Chúa Nhật (02-01-2022) – Trang suy niệm

01/01/2022

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật Lễ Hiển Linh – Năm C

BÀI ĐỌC I: Is 60, 1-6

“Vinh quang Chúa xuất hiện trên ngươi”.

Trích sách Tiên tri Isaia.

Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi.

Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi. Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi.

Hãy ngước mắt lên chung quanh, và hãy nhìn coi: tất cả những người đó đang tập họp, đang tìm đến với ngươi; các con trai của ngươi tự đàng xa đi tới, và các con gái ngươi đứng dậy từ khắp bên hông.

Bấy giờ ngươi sẽ nhìn coi, và ngươi trở nên rực rỡ, tim ngươi sẽ rạo rực và sẽ phồng lên. Bởi vì những kho tàng bể khơi tuôn đến với ngươi, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới tay ngươi. Những con lạc đà tràn ngập vây phủ lấy ngươi, những lạc đà một bướu tự xứ Mađian và Epha; tất cả những ai từ Saba đi tới, đem theo vàng và nhũ hương, và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 71, 2. 7-8. 10-11a. 12-13

Đáp: Lạy Chúa, mọi dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa (x. c. 11b).

  1. Lạy Chúa, xin ban quyền xét đoán khôn ngoan cho đức vua, và ban sự công chính cho hoàng tử, để người đoán xét dân Chúa cách công minh, và phân xử người nghèo khó cách chính trực. – Đáp.
  2. Sự công chính và nền hoà bình viên mãn sẽ triển nở trong triều đại người, cho đến khi mặt trăng không còn chiếu sáng. Và người sẽ thống trị từ biển nọ đến biển kia, từ sông cái đến tận cùng trái đất. – Đáp.
  3. Vì người sẽ giải thoát kẻ nghèo khó khỏi tay kẻ quyền thế, và sẽ cứu người bất hạnh không ai giúp đỡ. Người sẽ thương xót kẻ yếu đuối và người thiếu thốn, và cứu thoát mạng sống kẻ cùng khổ. – Đáp.
  4. Chúc tụng danh người đến muôn đời, danh người còn tồn tại lâu dài như mặt trời. Vì người, các chi họ đất hứa sẽ được chúc phúc, và các dân nước sẽ ca ngợi người. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Ep 3, 2-3a. 5-6

“Bây giờ được tỏ ra rằng các dân ngoại được đồng thừa tự lời hứa”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô. 

Anh em thân mến, (chắc) anh em đã nghe biết rằng: Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mạc khải cho tôi biết, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết, nhưng nay đã mạc khải cho các thánh Tông đồ của Người, và cho các vị Tiên tri, nhờ Thánh Thần. Và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Chúa Giêsu Kitô. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Mt 2, 2

Alleluia, alleluia! – Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đã đến để triều bái Người. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 2, 1-12

“Chúng tôi từ phương Đông đến thờ lạy Đức Vua”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Đông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: “Vua người Do-thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: “Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Đấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta”.

Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: “Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người”. Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

02/01/2022 – CHÚA NHẬT CHÚA HIỂN LINH

Mt 2,1-12

ĐẾN THỜ LẠY CHÚA

“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2,11)

Suy niệm: Các hiền sĩ từ Phương Đông thấy vì sao của Đức Vua dân Do-thái mới sinh nên tìm đến bái lạy Người. Tin này làm cho vua Hê-rô-đê hoảng sợ lo lắng cho ngai vàng của mình liền bày độc kế mưu hại Ấu Vương. Thế nhưng Thiên Chúa can thiệp để các hiền sĩ đi lối khác mà về nhà. Ánh sáng của “ngôi sao phương Đông” là dấu chỉ ơn cứu độ đã vượt khỏi biên giới Do Thái để hướng dẫn mọi người thành tâm thiện chí, thuộc mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ, tìm đến với Con Thiên Chúa nhập thể làm người để qui tụ muôn dân vào Vương quốc hạnh phúc vĩnh hằng trên trời.

Mời Bạn: “Ánh sao” của vua Ki-tô vẫn luôn xuất hiện trong tâm hồn mỗi người để dẫn đường họ đến gặp gỡ và thờ lạy Ngài. Hơn nữa, khi cảm nghiệm hạnh phúc được ánh sáng đức tin soi chiếu, chúng ta được mời gọi chiếu toả ánh sáng chân lý và tình yêu Chúa cho những người chưa nhận biết Chúa, qua đời sống yêu thương phục vụ và chuyên chăm thờ phượng Chúa của mình.

Sống Lời Chúa: Nhờ những giờ phút cầu nguyện suy niệm Lời Chúa, bạn có thể nhận ra ánh sáng của Ngài. Và dù có gặp phải những thách đố, bạn vẫn kiên tâm tìm kiếm Chúa và hiến dâng chính mình để thờ lạy Người

Cầu nguyện: Lạy Chúa, các hiền sĩ tha thiết lên đường tìm kiếm Chúa và Chúa đã cho họ được thấy Chúa. Xin cho chúng con chuyên chăm suy gẫm Lời Chúa và sẵn sàng lên đường đến Chúa và tha nhân, dù hành trình đức tin có lúc mịt mờ khó xác định được. Xin ánh sáng Chúa dẫn bước chúng con trên đường đời để chúng con luôn bước đi trong tình yêu Chúa. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

 Suy niệm:

Người ta chỉ lớn lên khi ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm về mình.
Người ta chỉ lớn hết mức khi không còn coi mình là trung tâm.
Trung tâm được đặt nơi Thiên Chúa và tha nhân.
Đức Giêsu đã từng khẳng định rằng
trong con cái loài người, không ai lớn hơn ông Gioan Tẩy Giả (x. Mt 11,11).
Gioan lớn vì ông là vị ngôn sứ giới thiệu trực tiếp Đấng Mêsia.là Đức Giêsu,
một điều mà không một ngôn sứ nào trong Cựu Ước được diễm phúc làm.
Nhưng Gioan cũng lớn vì ông đã chấp nhận nhỏ đi :
“Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3, 30).

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cách Gioan làm mình nhỏ lại.
Khi Gioan đã nổi tiếng bởi lối sống khắc khổ và lời giảng mạnh mẽ,
thì người Do-thái, người Pharisêu, sai các tư tế và các thầy Lêvi
từ Giêrusalem đến với Gioan đang làm phép rửa ở bên kia sông Giođan.
Họ muốn biết ông Gioan là ai.
Gioan đã không nhận mình là Đấng Kitô, hay Êlia tái giáng (Ml 4,5),
hay vị Ngôn Sứ cao cả đã được ông Môsê loan báo (Tl 18, 15.18),
mặc dù có người đã nghĩ ông là như vậy.
Những lời từ chối của Gioan càng lúc càng ngắn hơn và sắc hơn.
“Tôi không phải là Đức Ki tô. – Tôi không phải là.- Không.”
Gioan từ chối những chức danh mà nhiều người thèm muốn.,
bởi lẽ ông biết rõ mình là ai.

Khi bị bắt buộc phải đưa ra một câu trả lời về con người của mình,
Gioan đã chọn câu của ngôn sứ Isaia (40, 3).
“Tôi là tiếng người hô trong hoang địa.
Hãy sửa cho thẳng con đường của Chúa.”
Gioan nhận mình chỉ là người dọn đường cho một Đấng đến sau,
Đấng ấy là người ông không xứng đáng cởi quai dép.
Cởi quai dép của chủ là việc chỉ dành cho người nô lệ thấp kém nhất.

Gioan là người làm chứng tuyệt vời về ánh sáng (Ga 1, 7-8).
Ông là “tiếng” làm chứng cho “Lời” là Con Một Thiên Chúa.
Cám ơn Gioan vì nhờ ông mà ta gặp được Ánh Sáng thật.
Cám ơn Gioan vì tiếng của ông dẫn ta đến với Lời của Thiên Chúa.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con biết con,
xin cho con biết Chúa.

Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa,
quên đi chính bản thân,
yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.

Xin cho con biết tự hạ,
biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa.
Ước gì con biết nhận từ Chúa
tất cả những gì xảy đến cho con
và biết chọn theo chân Chúa luôn.

Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.

(Thánh Augustinô)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

2 THÁNG GIÊNG

Một Mầu Nhiệm Giấu Ẩn Trong Hai Tâm Hồn

Giáo Hội cảm nghiệm niềm vui giáng sinh của Chúa trong mầu nhiệm gia đình – mầu nhiệm Gia Đình Thánh. Đây là một chân lý đầy chất nhân bản. Với sự chào đời của đứa con, cuộc hôn nhân giữa hai người nam nữ – giữa vợ và chồng – càng trở nên trọn vẹn hơn trong tư cách là một gia đình.

Đồng thời, cuộc sinh hạ của Đức Giêsu là một mầu nhiệm cao cả của Thiên Chúa vén mở ra trước mắt người trần, một mầu nhiệm giấu ẩn trong đức tin và trong cõi lòng của Maria và Giu-se ở Na-da-rét. Trước bất cứ ai, hai người là những chứng nhân duy nhất của biến cố Hài Nhi chào đời tại Bê-lem – biến cố chào đời của Con Đấng Tối Cao!

Nơi Maria và Giu-se, Thiên Chúa tỏ lộ mầu nhiệm gia đình. Thiên Chúa xây dựng gia đình này với Maria và Giu-se – và với cuộc chào đời của Giê-su.

Và chúng ta, khi biết nhìn bằng con mắt đức tin, sẽ nhận ra rằng qua Gia Đình Thánh này, Thiên Chúa cho thấy Ngài gần gũi chúng ta biết bao. Gia Đình Thánh ấy cũng nêu bật địa vị của mọi gia đình trong ánh nhìn của Tạo Hóa. Thật vậy, Đức Kitô đã trao tặng chúng ta Bí Tích Hôn Nhân như một dấu chỉ của địa vị cao cả ấy. Tông Đồ Phao-lô đã có thể gọi bí tích này là “một mầu nhiệm lớn lao” của mối quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội (Ep 5, 32).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 02/01

Chúa Nhật Chúa Hiển Linh

Is 60, 1-6c; Ep 3, 2-3a. 5-6; Mt 2, 1-12.

Lời Suy Niệm: “Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình thờ lạy Người.”

          Các Nhà Chiêm Tinh đã thấy ánh sáng ngôi sao Hài Nhi Giêsu, các vị đã lên đường cố tìm gặp để thờ lạy Người. Trên đường đi, các vị đã không được xuôi thuận, các vị đã gặp nhiều trở ngại, như khi ánh sao bị che khuất không còn nhìn thấy được. Nhưng với sự kiên trì, tìm kiếm hỏi han, cuối cùng các vị đã tìm gặp Hài Nhi và Mẹ của Người. Trong đời sống đức tin của mỗi người đều có trải qua những giai đoạn như ba nhà chiêm tinh đã gặp phải. Nếu mỗi người không cố gắng, không nhiệt .tâm tìm kiếm, học hỏi Kinh Thánh; thì khi niềm tin bị bảo phủ bởi mây mù, dễ làm cho chúng ta sa ngã, chối bỏ, thất vọng và bỏ cuộc. đánh mất phần rỗi linh hồn mình.

          Lạy Chúa Giêsu. Ba nhà chiêm tinh đã vui mừng khi thấy ngôi sao lạ lại xuất hiện. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con cũng biết vui mừng và tạ ơn Chúa; khi đã vượt qua được những thử thách trong đời sống đức tin của chúng con.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 02-01: THÁNH BASILIÔ CẢ

Giám mục, Tiến Sĩ (329-397)

Thánh Basiliô, con người kỳ diệu mà mọi thời gọi là thánh Cả, chào đời vào khoảng cuối năm 329 tại Cêsarêa, thủ đô miền Cappadocia. Ngài thật có phúc vì được sinh ra trong một gia đình thánh thiện. Cha Ngài là thánh Basilio, mẹ Ngài là thánh nữ Emelia. Nhưng sinh ra Ngài, cha mẹ Ngài đã chịu bao nỗi lo âu. Một cơn bệnh nặng tưởng như đã cất mất mạng sống của Ngài. Việc Ngài bình phục được coi như là kết quả của lời cầu nguyện mà thôi.

Từ thuở thơ ấu thánh nhân đã đến sống với người bà là thánh nữ Macrina. Tại đây, Ngài đã hấp thụ được những nguyên tắc sống đạo đức đầu tiên. Ngài nói: tôi không hề quên được những lời dạy dỗ và gương lành mà người bà thánh thiện đã ghi vào trong tâm hồn bé thơ của tôi.

Ngay khi tới buổi đi học, cha Ngài, một con người vừa đạo đức vừa hoạt bát, đã tự đảm nhiệm việc dạy dỗ Ngài những yếu tố đầu tiên về văn chương. Sau khi cha qua đời, Ngài được gửi đi Cêsarea rồi Constantinople để học khoa hùng biện. Sau cùng, Ngài đi Athena, kinh thành ánh sáng của thế giới nói tiếng Hy Lạp thời đó. Tại đây, Ngài có dịp làm quen với Thánh Gregoriô thành Nazianze. Hai người kết thân với nhau và tình bạn đầy thánh thiện của họ không hề bị một áng mây mù nào che phủ. Trong thành phố xa hoa ấy, họ chỉ biết có hai con đường dẫn tới nhà thờ và tới trường học.

Sau khi hoàn tất các môn học, Ngài dồn nỗ lực học kinh thánh và các giáo phụ. Ngài đã kín múc được từ kho tàng phong phú này những hiểu biết và những tâm tình cao thượng qui hướng con người lên trời.

Lúc hai mươi bảy tuổi, Ngài trở về quê nhà và biện hộ cho một vài vụ kiện tụng. Tài lợi khẩu và thành công tưởng đã cột chặt Ngài vào với pháp đình. Nhưng chị Ngài là thánh nữ Macrina (trẻ) đã nói cho Ngài biết về sự giả trá của những tài năng của cả loài người, và về những giá trị chân thực mà Ngài nhhư đã bỏ quên. Thế là thánh nhân quyết từ giã thế gian và đeo đuổi đời sống tu trì. Ngài đã viếng thăm các tu viện bên Đông phương để tìm kiếm gương mẫu và thầy dạy đường nhân đức. Một năm sau Ngài trở về Cappadocia, rồi lui về miền Pont và thiết lập nhiều tu viện. Các qui luật Ngài soạn ra cho các tu viện đã trở thành danh tiếng và ngày nay vẫn còn được áp dụng tại các tu viện của Giáo hội công giáo theo nghi lễ Byzantin. Chính thánh Bênêdictô cũng chịu ảnh hưởng của Ngài qua bản dịch tiếng la Tinh của Ruffinô. Thánh Basiliô chỉ sống năm năm như tu sĩ trong viện. Nhưng điều Ngài đã làm đã viết là phần thành công trực tiếp và lâu bền nhất trong công trình đời Ngài.

Năm 370 khi Đức giám mục Eu-sê-bi-ô qua đời, thánh Basiliô được bầu làm giám mục Cêsaria. Thánh nhân đã lãnh nhận giáo phận trong một hoàn cảnh đầy sóng gió và đã tỏ ra là một chủ chăn bất khuất trong việc bảo vệ đức tin. Lúc ấy lạc giáo Ariô đang ở vào thời cực thịnh. Hoàng đế Va-lăng (valens) đúng vào phái lạc giáo để bách hại Giáo hội. Thánh Grêgoriô đã kể lại cuộc đời thánh Basiliô, có lẽ đã tô điểm thêm đôi chút, nhưng đã cho thấy được cá tính của thánh nhân như thế nào. Va-lăng phái Modestô, một tổng trấn nổi tiếng mưu mô và hung ác đến gặp thánh nhân.

Hắn nói: – Tại sao ông dám chống lại hoàng đế và không theo đạo của Ngài.
Thánh nhân trả lời: – Bởi vì Thiên Chúa là hoàng thượng của tôi, Ngài bảo vệ tôi.

Modestô vặn lại: – Vậy ông coi chúng tôi là thứ gì chứ ?

Thánh nhân trịnh trọng đáp lời: – Tôi chẳng coi các ông là gì cả, bởi vì các ông đã bắt chúng tôi phải có những điều phản nghịch lại thánh ý Thiên Chúa:

Modestô liền dở trò đe dọa: – Ông không biết rằng tôi có thể cho ông nếm mùi sức mạnh của chúng tôi sao ?

Nhưng thánh nhân đã khẳng khái trả lời: – Những hậu quả do sức mạnh của các ông chỉ có thể là tịch biên tài sản, lưu đày, tra tấn hay là sát hại mà thôi. Đối với việc tịch biên tài sản thì người không có gì như tôi làm gì mà phải sợ. Tôi càng không sợ phải lưu đày, bởi vì đâu có Chúa thì đấy cũng là quê hương của tôi. Đối với những tra tấn ông muốn bắt tôi phải chịu, thì quả thật tôi đã quá yếu đuối và không đủ sức để chịu được một cuộc tra tấn thứ hai. Về cái chết, làm sao tôi lại phải sợ, vì nó sẽ sớm đưa tôi về với Thiên Chúa hơn”.

Vị tổng trấn ngạc nhiên: – Tôi chưa hề gặp người nào gan dạ như ông.
Và thánh Basiliô bình tĩnh trả lời: – Bởi vì ông chưa nói chuyện với một giám mục nào.

Sau cuộc đàm thoai nẩy lửa này, tình hình lắng dịu một thời gian. Nhưng vì áp lực của bè rối, hoàng đế Valăng tính bắt giám mục Basiliô đi đày. Nhưng ý định bất thành vì ngay đêm trước con ông ngã bệnh nặng, được giám mục viếng thăm và cầu nguyện cho lành, nó cũng đã qua đời vì sự thay lòng đổi dạ của nhà vua. Dầu vậy, dưới áp lực mạnh mẽ của bè rối, vua cũng quyết ký án lệnh phát lưu Đức giám mục. Lần này, ông vẫn thất bại vì ba bốn lần cầm lấy viết thì viết bị hư, cầm đến ấn thì ấn bị bể nát.

Ngoài sự can trường để bảo vệ đức tin chân chính, thánh Basilio còn là một mục tử nhiệt hành và giàu lòng bác ái, Ngài đã liên tục đi thăm viếng từng miền trong giáo phận, Ngài chuyên chăm dạy dỗ đoàn chiên và một số bài giảng của Ngài được lưu giữ tới ngày nay là những công trình thần học rất đáng giá. Ngoài ta thánh nhân còn thương yêu đặc biệt những người nghèo khó bệnh tật. Ngài đã thiết lập một nhà thương, đặt tên là Basiliô (Basiliade) để săn sóc họ.

Thánh nhân đã được sống để chứng kiến cái chết của Valăng lẫn sự tàn lụi của lạc giáo Ariô. Nhưng chẳng bao lâu sau Ngài cũng qua đời vì kiệt sức, ngày 1 tháng giêng năm 379.

*********************

Ngày 02-01: Thánh GREGÔRIÔ NAZIANZÊNÔ

Giám Mục Tiến Sĩ – (329 – 390)

Thánh Grêgôriô Nazianzênô là một trong những giáo phụ danh tiếng của giáo hội Hy Lạp và được mệnh danh là thần học vì giáo thuyết rất sâu sắc của Ngài. Ngài ra đời khoảng năm 329, trong một gia đình danh giá và đáng mến chuộng. Cha Ngài, cũng tên là Grêgôriô, lúc ấy còn là lương dân. Nhưng thánh nữ Monna, mẹ Ngài, nhờ nhân đức siêu vượt, sự dịu hiền, đời sống gương mẫu với kinh nghiệm và nước mắt đã đưa ông về với Chúa Giêsu.

Thánh Leông (Léonce) giám mục thành Cêsarêa đã rửa tội cho ông. Vài năm sau, nhờ đời sống đạo đức trổi vượt, ông đã xứng đáng lãnh chức giám mục, cai quản điạ phận Nazianze.

Thánh Grêgôriô ra đời như kết quả lời cầu nguyện của bà mẹ thánh thiện, chỉ mong có được người con để phục vụ bàn thánh. Khi thánh nhân ra đời, bà coi Ngài như quà tặng của trời cao. Được đào tạo trong một môi trường thánh thiện như vậy, ngay từ nhỏ, Ngài đã biết quí trọng những nét đẹp của tội thơ vô tội.

Thánh nhân được cử đi học hùng biện ở Cêsarêa, rồi Palestina. Sau đó Ngài đã qua Alexandria và sau cùng tới Athena là nơi coi là nguồn gốc đích thật của khoa hùng biện, trên đường tới Athena, con tàu thánh nhân đi đã phải một cơn bão dữ dội, tưởng chừng như sẽ bị đắm chìm trong lòng biển. Lúc ấy thánh nhân chưa được rửa tội và rất lo âu cho phần rỗi của mình. Ngài tha thiết cầu khẩn Thiên Chúa thánh cho được sống thêm, để có thể làm con Chúa. Thánh nhân đã được nhậm lời. Cơn giông bão chấm dứt và Ngài tới được Athena.

Tại đây thánh Gregorio gặp lại một người bạn cũ của mình là thánh Basiliô. Mối giây thân tình giữa các Ngài ngày càng trở nên bền chặt hơn. Cho đến ngày nay, người ta vẫn còn trưng dẫn hai vị nhân này như là khuôn mẫu cho tình bạn trong trắng và chân thành nhất. Không thể lìa xa nhau, họ còn chú tâm tránh thoát mọi cuộc kết thân nguy hiểm và chỉ giao tiếp với những bạn bè mà lòng hiếu học luôn đi đôi với việc thực hành các nhân đức. Không bao giờ người ta thấy họ đi vào các cuộc giải trí có tính cách trần tục. Trong thành phố xa hoa ấy họ chỉ biết có hai con đường dẫn tới nhà thờ và các trường học.

Hoàn tất việc học hành, thánh Grêgôriô trở về sống với cha mình đang làm giám mục cai quản giáo phận Nazianze và được cha ban phép Rửa tội cho. Một khi đã được đóng ấn tín thần linh, Ngài coi mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và hiến thân phung sự Ngài,

Ngài nói: – “Tôi hiến trọn cho Đấng đã ban cho tôi tất cả. Từ nay chỉ có Ngài là phần sản nghiệp của tôi”.

Tình thảo hiếu đã giữ lại bên người cha già tám mươi tuổi trong ba năm trời. Ngài giúp đỡ cha trong mọi công việc và chăm sóc mọi việc trong nhà. Nhưng lòng yêu thích được ẩn dật đã đưa Ngài tới gặp thánh Basiliô đang theo đuổi nếp sống tu trì. Ngài đã sống xa thế gian một thời gian và chỉ lo tới sự hoàn thiện của mình. Nhưng thời gian ẩn dật này mới chỉ đủ cho Ngài nếm thử được sự ngọt ngào để mà luyến tiếc thôi, người cha già chín mươi tuổi đã gọi Ngài về giúp việc điều khiển giao phận. Nhận thấy rằng: Giáo hội sẽ được lợi ích nhiều bởi người con thân yêu của mình, vị thánh giám mục già cả đã truyền chức linh mục cho Ngài ngày 6 tháng 1 năm 362. Lúc ấy thánh Gregôriô hơn ba muôi lăm tuổi và ấn tích mới càng tăng thêm nhiệt tình của Ngài.

Thánh Basiliô lúc ấy đã làm tổng giám mục Cêsalêa, quyết định nâng thánh Gregoriô lên làm giám mục cai quản điạ phận Sarima. Nhưng vì những chống đối dữ dội, Ngài đã không hề tới nhậm điạ phận được và dường như Ngài chịu chức giám mục chỉ để giúp đỡ người cha mà tuổi tác đã không cho phép chu toàn phận sự được nữa. Sau khi cha qua đời năm 374 thánh nhân trở lại Nazianze săn sóc cho giáo phận, nhưng không hề muốn làm giám mục của giáo phận này.

Năm 380, tức là khoảng năm năm sau, các tín hữu ở Constantinopkle đã khẩn nài thánh nhân tới củng cố giáo phận đã bị bè rối Ariô tàn phá của họ, với nhiệt tâm tông đồ, thánh nhân đã nhận lời. Trước tiên thánh nhân đã không được tiếp đón nồng hậu lắm. Trong một thành phố xa hoa giàu có vì là thủ đô mới của đế quốc này, người ta đang ngóng đợi một nhân vật có khuôn mặt sáng sủa giữa một đám rước linh đình. Nhưng người ta đã vô cùng kinh ngạc khi thấy Ngài chỉ là một ông lão già yếu, ăn mặc giản dị và lời nói vắn gọn.

Những người theo lạc giáo Ariô chế giễu phỉ báng Ngài. Dầu vậy, bằng những giáo huấn vững chắc và hùng hồn, Ngài đã thành công trong việc đưa dân thành này từ chỗ bỏ cái sai lầm của lạc giáo mà trở về với đức tin công giáo. Sau bốn mươi bị năm bị tàn phá. Giáo phận không có nhà thờ, Ngài rao giảng trên đường phố hay tại một ngôi nhà mà Ngài đăt tên là Anastasia.

Hương thơm nhân đức và sự hiểu biết uyên thâm của Ngài đã lối kéo cảm tình người nghe càng thêm đông. Từ trong sa mạc, thánh Hiêronymô cũng tìm đến nghe người giảng thuyết. Tuy nhiên bề ngoài khiêm tốn bình dị và hoàn cảnh khó khăn ấy cũng là một khó khăn khiến cho địch thủ đã nhiều lần toan tính ám hại Người.

Năm 381, công đồng chung họp tại Constantinople, thánh Grêgôriô được bầu lên làm giám mục chính tòa của giáo phận này và giữ ghế chủ tịch công đồng. Nhưng ít lâu sau, một số giám mục đã chất vấn tính cách hợp pháp của chức vụ Ngài. Lợi dụng những chống đối này, thánh Grêgôriô đã xin từ chức. Sau khi đã làm vui lòng các nghị phụ công đồng bằng quyết định của mình, thánh nhân đã đe5 đơn lên Hoàng đế Têodô (Thésdose) Hoàng đế buộc lòng chấp thuận, cho Ngài từ nhiệm, chỉ vì lý do sứ ckhỏe mà thôi. Trước khi dứt mình khỏi Giáo hội mà Ngài đã dày công tạo lập với đầy tình yêu quí, Ngài đã nói với mọi tín hữu và với các nghị phụ một diễn từ đặc sắc. Người ta gọi diễn từ ấy là: những lời giã biệt (Les Adieux).

Lui về Nazianze, thánh Grêgôriô dành thời gian viết sách. Năm 390 Ngài qua đời và để lại cho Giáo hội một kho tàng quí báu gồm 45 bài suy luận thần học và điếu văn, 245 bức thư và mấy tập thi ca. Người ta đọc cuộc đời trong những tác phẩm có giá trị văn chương và tín lý, chính ân đức ấy và sức mạnh tinh thần của Ngài.

Người ta còn giữ được bản di chúc và bản văn trên bia mộ chính Ngài sáng tác. Bản mộ thi này là một tóm lược khúc chiết trọn đời Ngài với những dòng kết thúc như sau: – “Tôi là mục tử không có đoàn chiên, và tôi đã đau khổ không ít bởi chính các mục tử. Tôi để Chúa Giêsu Kitô lo lắng cho tương lai đời tôi như chính Người đã lo cho tôi trong quá khứ”.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

02 Tháng Giêng

 Ðóng Thuế Cho Năm Mới 

“Ðóng Thuế Cho Năm Mới: 15 người thiệt mạng, khoảng 1,500 người bị thương, gần 2,500 lâm cảnh màn trời chiếu đất”. Trên đây là hàng tít lớn của hầu hết các nhật báo xuất bản tại thủ đô Manila Phi Luật Tân, trong số ra ngày mùng 02 tháng Giêng mỗi năm, tức là số báo đầu tiên trong năm. Dường như đây là công thức quen thuộc mà bất cứ nhật báo nào cũng đưa ra số báo đầu năm. Ðó cũng là điều mà dân chúng chờ đợi sau một đêm đón giao thừa trong tiếng nổ liên tục của pháo và trong khói bay mịt mù.

15 người xấu số trên đây đều là nạn nhân của những vụ đâm chém, bắn giết vì say sưa quá chén trong đêm giao thừa. 1,500 người bị thương khác là nạn nhân của bất cẩn trong khi đốt pháo.

Chỉ riêng ở thủ đô Manila thôi, chưa tính số tiền được đốt đi trong tiếng pháo, số thiệt hại vì hỏa hoạn và những thiệt hại khác lên đến cả triệu Mỹ kim.

Hôm nay thì mọi người đều trở lại với sinh hoạt bình thường của mình. Ðọc bảng tin về những gì đã xảy ra trong Ðêm Giao Thừa và Ðầu Năm, ai cũng bàng hoàng xót xa cho những người xấu số và có lẽ ai cũng thở ra nhẹ nhõm vì bất trắc đã không xảy đến cho mình. Người ta nghĩ rằng may mắn vẫn còn đó. Bảng tổng kết Ðầu Năm và lời kêu gọi đề phòng cho Năm Mới không mấy chốc cũng sẽ đi vào quên lãng. Bánh xe lịch sử cứ lăn và con người cũng sẽ tiếp tục lập lại những lỗi lầm của quá khứ.

Người Á Ðông chúng ta thường nói: “cha ăn mặn thì con khát nước”. Kinh Thánh Cựu Ước cũng viết: “cha ông ăn nho xanh thì con cháu phải ê răng”. Người tin ở thuyết quả báo thì cho rằng con cái phải gánh chịu những hậu quả do lầm lỗi của ông bà để lại.

Trong một cái nhìn khách quan và sâu xa hơn, chúng ta phải nói rằng lịch sử thường lặp lại. Lịch sử thường lặp lại, bởi vì nó được cấu tạo bởi những biến cố do con người chủ động. Mà bởi vì mẫu số chung của con người ở mọi thời đại vẫn là tự do, cho nên những lầm lẫn giống nhau được lập lại là chuyện bình thường, có khác chăng là khác ở mức độ và hình thức mà thôi. Ở thời đại nào mà không có chiến tranh, ở thời đại nào mà không có cảnh người bóc lột người, ở thời đại nào mà không có tham, sân, si?

Người Kitô chúng ta hãy nhìn vào bản thân và lịch sử của nhân loại với một cái nhìn thực tế và lạc quan. Thực tế để thấy rằng sống là một cuộc chiến đấu không ngừng: chiến đấu giữa thiện và ác, chiến đấu giữa tự do và nô lệ, chiến đấu giữa ân sủng và tội lỗi. Thực tế để thấy rằng cuộc chiến ấy đang diễn ra trong từng phút giây của cuộc sống. Nhưng chúng ta cũng hãy có cái nhìn lạc quan, lạc quan và tin rằng, lầm lỗi thất bại là khởi đầu của những ân ban dồi dào hơn, và trong cuộc chiến từng ngày đó: Thiên Chúa vẫn luôn có mặt để nâng đỡ chúng ta.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chủ Nhật Lễ Hiển Linh – Năm ABC

Bài đọc: Isa 60:1-6; Eph 3:2-3, 5-6; Mt 2:1-12.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Kitô là ánh sáng cho muôn dân.

Đứng trước cùng một biến cố xảy ra, con người có những phản ứng khác nhau, tùy thuộc vào sự cần thiết và hy vọng của con người: có người dửng dưng, có người đàn áp, và có người nhiệt thành đón nhận. Biến Cố Nhập Thể của Đức Kitô cũng thế, dù được báo trước và dặn phải chuẩn bị sẵn sàng, nhiều người Do-Thái vẫn không chuẩn bị để đón nhận Chúa Cứu Thế; nhưng các Mục-đồng và Ba Nhà Đạo Sĩ từ phương xa nhiệt thành đi tìm và họ đã tìm thấy Đấng Cứu Thế.

Các Bài Đọc hôm nay tập trung vào Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, Tiên-tri Isaiah cho thấy trước Ngày Thiên Chúa sẽ ban Ơn Cứu Độ của Ngài như vinh quang cho Jerusalem và như ánh sáng cho muôn dân. Trong Bài Đọc II, Thánh Phaolô nhắc nhở cho các tín hữu của ngài về Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Theo Mầu Nhiệm này, Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái như Dân Riêng để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Ngài đến, Ngài sẽ ban Ơn Cứu Độ cho tất cả mọi người qua niềm tin của họ vào Đức Kitô. Trong Phúc-Âm, Thánh Matthew tường thuật 3 phản ứng chính của con người khi phải đối diện với Tin Mừng của Đấng Cứu Thế: thờ ơ lạnh nhạt, lập kế tiêu diệt, và nhiệt thành đi tìm.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Chúa Kitô là vinh quang của Israel và là ánh sáng cho muôn dân.

1.1/ Sự sáng của Thiên Chúa đã chiếu tỏa trên Jerusalem: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi.”

Chương 60 của Sách Tiên Tri Isaiah được viết sau thời gian Lưu Đày Babylon; lúc đó Jerusalem còn là một thành trì hoang phế bởi chiến tranh. Vì thế, đọan văn này không có ý nói về Thành Jerusalem cách thể lý, nhưng nói về một Jerusalem tinh thần, tượng trưng cho dân tộc Israel. Người làm cho Jerusalem được đứng dạy, được bừng sáng, là Thiên Chúa; chứ không phải dân tộc Israel. Ánh sáng và vinh quang của Đức Chúa đây chính là Ơn Cứu Độ, mà Ngài đã hứa ban cho Jerusalem qua các Tiên-tri. Ơn Cứu Độ nói tới ở đây không chỉ là việc giải thóat và cho dân Israel được trở về Jerusalem từ chốn Lưu Đày Babylon; nhưng còn bao gồm cả việc gỉai phóng Israel khỏi nô lệ của tội lỗi qua Đấng Thiên Sai.

Tác giả nêu bật sự tương phản giữa ánh sáng của Jerusalem và bóng tối của chư dân qua câu: “Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” Trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, người Do-Thái quan niệm: chỉ có họ mới là Dân Riêng của Thiên Chúa và xứng đáng được hưởng Ơn Cứu Độ; còn tất cả các dân tộc khác (Dân Ngọai) là những người ngồi trong bóng tối tăm sự chết, và không được hưởng Ơn Cứu Độ. Bóng tối và mây mù tác giả muốn nói tới ở đây là việc không biết Thiên Chúa, không biết Ơn Cứu Độ, và không sống theo đường lối của Thiên Chúa.

1.2/ Chư dân từ khắp nơi sẽ tuôn đến Jerusalem: Nhưng một khi Đấng Cứu Thế tới, mọi sự đều đổi khác: Ơn Cứu Độ không còn giới hạn trong dân tộc Israel, nhưng mở rộng tới mọi dân tộc (còn được gọi chung là Dân Ngọai), như viễn tượng mà Tiên-tri Isaiah đã nhìn thấy hôm nay: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” Như đã nói ở trên, ánh sáng của Jerusalem chính là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Ánh sáng này soi tỏa cho các dân tộc trên địa cầu, và mọi người sẽ tuôn đến Jerusalem tinh thần để được hưởng Ơn Cứu Độ này. Tiên-tri Isaiah liệt kê các thành phần tiến đến Jerusalem bao gồm: (1) Các vua chúa của các quốc gia; và (2) các con trai và các con gái. Các người con này không có liên hệ với Jerusalem bằng máu mủ, nhưng bằng niềm tin vào Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.

Khi những điều này xảy ra, Jerusalem sẽ tràn đầy niềm vui như Tiên-tri loan báo: “Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Median và Ephah: tất cả những người từ Sheba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.” Trong thế giới thời đó, giàu sang được đo lường bằng những đòan vật, và lạc đà được coi là thú vật có giá trị nhất trong việc di chuyển đồ đạc qua sa mạc cho các quốc gia vùng Trung Đông. Theo Sáng Thế Ký 25:4, Ephah là con trai của Midian, và là cháu của Jokshan, cha của Sheba. Sheba ngày nay là Nước Yemen. Vàng và nhũ hương là 2 món hàng đắt nhất thời bấy giờ. Điều này chúng ta sẽ đề cập tới trong Phúc Âm, khi Ba Vua dâng những quà này cho Chúa Hài Đồng.

2/ Bài đọc II: Các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái.

2.1/ Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây.” Thánh Phaolô viết Thư này cho các tín hữu Philiphê, khi ngài đang bị cầm tù tại Rome. Ngài nhắc lại cho họ biết về “kế họach ân sủng” mà Thiên Chúa đã ủy thác cho ngài. Kế họach này bao gồm hai việc: biến cố trở lại trên đường Damascus và sứ vụ rao truyền Tin Mừng cho Dân Ngọai được ủy thác cho ngài. Giữa 2 biến cố này là khỏang thời gian Thánh Phaolô đi vào tĩnh tâm trong sa mạc Arabia, để được Thiên Chúa mặc khải về mầu nhiệm Đức Kitô cho thánh nhân. Sở dĩ có sự kiện này là vì Thánh Phaolô đã không được giao tiếp với Đức Kitô như các Tông-đồ khác khi Chúa Giêsu còn sống trên dương gian.

2.2/ Dân Ngọai cũng được thừa hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thánh Thần mà mặc khải cho các thánh Tông-đồ và Tiên-tri của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các Dân Ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” Qua những hàng vắn tắt này, Thánh Phaolô tường thuật cho chúng ta biết 2 giai đọan chính của Mầu Nhiệm Cứu Độ: (1) Thiên Chúa chọn Dân Do-Thái là Dân Riêng của Thiên Chúa để được huấn luyện và chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế đến; và (2) Khi Đấng Cứu Thế đến, Ơn Cứu Độ được lan rộng tới mọi người qua việc rao truyền Tin Mừng và niềm tin của mọi người vào Đức Kitô. Qua việc tuyên xưng đức tin và chịu Phép Rửa, tất cả cùng được tháp nhập vào thân thể của Đức Kitô.

3/ Phúc Âm: Con người phản ứng trước ánh sáng của Thiên Chúa.

3.1/ Con người buộc phải có thái độ trước Tin Mừng về Đức Kitô: Thiên Chúa có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho Ba Nhà Đạo Sĩ một mạch tới Bethlehem, mà không cần phải đi qua Jerusalem; nhưng để cho mọi người cư ngụ tại Jerusalem có cơ hội đồng đều để lắng nghe Tin Mừng, Ngài làm mất dấu ngôi sao để Ba Nhà Đạo Sĩ phải vào Jerusalem để loan tin. Thánh Matthew tường thuật: “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bethlehem, miền Judah, thời vua Herode trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Jerusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do-Thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các Thượng-tế và Kinh-sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bethlehem, miền Judah, vì trong sách Tiên-tri, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bethlehem, miền đất Judah, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Judah, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” (Mic 5:2).

3.2/ Ba phản ứng của con người trước ánh sáng: Đứng trước Tin Mừng được loan báo bởi Ba Nhà Đạo Sĩ, chúng ta tổng hợp được 3 thái độ chính của con người:

(1) Thái độ thờ ơ của Dân Thành Jerusalem cách chung và của các Thượng-tế và các Kinh-sư nói riêng: Thánh Matthew ám chỉ Dân Thành biết biến cố Chúa Cứu Thế ra đời trong câu: “Nghe tin ấy, vua Herode bối rối, và cả thành Jerusalem cũng xôn xao.” Họ xôn xao để tìm ra nơi chốn sinh ra của Đấng Cứu Thế, rồi âm thầm lên giường đắp chăn ngủ tiếp! Họ có thể sợ vì trời tối, đường xa, và lạnh lẽo; nhưng đơn giản là vì họ đã có mọi thứ và không cần tới Đấng Cứu Thế. Các Thượng-tế và các Kinh-sư mang tội nặng hơn, vì họ là những người thông hiểu Kinh-Thánh và sự cần thiết của việc Đấng Cứu Thế đến; nhưng họ dùng Kinh-Thánh để tìm ra và chỉ đường cho người khác đến gặp Ngài; phần họ, gấp sách lại và từ chối không lên đường đi tìm Ngài.

(2) Thái độ muốn tiêu diệt ánh sáng của Vua Herode: Bấy giờ Vua Herode bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bethlehem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” Đã không tiếp nhận ánh sáng, Vua Herode còn toan tính tiêu diệt ánh sáng. Trong cuộc đời, chúng ta cũng gặp nhiều thái độ như Vua Herode. Họ muốn tiêu diệt ánh sáng vì sợ ánh sáng sẽ phơi bày những ích kỷ, toan tính, và những xấu xa trong tâm hồn của họ.

(3) Thái độ nhiệt thành đi tìm ánh sáng của Ba Nhà Đạo Sĩ: Trớ trêu thay cho dân tộc Do-Thái, họ trông chờ từng ngày từng giờ và chuẩn bị cho việc đón Đấng Cứu Thế ra đời; nhưng khi Người xuất hiện, lại chỉ có Ba Nhà Đạo Sĩ là những người Dân Ngọai, từ phương trời xa xôi đi tìm Người theo dấu một vì sao. Họ không sợ đường xa, trời tối, nguy hiểm, gió lạnh mùa Đông, và nhất là theo dấu một vì sao mong manh. Họ không nản lòng khi mất dấu ngôi sao, họ vào Thành Jerusalem với hy vọng sẽ tìm được Ngài trong lịch sử. Và khi được hướng dẫn của Kinh Thánh (Micah 5:1), họ lại tiếp tục lên đường. Họ mừng vui khi thấy ngôi sao tái xuất hiện, và họ đã thấy Hài Nhi. Mở túi hành trang ra, họ dâng 3 lễ vật quí giá nhất cho Hài Nhi: vàng chỉ sự thần phục Hài Nhi là Vua; nhũ hương chỉ sự thần phục Hài Nhi là Chúa; mộc dược tiên báo trước Cuộc Thương Khó và cái chết của Hài Nhi. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Herode nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Thiên Chúa đã tỏ tình thương qua việc ban Người Con Một của Ngài cho chúng ta, phản ứng của chúng ta làm sao khi lãnh nhận Tin Mừng này?

– Chúng ta có hăng hái nhiệt thành lên đường đi tìm Ngài, hay ngại ngùng phải rời bỏ ốc đảo bình an của chúng ta vì sợ nguy hiểm, tốn thời gian, và lười biếng?

– Rất nhiều lần chúng ta đã quay lưng lại với sự thật và ánh sáng, không phải vì chúng ta không biết đó là sự thật hay ánh sáng; nhưng chúng ta sợ: nếu chấp nhận sự thật, chúng ta phải sống điều sự thật đòi hỏi; nếu phải đến gần ánh sáng, chúng ta phải bỏ những tội lỗi mà chúng ta đã quá quen thuộc! 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************