhìn nhận gia đình của Kitô hữu là gia đình thánh nên Giáo Hội quen gọi đó là những hội thánh tại gia.
Chúa Giêsu còn lập bí tích hôn nhân để thánh hiến đời sống vợ chồng. Thế nên không gì thích hợp cho bằng chọn gia đình Kitô hữu làm biểu tượng cho thánh gia Nagiarét.
Sau khi hiểu được những điều cha xứ giải thích, mọi người vui vẻ dâng những đoá hoa thật đẹp thật tươi cho anh chị Năm được cử đóng vai thánh gia Nagiarét.
Rồi qua những năm sau, nhiều người trong giáo xứ đều thấy thật là thích hợp và đầy ý nghĩa khi chọn một gia đình công giáo trong họ đạo đóng vai thánh gia Nagiarét thay vì dùng bộ tượng thạch cao, nên cộng đồng giáo xứ thoả thuận với nhau rằng: đôi vợ chồng nào mới sinh con và được rửa tội sớm nhất trong tháng 12 dương lịch thì sẽ được chọn đóng vai thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Giêsu để cho giáo dân kính viếng. Và cũng từ lúc đó, thay vì dâng hoa cho ba Đấng như trước đây, người ta dâng cho em bé trong vai Giêsu những hộp sữa; dâng cho người mẹ trong vai Maria những cuộn chỉ, những chiếc kim, chiếc kéo; dâng cho người cha trong vai Giuse những dụng cụ làm việc nho nhỏ như những chiếc kìm, chiếc búa, cái đục, cái bào…
Từ sự kiện nầy, các gia đình tín hữu trong xứ đạo đều ý thức mình là những thánh gia Nagiarét thời mới. Các đôi vợ chồng trong các gia đình luôn trân trọng và yêu quý nhau như tương quan giữa Mẹ Maria và thánh Giuse. Cha mẹ biết chăm lo giáo dục con cái như Mẹ Maria và thánh Giuse đã thực hiện với Chúa Giêsu năm xưa. Con cái luôn vâng phục và thảo hiếu với mẹ cha như Chúa Giêsu đã làm đối với thánh Giuse và Đức Mẹ. Niềm vui, hạnh phúc và đời sống thánh thiện chan hoà trong các gia đình.
Ngoài ra, tương quan giữa các gia đình trong giáo xứ được cải thiện đáng kể vì ai nấy đều biết tôn trọng những gia đình khác vì xác tín rằng đó thực sự là những thánh gia.
46. Thánh gia, gương sáng của tin yêu.
(Suy Niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
Lần giở lại những trang đầu của sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy gia đình đầu tiên của nhân loại đã được Chúa chúc phúc. Họ đã có những ngày tháng thật hạnh phúc bên nhau và bên Chúa. Giữa Thiên Chúa và con người không có khoảng cách, chỉ có tình thân hữu thật thơ mộng mà Thánh kinh đã diễn tả: “chiều chiều Thiên Chúa tản bộ đi cùng con người trong vườn địa đàng”. Thế nhưng gia đình đó đã bị rạn nức và bị đổ vỡ. Nguyên do của sự đổ vỡ chính là họ chối từ Thiên Chúa, hành vi Adam – Eve giơ tay lên hái trái cấm là hành vi nói lên con người muốn gạt Thiên Chúa ra bên ngoài, muốn loại trừ Thiên Chúa nên con người cũng loại trừ và kết án lẫn nhau. Adam đã kết án vợ mình: “Tại người đàn bà này mà tôi đã ăn trái cấm”. Hậu quả của việc bất tuân phục Thiên Chúa là đau khổ và sự chết đã đi vào trần gian.
Nhưng, cho dù con người có ngàn lần phản nghịch, Chúa vẫn yêu thương con người, Chúa vẫn tìm đến để cứu chuộc con người và phục hồi lại giá trị của hạnh phúc gia đình thuở ban đầu. Thiên Chúa đã mang xác phàm để ở giữa chúng ta. Ngài đã sinh ra trong một gia đình, lớn lên trong một gia đình, và chính Ngài đã thánh hoá gia đình đó trở thành gia đình thánh, mẫu gương cho các gia đình noi theo. Đó là một gia đình luôn biết tuân phục Thiên Chúa, luôn phó thác cậy trông vào Chúa. Gia đình đó có thánh Giuse đã vì Chúa mà đón nhận Maria về làm bạn mình, đã vì Chúa mà lận đận vượt trăm ngàn nguy khó để bảo vệ sự sống cho hài nhi và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Gia đình đó có Đức Maria, một người Mẹ của cầu nguyện và hy sinh. Mẹ đã phó thác hoàn toàn cho thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa. Mẹ đã tận hiến đời mình như một nữ tỳ nhỏ bé để phụng sự Thiên Chúa. Gia đình đó còn có Chúa Giêsu, một người con hằng yêu mến cha mẹ, càng lớn càng khôn ngoan, hằng đẹp lòng Thiên Chúa và người ta.
Và cho đến hôm nay, mỗi khi chúng ta thấy có những người cha, người mẹ biết sống tôn thờ Thiên Chúa là họ đang để cho Chúa canh tân, gìn giữ gia đình. Họ đang vui với phận mình trong niềm tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Họ có thể nghèo khó nhưng tấm lòng họ lại thanh thoát, không gian tham của người. Họ có thể lam lũ, một nắng hai sương nhưng tấm lòng họ lại thanh cao như đóa sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Họ vì Chúa mà đón nhận nhau trong yêu thương tha thứ, không chỉ một lần mà trải rộng mọi ngày cho đến suốt cuộc đời. Họ là những gia đình thánh gia cho thời đại hôm nay. Họ vẫn tiếp tục nêu gương sáng trong bổn phận, trong đời sống thanh cao và giầu lòng quảng đại.
Song le, giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người chồng, người cha đang bê tha rượu chè, đang ngoại tình lang chạ, đang đánh mất niềm tin với Thiên Chúa nên cũng bỏ bê gia đình. Giữa giòng đời hôm nay vẫn còn đó những người vợ đang bất tín, bất trung, đang thiếu trách nhiệm và hy sinh cho gia đình, vì họ không còn niềm tin nơi Chúa nên cũng chẳng còn hy sinh cho nhau. Giữa giòng đời hôm nay, vẫn còn đó những người con đang lao vào những danh lợi thú trần gian mà lãng quên tình Chúa nên cũng xem thường tình cha, nghĩa mẹ.
Thực vậy, nếu trong cuộc đời này không còn ai tin tưởng vào Thiên Chúa, không còn ai tin vào đời sau, có lẽ sẽ chẳng còn ai dám hy sinh cho gia đình, hy sinh cho tha nhân. Không có đời sau thì người ta sẽ sống vì mình, vì hạnh phúc của mình, vì đam mê của mình mà chà đạp người khác và thiếu trách nhiệm với tha nhân.
Nguyện xin Thánh gia nâng các gia đình đang gặp những khó khăn thử thách. Xin cho các gia đình công giáo biết noi gương thánh gia để sống hy sinh cho nhau và cùng nhau xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Trước đây, có nhiều người tưởng lầm rằng: nói đến ơn kêu gọi nên thánh là nói đến giới tu hành, còn đời sống hôn nhân và gia đình chẳng qua chỉ là một lối đi tầm thường. Không phải như vậy, ngày nay không ai quan niệm như thế nữa. Đời sống hôn nhân và gia đình thì thông thường chứ không tầm thường. Hơn nữa, phải nói là nó rất cao quý, đáng cho loài người cúi đầu cảm phục và biết ơn. Công Đồng Va-ti-ca-nô II đã nói rõ: “Ơn gọi nên thánh là ơn gọi chung của mọi Ki-tô hữu và hôn nhân là phương tiện để con người triển nở và đáp lại lời mời gọi nên thánh. Lấy nhau là để giúp nhau trưởng thành trong tình yêu Chúa. Lấy nhau là để cùng nhau và nhờ nhau mà nên thánh. Nhiệm vụ trần thế quan trọng nhất của mỗi người giáo dân chính là thánh hóa gia đình mình”. Lễ Thánh Gia là một dịp tốt để chúng ta nhìn lại mẫu gương cao quý và hoàn hảo của Thánh Gia, đồng thời suy nghĩ và kiểm điểm lại gia đình của chúng ta.
Thiên Chúa làm người cứu chuộc nhân loại đã chọn gia đình làm nơi sinh trưởng. Chúa Cứu Thế là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria, thuộc gia đình lao động ở Na-da-rét. Ngài đã sống âm thầm trong gia đình và vâng phục cha mẹ trong 30 năm. Như thế, để mở đầu công cuộc cứu chuộc, Thiên Chúa đã ban cho thế gian một mẫu gương gia đình cao quý và hoàn hảo nhất do Thiên Chúa thiết lập. Người ta có thể tìm thấy nơi gia đình tuyệt vời này một tấm gương trọn hảo cho các gia đình. Đó là gia đình Na-da-rét, nơi mà Chúa Cứu Thế đã sống ẩn dật với Mẹ đồng trinh Maria và cha nuôi thánh đức Giuse. Các Ngài đã chu toàn trách vụ làm cha mẹ đối với Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu cũng hết lòng hiếu thảo đối với các ngài.
Gia đình thánh này đã trở thành gương mẫu về mọi nhân đức cho các gia đình. Tất cả mọi nhân đức, mọi đức tính người ta đều thấy có nơi gia đình thánh này, như tương thân tương ái, lễ giáo thánh thiện, hiếu thảo trọn vẹn. Các người cha chắc chắn tìm học được nơi thánh Giuse một mẫu mực khôn ngoan, quán xuyến và tiên liệu trong chức vụ làm cha và gia trưởng của gia đình. Các bà mẹ tìm thấy nơi Mẹ Maria một tấm gương chói sáng về tình yêu, đức nết na, đức tin trọn hảo, hết lòng tùng phục và khiêm tốn. Những người con học được với Chúa Giêsu đức vâng lời, lòng tôn kính, biết ơn và bắt chước cha mẹ trong việc mến Chúa yêu người. Những người quý phái hãy học với gia đình hoàng tộc này về đức tiết kiệm, phong độ và danh giá trong mọi cơn thử thách. Những người giàu có hãy học cùng gia đình này tìm kiếm nước trời trước, mộ mến các nhân đức hơn là của cải trần gian. Những người lao động nghèo khó hãy vui mừng và hãnh diện vì những vất vả nghèo hèn của mình đã được Thánh Gia chia sẻ; những lo âu về cuộc sống hằng ngày đã được Thánh Gia hiểu biết và thông cảm. Thánh Giuse đã phải lao lực mới kiếm đủ cơm bánh nuôi vợ con. Những bàn tay của Chúa Giêsu đã phải cực nhọc với những dụng cụ thợ mộc. Những trằn trọc, thao thức, lo âu hòa trong mồ hôi của Mẹ Maria để dọn những tấm bánh ngon, những manh áo lành cho chồng con. Tóm lại, người ta không thể tìm đâu được gương mẫu gia đình hoàn hảo cho các gia đình bằng Thánh Gia. Hoặc như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói: “Thánh Gia Na-da-rét là trường dạy cho người chồng, người vợ, người cha, người mẹ và con cái biết sống đúng địa vị, chức năng và nhiệm vụ của mình trong gia đình”.
Nhìn về chúng ta, chắc chắn ai trong chúng ta cũng mong muốn có được một gia đình hạnh phúc, trong đó vợ chồng, cha mẹ, con cái vui sống đầm ấm, yêu thương chan hòa. Những mẫu gia đình như thế giống như trái chín treo trên cành cao, muốn hái được chúng ta cần phải không ngừng vươn lên. Nói rõ hơn, muốn có được một gia đình êm ấm và vững chắc, mọi người trong gia đình phải dùng trí óc, con tim và đôi tay để cùng nhau xây dựng, nhất là phải biết tôn trọng nhau và thánh hóa lẫn nhau, đồng thời biết hy sinh cho nhau. người ta thường nói: “Muốn cho đàn gà tranh nhau, hãy rải thóc cho chúng ăn. Còn muốn cho hai người đoàn kết với nhau, hãy bắt họ kéo chung một khúc gỗ”. Một gia đình mà mọi người càng cộng tác với nhau thì càng thương nhau. Cũng như người cha, người mẹ nào càng cực khổ vì con, càng yêu con hơn thì con cái cũng thương cha mẹ nhiều hơn. Cũng thế, đôi vợ chồng nào càng hy sinh cho nhau lại càng yêu nhau đậm đà. Trái lại, nếu trong gia đình thiếu sự cởi mở, cảm thông, tương trợ lẫn nhau, thì bầu khí gia đình trở nên tẻ nhạt, nặng nề, căng thẳng, mỗi người trở nên ít nói, thích sống riêng tư, khiến gia đình thành một nơi buồn chán, xa lạ, trong khi ở những môi trường khác, họ lại hoạt động vui vẻ và tích cực hơn. Không thể kéo dài tình trạng gia đình mãi như vậy. Mỗi người trong gia đình phải góp một phần làm thay đổi bầu không khí đó. Cha mẹ chịu khó lắng nghe con cái một chút và cảm thông với những khó khăn và suy tư của chúng. Con cái cũng chịu khó nhìn về thế hệ trước để dung hòa với cha mẹ. Anh chị em hãy thân nhau hơn, thương nhau hơn, để cùng dẫn dắt nhau, đỡ trách nhiệm cho cha mẹ. Muốn thế, đòi hỏi mỗi người trong gia đình một sự nhẫn nại, chịu khó hiểu nhau và hy sinh cho nhau. Yêu nhau tất nhiên phải chịu khổ vì nhau, và ngược lại, càng hy sinh chịu khổ gánh vác cho nhau, tình thương lại càng thắm thiết sâu xa hơn.
Erma Bombeck là một nhà viết nhật ký. Bài viết của cô đã được đăng tải trên 900 tờ báo khắp nước Mỹ. Cũng giống như những nhà bình luận, cô nhận được rất nhiều lá thư của các độc giả.
Đây là đoạn trích thư của một người mẹ: “Cho dù là tòa đã phán quyết đứa con trai của tôi, nhưng tôi thì vẫn không. Nó là đứa con của tôi, làm sao mà tôi có thể phán quyết nó chứ? Tôi cầu nguyện cho nó; tôi khóc thương nó; tôi khuyến khích nó. Và trên hết, tôi yêu thương nó. “
Đây là một ví dụ khác, dựa trên lá thư của một em bé 12 tuổi. Em viết: “Tôi là một bà mẹ thay thế. Khi người mẹ của tôi làm việc tại nhà hàng, thì tôi phải trông coi ba người em của tôi. Tôi phải lo vệ sinh cho chúng nó. Tôi lau nước mũi cho chúng. Tôi cho chúng ăn. Tôi đưa chúng vô giường ngủ. Tôi làm tất cả mọi việc mà người mẹ thật của tôi làm. Tuy nhiên, thay vì cám ơn tôi, các em của tôi đã ghét tôi. Một đôi lúc, tôi mong được chết đi. Tôi đã có ý định bỏ nhà ra đi, nhưng tôi không biết đi đâu và sẽ làm gì. Khi tôi lớn lên, tôi không muốn làm một người mẹ, bởi vì đó là một cái nghề tệ nhất trên trái đất này. “ (Based on Erma Bombeck, Motherhood: The Second Oldest Profession).
Hai ví dụ ở trên đều đưa đến một điểm giống nhau, đó là cho dù làm bậc cha mẹ hoặc làm bậc con cái trong gia đình đều không phải là dễ. Một đôi lúc, nó thật là nhức nhối.
Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy rằng, cho dù là Gia Đình Thánh Gia cũng chẳng ngừa được cái đau khổ tương tự.
Thí dụ, Mẹ Maria và Thánh Giuse đã phải đau khổ khi lạc mất con. Sự đau khổ cũng không giảm bớt khi họ tìm thấy Chúa Giêsu. Mẹ Maria đã nói với Chúa Giêsu: “Con ơi, sao con lại làm cho chúng ta như thế? Kìa cha con và mẹ đây, đã đau khổ tìm con. “
Chúa Giêsu trả lời: “Mà tại sao tìm con? Cha mẹ không biết rằng con phải lo công việc của Cha con ư?”
Đó là một câu trả lời đau khổ cho câu hỏi của Mẹ Maria. Mẹ Maria đã phản ứng thế nào?
Mẹ đã không chạm trán với Chúa Giêsu, hoặc bắt Ngài phải giải thích. Mẹ chỉ đơn giản để những lời đó vào trong lòng và suy ngẫm. Phúc Âm viết: “Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói… Maria, Mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng” (Lc 2:48-51)
Một đôi lúc, giữ thinh lặng là cách duy nhất để giải quyết những cơn giận dữ. Erma Bombeck viết trong cuốn “Tình Mẹ”: “Tôi cho rằng mỗi một người con đều nhớ một đức tính đặc biệt nào đó về người mẹ của mình. Đức tính đó có thể là một sự khôn ngoan cứu giúp người con khỏi cảnh nguy hiểm, hoặc là một lời nói chỉ đường để giúp người con đạt tới mục đích cách dễ dàng. Riêng tôi, tôi yêu mẹ của tôi, bởi vì trong mọi lúc bà ấy chẳng nói điều gì hết. “
Để có thể giữ thinh lặng trong khi bên trong nội tâm của mình sôi sùng sục đòi hỏi rất nhiều sự tự chủ. Tuy nhiên, cũng có lúc những thinh lặng nói lớn hơn là những lời nói phát xuất từ miệng lưỡi.
Nếu vai trò của Mẹ Maria trong gia đình Thánh Gia không phải là một chuyện dễ dàng, thì vai trò của Thánh Giuse cũng chẳng thua kém gì.
Một người giảng phòng đã kết thúc bài giảng của ngài với các ông bố như sau: “Thánh Giuse là mẫu gương cho tất cả mọi người chúng ta. “
Sau cuộc nói chuyện, một ông bố đã tiến lên vị giảng phòng và nói: “Với tất cả lòng tôn kính, thưa cha, trường hợp của Thánh Giuse thì khác hẳn với chúng tôi, những người bố bình thường. Thứ nhất, Ngài là một vị thánh. Thứ hai, vợ của Ngài vô nhiễm tội lỗi. Thứ ba, người Con của Ngài là Con Thiên Chúa. Tôi không phải là thánh, vợ của tôi thì tội lỗi, và con của tôi không phải là Con Thiên Chúa.”
Vị giảng phòng trả lời: “Điều ông nói đúng, nhưng tôi xin thành thật hỏi ông thế này. Vợ của ông có phải là có thai trước khi đám cưới, mà ông không biết tại sao không? Hoặc là con của ông có khi nào bỏ nhà ra đi ba ngày mà ông không biết nó đi đâu không? Cả hai điều này đã xảy ra với Thánh Giuse. “
Chúng ta thấy rõ, cho dù là một gia đình thánh thiện cũng không tránh khỏi sự khó khăn.
Chúng ta xin Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse phù hộ chúng ta sống thánh thiện yêu thương, noi gương Thánh Gia Nazarét.
Trong một cuộc thăm dò về gia đình, người ta đã đưa ra một câu hỏi như thế này:
– Khi dẫn con vô tiệm ăn, bạn có cảm thấy thoải mái khi yêu cầu chúng làm dấu thánh giá và đọc kinh trước khi ăn hay không?
Câu hỏi này khiến chúng ta phải lưu ý tới một trong những vấn đề quan trọng, đó là sự cầu nguyện trong gia đình. Thực vậy, đời sống cầu nguyện trong gia đình phải được thực hiện dưới ba hình thức khác nhau.
Hình thức thứ nhất đó là cầu nguyện riêng tư.
Mỗi người trong gia đình phải cầu nguyện riêng với Chúa. Chẳng hạn người cha cầu nguyện khi đi đến công sở, người mẹ cầu nguyện khi chăm sóc đứa con đau yếu, con cái cầu nguyện khi đi đến trường… Có nhiều cách giúp chúng ta cầu nguyện riêng. Chẳng hạn như kinh Lạy Cha, vừa đọc vừa suy gẫm. Cũng có thể cầu nguyện bằng cách đọc và suy gẫm lời Chúa trong Thánh Kinh, hay cầu nguyện bằng chính những lời lẽ riêng tư, nói với Chúa như với một người Cha nhân từ.
Chúa Giêsu cũng thường cầu nguyện một mình. Sau một ngày vất vả mệt mỏi thì ban tối Ngài thường lên núi để chìm đắm trong sự kết hiệp với Chúa Cha…
Một trong những món quà quí giá nhất mà cha mẹ có thể trao tặng cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích những giây phút cầu nguyện một mình và không có cách nào thực hiện điều đó tốt hơn bằng chính gương sáng của mình.
Một người ngoại giáo thăm người bạn của mình giữa lúc người bạn ấy đang cầu nguyện. Hình ảnh này đã làm cho người ngoại ấy cảm động và sau đó đã xin nhập Kitô giáo
Hình thức thứ hai đó là cầu nguyện chung trong gia đình.
Chẳng hạn những giờ kinh tối sớm hay trước lúc dùng bữa. Chúa Giêsu cũng thường cầu nguyện như thế. Người Do Thái coi trọng việc cầu nguyện chung trong gia đình, nhất là trước các bữa ăn. Họ thường nói:
– Ai ăn mà không tạ ơn Thiên Chúa, thì đó là kẻ trôm cắp.
Chúa Giêsu cũng thường cầu nguyện trước khi ăn. Chẳng hạn như khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, khi ngồi với các tông đồ trong phòng tiệc ly, hay với hai môn đệ trên đường đi Emmaus.
Một lần nữa chúng ta có thể xác quyết:
– Một trong những món quà quí giá nhất mà cha mẹ có thể trao tặng cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích việc cầu nguyện chung trong gia đình.
Tướng Mac Arthur đã viết như sau: Là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn hãnh diện hơn nữa vì được làm một người cha với niềm hy vọng rằng khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con cái tôi vẫn nhớ đến tôi với hình ảnh ở nhà, khi tôi cùng với chúng đọc lời kinh: Lạy Cha chúng con ở trên trời…
Sau cùng, hình thức thứ ba là cầu nguyện với cộng đoàn, với các gia đình khác trong khu xóm, nhờ đó mà khu xóm trở nên gần gũi, gắn bó, đoàn kết với nhau hơn.
Chúng ta có thể tổ chức những giờ kinh trong khu xóm hay cùng nhau đến nhà thờ để tham dự thánh lễ và các việc đạo đức khác, Chúa Giêsu cũng thường làm như vậy. Khi trở về Nagiarét, Ngài thường đến hội đường để cùng với dân làng đọc Kinh Thánh và cầu nguyện.
Còn chúng ta, chúng ta đã sống tinh thần cầu nguyện ấy như thế nào dưới mái gia đình của chúng ta.
Nếu muốn tìm một gia đình hạnh phúc nhất trần gian, chắc chắn chúng ta phải tìm nơi thánh gia: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Vậy đâu là bí quyết dẫn đến hạnh phúc?
Tôi xin thưa:
– Đó là sự thánh thiện, bởi vì chính đoạn Tin mừng hôm nay đã đem lại cho chúng ta lời giải đáp ấy.
Thực vậy, chúng ta thường hay nghĩ rằng:
– Những con người đặc biệt thì được miễn trừ nhiều việc, kể cả việc tuân giữ lề luật.
Trái lại, bài Phúc âm hôm nay cho thấy thái độ của thánh gia là sẵn sàng vâng phục Thiên Chúa bằng cách tuân giữ những lề luật của Ngài.
Chúa Giêsu thì chịu phép cắt bì. Mẹ Maria thì chu toàn nghi lễ thanh tẩy. Còn thánh Giuse thì nộp tiền chuộc theo như lề luật đã qui định.
Và hơn thế nữa, thánh Giuse cùng với Mẹ Maria hàng năm vốn thường dẫn Chúa Giêsu lên đền thờ, đặc biệt là năm Chúa mười hai tuổi, lứa tuổi chưa bị lề luật đòi buộc. Từ đó chúng ta ghi nhận: cha mẹ đạo đức bao giờ cũng muốn giáo dục con cái mình trở thành những người đạo đức như vậy.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có thể không cần phải tuân giữ luật cắt bì và lên đền thời, bởi vì chính Ngài là đền thờ mà con người phải tôn kính. Mẹ Maria cũng chẳng cần phải chu toàn nghi lễ tẩy uế, bởi vì Mẹ được thu thai và sinh con bởi quyền phép Chúa Thánh Thần, chứ không theo cách thức thông thường.
Thế nhưng, các Ngài đã tuân giữ lề luật, đã phục vụ Thiên Chúa một cách khiêm nhường trong tin yêu.
Việc dâng Chúa trong đền thờ không phải là điều luật buộc, nhưng là một sáng kiến tự nguyện của Mẹ Maria. Mẹ lợi dụng cơ hội chu toàn nghi lệ tẩy uế để dâng con mình cho Thiên Chúa.
Việc thánh Giuse cùng đi nhằm mục đích giúp đỡ hai mẹ con, bởi vì tiền chuộc có thể nộp ở bất cứ chỗ nào. Điều đó cho thấy Mẹ Maria và thánh Giuse luôn ở bên nhau để che chở cho hài nhi Giêsu, nhờ đó tạo nên một mái gia đình đầm ấm, đồng thời còn biểu lộ tinh thần trách nhiệm của những bậc làm cha làm mẹ.
Tiếp đến là những năm tháng dài tại Nagiarét. Cuộc sống của gia đình này không có gì là giàu sang, bởi vì các Ngài cũng đã phải lao động vất vả mới có được chén cơm manh áo, nhưng vẫn ngập tràn hạnh phúc, đầm ấm và thánh thiện, bởi vì giữa Mẹ Maria và thánh Giuse luôn có một chiếc gạch nối là Chúa Giêsu. Ngài chính là trọng tâm của gia đình.
Có năm chàng thanh niên sang Mỹ tìm vàng. Lúc trở về thì bốn người đã trở nên cộc cằn và hung dữ, vì ảnh hưởng của những thiếu thốn và cực nhọc đã phải gánh chịu. Riêng người thứ năm thì vẫn bình thường, vui vẻ và lạc quan. Người ta hỏi:
– Tại sao anh lại giữ vững được tinh thần như vậy?
Anh ta trả lời:
– Sở dĩ như vậy là vì một hình ảnh tôi đã mang theo. Dĩ nhiên không phải là hình ảnh của một cô bạn gái, nhưng là hình ảnh của gia đình tôi vào buổi tối trước khi tôi lên đường. Tối hôm ấy, mọi người đã cầu nguyện và cha tôi đã chúc lành cho tôi. Chính hình ảnh này đã theo tôi trong suốt cuộc hành trình đầy gian khổ.
Noi theo mẫu gương của Thánh gia: chúng ta hãy tuân giữ lề luật của Thiên Chúa và thực tình giúp đỡ lẫn nhau để gia đình của chúng ta sẽ mãi mãi là một mái ấm ngập tràn yêu thương và hạnh phúc.
Tại những quốc gia Âu Mỹ nào chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Kitô thì ngày lễ Giáng sinh ngoài ý nghĩa tôn giáo như là ngày lễ cử hành Mầu Nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Lễ Giáng sinh còn mang ý nghĩa văn hóa xã hội nữa, như là ngày lễ của gia đình, ngày mà mọi thành phần gia đình sum họp bên nhau.
Giáo Hội đã luôn luôn nhắc nhở về mối tương quan giữa mầu nhiệm nhập thể và gia đình. Vì thế, trong chu kỳ phụng vụ luôn luôn cử hành lễ thánh gia đình Nagiarét vào Chúa nhật trong tuần bát nhật Giáng sinh. Giáo Hội muốn đặt gia đình trong ánh sáng của mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa, và gia đình đầu tiên hưởng lấy ơn của mầu nhiệm Giáng sinh là thánh gia đình Nagiarét. Con Thiên Chúa nhập thể làm người nhận lấy một thể xác để thánh hóa mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Ngài nhập thể trong một gia đình tại Nagiarét để thánh hóa thực tại đời sống gia đình.
Sự hiện diện của Chúa trong gia đình là yếu tố căn bản để liên kết mọi thành phần gia đình chung lại với nhau, để thánh hóa tình yêu con người, mặc cho tình yêu phàm trần đó một chiều kích thần thiêng được thấm nhuần trong tình yêu thần thiêng, trong tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu tự nhiên trở thành tình yêu bác ái.
Bài đọc hai trong thánh lễ của Chúa nhật trong tuần bát nhật Giáng sinh được diễn tả như là hiến chương của đời sống Gia đình Kitô: “Hãy để cho Chúa hiện diện trong gia đình. Hãy để cho Lời Chúa cư ngụ dồi dào trong anh em. Hãy đọc Lời Chúa trong gia đình”.
Năm thánh 2000, các Giám mục Việt Nam trong bức thư Mục Vụ chung gởi toàn thể dân Chúa như sau: “Đối với người Việt Nam, gia đình vẫn là rường cột của Giáo Hội và xã hội. Gia đình phải là một Giáo Hội thu nhỏ, nghĩa là nơi lấy sự thật của Tin Mừng làm qui luật sống và làm quà tặng cho cộng đoàn rộng lớn hơn. Gia đình không phải chỉ là đối tượng cho Giáo Hội chăm sóc về mục vụ mà còn là một trong những tác nhân đắc dụng nhất trong công cuộc loan báo Tin Mừng”.
Tông huấn đề ra các phương thế thực hiện như gia đình tham gia vào các sinh hoạt của giáo xứ, lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể và Bí tích Hòa giải, dấn thân phục vụ các gia đình khác. Bậc cha mẹ phải cố gắng biến những giây phút của gia đình qui tụ bên nhau thành cơ hội để cầu nguyện, đọc và suy niệm Sách thánh.
Chúng ta mới cử hành ngày sinh của Hài Nhi Giêsu. Hôm nay, chúng ta mừng toàn thể gia đình của Ngài. Một gia đình mà Giáo Hội muốn đề cao như gương mẫu cho mọi gia đình chúng ta.
Khi nhìn vào gia đình của Chúa Giêsu này và so sánh với các gia đình hôm nay, ta có thể tự nhủ: “Ôi khác biệt quá! Gia đình Chúa Giêsu dồi dào sức khỏe, còn các gia đình hôm nay bệnh hoạn, rất bệnh hoạn!”
Đúng vậy. Các gia đình hiện nay đang đối diện với vô số vấn đề: cha mẹ ly thân, ly dị, tái giá… Những gia đình chỉ có cha hay mẹ mà thôi… Uy tín của người cha hay người mẹ giảm sút kinh khủng… Anh hưởng bên ngoài của xã hội mạnh hơn ảnh hưởng từ chính bên trong gia đình. Giới trẻ hầu như không còn tin tưởng gì nữa… Những người trẻ rời gia đình rất sớm…
Bao nhiêu cha mẹ than vãn về tình trạng hiện nay! Bao nhiêu người cha người mẹ thất vọng vì những gì đã xảy đến trong chính gia đình của họ. Bao nhiêu cha mẹ không còn biết phải nghĩ sao nữa! Quá nhiều lần ta đã nghe nói: “Nếu có thể làm lại được, tôi sẽ không lập gia đình, tôi sẽ không có con, như thế tôi sẽ không phải làm việc cựu nhọc để nuôi nấng một gia đình. Thật quá vất vả, quá bạc bẽo, quá đau đớn! Phải đổ ra biết bao nhiêu là nước mắt!”
Phải làm gì khi tình trạng xấu đi? Khi tình trạng xấu đến thế? Bao giờ cũng thế, vẫn có hai con đường để chọn lựa: người ta có thể buông trôi hết hoặc cố gắng chấn chỉnh mọi sự; người ta có thể bỏ cuộc hoặc làm lại; người ta có thể chiều theo tính thờ ơ và vỡ mộng chán chường hoặc lăn xả vào việc tái thiết; người ta có thể để cho tình hình xuống cấp hơn nữa hoặc tự trang bị bằng lòng can đảm để làm cho tình hình biến chuyển khá hơn.
Hai con đường để lựa chọn, nhưng lẽ ra chúng ta không nên mất thì giờ để xét xem phải chọn con đường nào. Chỉ có một giải pháp có giá trị thôi: đó là quyết tâm chữa trị gia đình khỏi bệnh tật, dù khó khăn trắc trở vẫn không ngừng nỗ lực làm cho gia đình trở thành nơi chốn mà người ta học biết làm người có trách nhiệm; nơi mà người ta tập nhận ra sự tự lập và giá trị của kẻ khác; nơi mà người ta được rèn luyện để biết sống tập thể, biết kính trọng và yêu thương kẻ khác, biết giúp đỡ lẫn nhau và chia sẻ bản thân mình, cùng với những gì mình có và những gì mình sống.
Để đào tạo con người về tất cả những điều này, người ta chưa tìm ra được môi trường nào tốt hơn gia đình và người ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra được nơi nào tốt hơn. Gần đây, Đức Gioan Phaolô II đã viết: “Hôn nhân và gia đình là một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại” (Tông thư Familiaris consortio, số 1). Người ta không thể để cho tiêu tan một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại, người ta phải làm đủ cách để bảo vệ nó. Nếu nó ốm đau, người ta phải tìm mọi phương dược để chữa lành nó.
Từ miệng một linh mục, một người độc thân, những khẳng định này có thể làm cho một số người mỉm cười hay làm thất vọng một số người khác. Họ sẽ nói: “Nếu ngài biết! Nếu ngài đã từng trải qua cuộc sống gia đình, ngài sẽ nói khác”. Tuy nhiên, những lời mời gọi của linh mục là những lời mời gọi của Giáo Hội, là tiếng vọng lại từ chính những lời kêu gọi của Thiên Chúa. Theo kế hoạch của Ngài thì người nam và người nữ kết hợp với nhau, có con cái, mang trách nhiệm về gia đình mà họ cố gắng làm cho nên giống gia đình của thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
Để làm điều đó không phải là không đau đớn, không vất vả, không gặp khó khăn trầm trọng. Đoạn Tin mừng được loan báo hôm nay mang đầy ý nghĩa về điểm này. Mẹ Maria và thánh Giuse lo lắng đau khổ: “Con ơi tại sao con làm cho cha mẹ như vậy? Con xem, cha mẹ đã phải đau đớn tìm kiếm con…” Có biết bao nhiêu cha mẹ phải thốt lên những lời tương tự như thế.
Tuy nhiên Mẹ Maria và thánh Giuse không nản lòng. Biết rằng cuộc sống gia đình sẽ vất vả, các Ngài vẫn tiếp tục thương yêu và sống trước nhan Thiên Chúa bằng cách chu toàn tốt nhất những gì Chúa chờ đợi nơi các Ngài. Nơi điều này, các Ngài là gương mẫu của tất cả mọi cha mẹ trên thế giới. Và quá hiển nhiên, Chúa Giêsu con của các Ngài là gương mẫu cho tất cả các con cái trên thế giới.
Chỉ cách đây mấy ngày, chúng ta đã mừng sinh nhật của Chúa Giêsu Kitô, hang đá vẽ cho chúng ta một cảnh gia đình đầm ấm của Thánh Gia với tượng Chúa Giêsu đặt ở giữa. Lễ Thánh Gia hôm nay giúp chúng ta đào sâu thêm một điểm nòng cốt khác của gia đình, để gia đình Kitô có thể thực sự là một tổ ấm, mà trong đó mọi phần tử trong gia đình luôn giúp nhau tìm kiếm và thực hành thánh ý Chúa.
Ước gì thánh lễ hôm nay giúp mọi thành phầm trong gia đình Kitô ý thức, đóng góp cho xã hội trong việc cố gắng sống trọn bí tích hôn nhnâ để chung tay xây dựng một mái ấm gia đình hạnh phúc theo mẫu gương của Thánh Gia Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Bởi lẽ gia đình có hạnh phúc thì xã hội mới an vui phồn thịnh.
Chúng ta hãy chuẩn bị tâm hồn để lắng nghe và được nuôi dưỡng bởi Lời và bởi Mình Máu Thánh Chúa bằng cách nhìn nhận những lỗi lầm chúng ta đã vấp phạm trong những ngày qua, nhất là những lỗi lầm đối với cha mẹ, vợ chồng và anh chị em trong gia đình.
Trong những ngày lễ Giáng sinh linh thiêng vừa qua, thiết nghĩ mỗi người trong chúng ta đã một lần đến quì trước máng cỏ để nhìn ngắm Chúa Giêsu Hài đồng, được tình yêu của Đức Maria và thánh Giuse âu yếm bảo bọc, nâng niu, cộng với khung cảnh tuy đơn sơ nghèo nàn nhưng an bình thư thái của những gia súc, chiên, bò, lừa quây quần bên máng cỏ, chúng ta dễ dàng để ý tưởng tượng vẽ ra hình ảnh gia đình đầm ấm, trên dưới thuận hòa, mọi người yêu thương đùm bọc, hy sinh nâng đỡ nhau.
Nhưng bài Phúc âm dành cho lễ Thánh Gia hôm nay có lẽ dẫn chúng ta ra khỏi bầu khí ấm cúng của tổ ấm gia đình để trở về với thực tế của những sinh hoạt hằng ngày, nơi cả trong gia đình cũng có thể xảy ra những mâu thuẫn, những vấn đề, những hiểu lầm, những ngày tháng dường như cha mẹ con cái lạc mất nhau.
Thực tế nhiều khi phũ phàng nhưng nó vẫn là sự thật. Sự thật của cuộc sống ngày hôm nay là gia đình dễ dàng gặp những cơn khủng hoảng, đời sống kinh tế của hầu hết các gia đình chúng ta ngày nay đều khó khăn, sinh hoạt trong xã hội ngày nay tăng vận tốc, bắt mọi người ai nấy phải sống hối hả, sống vội vàng. Và vì kế sinh nhai khó khăn vất vả, theo họ dầu muốn dầu không cũng thiếu thốn vật chất và tinh thần để giáo dục con cái cũng trở nên trong những việc xa xỉ phẩm. Cộng vào đấy là sự đánh mất những giá trị cổ truyền trong gia đình, thí dụ như lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, sự kính trên nhường dưới giữa anh chị em, tinh thần hy sinh, nhịn nhục… đã bị các trào lưu tân tiến và nhất là đã bị ý thức hệ phủ nhận, những nền tảng gia đình bị phá vỡ mà không đề ra những giá trị mới thay thế vào.
Trên bình diện của niềm tin, nền tảng của gia đình cũng bị lung lay tận gốc rễ, vì thiếu đất đai màu mỡ của một đức tin có chiều sâu, thiếu phân bón của buổi đọc kinh chung trong gia đình, thiếu cả nước với những cố gắng sống với thực tại và những bổn phận do các Bí tích Thanh tẩy, Thêm sức và nhất là bí tích Hôn phối đòi hỏi. Đó là một trong những khó khăn mà các gia đình Kitô giáo Việt Nam ngày nay đang chạm trán.
Lễ Thánh Gia thất hôm nay mời gọi mọi người, mời gọi bạn và tôi đặt câu vấn nạn: “Có phải gia đình chúng ta lạc mất Chúa Giêsu rồi không?”, đồng thời lễ Thánh Gia thất hôm nay cũng mời gọi mọi người, mời gọi bạn và tôi noi gương và nối gót Đức Maria và thánh Giuse lên đường tìm lại Chúa. Chúng ta phải ý thức rằng: đây không phải là một con đường bằng phẳng dễ đi, vì hai Ngài đã phải trải qua những giây phút hớt hả tìm kiếm, trải qua những đêm trằn trọc mất ngủ, trải qua những lo lắng bồn chồn để khi gặp lại Con phải nghe câu trả lời khó hiểu: “Tại sao cha mẹ lại tìm Con. Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con sao?”.
Đức Maria là người đã ghi nhớ những việc đó trong lòng, chắc hẳn đã phải dần dần tìm hiểu ý nghĩa câu trả lời của Chúa Giêsu trong suốt khoảng thời gian ẩn dật của Chúa, để cuối cùng dưới chân thập giá mới hiểu nòng cốt của niềm tin Kitô, nòng cốt của người Kitô là tìm hiểu sống trọn thánh ý Thiên Chúa, và nòng cốt của gia đình Kitô là giúp nhau tìm hiểu và thực hành thánh ý của Ngài.
Câu Kinh Thánh: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha Con sao?” Chính là câu nói mà Chúa Giêsu đã trả lời cho Đức Mẹ và Thánh Giuse khi tìm được Ngài. Thú thật khi còn bé tôi không thể hiểu được tại sao Đức Giêsu lại nói vậy, có rất nhiều câu nói dễ nghe hơn sao Ngài lại không nói. Cho đến ngày hôm nay tôi mới hiều và càng khâm phục hơn về lời nói rất thâm sâu và co ý nghĩa về sự vâng phục phục tuyệt đối của Đức Giêsu. Thật hay là lúc đó Đức Mẹ và thánh Giuse cũng không hiểu nhưng các ngài cũng không tỏ ra giận, hay khó chịu, mà chấp nhận theo ý con một cách vui lòng. Do đó để hiểu rõ về ý nghĩa của ngày lễ Thánh Gia hôm nay chúng ta hãy nhìn lại hoàn cảnh và tâm tình khi Đức Giêsu lên 12 tuổi.
Vào năm đó Đức Giêsu cũng như các gia đình Do thái khác cùng nhau lên Giêrusalem để mừng lễ vượt qua. Khi trở về được một ngày đàng, Đức Mẹ và thánh Giuse mới biết mình đã lạc mất Chúa Giêsu. Hai ông bà lo buồn trở lại Giêrusalem tìm suốt ba ngày trường mới thấy Đức Giêsu trong đền thánh, Ngài đang cắt nghĩa Kinh Thánh cho những nhà thông luật. Khi gặp Ngài Đức Mẹ nói: “Này con, sao làm như vậy?” Hẳn là câu nói đó như có phần khiển trách. Chúa Giêsu trả lời lại hơi có vẻ ngạc nhiên và che dấu một sự trách cứ nhẹ nhàng. Cha mẹ tìm con làm chi, cha mẹ không biết rằng con không như các trẻ con khác, nhưng con phải ở nhà Cha Con để làm tròn thánh ý Người ư? Làm tròn thánh ý Thiên Chúa đây không chỉ là giảng dạy cho các thầy thông luật, nhưng cũng là sửa soạn cho Đức Mẹ và Thánh Giuse quen chấp nhận hy sinh về tình cảm tự nhiên để chấp nhận sứ mệnh mà Thiên Chúa sẽ trao phó đòi hỏi một sự can đảm và hy sinh. Lúc đầu hai ông bà hơi bỡ ngỡ, nhưng dần dần các ngài nhờ đức tin và sự suy ngắm, nhận biết Chúa Giêsu thật ra không thuộc về mình, vì thế từ lúc này về sau các ngài thêm lòng hy sinh, sẵn sàng chịu sự chia ly với Ngài hơn.
Là cha mẹ Công Giáo chúng ta có sẵn sàng hy tình cảm và lợi lộc đời này để cho con cái chúng ta dâng mình theo tiếng gọi của Chúa làm linh mục, tu sĩ không? Gương Đức Mẹ và thánh Giuse thật là mậu gương cho mọi người chúng ta noi theo. Qua bài Tin Mừng, ta thấy không những Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha, sẵn sàng hy sinh tình cảm gia đình để thánh hóa các thành viên trong gia đình ấy, mà Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng sẵn lòng quy phục thánh ý Chúa, cho dù lúc đó hai người vẫn chưa biết thánh ý đó.
Chúa Giêsu chưa bao giờ làm mất lòng Mẹ Người, Ngài hằng tỏ ra vâng phục hết tình. Thế mà nay Chúa lại làm như vậy, chắc chắn phải có lí do. Nhưng Đức Mẹ không hiểu, vì thế lời tự nhiên có vẻ hơi trách móc, khó mà chấp nhận được. Câu trả lời của Chúa tuy giải thích cho Đức Mẹ hiểu nguyên do vì đâu Ngài làm vậy, nhưng vẫn còn giữ cả một huyền nhiệm sâu xa của nó: chính vì cha mẹ biết Con hằng vâng phục cha mẹ, mà trong việc này cha mẹ khỏi lo. Cha mẹ nên biết Cha ở trên trời có những ý định mà mội người chúng ta phải tuân theo. Nếu Chúa nói rõ ý định của Thiên Chúa từ trước thì cha mẹ Ngài không còn lo lắng gì nữa và sẽ ở lại Giêrusalem chờ Ngài. Nhưng Ngài đã không nói và Đức Mẹ nhìn thấy đó là một huyền nhiệm về sứ mệnh của Ngài, Đức Mẹ tạm yên lòng nhưng vẫn không hiểu rõ về vấn đề. Thái độ của Đức Mẹ và thánh Giuse không đòi Chúa cho biết rõ ràng, nhưng sẵn lòng vâng phục trong tối tăm là một tấm gương cao cả cho chúng ta. Kể cà khi: “Ông bà không hiểu lời Chúa nói”, nhưng mỗi người đều giữ lời Chúa trong lòng của mình mà suy niệm. Riêng Đức Mẹ người đã hiểu dần dần qua các biến cố lời đã hứa khi thụ thai: “này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”.
Trong cuộc sống gia đình chắc chắn mỗi người chúng ta đều có những ưu tư, sầu khổ, lắm lúc không thể hiểu tại sao hoạn nạn tai ươn luốn đến với mình, tại sao ở hiền mà không gặp lành. Những lúc đó ta hãy noi gương gia đình thánh phục tùng và tuyệt đối vâng theo thánh ý Chúa. Vì Thiên Chúa luôn yêu thường và quan phòng, nếu Ngài để cho ta chịu những bài học đau đớn, đó là vì lợi ích phần hồn của ta và của người khác.
Lạy Chúa trong cuộc sống ai cũng muốn đời mình được êm ả, được như ý mình muốn. Nhưng chính những sở thích đó lại không là Thánh Ý Chúa muốn. Xin cho con biết noi gương gia đình thánh hôm nay để biết hoàn toàn chấp nhận theo ý Chúa. Amen.
Đây là lời phê bình ngắn gọn về các bài đọc trong ngày lễ này: Bài đọc 1: Samuen là một đứa trẻ rất đặc biệt. Bà Anna nhìn thấy con trai mình như là một ân sủng đến từ Thiên Chúa, một dấu hiệu về đặc ân mà Thiên Chúa dành cho bà. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên, khi bà dâng hiến con trai bà cho Chúa. Đến kỳ hạn, Samuen tự mình thực hiện việc hiến thân đó, và tiếp tục đóng vai trò chính yếu trong lịch sử Israen.
Thật vậy, mỗi đứa trẻ đều là quà tặng của Thiên Chúa. Tất cả các bậc cha mẹ đều có hy vọng và mơ ước cho con cái của họ. Nhưng cha mẹ không thể xác định được tương lai của con cái. Con cái phải tìm kiếm con đường của bản thân chúng. Ngoài ra, có thể Thiên Chúa có những kế hoạch khác dành cho chúng ta, trái ngược với kế hoạch của các bậc cha mẹ.
Tin Mừng: Bài đọc này kể lại câu chuyện về con trẻ Giêsu 12 tuổi tại Giêrusalem. Bài đọc này cho thấy rằng sự hiểu lầm vẫn có thể xảy ra, ngay cả trong những gia đình tốt lành nhất. Chúng ta có khuynh hướng cho rằng Chúa Giêsu bị thất lạc tại Đền thờ. Nhưng Chúa Giêsu không bị thất lạc tại Đền thờ. Nói đúng hơn, Người ở nhà của Người tại đó. Chính tại nơi đó, Người bắt đầu tìm kiếm bản thân, và phát hiện được căn tính đích thực của mình. Người không chỉ là con của Đức Maria, mà còn là Con duy nhất của Thiên Chúa nữa.
Những tâm hồn cô đơn, lạc lõng, không nhà đã đến với nhà của Thiên Chúa, hầu như do tình cờ, họ đã đến đây, cảm thấy nơi đó như ở nhà mình, tìm được sự bình an và gặp được chính bản thân mình tại đó. Bất kể thế giới có thể nghĩ gì về chúng ta, khi ở trong nhà của Thiên Chúa, chúng ta biết rằng mình là những người con trai và con gái của Thiên Chúa.
Bài đọc 2: Chúa Giêsu có căn tính kép, Người vừa là con của Đức Maria, và cũng vừa là Con của Thiên Chúa. Chúng ta cũng có căn tính kép. Chúng ta không chỉ là con của cha mẹ chúng ta, mà còn là con cái của Thiên Chúa nữa. Thánh Gioan nói rất rõ ràng về điều này. Chúng ta thuộc về gia đình của Thiên Chúa.
Chính Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước. Chúng ta không cần phải làm gì, để đạt được tình yêu của Thiên Chúa. Chính bản thân chúng ta đã đủ để Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chính sự hiện hữu của chúng ta là một dấu hiệu về tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Con cái đáp ứng lại tình yêu của cha mẹ bằng cách vâng lời cha mẹ. Cách chúng ta đáp ứng lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta, là tuân theo những huấn lệnh của Người, đặc biệt là giới răn yêu thương.
Trong sự kiện Chúa Giêsu bị thất lạc và tìm thấy ở Đền thờ, chúng ta nhận ra được tình yêu thương mà Đức Maria và thánh Giuse dành cho Chúa Giêsu. Sau đó, Người trở về nhà Nagiarét cùng với các ngài và vâng lời các ngài.
Mái nhà là một nơi mà trong đó, chúng ta được chấp nhận như là chính con người của mình, với những mặt mạnh và mặt yếu của chúng ta. Sự chấp nhận theo kiểu này giúp chúng ta có được khả năng để phát triển, với tư cách là con người nhân loại và là con cái Thiên Chúa.
Trong bài tường thuật của thánh Luca về thời thơ ấu của Chúa Giêsu, Đức Maria là người duy nhất sẽ hiện diện trong sứ vụ công khai của Người, và cho đến tận lúc bắt đầu có Giáo Hội. Mẹ được giới thiệu cho chúng ta như là gương mẫu của người Kitô hữu.
Ngày hôm nay chúng ta cùng họp nhau đây mừng kính lễ Thánh Gia. Vậy các em có hiểu chữ Thánh Gia là gì không? Nghĩa là gia đình thánh. Vậy gia đình thánh gồm bao nhiêu người? Có ba người: Thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Gia đình thánh có thương yêu nhau không? Chắc chắn là có rồi. Các em vừa nghe Tin Mừng kể gì về gia đình thánh này? Có phải là các ngài hành hương lên đền thờ Giêrusalem, rồi khi trở về thì lạc mất Chúa, khiến thánh Giuse và Đức Mẹ phải chạy ngược chạy xuôi tìm kiếm đến ba ngày mới thấy. Thế rồi khi gặp được Chúa Giêsu, Đức Mẹ chỉ hỏi: tại sao con làm cho cha mẹ phải lo lắng kiếm tìm? Và sau đó, các ngài trở về Nagiarét chứ không hề thấy Tin mừng nói thánh Giuse và Đức Mẹ la mắng Chúa Giêsu phải không?
Chắc hẳn các em nói rằng: nếu chúng mình mà như vậy thế nào cũng bị ba mẹ đánh đòn, hay ít ra cũng bị mắng cho một trận nên thân. Chúa Giêsu thật sướng, cha mẹ Ngài hiền quá và thương Ngài quá. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy ba mẹ chúng ta cũng rất hiền và cũng rất thương chúng ta. Có cha mẹ nào mà chẳng thương đứa con mình đã sinh ra và nuôi lớn với biết bao vất vả nhọc nhằn: Suốt cả cuộc đời mỗi người chúng ta từ khi sinh ra cho đến khi lớn khôn, lúc nào cũng được cha mẹ yêu thương, ân cần chăm sóc, dạy dỗ. Có ai trong chúng ta không được hưởng những lời ru êm ái của mẹ đâu: Dù ta đi trọn kiếp người, cũng không đi hết những lời mẹ ru. Ngoài mẹ ra, chúng ta còn có ba nữa. Và với ba thì có lẽ còn vui hơn: ba làm tàu lửa, ba làm xe hơi, ba làm con ngựa để con cưỡi con chơi…Ít có người con nào lại không có niềm vui được cha cõng trên vai, tay chân nhún nhảy…Các em thấy đó, ba mẹ là lá chắn che chở suốt đời cho con.
Vậy tại sao thỉnh thoảng ba mẹ cứ phải la rầy, có khi còn đánh mắng chúng ta nữa? Những lúc áy ba mẹ có còn thương chúng ta không? Chắc chắn là còn chứ. Các em thử nghĩ coi: một đứa trẻ hay gây gỗ, phá phách có được ai thương mến không? Không. Một em học sinh lười, có được thầy cô và bạn bè thương mến không? Cũng không luôn…Như vậy là vì không muốn chúng ta bị mọi người ghét bỏ mà ba mẹ phải la rầy. Không muốn chúng ta bị bệnh, bị tai nạn mà ba mẹ phải đánh đòn để chúng ta biết sửa lỗi…
Còn về Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, tại sao không bị thánh Giuse và Đức Mẹ la mắng? Thứ nhất vì các ngài tìm được Chúa Giêsu trong đền thờ, như vậy là Chúa Giêsu rất ngoan, rất vâng lời. Ngài không chạy chơi ngoài đường như chúng ta. Thứ hai vì khi được hỏi Chúa Giêsu không hề chối quanh để chạy tội, nhưng Ngài nhận ngay: Con ở lại để lo việc của Cha Con, tức là việc của Chúa Cha. Như vậy Chúa Giêsu rất thật thà và đạo đức. Thứ ba vì khi tìm được Chúa Giêsu, các ngài thấy Chúa đang ngồi nghe và hỏi các thầy Rabbi. Như vậy Chúa Giêsu cũng rất chăm học phải không?
Các em thấy: một đứa trẻ vâng lời, thật thà, đạo đức và chăm học như vậy thì chẳng có lý do gì để cha mẹ phải la mắng cả. Vậy nếu các em muốn ba mẹ mình luôn hiền lành dịu dàng như thánh Giuse và Đức Mẹ, thì các em cũng phải luôn cố gắng sống ngoan ngoãn như Chúa Giêsu.
(Suy niệm của Lm. Augustine Nguyễn Huy Tưởng)
Gia đình là nền tảng xã hội. Gia đình bền vững thì xã hội mới vững bền. Tuy nhiên chúng ta đang sống trong một thời đại mà cơ chế gia đình đang bị lung lay. Một MC của một chương trình văn nghệ thời danh đã đọc một bức thư của một khán thính giả về dấu hiệu sự phản bội của người chồng và người phụ nữ đó kết luận: khi cầm giấy ly dị trên tay là như thấy thiên đàng.
Theo một thống kê đứng đắn thì tỉ số li dị của những người giữ đạo đàng hoàng là 1.7 phần nghìn. Cha Peyton một linh mục thời danh đã nói rõ: family prays, family stays: có nghĩa là khi có đời sống cầu nguyện thì gia đình sẽ vững bền.
Hôn nhân là một bí tích có nghĩa Chúa ban ơn đặc biệt cho vợ chồng để họ có thể yêu nhau và trung thành với nhau. Được bao nhiêu cặp vợ chồng khi có nguy hiểm li dị đã cầu nguyện để xin ơn trợ giúp hay là họ đã để cho tự ái và cơn nóng giận nhất thời lôi kéo đến những chuyện mà cả hai người không muốn xảy ra. Những thiếu niên phạm pháp hay có vấn đề đều do những gia đình cha mẹ không thương yêu nhau hay là đồng sàng dị mộng hay là giả vờ đóng kịch làm cha làm mẹ.
Nhìn vào gia đình Nazareth chúng ta thấy có những nhân đức về đời sống gia đình mà vợ chồng cần học hỏi. Trước hết theo Đức Giáo Hoàng Phaolô VI khi ngài viếng Nazareth đó là bài học của sự im lặng. Nói cụ thể hơn là sự bớt lời, kìm hãm những lời nói thô bỉ xúc phạm đến nhau: Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi bớt lửa không đời nào khê. Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Im lặng còn có nghĩa chỉ nói những lời an bình yêu thương mang lại hạnh phúc. Có nhà tâm lý Việt nam kia cho rằng có ít là ba câu nói trong gia đình mang lại hạnh phúc nhưng người Việt nam ít nói nhất đó là câu nói: cám ơn, xin lỗi và khen tặng. Hình như người chồng cho rằng vợ phục vụ mình là bổn phận không cần phải cám ơn. Họ đâu có biết câu cám ơn đầu ngày hay khi nhận được sự phục vụ hay giúp đỡ là ánh sáng và niềm vui cho người phối ngẫu trong cả ngày sống. Có những người chồng hay cha còn quan niệm mình không bao giờ phải xin lỗi ai và vợ con phải xin lỗi mình. Và được bao nhiêu người cha Việt nam khi thấy con và vợ làm được cái gì mà biết khen tặng thực sự hay họ đã đổi họ thành họ Chê của người chàm? hay người Tây Ban Nha?
Im lặng còn có nghĩa trong mọi trường hợp phải dẹp bỏ những tình cảm lố lăng trong tâm hồn để lắng nghe tiếng Chúa và tuân thủ. Yêu nhau có nghĩa là cảm thông có cùng ý nghĩ và cùng tần số yêu thương? Yêu nhau còn có nghĩa là cùng nhìn về một hướng chính là Thiên Chúa là hạnh phúc của con cái. Thánh Giuse và Mẹ Maria làm mọi chuyện cho Chúa Giêsu. Vợ chồng cũng phải làm mọi việc cho Thiên Chúa và con cái là món quà Chúa ban.
Hiện nay nhiều vợ chồng công giáo còn cho con cái là cái nợ đời nên yêu con mà hình như là yêu mình và chỉ muốn con làm theo ý kiến độc đoán của mình không cần biết con có hạnh phúc hay không. Họ yêu con vì họ chứ không phải vì con cái. Và những người con cái chỉ cần bắt chước Chúa Giêsu: và người vâng lời các Đấng ấy là đủ vì cá không ăn muối cá ươn con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư. Con hư vì con không muốn tuân thủ những giáo huấn của cha mẹ. Có thể con cái học cao có bằng cấp hơn cha mẹ, nhưng Chúa cho cha mẹ kinh nghiệm và ơn sủng cần thiết cho việc giáo dục con. Cha mẹ đừng mặc cảm không dám dậy con mà hãy can đảm nhận lãnh trách nhiệm Thiên Chúa đã ban. Và con cái đừng quên rằng bằng cấp không mang lại sự khôn ngoan trong cuộc đời mà chính là cuộc sống và kinh nghiệm. Cái học thực tế là cái học tạo nên con người và cuộc sống có ý nghĩa đích thực chứ không phải mớ kiến thức chuyên môn để kiếm tiền qua ngày.
Hãy cầu nguyện và im lặng gia đình sẽ hạnh phúc. Và yêu thương nhau giữa vợ chồng con cái chính là chìa khoá của việc giáo dục. Khi con cái vợ chồng biết rõ vợ chồng con cái yêu thương nhau thì sự an toàn sẽ làm cho mọi người thăng tiến và hạnh phúc trong gia đình. Hãy nghe lời thánh tiến sĩ Augustinô: Yêu thương nhau đi rồi muốn làm gì thì làm: Ama et fac quod vis. Aimes et fais ce que tu veux.
58. Thánh Gia lên đền thờ – Lm. Augustinô SJ.
Đoạn Tin Mừng này đã cho chúng ta thấy Con Thiên Chúa đã sống mầu nhiệm nhập thể như thế nào. Khi chấp nhận làm người Do Thái, Ngôi Lời đã chấp nhận những luật lệ của Do Thái Giáo. Ngài đã chịu cắt bì vào ngày thứ tám sau khi sinh, và Ngài cũng được đặt tên trong cùng ngày. Như thế Con Thiên Chúa đã thành người Do Thái. Ngài cũng có một tên như mọi người, tên Ngài là Giêsu. Ngoài ra, vì Đức Giêsu là con đầu lòng nên Ngài thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa (Xh 13,1-2). Cha mẹ Ngài phải chuộc con bằng cách nộp cho tư tế một số bạc (Ds 3,47-48). Ở đây thánh Luca không nói đến chuyện chuộc con, nhưng lại nói đến chuyện dâng Hài Nhi cho Chúa. Thực ra dâng con không phải là điều mà luật Môsê bó buộc phải làm, nhưng là do lòng sốt sắng. Sa-mu-en ngày xưa cũng được dâng như vậy (1S 1,22).
Chúng ta nhìn ngắm Đức Maria lên Đền Thờ để dâng lễ vật. Theo sách Lêvi 12,2-8, người phụ nữ sinh con trai bị coi là nhơ trong 40 ngày, còn sinh con gái thì bị nhơ 80 ngày. Trong thời gian đó, bà phải ở nhà, không được đụng đến vật thánh hay vào Đền Thờ. Sau thời gian đã định trên, bà phải đem đến cho tư tế Đền Thờ một con chiên một tuổi để làm lễ toàn thiêu và một con chim gáy hay một bồ câu non để làm lễ tạ tội. Nếu bà không đủ tiền mua chiên thì phải dâng một cặp bồ câu non hay là một đôi chim gáy. Đức Maria đã dâng lễ vật của người nghèo (c.24).
Ngày nay chúng ta có thể thấy những luật trên đây là khó hiểu, thậm chí khó chấp nhận. Nhưng Con Thiên Chúa đã đón lấy tất cả chỉ vì Ngài muốn là người và là người Do Thái. Ngài được cắt bì như dấu chỉ kết ước với Gia-vê, dù Ngài vẫn luôn là một với Gia-vê. Ngài được dâng cho Thiên Chúa dù Ngài đã thuộc trọn về Thiên Chúa. Thánh Luca muốn cho chúng ta thấy thánh Giuse và Mẹ Maria là những ngườ giữ Luật Chúa một cách nghiêm túc vì lòng nhiệt thành và yêu mến. Bốn lần Luca nói đến Luật, Luật Chúa hay Luật Môsê (cc.22.23.24và 27). Luật biểu lộ ý muốn của Thiên Chúa và chi phối đời sống người tín hữu Do Thái. Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Đức Maria, Đấng mà chúng ta tuyên xưng là người sinh hạ Con Thiên Chúa, lại chịu thanh tẩy khi sinh con như những người phụ nữ khác.
Cần phải có Thánh Thần mới nhận ra mầu nhiệm lớn lao đang toả sáng nơi Hài Nhi bé nhỏ, con của một đôi vợ chồng nghèo. Si-mê-on là người có Thánh Thần ở trên, ông được thúc đẩy lên Đền Thờ để gặp Đấng mà ông suốt đời ngóng đợi (cc.25-27). Nhờ Thánh Thần soi sáng, ông nhận ra Hài Nhi nghèo hèn chính là Đức Kitô. Ông bồng Ngài trong vòng tay, môi bật lên lời chúc tụng. Ông hạnh phúc và mãn nguyện vì đã được thấy Đấng là ơn cứu chuộc cho muôn dân, là ánh sáng cho dân ngoại, là vinh quang cho dân tộc Ít-ra-en (cc.29-32). Để nhận ra Chúa trong cuộc sống buồn tẻ hay sôi động hàng ngày cũng cần có một đời sống đạo đức, gắn bó với Chúa và không để mình bị mê hoặc bởi tạo vật. Ông Si-mê-on là người công chính và mộ đạo. Còn bà nữ tiên tri Anna là một goá phụ, đã phụng thờ Chúa đêm ngày trong chay tịnh và cầu nguyện. Cuộc gặp gỡ Chúa tưởng như tình cờ, nhưng có thể đó là kết quả của một sự chờ đợi và chuẩn bị dài lâu.
Gia Đình Của Ngôi Lời Làm Người
Khi làm người, Ngôi Lời đã sống trong một gia đình, có mẹ, có cha. Tuy thánh Giuse và Đức Maria không có tương quan xác thịt vợ chồng, nhưng tình yêu lại không bao giờ thiếu dưới mái nhà Na-da-rét. Chúng ta không biết nhiều về đời sống của Thánh Gia, nhưng trong các Tin Mừng thời thơ ấu theo thánh Mát-thêu và Lu-ca, chúng ta luôn luôn thấy Hai Đấng ở bên nhau trong mọi biến cố vui buồn. Chính thánh Giuse đã đưa Đức Maria đi Bêlem để đăng ký. Đoạn đường không phải là ngắn và dễ dàng đối với một phụ nữ đã gần ngày sinh nở. Chắc chắn cả hai đã phải bối rối và lo âu khi không tìm được một quán trọ ấm áp cho Hài Nhi chào đời. Thánh Giuse cũng cùng đi với Đức Maria lên Đền Thờ như trong đoạn Tin Mừng trên đây. Chúng ta cũng không quên việc thánh Giuse hộ tống Hài Nhi và Đức Mẹ trốn sang Aicập, sau đó lại đưa về Na-da-rét sinh sống ở đó. Một kỷ niệm khó quên là lần Đức Giêsu ở lại Đền Thờ khi Ngài 12 tuổi. Những ngày dài tìm kiếm trong lo âu và nước mắt của hai ông bà, và cả niềm vui khi gặp lại được con. Cuộc sống của Thánh Gia không phải là luôn luôn phẳng lặng, cũng có lúc tưởng chừng như có thể tan vỡ (Mt 1,18-19). Chúng ta thường nghĩ một người sống trọn vẹn cho Chúa thế nào cũng được hưởng một cuộc đời êm ả và tràn đầy may mắn. Xét theo cái nhìn của người đời thì Mẹ Maria đã gặp những khổ đau và bất hạnh. Bất hạnh lớn nhất là phải chứng kiến Con mình bị treo trên thập giá giữa tuổi đời dang dở. Cuộc sống không sao tránh khỏi những hy sinh và mất mát, những bực bội và lo âu. Điều quan trọng là nắm lấy tay Chúa và cầm lấy tay nhau để có nghị lực mà vượt qua trong bình an thanh thản.
Chúng ta không rõ công việc hàng ngày của Đức Maria. Chắc Mẹ đã lo việc may vá, bếp núc và đội nước từ giếng về nhà. Một việc khác quan trọng hơn của Mẹ là cầu nguyện. Mẹ thấy mình đang sống bên một Mầu Nhiệm và chính đời hôn nhân của Mẹ cũng là một mầu nhiệm. Chính vì thế, Mẹ đắm mình trong cầu nguyện, các biến cố trở nên lời nói kín đáo của Thiên Chúa mà Mẹ thích “giữ kỹ và hằng suy niêm trong lòng” (Lc 2,50). Đời sống thiêng liêng của Mẹ là không ngừng tìm hiểu về Đức Giêsu và chấp nhận để cho Con ra đi hiến thân phụng sự Thiên Chúa.
Thánh Giuse là người đứng mũi chịu sào cho cuộc sống của cả gia đình. Nói đến cuộc sống là nói đến cái ăn, cái mặc, và những nhu cầu thúc bách khác. Thời nào cũng có những khó khăn riêng. Ông thợ mộc Giuse phải vất vả để lo sao cho gia đình mình sống được. Lao động nghiêm túc để phục vụ cho gia đình: đó là con đường nên thánh của Giuse.
Bầu khí của tổ ấm ở Na-da-rét là bầu khí yêu thương, cầu nguyện và cần cù lao động. Đức Giêsu đã lớn lên về mọi mặt nhờ bầu khí này. Động từ lớn lên cho ta thấy Con Thiên Chúa đã muốn đồng hành với con người. Ngài không phải là một thần đồng, cũng không phải là một Phủ Đổng Thiên Vương. Ngài lớn lên từ từ trong thời gian, thời gian là ánh mặt trời làm trái xanh được chín. Không hấp tấp hối hả, nhưng cũng không dậm chân tại chỗ. Hôm nay của Ngài vẫn liên tục với hôm qua, nhưng lại vượt hôm qua. Có những điều phải bỏ lại để đón nhận những điều mới. Hài Nhi Giêsu đã đi một chặng đường hơn 30 năm để trở thành một ông Giêsu trưởng thành và chính chắn, sẵn sàng đón nhận sứ mạng. Cường tráng, khôn ngoan và đầy tràn ân sủng: đó là sự triển nở hài hoà của Đức Giêsu. Chúng ta cám ơn Đức Mẹ và thánh Giuse đã cho thế giới một Đức Giêsu biết yêu thương, biết say mê cầu nguyện và lao động không mệt mỏi cho hạnh phúc của nhân loại và Nước Cha.
59. Mẫu gương gia đình hạnh phúc.
“Phúc thay người ở trong thánh điện họ luôn luôn được hát mừng Ngài” (Tv 84, 5)
Hôm nay chúng ta mừng lễ Thánh Gia, chúng ta cảm thấy thật hạnh phúc khi được sống dưới sự bảo trợ của Thánh Gia. Xét về phương diện quyền thế, không ai sánh được với ba Đấng. Chúa Giêsu chính là “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi”. Ngài là ‘hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử giữa mọi thụ sinh, vì trong Ngài vạn vật đã được tạo thành…’ Ngài có ưu thắng trên mọi sự, và mọi sự tồn tại nơi Ngài. Và Ngài là đầu của Thân Mình tức là Hội Thánh. Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử giữa các vong nhân, ngõ hầu trong mọi sự Ngài là đệ nhất vô song… Và Ngài đã giảng hoà cả vạn vật nhờ Ngài và cho Ngài, đã ban lại bình an nhờ Bửu Huyết đổ ra nơi Thập Giá, cho mọi vật trên trời, dưới đất (Cl 1, 15-20). Bản văn này gợi lên trong chúng ta niềm hân hoan tin tưởng, bởi vì Đấng bảo trợ chúng ta là Thiên Chúa, là Vua vũ trụ, mọi quyền trên trời, dưới đất đều ở trong tay Ngài. Chính Ngài nắm trong tay chìa khoá tử thần và âm phủ. Chính Ngài là Đấng ngự bên hữu Chúa Cha để cầu bầu cho chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài còn là nguồn mạch sự sống, Ngài đã đến để ta được sống và sống dồi dào (Ga 1, 4; 14, 5)
Đức Maria chính là Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương các thiên thần và các thánh, nhưng đồng thời Người cũng là Mẹ nhân loại, là Mẹ của từng người chúng ta. Người chính là tình yêu xả kỷ, hy sinh, thương xót và tha thứ. Sống bên Người bao giờ chúng ta cũng tìm được ơn nghĩa cùng Chúa, vì theo lời thánh Bênađô: ‘tất cả mọi ơn lành đến với chúng ta đều qua tay Đức Maria’.
Còn thánh Giuse là người đã được nhìn tận mắt, sờ tận tay Đấng mà các tổ phụ và các tiên tri hằng mong đợi. Hơn nữa, trước mặt Thiên Chúa và nhân loại, công lao của Ngài thật vĩ đại, vì chính Ngài đã tận tâm bảo vệ, nuôi dưỡng Chúa Giêsu là của lễ hy sinh đền tội thế gian và là Bánh nuôi sống linh hồn tín hữu cho đến ngày tận thế.
Dĩ nhiên chúng ta nhận Thánh Gia làm bổn mạng là để cậy nhờ, nhưng nhất là để noi gương, như mẫu mực cho đời sống chúng ta.
Gia đình là tế bào nền tảng của xã hội. Tội đã nhập vào gia đình thứ nhất và phá hoại nhân loại. Thiên Chúa muốn cải tạo xã hội nhân loại khi phái Con Một Ngài đến trong một gia đình nhân loại. Nagiarét là trường học lý tưởng cho mọi gia đình. Ở đó có mọi nhân đức cao quý của đời sống gia đình: cả ba đều hoàn toàn trinh khiết, cả ba đều cao trọng nhưng lại tuyệt đối khiêm tốn và vâng phục, bởi vì cả ba đều tìm thánh ý Thiên Chúa.
Nagiarét cũng là trường học của đức bác ái. Vì trong đó cả ba đều quên mình để nghĩ đến người khác, tận tuỵ phục vụ người khác. Thánh Giuse âm thầm làm việc không quản nhọc nhằn, Đức Maria chăm lo việc nội trợ, Chúa Giêsu ngoan ngoãn vâng phục và san sẻ vất vả với cha mẹ.
Cũng tại Nagiarét chúng ta tìm lại được giá trị siêu việt của lao động, đó là giá trị cứu rỗi. Những giọt mồ hôi của Chúa trong nhà Nagiarét không hề kém giá trị cứu rỗi hơn việc rao giảng Tin Mừng hay cuộc tử nạn của Ngài, vì trong mọi sự Ngài đều tìm đẹp lòng Thiên Chúa.
Chúng ta cũng có thể và phải tham gia công cuộc cứu rỗi nhân loại bằng chính đời sống chúng ta, trong việc thực thi thánh ý Thiên Chúa, trong sự dấn thân phục vụ, trong cầu nguyện âm thầm và hy sinh. Sống được như thế chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc chân thật.
Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ, nhà ở gần nghĩa địa, thấy người đào, chôn, lăn, khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn, khóc. Bà mẹ thấy thế, nói: “Chỗ này không phải chỗ con ta ở”. Rồi dọn nhà ra gần chợ.
Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước cách buôn bán đảo điên. Bà mẹ thấy thế, lại nói: “Chỗ này cũng không phải chỗ con ta ở”. Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học.
Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép. Bấy giờ bà mẹ mới vui lòng nói: “Chỗ này là chỗ con ta ở”
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết heo, về nhà hỏi mẹ: “Người ta giết heo làm gì thế?” Bà mẹ nói đùa: “Để cho con ăn đấy”. Nói xong, bà nghĩ lại, hối hận: “Ta nói lỡ rồi. Con ta thơ ấu, tri thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng ra ta dạy nó nói dối hay sao?”. Rồi bà đi mua thịt heo, đem về cho con ăn thật.
Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi; trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng: “Con đang đi học, mà bỏ học, thì cũng như mẹ đang dệt tấm vải này mà cắt đứt như vậy”. Từ ngày đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần. Về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ công giáo dục quý báu của bà mẹ hay sao?
Thánh Gia là mẫu gương giáo dục tuyệt vời cho các gia đình cũng như cho các cộng đồng tu viện. Thánh Gia là trường huấn luyện cho Chúa Giêsu, chuẩn bị ngày lãnh nhận sứ mạng Chúa Cha trao phó.
Thánh Gia là chuẩn mực chính xác nhất cho các người cha, người mẹ và con cái trong gia đình.
Thánh Giuse đích thực là một người cha: sáng ngời trong đức tin mạnh mẽ, nêu cao niềm phó thác cậy trông và tận tình chăm lo cho trẻ Giêsu cùng Mẹ Maria. Người làm chủ gia đình với tinh thần trách nhiệm cao và siêng năng cần cù lao động, trong làng quê nghèo Nagiarét.
Maria chính là người mẹ: Gương mẫu trong đời sống nội tâm, và sâu lắng trong tâm tình cầu nguyện. Mẹ chính là người nội trợ đảm đang, chu toàn công việc gia đình, và chăm sóc dạy dỗ con trẻ Giêsu.
Chúa Giêsu là người con thảo hiếu: “Hằng vâng phục cha mẹ” Giuse và Maria, lớn lên mỗi ngày trong sự khôn ngoan và nhân đức, nhất là luôn lo việc “bổn phận ở nhà Cha”.
Gia đình là nền tảng của xã hội: Gia đình có thuận hoà, thì xã hội mới an vui. Lễ Thánh Gia chính là lễ của mọi gia đình. Noi gương Thánh Gia, các gia đình chúng ta luôn sống có trật tự trên dưới, liên đới trong tình hiệp thông, và chăm lo cho nhau trong tình yêu thương đầm ấm.
Con Thiên Chúa chỉ ra giảng đạo có ba năm, nhưng đã phải chuẩn bị ở mái trường Nagiarét suốt ba mươi năm. Nagiarét là trường dạy cầu nguyện, dạy lao động, dạy yêu thương. Nagiarét là một vùng quê nghèo hẻo lánh, nhưng lại mang một mái ấm tình thương. Mái ấm Nagiarét rất đỗi bình thường, nhưng cũng rất khác thường.
Một mái ấm luôn chan hoà bầu khí yêu thương và đạo hạnh.
Một mái ấm luôn ngập tràn tiếng cười vui vì hạnh phúc.
Một mái ấm mà các thành viên luôn để ý quan tâm cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, trước tiên phải có Chúa hiện diện.
Mái ấm Nagiarét luôn hạnh phúc vì lúc nào cũng có Chúa ở giữa thánh Giuse và Đức Maria. Nếu mỗi gia đình chúng ta đều mời được Chúa đến ở trong gia đình, thì chính Người sẽ là dây liên kết để chúng ta yêu thương nhau, là sức mạnh để chúng ta vượt thắng mọi sóng gió, là mẫu gương để chúng ta nhẫn nhịn và tha thứ cho nhau.
Muốn có hạnh phúc trong mái ấm gia đình, mỗi người chúng ta cũng hãy sống cho đúng cương vị của mình là cha, là mẹ, là chồng, là vợ, là con cái. Thánh Phaolô khuyên: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3, 18-21).
Lạy Chúa, là nguồn mọi tình yêu, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con tấm gương Thánh Gia, làm khuôn mẫu cho mọi quan hệ giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình, và giữa cộng đoàn tu viện với nhau.
61. Bí quyết hạnh phúc gia đình
Khi còn sống, trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài BBC, công chúa Diana của Anh quốc đã không ngần ngại bộc bạch hết câu chuyện đổ vỡ của gia đình bà. Sự đổ vỡ của gia đình vương giả này khiến nhiều người phải tiếc xót. Bởi vì, nếu xét theo những tiêu chuẩn thông thường, thì quả thực cặp vợ chồng này có mọi sự để được hạnh phúc, như danh vọng, tiền tài, địa vị. Thế nhưng tại sao họ không tìm được hạnh phúc trong gia đình? Đâu là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ này? Có lẽ họ còn thiếu một cái gì đó mà sự giàu sang phú quý không thể mua được cũng như khiến họ không thể vượt qua được khó khăn thử thách.
Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia để múc lấy bí quyết hạnh phúc gia đình. Cũng như bao gia đình khác, Thánh Gia cũng đã trải qua nhiều sóng gió, thử thách. Chúng ta hãy nhìn lại cảnh bối rối mà có lẽ ít có đôi vợ chồng trẻ nào phải trải qua: vợ sắp sinh đi tìm một quán trọ để qua đêm nhưng không có, cuối cùng phải vào một chuồng súc vật và sinh con ở đó, và rồi sau đó đã phải vội vã đi lánh nạn trong một cuộc hành trình cam go và sống giữa những người xa lạ. Bí quyết đã giúp Đức Maria và thánh Giuse vượt qua khó khăn thử thách, đó là có Chúa Giêsu bên cạnh. Sự hiện diện của Chúa Giêsu chính là nền tảng của gia đình Nagiarét.
Cũng như Thánh Gia, ngày nay các gia đình Việt Nam cũng đang trải qua bao khó khăn thử thách. Trước tiên là cái nghèo và rồi từ nghèo khổ sinh ra dốt nát, dốt nát kéo theo bao hệ lụy khác. Tuy nhiên, nhìn vào gương Thánh Gia, chúng ta thấy rằng nghèo khổ không đương nhiên gây nên bất hạnh và đổ vỡ cho gia đình. Tỷ lệ những đổ vỡ của các gia đình tại các nước công nghiệp tiên tiến là bằng chứng cho thấy giầu có chưa hẳn đã là một bảo đảm cho hạnh phúc gia đình.
Không những trải qua cảnh nghèo, Thánh Gia còn phải đương đầu với bạo chúa Hêrôđê nữa. Ngày nay, các gia đình cũng phải đương đầu với nhiều thứ bạo chúa, như các phương tiện truyền thông quảng bá lối sống đồi phong bại tục nhằm lung lạc và đầu độc giới trẻ, hoặc những luật pháp áp đặt những luật lệ nhằm phá đổ chính nền tảng thánh thiêng của gia đình, chẳng hạn luật cho phép phá thai, ly dị…
Thánh Gia đã vượt qua được sóng gió nhờ niềm tin vững chắc vào sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Đó cũng là bí quyết mà Giáo Hội đề ra cho chúng ta khi mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia. Lấy sự hiện diện của Chúa Giêsu làm nền tảng vững chắc cho gia đình chính là mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu, tha thứ cho nhau; lấy sự hiện diện của Chúa Giêsu làm nền tảng vững chắc cho gia đình chính là lấy sự cầu nguyện trong gia đình làm mối giây liên kết mọi người: một gia đình cầu nguyện chung với nhau là một gia đình đứng vững, và đó là điều chúng ta phải cầu xin cho nhau.
Trong sứ điệp Giáng Sinh gửi toàn thế giới, Đức Gioan Phaolô II nêu cao: Con Thiên Chúa đã chọn lựa đi vào trần gian trong một gia đình là gia đình Nagiarét. Trong mùa Giáng Sinh, đôi mắt chúng ta vui mừng khi chiêm ngắm mầu nhiệm Thánh Gia, cũng như trẻ em hân hoan khi nhìn về máng cỏ và nhận ra nơi đó một kiểu mẫu cho gia đình chúng.
Gia đình Nagiarét quả là kiểu mẫu của mọi gia đình. Chúa Giêsu đã có một khung cảnh thích hợp để trưởng thành, Ngài đã được nuôi dưỡng và giáo dục bởi hai vị thánh là Đức Maria và thánh Giuse. Nói như thế không có nghĩa là gia đình này không có vấn đề. Chúa Giêsu đã không được sinh ra trong những điều kiện bình thường, cha mẹ Ngài đã phải đi gõ cửa từng quán trọ; không bao lâu sau ngày Chúa Giêsu sinh ra, cả ba lại phải lên đường trốn sang Ai cập; mười hai tuổi Ngài lạc mất trong Đền thờ; cuối cùng thảm thương nhất đối với gia đình này hẳn phải là cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.
Cũng như mọi gia đình trên trần thế này, Thánh Gia đã phải trải qua nhiều vấn đề. Tuy nhiên Thánh Gia là một gia đình đặc biệt. Ngày nay các nhà xã hội học đưa ra một lý do giải thích: Đây là một gia đình Do thái. Quả thế tại Mỹ cũng như tại hầu hết các nước thế giới, gia đình Do thái là gia đình trong đó mức phạm pháp của vị thành niên được coi là thấp nhất. Nhưng đâu là chìa khoá giải thích sự kiện này? Thưa chính là niềm tin. Các trẻ em Do thái luôn nhìn vào người cha như một đại diện của Chúa, người cha chúc lành cho con cái. Lớn lên, con cái có thể chê trách người cha của họ về nhiều thiếu sót, nhưng không bao giờ chối bỏ vai trò đại diện Chúa của người cha.
Có bao nhiêu người cha Công Giáo đóng trọn vai trò trong gia đình như thánh Giuse đã từng làm đối với Chúa Giêsu? Có bao nhiêu người cha Công Giáo chủ toạ các buổi cầu nguyện trong gia đình? Có bao nhiêu người cha chúc lành cho con cái trước khi chúng đi ngủ? Có biết bao người cha hy sinh cho gia đình, cho con cái, nhưng họ chỉ là những bóng mờ trong gia đình. Trái lại, nơi nào người cha đóng trọn vai trò trong gia đình, thì quả thực niềm vui trong gia đình đó lớn lao chừng nào. Chúng ta có thể nói đó là bí quyết của Thánh Gia: tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa như người cha trong gia đình.
Lời Chúa Giêsu nói với cha mẹ Ngài đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Cha mẹ không biết là con phải ở trong nhà cha con sao?”. Được ở trong nhà cha, luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa trong gia đình, đó là bí quyết hạnh phúc gia đình mà Chúa Giêsu muốn chỉ cho mọi gia đình. Thật thế, chỉ trong niềm tin, con người mới có thể vượt qua được mọi khó khăn thử thách trong đời sống gia đình; chỉ trong niềm tin vào Thiên Chúa là Cha, nói như thánh Phaolô, con người mới có thể sống hiền lành, khiêm nhường, chịu đựng lẫn nhau.
Chúng ta hãy hướng về Nagiarét, nơi Chúa Giêsu đã từng lớn lên như một con người biết vâng phục cha mẹ và càng khôn lớn thì càng được Thiên Chúa và người đời thương mến. Sự vâng phục của Chúa Giêsu đối với cha mẹ Ngài là một thể hiện của chính sự vâng phục của Ngài đối với Chúa Cha: Ngài đã vâng phục và vâng lời cho đến chết. Đó là bí quyết của đời sống gia đình mà Chúa Giêsu đã để lại cho nhân loại: Ngài luôn sống kết hiệp với Chúa Cha. Chính sự kết hiệp này đã giúp Chúa Giêsu sống vâng phục cha mẹ Ngài, và chính ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong con người Chúa Giêsu đã giúp cho Đức Maria và thánh Giuse vượt qua được bao khó khăn của cuộc sống gia đình.
Chúng ta cầu xin gì trước Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ, nếu không phải là niềm tin, một niềm tin vào sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta có thể thắng vượt mọi cám dỗ thử thách trong cuộc sống.
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đặt vào trong cấu trúc tổng quát của Tin Mừng về thời thơ ấu, truyện Tìm được trẻ Giêsu trong Đền Thờ bổ sung cho những truyện song song trước đây (chào đời, cắt bì, tỏ mình của Gioan và Đức Giêsu). Bản văn này có vẻ giống truyện Đức Maria đi thăm bà Êlisabét (Lc 1,39-56). Tuy nhiên, trong khi truyện Thăm viếng được liên kết chặt chẽ với những truyện loan báo các cuộc chào đời (1,5-25; 1,26-38), truyện Tìm lại Đức Giêsu trong Đền Thờ chỉ được nối kết khá lỏng lẻo. Thật ra, truyện này là một đơn vị độc lập.
Cho đến nay tác giả Lc chỉ nói đến Đức Giêsu với những động từ ở thái bị động: cuộc chào đời của Người được loan báo; Người được đặt nằm trong một máng cỏ; được đưa lên Đền Thờ; được hai cụ già bồng ẵm trên tay; được công bố và ca ngợi vì ý nghĩa Người đang mang nơi mình. Đức Giêsu không hành động, Người chỉ là một em bé yếu đuối, được người khác hành động giúp cho. Bây giờ lần đầu tiên Người tỏ ra như là nhân vật chính, và tác giả ghi nhận những lời đầu tiên của Người. Lối xử sự của Người gây ra một hoàn cảnh đau đớn. Câu nói đầu tiên của Người bắt đầu với một từ “tại sao?”, như để trả lời cho một từ “tại sao?” của mẹ Người. Trong những lời đầu tiên của Người, Đức Giêsu đã gọi Thiên Chúa là “Cha Người” và khẳng định rằng đối với Người, liên hệ với Cha quan trọng hơn tất cả mọi sự khác.
Ta cũng có thể tự hỏi vì sao tác giả Lc đã ghi lại sự cố này. Dường như có ba lý do:
- a) Lý do 1 (chủ đề): Sự cố xảy ra tại Đền Thờ (2,46). Thế mà chúng ta biết rằng tác giả Lc quan tâm đến chủ đề Đền Thờ. Tin Mừng đã bắt đầu với việc thiên thần Gabriel hiện ra với Dacaria trong Đền Thờ. Rồi đến việc cha mẹ dâng Đức Giêsu trong Đền Thờ. Bằng truyện 2,41-52, tác giả Lc có thể kết thúc phân đoạn đầu bằng một lời nhắc đến Đền Thờ, cũng như sau này khi kết thúc Tin Mừng (24,53). Lời Đức Giêsu nói: “Con có bổn phận ở nhà của Cha con” , nghĩa là ở trong Đền Thờ, đưa lại cho sự hiện diện của Đức Giêsu trong Đền Thờ chiều kích biểu tượng, là cuộc trở về nhà Cha Người.
- b) Lý do 2 (văn thể): Tác giả Lc cũng khác với các Tin Mừng khác ở điểm ngài muốn giới thiệu cho chúng ta một bản “tiểu sử” của Đức Giêsu đúng với các quy tắc của thể loại tiểu sử (haggada Do Thái và khoa tiểu sử Hy Lạp). Thể loại này lưu tâm đến thời niên thiếu của nhân vật. Do đó, Lc đã lấp đầy khoảng trống giữa các bài tường thuật về chào đời và các bài về đời sống công khai bằng truyện này. Nội dung của truyện được giới thiệu bằng hai câu đóng khung bài tường thuật (2,40 và 2,52): vấn đề là sự tăng trưởng của Đức Giêsu về sự khôn ngoan (sophia). Vì ngữ cảnh của Tin Mừng về Thời thơ ấu là sự tăng trưởng về khôn ngoan, ta hiểu vì sao Lc đã chọn một bản văn minh họa sự khôn ngoan của Đức Giêsu.
- c) Lý do 3 (tín lý): Rất sớm trong Kitô giáo đã xuất hiện một luồng tư tưởng cho rằng Đức Giêsu là một người như biết bao người khác, chào đời từ cuộc hôn nhân của Maria và Giuse, nhưng được Thánh Thần ngự xuống trên mình, vào dịp nhận phép rửa, để trở thành vị ngôn sứ ưu việt (quan niệm của một số Kitô hữu gốc Do Thái, phái Êbiônít, một số người theo thuyết Ngộ đạo). Có thể quan niệm này xuất phát từ TM Mc (khởi đầu với phép rửa). Do đó, Lc tìm cách cho thấy rằng Đức Giêsu ý thức Người là Con Thiên Chúa ngay khi còn thơ ấu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành sáu phần:
1) Khung cảnh (2,41-42);
2) Bị lạc mất Đức Giêsu (2,43-45);
3) Tìm ra Đức Giêsu (2,46-48);
4) Câu nói của Đức Giêsu (2,49);
5) Kết luận nguyên thủy (2,50);
6) Kết luận thứ hai của Lc (2,51-52).
3.- Vài điểm chú giải
– Lễ Vượt Qua (41): Lễ Vượt Qua được cử hành vào lúc mặt trời lặn đánh dấu ngày 15 Nisan, là tháng đầu năm theo lịch Babylon/Do Thái (tháng Ba/Tư; tên cũ là tháng Aviv: x. Đnl 16,1). Dịp này người ta giết chiên Vượt Qua vào chiều ngày 14 Nisan, nướng lên và ăn trong gia đình vào lúc mặt trời lặn (Lv 23,6). Tất cả những gì có men đều phải loại ra khỏi nhà trước khi giết chiên (Đnl 16,4). Không những hôm ấy, người ta phải ăn với bánh không men (Xh 12,8), mà con tiếp tục ăn như thế bảy ngày sau đó (Xh 12,17-20; 23,15; 34,18). Thời gian bảy ngày này được gọi kiểu chuyên môn là “Lễ Bánh Không Men”. Tuy nhiên, với thời gian, “Lễ Vượt Qua” trở thành tên gọi cho cả bảy hoặc tám ngày (Đnl 16,1-4; Ed 45,21-25). Dường như trước khi có Israel, lễ Vượt Qua là một lễ của dân du mục (Xh 5,1; 10,9), còn lễ Bánh Không Men là lễ của dân định cư nguồn gốc nông dân (Xh 23,15-16).
– mười hai tuổi (42): Theo Xh 23,17 và Đnl 16,16, mọi người nam ở Paléttina, không phân biệt tuổi tác, phải ra trình diện trước nhan Đức Chúa vào ba đại lễ trong năm: lễ Bánh Không Men (tức lễ Vượt Qua), lễ Mùa Gặt và lễ Lều. Nhưng truyền thống Do Thái giáo chỉ buộc một trẻ em Do Thái tham dự các cử hành phụng tự ở hội đường khi được mười ba tuổi (em được gọi là bar miswâh, “con của điều răn”; nghi thức đưa em vào tuổi giữ luật cũng được gọi như thế). Tuy thế, dường như không có liên hệ gì rõ rệt giữa nghi thức “gia nhập” hội đường và việc hành hương. Nếu tác giả cố tình ghi lại chi tiết 12 tuổi thì hẳn không chỉ để chứng tỏ rằng Thánh Gia đạo đức, tuân giữ quá Luật. Có lẽ nên nghĩ đến một ý hướng biểu tượng. Con số 12 có nghĩa là “toàn thể”, hoàn tất”. Ghi nhận rằng khi ấy Đức Giêsu được 12 tuồi chính là quy hướng tâm trí về lúc kết thúc hoạt động của Người nơi trần thế, về cái Ngày mà Người sẽ trở về với Chúa Cha. Nơi Lc, ý tưởng về “hoàn tất” này luôn được kết nối với Thương Khó – Phục Sinh (x. 12,50; 18,31; 22,37; 9,31; 22,16; 24,44…) là biến cố được coi như điểm tới và sự hoàn tất sứ mạng trần thế của Đức Giêsu (9,51). Và chính là lời loan báo ẩn giấu này về cuộc Phục Sinh là ý hướng đầu tiên của bài tường thuật.
– Xong kỳ lễ (43): dịch sát là “và khi các ngày ấy đã mãn” (NTT). Như vậy, Giuse và Maria đã ở lại Giêrusalem từ bảy đến tám ngày mừng lễ Vượt Qua và Bánh Không Men (x. Lv 23,5-6).
– Đang ngồi giữa các bậc thầy (46): Kathezomai có thể có nghĩa là “ngồi” hay là “ngự”. Các thiếu niên đến muốn học, các thầy cũng không ngăn cản. Do đó, có thể hiểu chi tiết “ngồi” (kathezomenon) này cho biết Đức Giêsu muốn học hỏi với các thầy. Tuy nhiên, hẳn là tác giả Lc không chỉ ghi lại một chi tiết chứng tỏ Đức Giêsu hiếu học. “Ngồi” cũng là cung cách của một vị thầy: như thế, động từ này hẳn là báo trước việc Đức Giêsu giảng dạy như một vị thầy (x. 5,3; 19,47–21,38). Ở đây Đức Giêsu đã chứng tỏ một trí thông minh khiến các vị thầy phải kinh ngạc. Điều này sẽ thường xuyên xảy ra vào thời gian Đức Giêsu hoạt động công khai. Nói chung, Đức Giêsu xuất hiện trong trong các TM như nhà chú giải (x. 4,32). Ở đây, Đức Giêsu tỏ ra một khả năng hiểu Kinh Thánh, một khả năng được chính các bậc thông luật nhìn nhận. Như vậy, Người là một vị thầy đáng tin cậy.
Đàng khác, theo Ml 3,3, vào Ngày của Đức Chúa, Đức Chúa sẽ vào trong Đền Thờ của Ngài và “ngồi/ngự [= hiển trị]” (kathieitai, LXX) trong tư cách thẩm phán. Ta có thể hướng tới cả nghĩa này, bởi vì toàn khối Lc 1–2 đã cho thấy bằng những nét chấm phá kín đáo tính siêu việt mà cuộc sống ẩn dật của trẻ Giêsu mạc khải ra. Sự kết nối kathezomai với “giữa các bậc thầy” khiến phải nghĩ đến nghĩa mạnh là “ngự [= hiển trị]” như trong Ml 3,3; với lại bản văn này cũng như bài tường thuật trước có gợi đến lời sấm này. Như thế, về phương diện thể lý, cho dù Đức Giêsu có ngồi bên chân các thầy thông luật, như bất cứ em bé nào, Người vẫn là tác nhân chính mà toàn cảnh phải xoay quanh. Một cách mầu nhiệm, Người đã là Con Thiên Chúa “ngự trong Đền Thờ Người”, theo lời sấm Ml 3,3.
– kinh ngạc về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu (47): Đây là một câu được viết theo “phép thế đôi” (hendiadys), có nghĩa là: “các lời đối đáp thông minh của cậu”.
– con có bổn phận (49): Dịch sát là “cần thiết (dei) là con ở nhà của Cha con”. Từ dei không chỉ diễn tả một sự cần thiết tổng quát, nhưng là điều nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa có liên can đến Đức Giêsu. Từ ngữ này được dùng 7 lần trong TM Lc, luôn được kết nối với cuộc Thương Khó như cách hoàn tất các sấm ngôn (2,49; 13,33; 17,25; 22,37; 24,7; 24,26; 24,44).
– ở nhà của Cha con (49): Câu en tois tou patros mou cũng có thể dịch là “(can dự đến) các công việc của Cha con” hoặc “ở giữa những người thuộc về Cha con”. Dịch là “ở nhà của Cha con” thì được hỗ trợ bởi các bản văn như St 41,51; Et 7,9; G 18,19 và một số bản văn ngoài Kinh Thánh. Trên môi miệng của một em bé, ý nghĩa cụ thể này dường như hợp lý hơn; đàng khác, Đền Thờ Giêrusalem được gián tiếp coi là nhà Thiên Chúa ở Lc 19,46. Với câu này, cũng rõ ràng là Đức Giêsu coi Thiên Chúa là Cha trên trời của Người.
– Nhưng ông bà không hiểu (50): Hơn ai hết, hai ông bà biết nguồn gốc siêu phàm của con mình. Nhưng ông bà không hiểu ngay được là Người nói về Cha Người trên trời theo nghĩa xác thực nhất. Nhất là ông bà không thể đoán ra được những gì nằm dưới lời nói của con trẻ: một tương lai mà ông bà hoàn toàn không thể nắm bắt được. Nếu không giải thích như thế, chúng ta sẽ khiến Lc mâu thuẫn, bởi lẽ Đức Maria đã biết tư cách Con Thiên Chúa của Đức Giêsu vào ngày Truyền Tin. Trong Lc, đề tài “không hiểu” (9,45; 18,34 và 24,25) luôn liên hệ đến các lời Đức Giêsu nói cách huyền bí về cuộc Thương Khó của Người. Vậy sự không hiểu của Maria ở đây không do lỗi Mẹ, nhưng do chỗ lời Đức Kitô loan báo về Thương Khó phải bị che giấu với những người được loan báo. Họ chỉ hiểu sau khi các lời này được ứng nghiệm.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Bằng câu truyện dâng trẻ Giêsu vào Đền Thờ, tác giả Lc cho thấy Đức Chúa đã trở lại theo các lời sấm Cựu Ước mà chiếm lấy Đền Thờ của Người. Bằng câu truyện hôm nay, tác giả cho thấy Người “ngự trị” trong Đền Thờ. Tuy nhiên các ý nghĩa này chìm dưới những truyện rất tầm thường trong đời thường.
Đức Giêsu ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Người ở lại Đền Thờ, nghe các cuộc đối thoại của các vị thầy, đặt câu hỏi và làm người ta kinh ngạc vì sự khôn ngoan trong các câu trả lời của Người. Ở tuổi 12, khi “ngồi giữa các bậc thầy”, Người đã tự loan báo mình như là người sau này sẽ giảng dạy với uy quyền trong toàn xứ sở và ngay trong Đền Thờ (19,47–21,38). Nhưng Người cũng đang sống tư cách là “Đức Chúa hiển ngự” trong Đền Thánh của Người.
Trong khi đó, Maria và Giuse đang trên đường về Nadarét. Sau một ngày đàng, các ngài mới nhận ra là Đức Giêsu không có ở đây, các ngài rất lo lắng. Các ngài phải mất “ba ngày” mới tìm ra Đức Giêsu: ba ngày là khoảng thời gian đi từ cái chết đến cuộc sống lại của Đức Giêsu (“vào ngày thứ ba”); chính Đức Giêsu diễn tả điều đó khi nói là “cần thiết phải”, một công thức được Lc gắn liền với cuộc Thương Khó như sự hoàn tất các sấm ngôn. Khi tìm ra Người, Maria đã bộc phát nói lên một câu hỏi mà cũng là một lời than thở: “Này con, tại sao con làm thế? Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con!”. Đây là một phản ứng bộc phát của một người mẹ đang phải đau khổ và cho biết là bà đã phải đau khổ đến độ nào. Maria ngỏ lời với Đức Giêsu trong tư cách là con. Bà chưa bao giờ thấy và chờ đợi là con có một hành vi như thế. Đức Giêsu, trong tư cách Con Thiên Chúa, hoàn toàn độc lập với mọi người. Sự độc lập này được diễn tả qua thế tương phản giữa từ ngữ “cha con” trên môi miệng Maria và “Cha Con” trên môi miệng Đức Giêsu.
Câu trả lời của Đức Giêsu cũng gây ngạc nhiên như lối xử sự của Người vậy: “Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở nơi nhà Cha con sao?” (NTT). Đức Giêsu đã gọi Thiên Chúa là “Cha Người”. Cho đến nay, trong Tin Mừng, không có một ai gọi Thiên Chúa như thế cả. Maria đã ngỏ lời với Thiên Chúa như là “Đức Chúa và Thiên Chúa” (1,46t); Dacaria gọi Thiên Chúa là “Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en” (1,68); Simêôn thưa với Thiên Chúa là “Đức Chúa” (2,29). Cả sau này Đức Giêsu cũng sẽ gọi Thiên Chúa là “Cha” (10,21; 22,42) và sẽ dạy các môn đệ thưa với Thiên Chúa như thưa với một người “Cha”. Nhưng thiên thần đã loan báo về Đức Giêsu như là Con Đấng Tối Cao” (1,32), Con Thiên Chúa (1,35). Người ở trong một quan hệ hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa: Thiên Chúa là Cha Người và Người là Con Thiên Chúa. Hành động đầu tiên của Người mà tác giả ghi nhận là một hành động nhằm diễn tả bí mật thâm sâu đó trong cuộc đời Người. Người biết Người là Con Thiên Chúa và nhất là Người biết rằng Người được liên kết với ý muốn của Thiên Chúa. Trong tư cách là Con Thiên Chúa và trong quan hệ hết sức chặt chẽ với Thiên Chúa, được biểu lộ ra nơi sự vâng lời của Người với ý muốn của Chúa Cha, Người sẽ đi theo đường lối của Chúa Cha.
Tác giả ghi rằng Maria và Giuse không hiểu các lời ấy. Những lời Đức Giêsu nói đây là một câu nói huyền bí, chẳng giải thích gì cả, cũng chẳng phải để biện minh cho cách xử sự của Người. Những lời ấy chỉ mời Maria và Giuse vượt lên trên bình diện của những lo toan đời thường để gặp bình diện của Thiên Chúa, là nơi mà Người vẫn ở. Ngay cả hôm nay nữa cũng không dễ gì mà hiểu các lời ấy, không những trong các từ ngữ mà cả trong ý nghĩa. Điều này thúc đẩy chúng ta đặt ra các câu hỏi: Phải chăng Maria và Giuse không được đi tìm Người? Làm thế nào các ngài có thể hiểu được rằng Thiên Chúa muốn rằng Người phải ở lại trong Đền Thờ? Phải chăng Thiên Chúa lại không muốn điều này được thông tri cho các ngài? Phải chăng ý muốn của Thiên Chúa là cứ bỏ mặc các ngài ba ngày trong tình trạng lưỡng lự và để các ngài phải đi lòng vòng mà tìm Đức Giêsu? Không dễ gì mà trả lời các câu hỏi như thế. Ý nghĩa của biến cố này phải được tìm ra trong chiều hướng này: Maria và Giuse phải trải nghiệm một cách hết sức sâu xa, đau đớn và không thể quên được rằng Đức Giêsu quy phục một quyền bính cao hơn. Tương quan đặc biệt của Đức Giêsu với Thiên Chúa đưa Đức Giêsu đến một lối xử sự có vẻ cứng cỏi không sao hiểu được và có một sự chia cắt đau đớn, do chỗ nó không tương ứng với các chờ đợi của cha mẹ Người. Đức Giêsu sẽ đi theo con đường của Người, con đường đã được Chúa Cha vạch ra từ trước rồi. Kể cả Maria cũng phải chấp nhận con đường ấy như thế. Kể cả bà cũng không được mong là biết ngay mọi sự cách rõ ràng và được khai mở ngay vào mọi sự.
Bà phải làm gì khi bà không hiểu? “Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (2,51). Ghi nhớ điều ấy và chờ đợi, tôn trọng điều ấy và kiên nhẫn, thái độ này là một hình thái đức tin, một hình thái tin tưởng vào Đức Giêsu và vào Thiên Chúa.
+ Kết luận
Sự cố này, được tác giả Lc kể trong khung cảnh những bước khởi đầu của Đức Giêsu là sự cố duy nhất qua đó ta không ghi nhận được các nét vui tươi hân hoan. Con trẻ, đã được đón tiếp với biết bao niềm vui và lời ca ngợi Thiên Chúa, sẽ đi theo con đường vâng phục đối với Chúa Cha. Niềm vui và lời ca ngợi vẫn có giá trị và ngày càng nhận được nền tảng vững chắc và lý hữu vững vàng hơn. Ở đây ta thấy Đấng Cứu thế, Đức Kitô, Đức Chúa, ơn cứu độ của Israel và của mọi dân tộc không là gì khác ngoài Con Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chọn ở lại với chúng ta và cách tốt nhất để thực hiện điều này là sự hiện diện của Con của Người. Nơi Chúa Con, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Và không có lý do nào to lớn hơn để mà vui lên nữa. Nhưng ở đây ta cũng thấy rằng chúng ta không thể áp đặt cho Chúa Con nẻo đường Người phải theo, trái lại chúng ta phải chấp nhận con đường của Người, cho dù trong chúng ta phát sinh ra nhiều câu hỏi “tại sao”.
5.- Gợi ý suy niệm
- Ngay từ thuở niên thiếu, Đức Giêsu đã ý thức rằng Người sẽ phải trở về nhà Cha Người trên trời bằng một cái chết dữ dội, đã được Kinh Thánh tiên báo (Is 53; Tv 22; Tv 69…) và, vẫn theo Kinh Thánh (Hs 6,2; 2 V 20,5), người ta chỉ gặp lại Người (đang sống) vào ngày thứ ba. Truyện này cho thấy Người muốn cho Maria và Giuse sống cách biểu tượng mầu nhiệm Thương Khó – Phục Sinh, trước khi sống thực sự mầu nhiệm này. Thật ra mọi sự cố trong cuộc đời Đức Giêsu đều nói về mầu nhiệm trung tâm này. Chúng ta được mời gọi nhận biết rằng các biến cố thông thường của đời ta chỉ có ý nghĩa khi chúng giúp chúng ta sống mầu nhiệm Phục Sinh (Vượt Qua), nghĩa là đi từ cuộc sống này mà vào sự sống của chính Thiên Chúa.
- Như Đức Maria đã hiểu, các cha mẹ hôm nay cũng cần phải hiểu: họ không bao giờ được chống lại ơn gọi của con cái họ, khi chúng đã nhận ra (ơn gọi linh mục, tu sĩ, hoặc ơn gọi lập gia đình). Muốn giữ con cái lại cho mình bằng mọi giá là một hình thái ích kỷ không tương hợp với tình yêu chân chính mà các cha mẹ phải có đối với con cái. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh lại: đi theo ơn gọi phải là sống một sự vâng phục đối với Đấng Cao Cả, chứ không phải là một sự đào thoát để tránh một quyền bính. Đức Giêsu vâng lời Chúa Cha, nhưng Người cũng vâng lời cha mẹ trần thế.
- Maria và Giuse bị lạc Đức Giêsu, không do lỗi các ngài. Nhưng các ngài vẫn đi tìm vì không thể sống thiếu Đức Giêsu. Khi người ta cảm thấy mình khô khan, sầu khổ thiêng liêng, không do lỗi mình, sự ngờ vực, bóng tối hoàn toàn, thì phải xem có phải do lỗi mình không, hay là do Thiên Chúa muốn đào luyện chúng ta (x. Lc 24,28). Cứ đi tìm Người cho đến khi tìm ra Người.
- Điều ta không hiểu, ta có thể phớt lờ đi hoặc tìm cách quên đi. Ta có thể tuyên bố rằng điều ấy chẳng có nghĩa gì và triệt để từ chối nó. Ngược lại, Đức Maria ghi giữ điều ấy và làm cho nó thành lực thúc đẩy bà kiên trì suy nghĩ (x. 2,19). Thật ra một điều gì đó có thể không nói cho tôi biết mọi sự vào lúc này. Tôi cũng chẳng có thể tự phụ cho rằng vào mọi lúc tôi hiểu tất cả những gì có một ý nghĩa. Mức độ hiểu biết giới hạn không phải là một lý do để loại bỏ hoặc xua trừ một điều gì đó.
64. Thánh Gia mẫu gương gia đình hạnh phúc
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
- LỜI CHÚA: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái… Người làm vợ hãy phục tùng chồng. Như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa” (Cl 3,14.18).
- CÂU CHUYỆN: MỘT CON NGƯỜI CẦU TOÀN:
Theo chuyện cổ Hồi Giáo thì NA-TRÚT-ĐIN là hiện thân của những chàng trai độc thân khó tính. Trong một buổi trà dư tửu hậu, khi bạn bè chất vấn tại sao đến tuổi bốn mươi rồi mà anh vẫn chưa lấy vợ, Na-trút-đin đã tâm sự về tình trạng độc thân bất đắc dĩ của anh như sau: “Tôi đâu phải là không muốn lấy vợ như các bạn nghĩ: Suốt cả tuổi thanh xuân, tôi đã đi khắp nơi để tìm cho mình một người vợ hoàn hảo như ý muốn. Tại Cai-rô, thủ đô Ai Cập, tôi đã sớm gặp được một thiếu nữ vừa đẹp người lại vừa thông minh. Nàng có đôi mắt bồ câu với con ngươi đen nhánh giống như hai hạt ô-liu. Tôi ưng ý ngay trong lần gặp gỡ đầu tiên. Nhưng chỉ vài ngày sau, tôi đã khám phá ra rằng: Nàng ta không phải là một cô gái hiền thục như tôi mong muốn. Thế là tôi liền rời bỏ Cai-rô để đến thành Bát-đa Thủ đô nước I-rắc, để tìm kiếm một người vợ lý tưởng, nghĩa là phải vừa đẹp người lại vừa phải thông minh dịu hiền nữa! Tại đây, nhờ Đức Thánh Al-lah phù hộ nên tôi đã sớm gặp được một thiếu nữ hoàn hảo, đúng như lòng hằng mong ước. Nhưng có điều chúng tôi lại bị khắc khẩu mỗi khi nói chuyện: Ít khi chúng tôi cùng chung quan điểm về bất cứ lãnh vực nào. Thế là tôi đành phải âm thầm chia tay với nàng. Từ đó, tôi liên tiếp trải qua nhiều mối tình với nhiều phụ nữ khác nhau.
Nhưng người được mặt này thì lại mất mặt kia, được tính tốt này thì lại vướng phải tật xấu nọ. Đến lúc tôi sắp hoàn toàn thất vọng, tưởng như sẽ không thể tìm đâu ra được một người đàn bà hoàn hảo, thì một hôm Đức Thánh Al-lah đã sắp xếp cho tôi gặp được một thiếu nữ siêu tuyệt vời. Có thể nói: Nàng là sự kết hợp rất nhiều đức tính của một người vợ lý tưởng mà tôi hằng mong ước: Nàng vừa đẹp người, thông minh, lại vừa hiền dịu và ân cần tử tế trong giao tiếp… Ngoài ra nàng lại còn hát hay múa giỏi, nấu ăn ngon, cắm hoa đẹp, thêu thùa cắt may thành thạo… Thế nhưng các bạn có biết vì sao cho đến giờ này tôi vẫn là một chàng trai độc thân khó tính không??? Vì khi tôi mạnh dạn ngỏ lời cầu hôn với nàng, thì lập tức tôi đã bị nàng thẳng thừng từ chối, vì nàng cũng đang đi tìm một người đàn ông lý tưởng để lấy làm chồng. Mà theo đánh giá của nàng thì tôi chỉ là một gã đàn ông tầm thường, có quá nhiều thói hư tật xấu, không xứng đáng làm chồng của nàng!”.
- SUY NIỆM:
– THÁNH GIA: MẪU GƯƠNG CỦA GIA ĐÌNH TÍN HỮU: Gia đình là nền tảng của xã hội và là tế bào của Hội thánh! Gia đình có bền vững hạnh phúc thì xã hội mới an vui và Hội thánh mới phát triển. Hôm nay Hội thánh giới thiệu Thánh Gia cho các gia đình tín hữu học tập noi gương: Trong gia đình này có thánh cả Giu-se là một người chồng lý tưởng: hết lòng yêu thương và chu tòan trách nhiệm lo cho vợ con. Còn Đức Ma-ri-a thì nêu gương cho các người làm vợ làm mẹ về tình yêu thương hết mình phục vụ chồng con. Trong gia đình này, trẻ Giê-su chính là người con hiếu thảo, luôn tôn kính vâng lời và làm vui lòng cha mẹ trong gia đình.
– GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC PHẢI TRÊN THUẬN DƯỚI HÒA: Về phạm vi nhân lọai thì thánh Giu-se là người gia trưởng có tinh thần trách nhiệm cao, rồi đến Đức Ma-ri-a là hiền mẫu luôn biết quan tâm chăm sóc cho chồng con và cuối cùng là trẻ Giê-su luôn hiếu thảo thể hiện qua sự vâng lời và luôn làm vui lòng cha mẹ, như Tin Mừng Lu-ca viết: “Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,51a).
– GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC PHẢI CÓ SỰ BỔ TÚC CHO NHAU: Thiên Chúa đã dựng nên hai người nam nữ tuy khác nhau, nhưng không đối kháng mà còn bổ túc cho nhau. Hai vợ chồng mỗi người đều được Chúa ban những ưu điểm phù hợp với vai trò trong gia đình như sau:
- Nếu người chồng có sức mạnh ví như là cây cột nhà chống đỡ làm cho gia đình bền vững, thì người vợ là sợi dây yêu thương liên kết các thành viên trong gia đình lại với nhau.
- Nếu người chồng có khả năng kiếm tiền nuôi sống gia đình, thì người vợ là nhà quản lý tài ba biết sắp xếp mọi việc và bảo vệ mái ấm gia đình.
- Nếu người chồng được ví như vị thuyền trưởng lãnh đạo gia đình, thì người vợ phải là tài công trực tiếp điều khiển bánh lái, phối hợp chặt chẽ với thuyền trưởng để đưa con tàu gia đình đến bến bờ hạnh phúc.
- Nếu người chồng cần tính nghiêm khắc, thì người vợ lại cần sự dịu dàng, để con cái tuy phải tuân giữ kỷ luật nhưng vẫn cảm thấy dễ chịu ở trong bầu khí yêu thương của gia đình.
- Nếu người chồng có vai trò giám đốc tổng quát xí nghiệp thì người vợ là giám đốc điều hành lo quản lý mọi việc nhà, chứ không chỉ là người lao công lo giúp việc nhà, như lời cầu của chủ tế trong thánh lễ hôn phối: “Lạy Cha, Cha đã đặt người nữ làm trợ tá bất khả phân ly của người nam khiến họ không phải là hai nhưng chỉ là một xương một thịt… Xin cho chú rể biết trọn niềm tin tưởng ở vợ mình, nhìn nhận vợ là người bạn bình đẳng và cùng thừa hưởng sự sống là hồng ân Chúa ban. Xin cho anh biết luôn yêu thương kính trọng yêu thương vợ như Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh Người”.
– GIA ĐÌNH HẠNH PHÚC PHẢI CÓ CHÚA HIỆN DIỆN: Muốn có hạnh phúc thì gia đình phải có Thiên Chúa là Tình Yêu ngự trị. Tình yêu chính là sợi dây bền chặt liên kết các thành viên lại với nhau. Thứ đến phải có Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường, rồi còn phải có ơn Thánh Thần là sức mạnh giúp hai vợ chồng cùng nhau gìn giữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nhờ đó vợ chồng sẽ dễ dàng đồng tâm hiệp lực để cùng vượt qua các phong ba thử thách cuộc đời (x Cl 3,12-17), như người đời thường nói: “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”.
- THẢO LUẬN: Gia đình hôm nay thường gặp nhiều khó khăn như: Con cái dễ bị hư hỏng vì mắc các thói hư tật xấu, vợ chồng khó giữ trọn được lời thề hứa yêu thương, tôn trọng và trọn đời chung thủy với nhau… Theo bạn đâu là nguyên nhân quan trọng nhất ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình và cần phải khắc phục thế nào?
- NGUYỆN CẦU
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin nhìn đến những gia đình đang thiếu vắng tình yêu, hay đang thiếu những phương tiện vật chất tối thiểu, những gia đình đang buồn sầu vì vắng tiếng cười trẻ thơ, hay trái lại đang vất vả lo toan vì đàn con nheo nhóc đói khát của ăn vật chất cũng như tinh thần. Xin nâng đỡ những gia đình đã biến thành hỏa ngục vì dối trá, ích kỷ, kiêu căng, giận hờn khi luôn hành hạ và làm khổ lẫn nhau.
– LẠY CHÚA. Xin nhìn đến những trẻ em đang cần được chăm sóc và yêu thương, những trẻ em đang bị lạm dụng tình dục, đang bị bóc lột tiền bạc và trở thành những món hàng để con buôn trao đổi kiếm lời; Những trẻ em đang lạc lõng bơ vơ và không được đến trường; Những trẻ em bị cuộc đời vùi dập và đang biến dạng trở thành hư hỏng… Xin hãy biến đổi các gia đình tín hữu chúng con. Xin sai Thánh Thần đốt lên ngọn lửa tin yêu trong lòng mọi thành viên. Xin cho mỗi người chúng con biết luôn chu toàn nhiệm vu xây dựng gia đình cả về tinh thần cũng như vật chất, hầu gia đình chúng con ngày thêm hòa hợp hạnh phúc, là dấu chỉ giúp người đời nhận biết tin yêu Chúa.
- Xin hiệp cùng Mẹ Maria
Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.