Chúa Nhật XXXI Thường Niên – Tôi Phải Lưu Lại Nhà Anh – Giải thích bản văn Tin Mừng

27/10/2022

Lc 19,1-10: Vào Giêricô rồi, Chúa Giêsu đi ngang qua thành. Và này, có một người tên là Dakêu, trưởng sở thuế, và là người giàu có. Ông ta tìm cách nhìn xem Chúa Giêsu, nhưng không thể được vì người thì đông mà ông lại thấp bé. Ông ta liền chạy trước và trèo lên một cây sung để xem Chúa Giêsu, vì Ngài sẽ đi ngang qua đó. Đến chỗ ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên nói với ông: “Dakêu, xuống mau đi; hôm nay, Tôi phải lưu lại nhà ông”. Ông mau mắn tuột xuống và vui mừng đón rước Ngài. Thấy vậy, cả đám đông tức giận nói: “Ông ấy lại đến trọ tại nhà một người tội lỗi!”. Còn ông Dakêu thì đứng lên thưa với Chúa: “Này đây, lạy Chúa, con sẽ phân phát cho người nghèo phân nửa tài sản của con, và nếu con có gian lận của ai điều gì, con sẽ đền bù gấp bốn”. Chúa Giêsu nói với ông: “Ngày hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi vì ông này cũng là con cái Abraham; vì Con Người đến là để tìm kiếm và cứu chữa những kẻ bị hư mất”.

Luca thuật lại hai câu chuyện liên quan đến thành Giêricô: người mù được chữa lành khi Chúa Giêsu đến gần đó (18,35-43), và ông Giakêu khi Người đi ngang qua thành (19,1-9). Câu chuyện Giakêu được đặt ở cuối hành trình lên Giêrusalem (9,51-19,27). Hành trình tạm ngưng khi Người dừng chân ở lại nhà người thu thuế nầy (x. 17,11;18,31). Có thể phân chia bố cục của đoạn như sau: – Bối cảnh dẫn nhập (c. 1); – Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6); – Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông, và kết luận (cc. 7-10). Hai phần chính có cấu trúc hình thức tương tự nhau. Trong phần đầu (cc. 2-6), Giakêu tìm gặp Chúa Giêsu, và bị dân chúng cản trở. Họ che ông khỏi thấy Người, vì ông thấp bé (c. 3). Ông tìm cách vượt qua trở ngại bằng cách trèo lên cây sung (c. 4). Chúa Giêsu đáp lại sự tìm kiếm của ông là đi ngang qua chỗ ông và nói với ông (c. 5). Người đến nhà ông và ông đón tiếp trong vui mừng (c. 6). Trong phần thứ hai (cc. 7-10), Chúa Giêsu đến nhà Giakêu, và bị dân chúng cản trở bằng những lời lẩm bẩm (c. 7). Người vẫn đến và Giakêu đáp lại bằng sự sửa mình của ông (c. 8). Chúa Giêsu vui mừng vì đã cứu vớt được một người con của Abraham (cc. 9-10). Những từ quan trọng liên kết hai phần với nhau đều nằm ở câu 5 và 9 là “hôm nay”, “ nhà” và “Giêsu”. Hai câu nầy là chìa khóa giúp hiểu ý nghĩa của mỗi phần. Từ eis-erchomai “đi vào”(c. 1) và erchomai “đi” “đến” (c. 10) đóng khung đoạn (inclusio), đánh dấu việc cứu độ Chúa Giêsu làm cho Giakêu đã xong tại Giêricô. Dựa trên câu chuyện của Giakêu, có thể thấy việc Giakêu tìm kiếm “zēteō” Chúa (c. 3) đã kết thúc với việc Chúa Giêsu tìm kiếm ông theo chiều ngược lại, và đã cứu vớt ông (c. 10).

Chúa Giêsu vội vã đi ngang qua Giêricô để lên Giêrusalem (c. 1). Động từ “đi ngang qua”, dia-erchomai, gợi lên ý tưởng đi xuyên lãnh thổ, và đi vội vã (x. 2,15; 4,30; 5,15). Người nhắm đến Giêrusalem và không muốn chậm trễ. Tuy nhiên, Người đã tự cầm chân mình lại trong nhà Giakêu  để cứu vớt người nầy.

Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6). Phân đoạn nầy tập trung vào Giakêu: – Con người và ước muốn (cc. 2-3); – Thực hiện ước muốn và kết quả đến hơn cả lòng mong muốn (cc. 4-6). Cụm từ “Và nầy” mở đầu, dùng để kéo sự chú ý vào  điều sắp được trình bày; tương tự như thế khi nói về Simêon (2,25). Luca giới thiệu tên, nghề nghiệp và thân thế của Giakêu (c. 2). Zacchaeus là hy lạp hoá tên hipri Zakkay (Nêh 7,14; Esdra 2,9), có nghĩa là “sạch, vô tội”. Là trưởng thu thuế, nên ông giàu có. Giêricô là trụ sở quan thuế thường được nhắc đến, và đây là thí dụ điển hình.

Giakêu tìm thấy cho bằng được Chúa Giêsu là ai (c. 3). Động từ “tìm kiếm” được dùng rất nhiều lần trong Luca; nhưng ở thể quá khứ chưa hoàn thành, chỉ được dùng cho Giakêu, cho Hêrôđê (9,9) và Giuđa (22,6). Khó có thể nghĩ là độ dài, sự lập lại của việc tìm kiếm của Giakêu chỉ xảy ra cách ngắn ngủi khi Chúa Giêsu vội vã ngang qua thành Giêricô. Nếu như thế, tìm kiếm ấy chỉ là một sự tò mò nhất thời. Sự tìm kiếm nầy phải là đã từ lâu, bây giờ là cơ hội để tìm thấy, như trường hợp của Hêrôđê (x. 23,7-8) và Giuđa (22,47). Động từ nầy thường hàm ý là tìm cho đến khi nào thấy được (2,48.49; 9,9). Tuy Giakêu đã đi tìm, chính Chúa Giêsu mới là người tìm thấy ông (c. 5). Người tỏ mình ra cho ông, như trong khẳng định “Ai tìm sẽ được cho” (11,9-10; 12,31). Sự thấp bé của Giakêu là sự kiện chứ không phải là nguyên nhân. Dân chúng mới là nguyên nhân “vì dân chúng” (c. 3). Họ cản trở không cho ông nhìn thấy Chúa Giêsu, cũng như họ không muốn Người đến nhà ông (c. 7). Đáng ngạc nhiên là Luca trình bày phản ứng của dân chúng tương tự như phản ứng của những người Pharisêô (x. 5,30; 15,2).

Khung cảnh thu nhỏ lại hơn. Chúa Giêsu “đi ngang qua Giêricô” đến “đi đến” chỗ cây vả nơi có Giakêu (c. 4). Chúa Giêsu dừng lại ở đó. Tên “Giêsu” được nêu rõ ở đây, cũng như ở câu 9, chỉ sự quan trọng của điều Người sắp nói: “Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh” (c. 5). Chúa Giêsu lên chương trình cho Giakêu. Ông phải “xuống mau” vì Người đang vội vã đi lên Giêrusalem. Nhưng Người “phải” ở lại, vì đó là sứ mệnh cứu độ của Người (x. 2,49; 4,43; 9,22…). “Hôm nay” sẽ được lập lại trong c. 9 chỉ thời điểm ơn cứu độ được thực hiện (2,11; 4,21; 5,26; 23,43). “Nhà của anh” đại từ chỉ ngôi “của anh” đặt sau “nhà” là vị trí nhấn mạnh. “Ở lại” là một phần của việc tông đồ (x. 1,56; 9,4; 10,7; 19,5; 24,29). Giakêu đã trèo lên để tìm xem Chúa (c. 4). Bây giờ ông trèo xuống vì đã gặp Người (c.6). “Vội vã” chỉ sự khao khát (x. 2,16). Động từ “đón tiếp” hàm ý sự hiếu khách (x. 10,38). Ông vui mừng vì Chúa ở lại nhà ông. Luca thường nói đến niềm vui của những người được Thiên Chúa can thiệp và cứu độ (x. 1,14; 1,28; 6,23; 10,20; 13,17; 19,6). Như thế, Giakêu đã nhận được nhiều hơn cả điều ông mong ước.

Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông (cc. 7-10). Động từ “cho” và “hoàn trả” (c. 8) ở thì hiện tại hiểu như là tương lai gần: “tôi sẽ cho”, “tôi sẽ hoàn trả lại” (x. 4,6; Cv 3,6). Giakêu đã không làm điều nầy trong quá khứ. Ông đã đặt giả thiết là ông có thể đã làm thiệt hại ai đó trong quá khứ (c. 8). Nên không lạ gì  dân chúng nghĩ ông là “người tội lỗi” (c. 7). Do đó, quyết định nầy chứng tỏ ông đã hoán cải. Và Chúa Giêsu mới tuyên bố là “hôm nay ơn cứu độ đến với nhà nầy” (c. 9), và “Người đến để cứu vớt những người hư mất” (c. 10). Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã biến đổi đời ông. Động từ “sykophanteō” có nghĩa là “gian lận”, “áp bức”, “hăm dọa tống tiền” (x. 3,14). Làm nghề thu thuế, Giakêu gian lận tiền bạc của người khác cho chính mình. Dựa vào luật Môse, phải đền trả lại “gấp bốn” (x. Xh 21,37; 2 Sam 12,6) hay “gấp năm” (x. Lv 6,5; Ds 5,6-7).

Như câu 5 ở trên, Chúa Giêsu lại tuyên bố (c. 9), và lần nầy Người nói đến sự cứu độ cho Giakêu, “người con của Abraham.” “Cứu độ” được gắn liền với “hôm nay”; xem ở trên. “Con cháu của Abraham” không phải chỉ do bởi sự thuộc về dân tộc Do thái. Chúa Giêsu đã phê bình những người tự hào là họ có Abraham là tổ tiên, nhưng thiếu lòng hoán cải (x. 3,8). Chính sự hoán cải trở về với Thiên Chúa mới chứng thực ai là con cái của Abraham. Giakêu đã làm điều nầy và đáng được gọi là con cái của Abraham. Câu 10 lấy lại ý tưởng của câu 5,32 với nhiều thay đổi từ ngữ. Đó là “đến tìm kiếm” và “những người hư mất”, thay vì nói đến việc kêu gọi “người tội lỗi hoán cải”. Việc thay đổi từ ngữ nấy nhằm nhấn mạnh sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu; xem dụ ngôn đi tìm chiên lạc (15,4-7). Tước hiệu “Người Con của Nhân Loại” gắn liền với cuộc thương khó, sự chết và vinh quang (9,26.44; 12,8; 22,69); đồng thời cũng gắn liền với những người thu thuế và tội lỗi (7,34; 19,10). Họ là những người đầu tiên “phải” được tìm đến và cứu chuộc. Vậy như lời hứa với Abraham (1,73), Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với con cháu của ông (1,55) qua việc ban ơn cứu độ cho Giakêu.

Thiên Chúa vẫn còn đi ngang qua trần gian nầy để tìm kiếm và cứu độ những người đã hư mất. Hãy mở cửa nhà cho Chúa. Mời Người vào và lãnh nhận ơn cứu độ.

Linh mục Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến