Chúa Nhật (04-11-2018) – Trang suy niệm

03/11/2018

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật Tuần XXXI Mùa Thường Niên Năm B

BÀI ĐỌC I: Đnl 6, 2-6

“Hỡi Israel, hãy nghe đây: Ngươi hãy yêu mến Chúa hết lòng ngươi”.

Trích sách Đệ Nhị Luật.

Ông Môsê nói cùng dân chúng rằng: “Các ngươi hãy kính sợ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, hãy tuân giữ mọi huấn lệnh và giới răn của Người mà tôi truyền dạy cho các ngươi, cho con cái cháu chắt các ngươi tuân giữ mọi ngày trong đời sống các ngươi, để các ngươi được sống lâu dài.

“Hỡi Israel, hãy nghe đây mà tuân hành các điều Chúa truyền dạy cho ngươi, thì ngươi được phần phúc và sinh sản ra nhiều hơn, như lời Chúa là Thiên Chúa tổ phụ ngươi đã hứa ban cho ngươi phần đất chảy sữa và mật.

“Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 17, 2-3a. 3bc-4. 47-51ab

Đáp: Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa (c. 2).

Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa; lạy Chúa là đá tảng, chiến luỹ, cứu tinh. – Đáp.

2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù. – Đáp.

3) Vạn tuế Thiên Chúa, chúc tụng Đá Tảng của con, ngợi khen Thiên Chúa là Đấng cứu độ con. Ngài đã ban cho đức vua được đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Đấng được xức dầu của Ngài. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Dt 7, 23-28

“Vì lẽ Người tồn tại đời đời, nên Người có một chức tư tế hằng hữu”.

Trích thư gởi cho tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, có nhiều người làm tư tế (của Giao Ước cũ), vì lẽ sự chết ngăn trở họ tồn tại lâu bền. Còn Đức Kitô, vì lẽ Người tồn tại đời đời, nên Người có một chức tư tế hằng hữu. Bởi đó, Người có thể cứu độ cách vĩnh viễn những ai nhờ Người mà đến với Thiên Chúa, vì Người hằng sống để chuyển cầu cho chúng ta.

Phải, vì chúng ta cần một vị Thượng tế thánh thiện, vô tội, tinh tuyền, tách biệt khỏi kẻ tội lỗi và đã được nâng cao trên các tầng trời. Người không cần phải như các tư tế hằng ngày dâng lên của lễ trước là đền tội lỗi mình, sau là đền tội lỗi dân chúng, vì Người làm việc ấy chỉ có một lần khi hiến dâng chính mình. Vì Lề luật thì đặt những người yếu đuối làm tư tế, còn lời thề có sau Lề luật thì đặt Người Con hoàn hảo làm Thượng tế đến muôn đời. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! – Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mc 12, 28b-34

“Đó là giới răn thứ nhất, còn giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, có người trong nhóm luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: “Trong các giới răn điều nào trọng nhất?” Chúa Giêsu đáp:

“Giới răn trọng nhất chính là: Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi. Còn đây là giới răn thứ hai: Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó”.

Luật sĩ thưa Ngài: “Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh”.

Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu”. Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

04/11/2018 – CHÚA NHẬT TUẦN 31 TN – B

Mc 12,28b-34

LỄ VẬT CHÚA YÊU THÍCH

“Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quí hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” (Mc 12,33)

Suy niệm: Trong các thánh lễ vào các đại lễ, phần dâng lễ vật rất được chăm chút.  Về của lễ, ngoài bánh và rượu như thường lệ, còn có các lễ vật là hoa, nến, hương, trầm và cả tiền giỏ nữa. Những thành viên trong đoàn dâng lễ y phục chỉnh tề, tập dượt kỹ lưỡng trước để tiến dâng lễ vật trong sự trang nghiêm, nhịp nhàng. Cùng với bài ca dâng lễ, còn có vũ khúc kèm theo và những lời dẫn nói lên ý nghĩa lễ dâng và tâm tình của cộng đoàn. Dâng lễ vật cho Thiên Chúa là việc chính đáng và cao quí. Tuy nhiên, tiêu chuẩn để Thiên Chúa phán xét không hệ tại ở mức ‘hoành tráng’ của lễ dâng nhưng ở việc làm do lòng thương xót ta dành cho tha nhân. Lòng yêu mến người khác là dấu hiệu cho biết ta có mến Chúa thật lòng hay không. Về điểm này, thánh Gio-an nói rất rõ ràng: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).

Mời Bạn: Thánh Tô-ma A-qui-nô cho rằng việc trợ giúp những nhu cầu cấp thiết của người khác vì tình yêu thương “là một hy lễ được Thiên Chúa yêu thích hơn vì hướng trực tiếp đến tha nhân”. (x. Tông huấn “Hãy Vui Mừng Hoan Hỉ”, số 106 của ĐGH Phan-xi-cô).

Sống Lời Chúa: Khi xét mình xưng tội, tôi vừa xét bổn phận đối với Chúa vừa xét bổn phận đối với anh em, đặc biệt, tôi xét xem tôi có sống vô cảm đối với người đang đau khổ, túng cực không.

Cầu nguyện: Đọc kinh Kính Mến: Lạy Chúa, con kính mến Chúa…. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

4 THÁNG MƯỜI MỘT

Lòng Thương Xót Của Chúa Cha

Trong lời nguyện hiến tế của Ngài, Chúa Giêsu xin Chúa Cha gìn giữ các môn đệ cho khỏi ác thần (Ga 17,15). Như vậy, lời nguyện hiến tế vừa ca ngợi sự tốt lành của hiệp nhất, vừa là lời khẩn xin tha thiết để mọi sự dữ chống lại hiệp nhất đều có thể được thắng vượt. Do đó, đây cũng là một lời nguyện hoà giải. Sự hoà giải này diễn ra ở những cấp độ khác nhau: nơi chính bản thân mỗi người, giữa các cá nhân, giữa các Kitô hữu, giữa người Kitô hữu và những người ngoài Kitô giáo, giữa các dân tộc và các quốc gia, giữa các khu vực đã phát triển và các khu vực kém phát triển trên thế giới.

Hoà giải là một kinh nghiệm sâu xa thuộc lãnh vực tâm linh con người. Trong hình thức cao nhất của nó, nó là hình ảnh người Cha nhân lành mở rộng vòng tay ôm lấy đứa con bất trị. Anh ta là nạn nhân của cám dỗ muốn xây dựng một thế giới hoàn toàn bởi sức riêng mình, bất cần Cha. Cái trống rỗng của sự chọn lựa ấy, nỗi cô đơn nhức nhối ấy, và hậu quả là phẩm giá của anh cũng chẳng còn … Tất cả đã gây ra những vết thương cần phải được chữa trị tận căn. Anh cần phải quay về và kinh nghiệm lại lòng thương xót của Cha. Vâng, sự hoà giải phải cắm rễ sâu trong cuộc sống chúng ta: hoà giải với Thiên Chúa, với chính mình, với nhau, với các cộng đoàn Giáo Hội khác, bắt đầu bằng một sự biến đổi sâu xa trong tâm hồn mình.

Hoà giải còn mang một chiều kích xã hội nữa. Nó vượt qua những rào cản ngăn cách các tầng lớp xã hội và vượt qua sự xung khắc giữa các quốc gia. Nó tiêu diệt các hình thức kỳ thị đầy bất công. Trên hết, nó ưu tiên tôn trọng phẩm giá độc đáo của mỗi người và tích cực bảo vệ các quyền của con người ở bất cứ nơi đâu mà các quyền ấy bị đe doạ.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 04-11

Chúa Nhật XXXI thường niên

Đnl 6, 2-6; Dt 7, 23-28; Mc 12, 28b-34.

LỜI SUY NIỆM: Chúa Giêsu trả lời: “Điều răn đứng đầu là: nghe đây, hỡi Ítraen, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất, ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi. Điều răn thứ hai là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác hơn các điều răn đó.

            Chúa Giêsu đang khẳng định bổn phận đầu tiên của con người là phải yêu mến Thiên Chúa một cách trọn vẹn của thân xác lẫn linh hồn, không được hướng về bất cứ một quan niệm nào về Thiên Chúa theo cách của thế gian. Điều này người Kitô hữu nhận ra Ngài một cách trọn vẹn nơi Chúa Giêsu Kitô. Để làm sáng tỏ cho lòng yêu mến Thiên Chúa, Chúa Giêsu nối tiếp qua việc yêu mến tha nhân, đó là lấy tình yêu chính mình để làm tiêu chuẩn cho việc yêu mến tha nhân.

            Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con luôn có đời sống kính mến Chúa trên hết mọi sư và yêu mến tha nhân như chính mình, như lời Chúa đã dạy, để tất cả chúng con được nên một trong Chúa.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 04-11

Thánh CARÔLÔ BORRÔMÊÔ

Giám Mục (1538 – 1584)

Xuất thân từ dòng họ quí phái Lombardo, thánh Carôlô Borrômêô sinh tại Arôna ngày 2 tháng 10 năm 1538, là con thứ trong gia đình, tuổi trẻ đạo đức đã sớm định hứơng cuộc đời Ngài để phục vụ Giáo hội, Ngài đạt bằng tiến sĩ luật ở Paris năm 1559, nhưng tháng giêng năm sau đã triệu vời về Roma. Ở đó Ngài được đặt ngay làm Hồng Y với những trách và cao trọng trong Giáo hội gồm cả chức vụ Tổng Giám mục Milan, và dù còn trẻ cũng đã được trao cho trách nhiệm làm quốc vụ khanh tòa thánh.

Trong quyền hạn này, Ngài kiểm soát mọi giao dịch chính thức của Đức Giáo hoàng, bao gồm nhiều cuộc đám phán khó khăn liên quan đến việc hoàn thành công đồng Tridentinô từ năm 1560-1564. Công đồng kết thúc, Ngài còn phải lo lắng tới những công chuyện còn sót lại và mãi tới tháng 9 năm 1565 Ngài mới được đức giáo hoàng cho phép về ở tại nhiệm sở của mình. Khó khăn lắm mới được trở về Milan, Ngài lại bị triệu hồi để giúp cậu Ngài bên giường bệnh, và sau đó góp phần chọn lựa đấng kế vị là Đức Giáo hoàng Piô V. Ngài trở lại Milan vào tháng 4.1566.

Kể từ lúc đó cho đến khi qua đời, ngày 3.10. 1584, cuộc đời của thánh Carôlô được dành trọn cho giáo phận với tư cách của một Tổng giám mục. Việc canh tân khẩn thiết nhất trong mục vụ của vị giám mục tập chú vào sơ đồ canh tân công đồng Tridentinô để ra. Thánh Carôlô đã trở thành giám mục “kiểu mới” của công đồng Tridentinô, Ngài đã thành công đến nỗi trở thành gương mẫu và gợi hứng cho toàn thể Giáo hội. Có lẽ hơn bất cứ một cá nhân nào khác Ngài đã chuyển các sắc lệnh của cộng đồng ra hành động trong Giáo hội công giáo, Ngài đã thực hiện cuộc canh tân, tổ chức lại hàng giáo sĩ và đời sống thiêng liêng trong cả địa phận lẫn tỉnh Milan. Nhưng nỗ lực này được ghi lại đầy đủ chi tiết qua một số qui luật do sáu hội nghị giáo tỉnh và mười một hội nghị giáo nhận.

Ngài kiên trì viếng thăm toàn giáo phận rộng rãi bao la được giảng dạy, ban các phép bí tích tới những làng mạc xa xôi nhất và những vùng thung lũng núi Alpels. Cuộc hồi sinh đạo công giáo tại Thụy sĩ mà nhiều phần nằm trong quyền hạn của Ngài đã là ảnh hưởng quyết định của Ngài, Ngài đã thiết lập nhiều học viện và chủng viện, Ngài là người bạn của dòng tên, dòng thánh Barnaba và nhiều dòng mới thời đó. Chính Ngài cũng đã thiết lập dòng cho những tu sĩ thánh Ambrôsiô (bây giờ là thánh Carôlô) để đặc biệt giúp đỡ Ngài. Ngài còn liên hệ một cách chủ động tới cuộc canh tân dòng cổ. Có một nhóm bất mãn dòng Umiliati là Ngài muốn canh tân và sau này đã biến mất, đã tìm cách sát hại khi Ngài đang cầu nguyện năm 1569.

Ngài đã khích lệ những hội đạo đức và tổ chức lại các trường công giáo. Ngài cố gắng bảo tồn nghi thức thánh Ambrôsiô cho Milan khi nghi thức này bị đe dọa và cố gắng theo gương thánh Ambrôsiô. Nhưng sự cương quyết không chịu thoả hiệp và sự nghiêm khắc về những nguyên tắc luân lý đã không khỏi gây nên những chống dối. Sức chống đối không chỉ từ vài nhóm giáo sĩ và còn từ phía uy quyền thế tục đại diện bởi những nhà cầm quyền Tây Ban Nha và nghị viện thành phố nữa.

Dầu vậy, như một thánh nhân và một nhà canh tân, thánh Borrômêô không đòi những người khác điều gì mà chính Ngài đã thi hành. Đời sống cầu nguyện và bỏ mình của Ngài còn tân tiến với những nỗ lực mục vụ. Tai họa dịch hạch năm 1576 đến 1578 cho thấy sự hy sinh xả kỷ tột cùng của Ngài, Ngài đã hiến mình làm hiến tế, bô thí tất cả những gì Ngài có như động sản, áo quần; lột bỏ những màn trướng để phủ che những người bất hạnh, chính Ngài cũng ngủ trên sàn nhà, Ngài gọi các linh mục và tu sĩ đến, chỉ định cho họ những ngả đường để giải tội cho nhưng bênh nhân, an ủi và chuẩn bị cho họ chết lành. Để những người hấp hối có thể tham dự thánh lễ, Ngài cho dựng những bàn thờ nơi các ngã tư. Thánh giá mọc lên khắp nơi cho mọi người nhìn thấy. Chuông nhà thờ reo vang, những bản thánh ca được hát lớn trong mỗi gia đình vào giờ nhất định.

Như thế, bệnh nhân được tham dự vào đời sống cộng đoàn, thành phố thoát khỏi cảnh tang thương vô vọng để sống như trong một tu viện. Đức tổng giám mục đến với người bị dịch hạch, những trẻ em lăn lóc bên xác mẹ, Ngài cuốn áo choàng mang về nhà. Người ta tổ chức những cuộc đi chân không theo đám rước tay cầm chặt thánh giá. Cuối cùng khi tai họa chấm dứt, Đức Hồng y đã xác tín rằng: dù cho có bao nhiêu nạn nhân, đoàn chiên Ngài phải cảm ơn Thiên Chúa vì cơn thử thách đã đổi mới các tâm hồn.

Nhiều dịp khác cũng cho thấy sáng kiến và lòng tận tâm của thánh nhân, Milan nhiều lần bị nạn đói, thánh Carôlô cho trồng bắp, tổ chức những bữa cháo nghèo, lập các nhà từ thiện. Nhờ Ngài, những người giàu có nên quảng đại hơn. Thánh nhân đã không tìm nghĩ ngơi sau những nỗ lực không ngừng cho công việc bác ái và mục vụ. Mỗi lúc đêm về người ta còn thấy Ngài tiến vào nhà nguyện để đọc kinh suy gẫm. Tới cuối đời, Ngài còn tìm tòi học hỏi, không lãng quên sách thánh, Ngài thích đọc sách cổ, sách thuốc và sách chiêm tinh Ả Rập. Ngài rất ưa thích nghệ thuật và nếu phải bán bộ sưu tầm của Ngài đi, thì đây là một hy sinh lớn lao cho Ngài.

Không nghỉ ngơi, thánh Carôlô Borrômêô giống như một người nghèo không bao giờ biết đến nghỉ ngơi. Cơn bệnh đến, thánh nhân bất động, mắt nhắm nghiền. Vài người nói: “Kìa cơn mê của giám mục thánh Modène”. Vào những ngày cuối đời, nhắm mắt lại để người ta tưởng Ngài ngủ và như thế có thể hồi tâm cầu nguyện mà không bị lo ra, Ngài cười khi người ta khuyên Ngài đừng sợ chết. Rồi sau khi lãnh nhận các bí tích sau hết, Ngài lịm vào trong sự tôn thờ.

Tin loan báo cái chết của thánh Carôlô Borrômêô đã làmcho cả Milan đau đớn. Sủ gia viết truyện đời Ngài nói: “Đêm ấy, ít có ai ngủ được”. Đức Phaolô V đã phong thánh cho Ngài ngày 10 tháng 11 năm 1610.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

04 Tháng Mười Một

Quo Vadis, Domine?

Ðêm trước ngày vào cơ mật viện để bầu Giáo Hoàng, Hồng Y Karol Wojtyla đã chuẩn bị hành lý để trở về Krakow, tổng giáo phận của ngài. Thế nhưng, ngài đã không trở lại Krakow nữa. Ngày thứ hai, 16 tháng 10 năm 1978, vị Hồng Y 58 tuổi này đã được bầu làm Giáo Hoàng và lấy tên là Gioan Phaolô II. Ngài là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến từ Ba Lan, là vị Giáo Hoàng đầu tiên không phải là người Italia kể từ 450 năm qua, và tính từ 150 năm trở lại, thì ngài là vị Giáo Hoàng trẻ nhất. 

Trong khi chuẩn bị cho bài giảng Chúa Nhật đầu tiên kể từ lúc được bầu làm Giáo Hoàng, Ðức Gioan Phaolô II đã nghĩ đến tác giả của quyển tiểu thuyết giả sử nổi tiếng “Quo vadis, Domine?” là ông Henryk Sienkiewicz, một văn sĩ và đồng thời cũng là một nhà ái quốc Ba Lan. Qua tác phẩm này, vị Giáo Hoàng người Ba Lan đã so sánh tâm tình của mình với vị Giáo Hoàng đầu tiên là thánh Phêrô như được ghi lại trong tác phẩm “Quo vadis,Domine?”, “Lạy Chúa, Chúa đang đi đâu?”. Theo tác giả quyển tiểu thuyết giả sử, thì có lẽ thánh Phêrô thích ở lại quanh quẩn bên bờ hồ Genezareth hơn là đến giữa trung tâm của đế quốc La Mã để gặp không biết bao nhiêu chống đối và bách hại. Giữa lúc vị Giáo Hoàng đầu tiên toan tình trốn khỏi La Mã để trở về quê hương mình, thì ngài gặp lại Chúa Giêsu hiện ra đang đi ngược chiều với ngài. Ngạc nhiên về sự xuất hiện của Chúa, thánh Phêrô đã hỏi: “Quo vadis, Domine?” nghĩa là “Lạy Chúa, Chúa đang đi đâu?”. Và Chúa Giêsu đã trả lời như sau: “Ta đang đi đến La Mã để chịu đóng đinh một lần nữa”. Hiểu được ý Chúa, Phêrô đã quay trở lại La Mã và ngài ở lại đó cho đến khi chịu đóng đinh.

Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Carolô Borremêô và mừng bổn mạng một cách đặc biệt của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Mãi mãi tên Carolô gắn liền với tên tuổi và vận mệnh của Ðức Thánh Cha. Hơn ai hết, ngài phải là người kính nhớ và ghi ơn vị thánh bổn mạng nhiều nhất.

Tên thánh được đặt cho chúng ta trong ngày chịu Phép Rửa đánh dấu sự đổi đời quan trọng của chúng ta. Từ cái chết trong tội lỗi, chúng ta được tái sinh trong sự sống của Chúa. Hướng đi của chúng ta phải là hướng đi tới Chúa, không thể là bước thụt lùi.

Mang lấy tên thánh Carolô, Wojtyla đã quyết tâm hướng cuộc đời của mình tiến tới trong phục vụ và hy sinh như như chính thánh giám mục Carolô Borremêô. Và khi chọn lấy danh hiệu mới là Gioan Phaolô, vị Giáo Hoàng người Ba Lan cũng quyết tâm tiến tới trên con đường mà hai vị tiền nhiệm của mình đã vạch ra… Là người Kitô, chúng ta cũng luôn được mời gọi tiến tới không ngừng trên đường theo chân Chúa Giêsu. Tên thánh mà chúng ta mang lấy trong ngày Rửa Tội, danh hiệu Kitô mà chúng ta được đặt cho phải luôn luôn là một nhắc nhở chúng ta về con đường tiến lên ấy. Chắc chắn con đường ấy không là một con đường rộng thênh thang. Sự tiến lên ấy không là một đà tiến dễ dàng. Phêrô đã quay trở lại La Mã để chịu đóng đinh… Thập giá có lẽ đang chờ đợi chúng ta, chúng ta hãy hiên ngang tiến bước vì đó chính là hướng đi của tất cả những ai mang danh hiệu Kitô.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật 31 Thường NiênB

Bài đọc: Deut 6:2-6; Heb 7:23-28; Mk 12:28b-34.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Đâu là bổn phận quan trọng nhất phải làm? 

            Con người bị lẫn lộn nhiều về câu hỏi này vì có quá nhiều bổn phận phải chu toàn trong cuộc sống này như: bổn phận đối với Chúa, Giáo Hội, quốc gia, xã hội, cha mẹ, vợ chồng, con cái, thân nhân và bạn hữu. Bổn phận nào trong những bổn phận này quan trọng nhất và tại sao? Sẽ có những câu trả lời khác nhau tùy thuộc vào sự hiểu biết về đời sống của mỗi người.

            Các bài đọc hôm nay cho con người một câu trả lời rõ ràng và lý do tại sao phải làm như thế. Trong bài đọc thứ nhất, Moses và tất cả những nhà lãnh đạo Do-thái thường xuyên nhắc nhở con cái Israel bổn phận quan trọng nhất của họ là đối với Thiên Chúa, “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em.” Trong bài đọc thứ hai, tác giả của Thư Do-thái cho lý do tại sao con người phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, là vì tình yêu vô biên của Ngài cho con người qua sự kiện Ngài cho người con một của Ngài để cứu chuộc và để không ngừng cầu bầu cho con người. Trong Phúc Âm, khi một luật sĩ hỏi Chúa Giêsu đâu là giới răn quan trọng nhất, Ngài cho ông hai giới răn, thứ nhất yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự; thứ hai yêu người như chính bản thân ta vậy.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng, hết dạ, hết sức anh em.”           

1.1/ Con người phải làm mọi cách để nhớ điều răn quan trọng nhất: Có hai điều con người phải làm từ giới răn này:

            – Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi: Con người không được thờ phượng bất cứ thần nào khác. Đây là giới răn tuy rõ ràng nhưng không dễ làm vì con người có khuynh hướng tạo những thần khác nhau để tôn thờ.

            – Con người phải yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết linh hồn và hết sức: Họ không thể đặt bất cứ ai hay bất cứ vật gì trên Thiên Chúa. Nếu họ đặt quốc gia, xã hội, cha mẹ, vợ chồng, con cái, thân nhân hay bạn hữu trên Thiên Chúa, họ đã đảo ngược trật tự và vi phạm giới răn thứ nhất.

            Vì con người dễ quên và thường hay bị cám dỗ bởi ba thù là ma quỉ, thế gian và xác thịt, ông Moses đã truyền cho con cái Israel phải làm những điều sau đây, và những người Do-thái truyền thống vẫn giữ thói quen này đến bây giờ:

            (1) Phải ghi nhớ nó trong lòng: Để nhớ bất kỳ điều gì, cách thức tốt nhất là lặp đi lặp lại cho đến khi thành thói quen hay bản tính thứ hai. Những tín hữu thường cầu nguyện ba lần một ngày vào những lúc cố định như sáng, chiều và tối. Những ẩn sĩ và tu sĩ thường cầu nguyện bảy lần một ngày để nhớ đến Chúa, cứ mỗi ba giờ.

            (2) Phải ghi tạc vào lòng con trẻ của họ: Vì con người có khuynh hướng dễ quên, nên cần được thường xuyên nhắc nhở bởi những người có trách nhiệm. Moses truyền cho con cái Israel, “Ghi tạc nó vào lòng con cái của các anh. Nói với chúng khi ở nhà cũng như khi ra ngoài đường, khi bận rộn cũng như lúc nghỉ ngơi” (Deut 6:7). Đây là bổn phận đầu tiên của cha mẹ cho con cái; nếu họ không hoàn tất bổn phận này, họ sẻ phải chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa.

            (3) Phải đặt nó ở những nơi để kéo sự chú ý của con người: Moses truyền, “Cuốn nó vào tay của anh như một dấu hiệu và đặt nó như một vương miện trên đầu của anh. Viết chúng trên cửa ra vào của nhà anh và trên cổng thành của anh.”

            – Khi người Do-thái cầu nguyện, họ cuốn hai hộp đựng Shema chung quanh tay của họ.

            – Họ cũng viết Shema trên thẻ kinh và cuốn trên đầu của họ trước khi cầu nguyện.

            – Họ cũng viết chúng trên cửa nhà và cửa thành của họ: Vì mỗi người trong nhà đều phải ra vào cửa nhà nhiều lần trong ngày, họ sẽ nhớ đến Chúa mỗi khi nhìn thấy Shema. Thành phố xưa của người Do-thái thường chỉ có một cổng nơi mà mọi công dân trong thành đều phải dùng khi đi ra hay đi vào. Họ được nhắc nhở để nhớ đến Chúa khi nhìn thấy Shema.

1.2/ Phần thưởng cho những ai tuân giữ giới răn: Vì người Do-thái xưa chưa có một quan niệm rõ ràng về cuộc sống đời sau, nên họ nghĩ rằng ai tuân giữ giới răn của Chúa sẽ được thưởng những điều sau đây ở đời này: hạnh phúc, sống lâu, thịnh vượng và nhiều con cái. Moses liệt kê hai phần thưởng Chúa sẽ ban cho con người trong đoạn văn này:

            (1) Được sống một cuộc đời lâu dài: “Như vậy anh em cũng như con cháu anh em sẽ kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mọi ngày trong suốt cuộc đời, tuân giữ tất cả những chỉ thị và mệnh lệnh của Người mà tôi truyền cho anh em, và anh em sẽ được sống lâu.”

            (2) Được thịnh vượng: “Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe và lo đem những điều ấy ra thực hành; như vậy anh em sẽ được hạnh phúc và trở nên thật đông đảo, trong miền đất tràn trề sữa và mật, như Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, đã phán với anh em.”

2/ Bài đọc II: “Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ.”

            Tác giả của Thư Do-thái cho con người hai lý do tại sao họ phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, đó là: Chúa đã ban tặng Người Con duy nhất của Ngải để chết cho tội của chúng ta và để thường xuyên bầu chủ cho chúng ta trước tòa Thiên Chúa. Để giúp cho độc giả có thể hiểu những điều này, ông so sánh chức tư tế Lê-vi của Cựu Ước với chức tư tế của Đức Kitô trong Tân Ước.

2.1/ Chức tư tế của Đức Kitô sẽ tồn tại muôn đời.

            (1) Chức tư tế Lê-vi thay đổi thường xuyên vì họ là những con người phải chết, “Lại nữa, trong dòng tộc Lê-vi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ mãi chức vụ đó.”

            (2) Chức tư tế của Đức Kitô sẽ không thay đổi: “Còn Đức Giê-su, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi. Do đó, Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ.” 

2.2/ Chức tư tế của Đức Kitô hiệu quả hơn chức tư tế của Cựu Ước.

            (1) Hy lễ của Đức Kitô chỉ xảy ra một lần và cho mọi người.

            – Hy lễ của Lê-vi: Tất cả tư tế là tội nhân; vì thế, “mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân.”

            – Hy lễ của Đức Kitô: “Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời… phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ.”

            (2) Chức tư tế của Đức Kitô được làm bởi lời thề của Thiên Chúa.

            – Chức tư tế Lê-vi được thiết lập bởi lề luật: Họ là tất cả những ai thuộc chi tộc Lê-vi, và thầy thượng-tế được chọn theo luật: “Vì Luật Mô-sê thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối.”

            – Chức tư tế của Đức Kitô: “Còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời.” Tác giả đã dùng Thánh Vịnh 110:4 để chứng minh lập luận của mình, “Chúa Thượng đã thề và không rút lời: “Con là Thượng Tế đến muôn đời theo phẩm hàm Melchizedek””

3/ Phúc Âm: Điều răn nào đứng đầu?           

3.1/ Điều răn đứng đầu là: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.”

            Có hơn 600 khoản luật trong Cựu Ước. Điều này có thể gây lẫn lộn ngay cả cho những người thông thạo về luật như các kinh-sư và Biệt-phái. Đây là lý do tại sao một nhà kinh sư, sau khi đã nghe Chúa Giêsu đối chất với người khác, đến gần người và hỏi: “Đâu là điều răn đứng đầu trong các điều răn?”

  1. Câu trả lời của Chúa Jesus: Ngài nhắc lại Shema, điều răn đứng đầu là: “Nghe đây, hỡi Israel, Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất. Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.”

            (1) Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức Chúa duy nhất: Do-thái Giáo và Công Giáo là hai tôn giáo độc thần; họ không chấp nhận đa thần. Một số người Do-thái đã phê bình Công Giáo không phải là độc thần vì họ thờ ba thần. Các tín hữu Công Giáo thờ một Chúa, nhưng trong ba ngôi vị là Cha, Con và Thánh Thần như đã được mặc khải trong Cựu Ước và xác nhận bởi Đức Kitô.

            (2) Bổn phận của con người với Thiên Chúa: Chỉ có một điểm khác biệt giữa Shema và tường thuật của Marcô là “hết trí khôn” trong Marcô. Như thế nào là mến Chúa:

            (1) Hết lòng (kardía): Truyền thống Semit coi trái tim là chỗ của tình yêu, một loại cảm nghĩ đặc biệt và tất cả cảm xúc. Người yêu mến Thiên Chúa hết lòng không được đặt cảm xúc của anh cho bất kỳ điều gì trước Thiên Chúa.

            (2) Hết linh hồn (psychè): Thánh Thomas nói, “Linh hồn là nguyên lý đầu tiên của dinh dưỡng, cảm giác, di chuyển nơi chốn cũng như sự hiểu biết của chúng ta.” Người yêu mến Thiên Chúa hết linh hồn phải đặt Thiên Chúa làm trung tâm điểm của mọi hoạt động của mình, dù ăn uống, nghỉ ngơi hay học hỏi.

            (3) Hết trí khôn (dianoía): Nhiều người cho trí khôn là chỗ của các hoạt động trí tuệ. Trí khôn nên được bao gồm như hoạt động chính của linh hồn. Người yêu mến Thiên Chúa hết trí khôn phải nghiền ngẫm những lời dạy của Thiên Chúa đêm ngày.

            (4) Hết sức (ischús): Danh từ này có thể được phiên dịch là khả năng, năng lực, sức mạnh hay quyền năng. Sức mạnh cần thiết để làm việc, nhất là trong lúc khó khăn. Người yêu mến Thiên Chúa hết sức phải dùng năng lực của mình để làm công việc của Thiên Chúa. Anh ta phải sống động và lạc quan, không được buồn sầu và bi quan.

  1. Câu lập lại của kinh sư:

            (1) Ông ta đồng ý với Chúa Jesus về chủ nghĩa độc thần và Thiên Chúa của Israel: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng. Thiên Chúa là Đấng duy nhất, ngoài Người ra không có Đấng nào khác.”

            (2) Ông không bao gồm “với hết trí khôn” và dùng “hiểu biết” (súnesis) cho “linh hồn”: “Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực.” Hiểu biết là một trong các hoạt động của linh hồn, nhưng không phải là tất cả.           

3.2/ Điều răn thứ hai là:

  1. Câu trả lời của Chúa Jesus: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” Sau Thiên Chúa là đến con người; con người phải yêu mến tha nhân vì những lý do sau đây: Thứ nhất, mọi người là con của một Chúa và là anh chị em với nhau. Thứ hai, tất cả các tín hữu là những chi thể của một thân thể Đức Kitô; khi một phần thân thể đau, toàn thân phải chịu đựng. Thứ ba, Chúa Jesus đã báo trước là bất cứ những gì chúng ta làm cho một kẻ bé mọn nhất là làm cho chính ngài và ngược lại; vì thế, chúng ta phải yêu mến và giúp đỡ nhau. Sau cùng, khi tất cả mọi người góp phần xây dựng thế giới, cuộc sống của mỗi người sẽ tốt đẹp hơn. Ngược lại, nếu mỗi người chỉ lo cho chính họ, thế giới sẽ nghèo nàn và mất trật tự.
  2. Câu lập lại của kinh sư: “Yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ.” Ông ta nhấn mạnh đến con người phải đặt tha nhân lên trên của cải vật chất, ngay cả các lễ vật và hy sinh cho Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là nếu có ai cần được giúp đỡ để sinh sống, chúng ta cần phải dùng những của cải vật chất được dùng cho Thiên Chúa để giúp đỡ người ấy.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            – Rất nhiều lần trong cuộc sống chúng ta đã vi phạm điều răn thứ nhất nhưng chúng ta đã không để ý tới chúng. Chúng ta cần thật lòng với chính mình bằng cách cẩn thận xét mình xem nếu chúng ta đã thật lòng chu toàn bổn phận của chúng ta với Thiên Chúa, đặc biệt trong cách chúng ta dùng thời gian của Ngài ban.

            – Nhiều lần chúng ta đã vi phạm điều răn thứ hai khi chúng ta đánh giá những của cải vật chất của chúng ta hơn phẩm giá con người và nhu cầu của họ. Chúng ta cần giúp đỡ người khác, không chỉ với của cải vật chất nhưng còn với kiến thức và thời gian của chúng ta để mở trí tha nhân và đưa họ đến với Chúa. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************