Chúa Nhật XXV Thường Niên – Hãy Đi Vào Vườn Nho – Giải thích bản văn Tin Mừng

21/09/2023

Mt 20,1-16a: Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Nước trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông. Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng”. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.

Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: “Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?” Họ thưa rằng: “Vì không có ai thuê chúng tôi”. Ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta”.

Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: “Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết.” Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng.

Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn, nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh liền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: “Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao”? Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao?” Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng? Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”.

Vào cuối chương 19, Phêrô đặt ra vấn đề phần thưởng cho việc đi theo Chúa Giêsu Kitô. Và Chúa đã hứa với các môn đệ một phần thưởng “gấp trăm và sự sống đời đời” (19,27-29). Dụ ngôn nầy liên kết với đoạn trên như một minh họa (“vì thế”, gar). Dụ ngôn 20,1-15 được đóng khung bởi hai câu 19,30 và 20,16, và chủ đề của dụ ngôn nói đến sự tự do của Thiên Chúa trong việc thưởng công. Về bố cục, dụ ngôn có thể phân thành hai phần: mướn người vào làm vườn nho (20,1-7), vàtrả tiền công (20,8-15). Các từ vựng chính chi phối trong dụ ngôn nầy liên quan đến giờ giấc và thứ tự: “giờ thứ nhất”, “giờ thứ hai”…, và “người trước hết”, “người cuốì hết”.

 Mướn người làm công cho vườn nho (cc. 1-7)

Phần thứ nhất của dụ ngôn nói về việc mướn người vào làm vườn nho. Công thức mở đầu dụ ngôn cũng thấy trong 18,23, “Nước Trời giống như ông vua kia”. Thật ra, Nước Trời không giống “như ông vua”, mà giống như câu chuyện ông chủ mướn người vào làm vườn nho mình. Cũng như Nước Trời không giống như “người buôn ngọc quý”, mà như “viên ngọc quý” (13,45); Nước Trời không giống “ông vua làm tiệc cưới cho con mình”, mà giống “tiệc cướì” (22,2). Như thế chỉ có hiểu Nước Trời như thế nào từ những điều rút ra từ nội dung của dụ ngôn.

Ông chủ mướn người vào các giờ khác nhau vào làm vườn nho. Các hạn từ “Chủ  nhà”, “chủ vườn nho”,“vào vườn nho”, eis ton ampelōna, (cc. 1.2.4.7.8), làm nghĩ đến Thiên Chúa và dân Israel, “Vườn nho của Đức Chúa các đạo binh đó là nhà Israel” (5,7). Việc thuê mướn và trả công, misthoomai, và nói đến trong dụ ngôn nầy mang ý nghĩa cánh chung (x. 5,12; 6,1; 10,41tt).

Sau dẫn nhập, Matthêô trình bày ông chủ mướn nhóm người đầu tiên từ sáng sớm (c. 2) tách biệt khỏi nhóm thứ hai gồm những người được mướn vào “từ giờ thứ ba” cho đến “giờ thứ mười một” (cc. 3-5). Nhóm người đầu tiên nầy có một điểm khác biệt tương phản so với nhóm sau là có sự thỏa thuận giữa họ với chủ nhà về tiền công nhật là “một quan tiền” (c. 2). Sự thoả thuận nầy cho thấy có sự mặc cả, tính toán. Matthêô đã khéo trình bày “đồng ý với thợ một quan tiền” trước, rồi mới đến “ông chủ sai vào vườn nho”. 

Trái với nhóm sau, ông chủ chỉ hứa “Tôi sẽ trả công bằng cho các anh” (c. 4), và mệnh lệnh “Cả các anh nữa hãy đi làm vườn nho” (cc. 4.7). Về nhóm nầy, Matthêô ghi nhận là họ “đứng vô công rỗi nghề”. Tính từ argos, (= a + ergos), nghĩa là “không có việc”, “vô dụng” (x. 12:36). Qua tính từ nầy Matthêô cho thấy sự vô dụng của những người trong nhóm thứ hai, và lòng tốt của chủ nhà. Chủ nhà dùng động từ “cho”, didōmi, đối với những người nầy, thay vì “trả công”, misthoomai, đối với nhóm đầu tiên, hay theo cách suy nghĩ bình thường của những người vào giờ thứ mười một (c. 7). Didōmi dùng cho Thiên Chúa. Ngài ban ơn do lòng tốt, chứ không bởi công lao con người (6,11; 7,7).

Vậy với phần đầu tiên nầy Matthêô trình bày việc ông chủ mướn hai nhóm người vào làm vườn nho. Một nhóm đi làm dựa trên sự thỏa thuận có tính toán, và một nhóm nhiều người hơn, đến vào các giờ khác nhau. Phần thưởng cho nhóm người nầy dựa trên lòng tốt của chủ nhà.

Trả tiền công (cc. 8-16)

Phần thứ hai nói đến việc trả tiền công. Những câu đầu (cc. 8-10) trình bày bối cảnh và việc trả tiền công cuối ngày. “Chiều đến” (c. 8), chỉ dẫn thời gian, đóng khung lại một ngày làm công “từ sáng sớm” (c. 1). Người chủ nhà bây giờ được gọi là “chủ vườn nho”. Tất cả các người làm công, ergatēs, đều được gọi vào để trả tiền (c. 1.8). Thứ tự “người trước” và “người sau” bây giờ đảo ngược lại. Người làm giờ thứ mười một được gọi vào trước, và người làm công từ sáng sớm vào sau cùng. Thứ tự nầy cũng thấy trong câu kết đóng khung đoạn nầy (cc. 8.16).

Những câu tiếp đến trình bày cuộc tranh luận giữa chủ vườn nho và những người làm giờ đầu tiên (cc. 11-15). Trước tiên là phản ứng của những người nầy (cc. 11-12). Họ “lẩm bẩm”, gongyzō. Động từ nầy chỉ dùng một lần ở đây trong tin mừng thứ nhất. Thánh sử Luca cũng chỉ dùng động từ nầy một lần, và trong ngữ cảnh Chúa Giêsu “ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi” (Lc 5,30). Đối với người Pharisêô đó là điều trái luật. Như thế có thể hiểu là nhóm người đầu tiên nầy “lẩm bẩm” vì chủ vườn nho hành xử không đúng luật; vì thế mà chủ vườn nho hỏi “tôi không được phép làm điều tôi muốn” ở câu 15. Rồi họ đưa ra sự kiện là ông chủ “kể những người làm một giờ ngang hàng với chúng tôi” (c. 12). Như thế, họ muốn chủ vườn nho phải cư xử “đúng luật” là trả họ số tiền lớn hơn.

Tiếp đến là phản ứng của chủ vườn nho (cc. 13-15). Trong các câu nầy, chủ vườn nho ngỏ với “một người trong nhóm họ”. Trước tiên ông khẳng định về sự công bình. Ông đã không bất công với người ấy,”ouk adikeō (c. 13a), và ông nhắc lại sự thoả thuận giữa đôi bên (c. 13b). Ở trên, nhóm người đầu tiên đặt mình so sánh họ với những người đến sau. Ở đây chủ vườn nho đặt họ so sánh với chính mình. Ông nói đến sự tự do của mình.

“Tôi muốn”, thelō, được dùng đến hai lần trong hai câu 14 và 15. Muốm là hành động. Trong câu 14, chủ vườn nho cho biết “tôi muốn” là động lực ông trả tiền cho người cuối ngang hàng với người ấy, chứ không theo bất cứ sự tính toán nào khác. Động từ didōmi lập lại ở đây, “Tôi muốn cho như bạn”. Ông tự do làm theo ý muốn của mình. Câu 15 gồm hai câu hỏi mà câu trả lời phải là “vâng”. Ông đặt ra tính hợp pháp của việc ông làm. Câu hỏi “Tôi không được phép, exestin, làm như tôi muốn?” hàm ý là đối với người đầu tiên việc ông đã làm là không đúng luật. Tuy nhiên Chúa Giêsu luôn luôn đứng trên lề luật. (12,12-13; 22,17tt).

Trong câu hỏi thứ hai, chủ vườn nho tiếp tục biện minh cho cách cử xử của mình: “mắt anh xấu vì tôi tốt lành?” (c. 15b). Có một số bản văn dịch chữ ponēros là “ghen tị”, “thèm muốn”. Ở đây tôi nghĩ cách tốt nhất là vẫn dùng chữ “xấu” cho từ nầy, và tìm cách giải thích từ nầy được hiểu theo nghĩa nào trong văn mạch nầy. Chủ vườn nho đặt đối chiếu “con mắt xấu” với “tôi là tốt”: “Hay là con mắt anh xấu vì tôi tốt lành?”.

Hiểu thế nào là “mắt xấu” được dùng như một ẩn dụ ở đây. “Con mắt” là một phần thân thể, nhưng chỉ cả con người, bên trong lẫn bên ngoài. “Mắt xấu, ponēros” dẫn đến tối tăm cả con người (6,23). Câu hỏi của chủ vườn nho làm cho người đối thoại phải đặt lại vấn đề về con mắt của mình; đồng thời cũng cho thấy nhận xét của chủ vườn nho về con mắt của người ấy. “Phải chăng là mắt anh xấu…?”, nghĩa là“nên mù loà, tối tăm vì không chịu nỗi sự tốt lành sáng ngời của tôi?” Sự tốt lành của chủ vườn nho làm cho người nầy thấy sự xấu xa của mình. Họ xấu vì họ đã không hài lòng với sự công bình mà họ đã thỏa thuận với chủ ngay từ đầu, bởi đó chủ mới bảo họ: “Hãy lấy phần bạn mà đi” (c. 14a). Họ xấu vì đã tỏ ra tính toán, ghen tị, tương phản với sự không tính toán và quảng đại của chủ vườn nho. Chúa đến làm cho tâm can mọi người thổ lộ (x. Lc 2,35). Nhận xét nầy làm liên tưởng đến thái độ không tốt của người anh cả đứng trước sự quảng đại của người cha nhân hậu trong Lc 15,11-32.

Câu 16 đóng khung lại phần hai nầy và cũng là kết luận của dụ ngôn. Người cuối cùng trở nên trước hết bởi lòng tốt của chủ vườn nho, và người trước hết lại nên cuối hết, vì họ không hiểu, nên không chấp nhận lòng tốt của ông. Trong văn mạch của đoạn 19,27-30, “người sau hết” có thể hiểu là các môn đệ. Họ là những người đến sau giữa những người đầu tiên như người giàu có (19,16-22). Và họ sẽ trở nên “người trước hết”. Điều nầy được Chúa Giêsu báo trước là họ sẽ “ngồi trên mười hai ngai và sẽ xét xử mười hai chi tộc Israel” (19,28). Như thế họ sẽ là “những người trước hết” trong Nước Trời.

Sự công bình của Thiên Chúa dựa trên lòng tốt của Ngài. Ngài quyết định theo ý muốn của Ngài chứ không theo tiêu chuẩn của con người. Bỏ mọi sự mà theo Ngài và làm việc cho vườn nho của Ngài, con người sẽ được ân thưởng vượt quá công nghiệp của mình và lòng mình ước mong.

Linh mục Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến