Chúa Nhật (14-08-2022) – Trang suy niệm

13/08/2022

Lời Chúa Hôm Nay

Chúa Nhật Tuần XX Mùa Thường Niên Năm C

BÀI ĐỌC I: Gr 38, 4-6. 8-10

“Ngài đã sinh ra tôi làm người bất thuận sống trên vũ trụ”.

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Trong những ngày ấy, các thủ lãnh tâu vua rằng: “Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉ tìm tai hoạ”. Vua Sêđêcia phán rằng: “Đấy nó ở trong tay các ngươi, vì nhà vua không thể từ chối các ngươi điều gì”. Họ liền bắt Giêrêmia và quăng xuống giếng của Melkia con Amêlec, giếng này ở trong sân khám đường, họ dùng dây thả Giêrêmia xuống giếng. Giếng không có nước, chỉ có bùn, nên ông Giêrêmia sa xuống bùn.

Abđêmêlech ra khỏi đền vua và đến tâu vua rằng: “Tâu bệ hạ, những người này chỉ toàn làm những điều ác đối với tiên tri Giêrêmia, họ ném ông xuống giếng cho chết đói dưới đó, vì trong thành hết bánh ăn”. Vậy vua truyền dạy Abđêmêlech người Êthiôpi rằng: “Hãy đem ba mươi người ở đây theo ngươi, và kéo tiên tri Giêrêmia ra khỏi giếng trước khi ông chết”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 39, 2. 3. 4. 18

Đáp: Lạy Chúa, xin cấp tốc trợ phù con (c. 14b).

Xướng:

1) Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Người đã nghiêng mình về bên tôi, và Người đã nghe tiếng tôi kêu cầu. – Đáp.

2) Người đã kéo tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi chỗ bùn nhơ; Người đã đặt chân tôi trên đá cứng, và đã làm vững bước chân tôi.- Đáp.

3) Và Người đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta; nhiều người đã chứng kiến và tôn sợ, và họ sẽ cậy trông vào Chúa. – Đáp.

4) Phần con, khốn khổ cơ bần, nhưng mà có Chúa ân cần chăm nom. Người là Đấng phù trợ và giải thoát con, ôi lạy Chúa, xin Ngài đừng chậm trễ. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Dt 12, 1-4

“Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta”.

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, cả chúng ta, chúng ta cũng có một đoàn thể chứng nhân đông đảo như đám mây bao quanh, chúng ta hãy trút bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta nặng nề và tội lỗi bao quanh chúng ta. Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đức Giêsu, Đấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến Đấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng. Vì chưng, trong khi chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống”. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 12, 49-53

“Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

14/08/2022 – CHÚA NHẬT TUẦN 20 TN – C

Lc 12,49-53

SỐNG LÀ CHIẾN ĐẤU

“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất và Thầy những ước mong cho lửa ấy đã bùng lên.” (Lc 12,49)

Suy niệm: Cuộc sống của người ki-tô hữu phải là một cuộc chiến đấu không ngừng mà chính Chúa Giê-su là người khởi xướng và mẫu gương đi trước. Lửa và Phép Rửa mà Tin Mừng nhắc đến hôm nay chính Chúa Giê-su đã đem đến trần gian và Ngài đã thi hành sứ mệnh cứu thế của Ngài bằng một cuộc chiến cam go, đã đánh bại thần chết bằng cuộc Phục sinh của Ngài. Người ki-tô hữu không thể đi ngoài con đường Thánh Giá của Đức Ki-tô. Trong thân phận con người, chúng ta thường bị nhận chìm trong đau khổ bởi hận thù chia rẽ ghen ghét có khi bởi chính những người thân của mình. Nhưng chúng ta tin rằng bên kia bức màn đen tối đó, lại có ánh sáng và sự sống bất diệt. Cuộc sống càng có ý nghĩa, càng tăng giá trị, khi người ta ý thức được rằng cuộc sống này đòi người ta phải chiến đấu để chiến thắng. Và con đường đi đến chiến thắng không gì khác hơn là con đường thập giá của Đức Ki-tô.

Mời Bạn: Đừng sợ phải hy sinh, nhưng hãy sẵn sàng để chiến đấu chống lại mọi thứ cám dỗ và hãy chiến đấu như Chúa đã chiến đấu và chiến thắng trong sa mạc.

Sống Lời Chúa: Tập làm mỗi ngày một việc hy sinh để quen chiến đấu trước những cơn cám dỗ.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, chính vì tội lỗi chúng con mà Thập Giá xuất hiện trên trần gian và Chúa đã đem lửa xuống để thiêu đốt tất cả căn nguyên sự tội. Xin luôn ban cho chúng con sức mạnh tinh thần để cùng với Chúa, chúng con chiến thắng mọi âm mưu qua quỉ, huỷ diệt mầm mống chia rẽ, hận thù ghen ghét hầu được sống hoà hợp trong niềm tin yêu Chúa. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

SUY NIỆM 

MONG LỬA BÙNG LÊN

Cháy rừng là chuyện trước đây tương đối hiếm,

nay càng lúc càng thường xuyên hơn và dữ dội hơn.

Cháy rừng xảy ra ở mọi châu lục, nhất là châu Mỹ.

Năm 2021, có gần hai trăm ngàn vụ cháy ở Brazil.

Hàng triệu mẫu đất rừng bị hư hoại.

Nhà cửa bị thiêu rụi, người người phải sơ tán.

Khí hậu biến đổi, trái đất nóng lên chưa từng thấy.

Chỉ một tia lửa nhỏ cũng làm cả cánh rừng bốc cháy.

 

Trong bài Tin Mừng hôm nay,

Đức Giêsu nói: “Thầy đã đến ném lửa trên trái đất

và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên.”

Dĩ nhiên thứ lửa mà Ngài muốn nói

không phải là lửa của những đám cháy rừng hiện nay,

cũng không phải là thứ lửa để trừng phạt hay tiêu diệt.

Đã có lần hai môn đệ thân tín muốn gọi lửa từ trời

để thiêu hủy một làng người Samari không đón tiếp họ,

nhưng Đức Giêsu đã không cho (Lc 9,54-55).

Gioan Tẩy giả nghĩ Đấng Mêsia là Đấng đến để phán xét.

Ngài sẽ chặt cây sinh trái xấu và quăng vào lửa,

sẽ bỏ thóc lép vào lửa cho cháy tiêu (Lc 3,9.17).

Nhưng Đức Giêsu không là Mêsia theo lối nghĩ của Gioan.

Ngài không nhổ và đốt cỏ lùng ngay lập tức (Mt 13,30).

 

Khi đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời,

Đức Giêsu mang nhiều ước mơ.

Trên đường lên Giêrusalem để chịu khổ nạn,

Đức Giêsu đã coi sứ vụ của Ngài là ném lửa trên mặt đất.

Và Ngài ước mơ ngọn lửa ấy bùng lên khắp nơi (Lc 12,49).

Vào Lễ Ngũ Tuần, ước mơ này bắt đầu được thực hiện.

Những lưỡi giống như lửa đậu xuống trên từng người.

Lúc đó, ai nấy đều được đầy tràn Thánh Thần (Cv 2,1-4).

Có thể nói, lời của Gioan Tẩy giả đã ứng nghiệm (Lc 3,16):

“Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa.”

Khoảng một trăm hai mươi người đã có mặt hôm đó

để trải qua kinh nghiệm về lửa của Thánh Thần (Cv 1,15)

Kinh nghiệm ấy vẫn được tiếp tục qua dòng thời gian.

Ngọn lửa của Chúa Giêsu vẫn được chuyển đến mọi người,

cho đến khi nào cả mặt đất bừng sáng

và giấc mơ của Chúa được thực hiện.

 

Khi tiến về Giêrusalem, Đức Giêsu thấy lòng mình khắc khoải.

Ngài biết những gì đang chờ mình ở đó.

Ngài gọi đó phép rửa mà Ngài phải chịu.

Phép rửa này khác với phép rửa ở sông Giođan

vì nó sẽ dìm Ngài thật sâu trong khổ nhục và cái chết.

Đức Giêsu không chịu phép rửa này một mình.

“Các anh có chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?”

Đức Giêsu đã hỏi Giacôbê và Gioan như thế (Mc10,38).

Và Ngài cũng hỏi từng người chúng ta như thế. 

Chúng ta nên một với Ngài nhờ cái gật đầu ưng thuận.                                

                                                                                                                                                                                                                                               

Đức Giêsu đã chịu phép rửa và không còn khắc khoải.

Nhưng vẫn còn đó bao ước mơ của Ngài.

Chúng ta phải ước mơ như Chúa Giêsu đã ước mơ,

và thực hiện những ước mơ còn dang dở của Chúa.

Chúng ta phải là người nhóm lửa, giữ lửa và chuyển lửa.

Lửa của lòng nhiệt thành truyền giáo, lửa của tình yêu,

lửa của Chúa Giêsu và Thánh Thần.

 

Thế giới hôm nay thừa cháy rừng, nhưng lại thiếu lửa.

Bầu khí nóng lên kinh khủng, nhưng tim người lạnh giá.

Thánh Inhaxiô Loyola nói với anh em sắp đi truyền giáo:

“Anh em hãy đi, và làm cho cả thế giới bùng cháy lên!”

 

LỜI NGUYỆN

Lạy Chúa Giêsu,

Chúa không nhận mình là ngọn lửa,

nhưng nói mình ném lửa trên trần gian.

Chúa không nhận mình là ngọn lửa,

nhưng nhận mình là Ánh sáng.

 

Chúng con là những người được hưởng ánh sáng của Chúa.

Xin đẩy xa chúng con bóng tối của ích kỷ, sa đọa, mưu mô,

bóng tối của thất vọng, chán chường, sợ hãi.

Xin cho chúng con sống đúng lời Chúa nói:

Các con là ánh sáng cho trần gian.

 

Ước gì chúng con làm chứng cho Ánh sáng Chúa,

trong bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào,

bằng đời sống trong sạch, ngay thẳng, vui tươi.

 

Chúa đã thắp sáng ngọn đèn cuộc đời chúng con.

Xin đặt chúng con trên đế

để soi chiếu cho thế giới hôm nay.

Chỉ mong cho danh Chúa được cả sáng hơn.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

14 THÁNG TÁM

Mục Đích Phổ Quát Của Con Người Trong Kế Hoạch Của Thiên Chúa

Tuy nhiên, Công Đồng không nhắm mắt trước những vấn đề ngổn ngang mà con người đối mặt khi phát triển trái đất, cả những vấn đề trong chính mình lẫn những vấn đề trong cuộc sống với người khác. Sẽ là thiếu thành thật nếu phớt lờ những vấn đề ấy; cũng vậy, sẽ là một sai lầm nếu trình bày các vấn đề ấy một cách không đúng đắn và không phù hợp qua việc không qui chiếu đến sự quan phòng và ý định của Thiên Chúa.

Công Đồng nói: “Ngày nay, tuy đã tự hào trước những khám phá và quyền lực mình, nhân loại vẫn thấy lo lắng thắc mắc về sự tiến hóa hiện nay của thế giới, về chỗ đứng và phận vụ của con người trong vũ trụ, về ý nghĩa của những cố gắng cá nhân cũng như tập thể, và sau hết về cùng đích của con người và muôn loài” (MV 3).

Rồi Công Đồng tiếp tục giải thích: “Cũng như trong bất cứ cơn khủng hoảng tăng trưởng nào, sự biến đổi này kéo theo những khó khăn không nhỏ. Chẳng hạn như đang khi bành trướng quá rộng quyền lực của mình, không phải lúc nào con người cũng có thể bắt nó phục vụ mình. Cố gắng đi sâu hơn vào thâm tâm mình, con người nhiều khi lại tỏ ra hoang mang hơn về chính mình. Dò dẫm tìm hiểu rõ hơn những luật lệ của đời sống xã hội, con người lại do dự không dám định đoạt hướng đi cho mình” (MV 4).

Một cách rất ấn tượng, Công Đồng nói về “những mâu thuẫn và chênh lệch” là hệ lụy của sự thay đổi “nhanh chóng và lộn xộn” trong các điều kiện kinh tế xã hội, trong tập quán, trong văn hóa, trong suy nghĩ và trong lương tâm con người, trong gia đình, trong các mối quan hệ xã hội, trong quan hệ giữa các nhóm, các cộng đồng và các quốc gia. Điều này gây ra “những ngờ vực và thù nghịch nhau, những xung đột và thống khổ mà chính con người là nguyên nhân và nạn nhân.” (MV 8-10).

Cuối cùng, Công Đồng vạch ra gốc rễ của vấn đề nói trên khi tuyên bố: “Những chênh lệch dày vò thế giới ngày nay gắn kết với một chênh lệch căn bản hơn phát xuất từ đáy lòng con người” (MV 10).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 14/8

CHÚA NHẬT XX THƯỜNG NIÊN

Gr 38, 4-6. 8-10; Dt 12, 1-4; Lc 12, 49-53.

LỜI SUY NIỆM: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bừng lên!”

          Chúa Giêsu đang tâm sự với mỗi người trong chúng ta, và Người đang ước muốn toàn thể nhân loại cùng cọng tác với Người để thực hiện điều Người đang mong ước là: Lửa yêu mến Chúa Cha và yêu thương con người; được thể hiện trên trần gian này. Nhưng con người mãi dầu tư vào vũ khí và chiến tranh để tiêu diệt lẫn nhau, không tôn trọng vào bảo vệ sự sống của con người. Trong kinh doanh khai thác thiên nhiên, vì tư lợi đã làm cho Khí hậu và Môi trường sinh thái ngày càng ô nhiễm, chồng chất gánh nặng và bệnh tật cho người nghèo. Để đáp lại ước muốn của Chúa Giêsu; Giáo Hội Chúa đang xây dựng những cây cầu hòa bình để các bên xung đột có cơ dịp gặp gỡ, đối thoại tìm ra hòa bình hòa giải với nhau. Giáo Hội đang đưa ra những thông điệp giúp nhau tìm ra phương cách khắc phục những hậu quả tai hại về Môi Trường, để bảo vệ sự sống và tôn trọng, gìn giữ và săn sóc Thiên Nhiên.

          Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa ban cho toàn thể cộng đoàn dân Chúa luôn biết quan tâm và học tập những sứ điệp, thông điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô, để cọng tác với nhau làm cho lửa tình yêu Chúa yêu người được bùng cháy khắp mọi nơi.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 14 tháng 8
THÁNH MAXIMILIANÔ MARIA KOLBE
(1894-1941)

I. ĐÔI DÒNG TIỂU SỬ

Cha Maximilianô Kolbe sinh tại Zdusnka Wola, nước Balan, ngày 8-1-1894. Năm 1907, nhập học tại chủng viện dòng Phanxicô, được gởi qua học ở Roma. Ngày 28-04-1918, thụ phong linh mục. Là một tông đồ nhiệt thành về lòng sùng kính thánh mẫu Maria, Cha Kolbe đã tích cực cổ võ lòng tôn sùng ấy đặc biệt bằng báo chí (Nguyệt san “Người hiệp sĩ của Đức Mẹ Vô Nhiễm”) phát hành một lần tới một triệu số năm 1938) và bằng một trung tâm thánh mẫu. Năm 1930, cha qua Nhật và thành lập một trung tâm tương tự. Năm 1936, cha trở về Balan.

Ngày 1-9-1939, quân đội Đức của Hitler tấn công Balan, mở đầu cho cuộc thế giới chiến tranh thứ II.

Mười ngày sau, mật vụ Đức bắt giam cha Maximilianô Kolbe gần ba tháng. Được trả tự do, cha trở lại đời sống hoạt động tông đồ cho đến ngày 17-2-1941, thì bị bắt lại. Và lần này cha bị giam ở trại tập trung Auschwitz, nơi đã từng tiêu diệt 6 triệu người Do Thái và vô số những người khác trong các phòng hơi ngạt. Cha Kolbe cũng chết tại đó.

30 năm sau, ngày 17-10-1971 tại thánh đường Phêrô, Đức Giáo Chủ Phaolo VI đã long trọng phong cha lên hàng chân phước. Tại buổi lễ này người ta thấy có sự hiện diện của cụ Giasowniczek, người mà trước kia cha Maximilianô Kolbe đã chết thay cho.

Rồi ngày 10-10-1982 Đức Gioan Phaolô II đã phong Ngài lên bậc hiển thánh.

II. CHỨNG NHÂN ANH DŨNG

“Hôm ấy là ngày 30/7/1941, trong nhà giam số 14 tại trại tập trung Auschwitz, nơi mấy tháng trước đó, một nhóm tù nhân vừa được dẫn tới, trong đó có cha Maximilianô Kolbe, tu sĩ dòng Phanxicô Balan. Hôm ấy thiếu mất một tù nhân. Các tử tù biết rằng cứ một tù nhân đào thoát là hai mươi tù cùng trại phải nhịn ăn cho đến chết. Đêm ấy không ai trong khu nhà giam chợp mắt được. Mọi người đều sợ hãi, mặc dù nhiều lúc họ vẫn mong chờ cái chết đến để giải thoát họ.

Chết dưới làn đạn, có lẽ còn chịu được, nhưng chết đói chết khát thật là một cái chết kinh sợ nhất. Từ căn nhà hành hình, phát ra những tiếng la rú rùng rợn. Đêm ấy, cha Kolbe lo an ủi đồng bạn và giải tội cho những ai cần.

Sáng hôm sau khi điểm danh, tên cai ngục đã báo tin người ta đã không tìm lại được kẻ đào thoát. Cả trại 14 đứng im như  trời trồng và hồi hộp chờ án lệnh. Viên cai ngục dừng lại trước hàng những tù nhân và tuyên bố: “Mười đứa trong tụi bay sẽ chết thay nó. Lần sau sẽ là 20 đứa”. Tuyên bố xong hắn ta chậm rãi đi ngang qua hàng đầu, có vẻ suy nghĩ, rồi nói : “Tên này… tên này… tên này. Tất cả 10 người. 10 người bị tử hình”. Lúc đó một trong số những người ấy kêu lên: “Ôi vợ tôi, các con tôi!”. Những người còn đứng trong hàng ngũ thở ra nhẹ nhõm.

Nhưng rồi một chuyện bất ngờ xảy ra: Có một người tù không thuộc nhóm những người bị chỉ định, mạnh dạn bước ra khỏi đám người đang xếp hàng im lặng trong sợ hãi, nhìn thẳng vào người cai ngục. Tên này kinh ngạc lùi lại một chút rồi hô to: “Đứng lại!”

Cha Maximilianô Kolbe dừng lại trước mặt y. Thế rồi một cuộc đối thoại chưa từng nghe đã diễn ra. Một cuộc đối thoại điên khùng mà những người sống sót đã kể lại thật chính xác:

– Xin ông cho phép tôi được chết thay cho một trong những người bị lên án này!

Viên cai tù kinh ngạc nhìn cha.

– Anh là ai ?

– Là một linh mục công giáo.

– Anh muốn chết thế cho ai?

– Người này. Cha Kolbe chỉ vào người vừa mới la khóc.

– Tại sao?

– Bởi vì đời tôi không còn giúp ích gì mấy. Trong khi ông này còn có gia đình.

Viên cai trại suy nghĩ, rồi đưa tay ra hiệu đồng ý. Cha Kolbe nhập bọn với đám tử tội.

Một phút im lặng. Không ai hiểu rõ sự việc vừa xảy ra.

Các tù nhân bị lột hết quần áo, nhốt vào một căn hầm. Kể từ giây phút đó, người tù không còn gì để ăn và điều kinh khủng là không có gì để uống gì nữa.

Trước kia căn nhà hầm này luôn vang lên những tiếng kêu la thảm thiết. Thật là một địa ngục nhỏ. Nhưng lần này có cái gì đã thay đổi. Mấy người lính Đức quốc xã rất đỗi ngạc nhiên. Đám tử tù cầu nguyện và ca hát. Vẫn có tiếng rên rỉ, nhưng không còn là những tiếng kêu tuyệt vọng nữa.

Ngày thứ 12, tức ngày 14-08-1941 cửa phòng giam đói được mở ra. Mọi người  đều đã chết, trừ một mình cha Kolbe, với đôi mắt vẫn sáng dù thân mình tàn rũ. Cha ngồi giữa đất, đầu tựa vào tường, thân mình ngay thẳng và khuôn mặt rạng rỡ.  Viên cai ngục bắt ngài đưa tay ra và  chích cho một mũi thuốc độc ân huệ. Vị linh mục chết ngay. Họ đưa xe  đến  xúc xác ngài và các bạn tù  đem đi. Như bao nhiêu người khác, xác cha bị hoả thiêu trong lò và nắm tro tàn bị ném tung trong gió bốn phương.

III. THAY CHO LỜI KẾT

Đây là lời của Đức thánh Cha Phaolô VI

“Lịch sử sẽ không thể quên được trang sử ghê tởm này (của thời Đức quốc xã) nhưng giữa sự kinh hãi, người ta vẫn không thể không nhận ra những tia sáng tố giác bóng tối và đồng thời lướt thắng bóng tối. Một trong những tia sáng ấy, và có lẽ là tia sáng rực rỡ hơn hết, được ban cho chúng ta trong khuôn mặt tiều tụy và bình thản của cha M. Kolbe, vị anh hùng luôn bám chắc vào một niềm hy vọng nghịch lý nhưng có suy nghĩ. Tên tuổi Ngài mãi mãi lớn lao và sẽ nhắc nhở cho ta thấy rằng giữa những con người khốn khổ, vẫn có thể tồn tại những năng lực và giá trị luân lý phong phú biết bao !” (Bài giảng của Đức Phaolô VI…)

Và đây là những lời của Đức Hồng Y Wojtyla sau này là Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II tại phòng họp báo toà thánh Vatican ngày 14-10-1971

“Chân phước Maximilianô Kolbe không biết đến hận thù là gì. Trong nhà tù Pawiak, ở Vacsava, trong trại tập trung Auschwitz Ngài nhìn những người hành hình cũng như những kẻ bị hành hình với cùng một cái nhìn trong sáng đến nỗi những kẻ tàn bạo nhất cũng phải quay mặt đi : “Đừng nhìn bọn tao như thế”. Con người mang bản số 16670 ấy đã dành được một cuộc chiến thắng khó khăn nhất: ấy là cuộc chiến của tình yêu biết xá tội, biết thứ tha. Ngài đã đi vào trong cái vòng luẩn quẩn hiểm ác của hận thù với một cõi lòng nóng bỏng tình yêu và lập tức cái “ngón trù ếm” quỉ quái của nó bị giải độc. Tình yêu đã mạnh hơn sự chết.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

14 Tháng Tám

Còn Tình Nào Cao Quý Hơn

Vào khoảng cuối tháng 7/1941, một tù nhân đã trốn khỏi trại tập trung Auschwitz. Theo quy định của những người Ðức quốc xã đang điều khiển trại, cứ một tù nhân đào thoát, thì 10 người khác phải thế mạng.

Duyệt qua khu biệt giam, viên chỉ huy Fritsch trỏ tay vào hàng rào các tù nhân và ông đếm từ 1 đến 10. Mười người bị tử thần chiếu cố đã lần lượt tiến đến trước mặt người đồ tể. Người thứ mười đứng cạnh cha Maximiliano Kobel chợt la lên thảm thiết: “Vợ tôi, con tôi, trời ơi! Tôi sẽ không bao giờ gặp được vợ con tôi”. Cha Maximiliano Kobel đã kéo người tử tội thứ mười đó lại và ngài tiến ra đứng thế chỗ cho anh…

Sau này, Francis Gajownizcek, người đàn ông đã được cha Maximiliano Kobel chết thế đã kể lại: Tinh thần trong trại thay đổi hẳn. Sự kiện này đã tạo ra một ấn tượng cao đẹp vàsâu xa… Vị linh mục dòng Fanxico đó không những chỉ chia sẻ cho các bạn tù một mẩu bánh, vài muỗng xúp, nhưng là chính mạng sống của mình để chuộc mạng cho người khác…

Liên tiếp trong hai tuần, cha Maximiliano Kobel đã phải nhịn đói, nhịn khát để chờ chết. Cơn hấp hối kéo dài quá lâu khiến những người Ðức quốc xã không thể chờ đợi được. Sau cùng, viên lý hình đã kết thúc cuộc đời của cha bằng một mũi thuốc độc.

Thân xác của cha đã được hỏa táng và tro tàng đã được rắc trên đồng lúa như phân bón. Nguyện ước lúc thiếu thời của cha đã được thành tựu: “Tôi ước ao được hóa thành tro bụi vì Ðức Trinh Nữ Vô Nhiễm nguyên tội. Ước gì tro đó được reo rắc khắp nơi trên thế giới để không còn một mảnh thi hài nào còn sót lại…”.

Nhà tù nào cũng có thể là một hỏa ngục: hỏa ngục của hận thù, của ích kỷ, của phản bội. Có lẽ nhiều người Việt Nam đã và đang trải qua những hành hạ dã man gấp bội phần những gì đã diễn ra trong các trại tập trung thời Ðức quốc xã…

Nhà tù có thể là hỏa ngục, nhưng cũng có thể là Thiên Ðàng: Thiên Ðàng của hy sinh, nhẫn nhục, yêu thương, tha thứ, quảng đại… Biết bao nhiêu hoa thơm đã chớm nở trong cảnh khốn cùng ấy. Khốn khổ càng nhiều, hy sinh càng cao.
“Không có tình yêu nào cao quý bằng tình yêu của người thí mạng sống vì người mình yêu”. Chúa Giêsu đã tuyên bố như thế và Ngài đã đi đến cùng cam kết của Ngài. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không những là sự thể hiện của sự độc ác dã man của con người, nó còn là dấu chỉ của mối tình của một người đã yêu và yêu cho đến cùng…

Cái chết hy sinh vì người khác, Chúa Giêsu muốn luôn được tiếp tục qua cuộc sống của người Kitô. Ðã có rất nhiều người đã lập lại cái chết đó qua suốt lịch sử của Giáo Hội và hiện nay, còn biết bao nhiêu người vẫn còn tái diễn cái chết đó qua những hy sinh hằng ngày của mình…

Hôm nay, chúng ta kính nhớ thánh Maximiliano Kobel, ngươòi đã chết thay cho một người bạn tù. Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài ngày 10/10/1982 và đặt ngài làm quan thầy của thời đại khó khăn. Kinh nghiệm của ngài chắc chắn đang tái diễn hằng ngày trong xã hội chúng ta, trong đó người Kitô không ngừng được mời gọi để quên mình và sống cho người khác.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Chúa Nhật 20 – Năm C – Thường Niên

Bài đọc: Jer 38:4-6, 8-10; Heb 12:1-4; Lk 12:49-53.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Người làm chứng cho sự thật phải trả giá.

            Thế gian đầy dẫy sự gian trá. Để diệt trừ sự gian trá cần có những con người biết sự thật, nói sự thật, sống sự thật, và làm chứng cho sự thật. Những con người như thế sẽ bị thế gian truy tố, vì họ phơi bày sự gian trá của thế gian; nhưng cũng chính vì sự can đảm của họ, nhiều người lầm đường lạc lối đã quay trở về với chính lộ để được giải thoát.

            Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật tầm quan trọng của sự thật và giá phải trả của những con người dám hiên ngang làm chứng cho sự thật. Trong bài đọc I, ngôn sứ Jeremiah bị những nhà lãnh đạo của Judah ném xuống giếng bùn cho chết, vì họ không thể nghe những lời tiên đoán của ông về sự sụp đổ của thành Jerusalem, của Đền Thờ, và toàn nước sẽ phải lưu đày; nhưng họ đã không giết chết được ông vì vẫn có người muốn nghe sự thật và giải thoát cho ông. Xấu hổ thay, người đó lại là một viên quan thái giám người Ethiopia, một người Dân Ngoại. Trong bài đọc II, tác giả Thư Do-thái khuyên các tín hữu hãy kiên trì chạy đua trong trận chiến đức tin để làm chứng cho sự thật. Ông khuyên họ hãy noi gương của các chứng nhân đi trước, và nhất là noi gương của Đức Kitô, tuy Người đã bị chết treo trên Thập Giá, nhưng giờ đây đang ngự bên hữu Thiên Chúa trong vinh quang để cầu bầu cho họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu tâm sự với các môn đệ, Ngài đã ném lửa của sự thật vào thế gian, và Ngài ước mong cho lửa này bùng lên trong lòng mọi người. Để được như thế, Ngài phải chịu một phép rửa bằng máu; đó chính là cái chết của Người trên Thập Giá.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Ngôn sứ Jeremiah bị giam trong giếng bùn vì nói lời của Thiên Chúa.        

1.1/ Các thủ lãnh làm hại Jeremiah vì họ không muốn nghe sự thật.

            Con người sống bằng hy vọng và lạc quan, họ mong muốn bình an và phát triển, thế mà ngôn sứ Jeremiah lại cứ tiên đoán chiến tranh, tù đày và chết chóc. Đó là lý do các thủ lãnh của Judah đến thưa với vua Zedekiah: “Xin ngài cho giết con người ấy đi, vì những luận điệu của ông ta đã làm nản lòng các binh sĩ còn lại trong thành này, cũng như toàn dân. Thật vậy, con người ấy chẳng mưu hoà bình cho dân này, mà chỉ gây tai hoạ.”

            Nhưng con người không thể “lạc quan miền thượng,” nghĩa là lạc quan trong khi chẳng có lý do gì để lạc quan. Các nhà lãnh đạo Do-thái không thể mưu cầu một nền hòa bình tạm bợ, hay một nền hòa bình đặt trên sự giả dối; vì sớm muộn rồi sự giả dối đó cũng bị lộ tẩy, và chiến tranh bắt đầu tàn phá. Sự thật mà ngôn sứ Jeremiah muốn nói với họ ở đây là họ phải diệt trừ tội lỗi và quay trở về với Thiên Chúa, thì họ mới có bình an nhờ sự bảo vệ của Ngài.

            Vua Zedekiah là một ông vua nhu nhược. Vua có thể chưa nhận ra sự thật, hay không dám bênh vực cho sự thật vì sợ sẽ bị họ chống đối, nên vua Zedekiah nói với họ: “Đây ông ta đang ở trong tay các ngươi; nhà vua cũng chẳng có thể làm gì trái ý các ngươi được.”

            Những nhà lãnh đạo không muốn tay họ vấy máu ngôn sứ Jeremiah, nên họ nghĩ ra một cách là quăng ông xuống giếng bùn cho chết vì đói khát và bệnh tật. “Họ liền điệu ông Jeremiah đi, và bỏ xuống một cái hầm nước của hoàng tử Malchiah, trong sân vệ binh. Họ lấy dây thừng thả ông Jeremiah xuống. Vì trong hầm không có nước, mà chỉ có bùn, nên ông bị lún sâu.”           

1.2/ Ông Ebedmelech bênh vực và giải thoát ngôn sứ Jeremiah: Ông Ebedmelech người Ethiopia là quan thái giám của Zedekiah, ông có lẽ đã nghe những lời than ai oán và những lời cầu xin của ngôn sứ Jeremiah vọng lên từ đáy giếng, nên ông đã động lòng trắc ẩn, lòng thương xót giữa con người với con người. Đây chính là lý do ông Ebedmelech đi ra khỏi đền vua và thưa với vua rằng: “Thưa đức vua, chúa thượng tôi, những người này làm toàn những chuyện tai ác cho ngôn sứ Jeremiah. Họ đã thả ông xuống hầm, và ông đang chết đói ở dưới ấy, vì trong thành không còn bánh nữa.”

            Ngôn sứ Jeremiah bị bao vây bởi đau khổ dưới giếng bùn: đói khát, lạnh lẽo, bệnh tật, sợ hãi bị bỏ rơi, bị đe dọa bởi tử thần. Đây là lúc niềm tin của ông nơi Thiên Chúa bị thử thách. Đây là lúc mà Lời Chúa lúc đầu ngọt ngào bao nhiêu giờ trở nên cay đắng cho lòng ông bấy nhiêu, đến nỗi ông đã than thở những lời u oán trong bài Ai-Ca thứ ba. Dẫu vậy, ông vẫn tin Thiên Chúa sẽ giải thoát ông khỏi tay thù địch và khỏi chết.

            Tại sao vua Zedekiah bây giờ lại truyền cho Ebedmelech đi cứu ngôn sứ Jeremiah? Vua là người nhu nhược, nhưng khi thấy niềm tin và sự can đảm của viên quan thái giám, nhà vua thức tỉnh và nhận ra tội lỗi của mình. Vua liền truyền cho ông Ebedmelech: “Ngươi hãy đem theo ba mươi người ở đây, đi kéo ngôn sứ Jeremiah lên khỏi hầm, kẻo ông chết mất.”

2/ Bài đọc II: Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá.

2.1/ Chúng ta được bao vây bởi các nhân chứng đức tin trong lịch sử.

            Tác giả hình dung cuộc đời của các tín hữu giống như một cuộc chạy đua trong vận động trường. Trong cuộc thi chạy đua, người tín hữu có những khán giả cổ vũ cho mình là các nhân chứng đức tin của lịch sử trên đám mây nhìn xuống. Để có thể chạy cách hiệu quả, con người cần:

            (1) Trút bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình: Để có sức chạy dài, lực sĩ cần trút bỏ mọi gánh nặng không cần thiết; vì một trọng lượng mang theo mình, cho dù nhỏ đến đâu chăng nữa, cũng sẽ trở nên nặng nhọc vì đường dài. Tương tự trong cuộc chạy đua đức tin, các tín hữu cần dứt bỏ những thói quen xấu; vì một tội lỗi, cho dù nhỏ đến đâu chăng nữa, cũng sẽ ngăn cản các tín hữu không hoàn tất cuộc đua.

            (2) Hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta ở đàng trước: Khác với cuộc đua trong thao trường, mọi người hoàn tất trong cuộc đua đức tin, đều được lãnh nhận phần thưởng. Vì thế, điều quan trọng trong cuộc chạy đua đức tin, không lệ thuộc vào việc chạy nhanh, nhưng lệ thuộc vào sự kiên trì hoàn tất cuộc đua.

2.2/ Chúng ta hãy luôn hướng tới Đức Giêsu, Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin.

            Con người chiến đấu là cho một mục đích. Vì mục đích này, con người có thể vượt qua mọi gian nan khổ cực trong cuộc đời. Noi gương Chúa Giêsu, người nhập thể và chịu khổ hình là để ý của Thiên Chúa được vẹn toàn. Nói cách khác, vì niềm vui là mang lại ơn cứu độ cho con người, mà Ngài “đã cam chịu khổ hình thập giá, khinh thường ô nhục, và nay đang được ngự bên hữu ngai Thiên Chúa.” Chúng ta cũng vậy, vì hy vọng sẽ đạt được ơn Cứu Độ mà Chúa Giêsu đã chịu khổ hình để mang lại, chúng ta sẵn sàng vượt qua mọi gian khổ của cuộc đời như Chúa.

            Trong cuộc đời, nhiều khi chúng ta cảm thấy những người được chúng ta giúp, đã không biết ơn thì chớ, lại còn phê bình hay đối xử tàn nhẫn với chúng ta, mặc dù chúng ta đã cố gắng hết mực. Những lúc mang tâm trạng như thế, chúng ta hãy nhìn lên cây Thánh Giá để được an ủi; vì có một người cũng đã mang tâm trạng như thế cho tội lỗi của chúng ta. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là cuộc đời giảng dạy và ban phát ơn lành; thế mà con người đáp trả lại bằng những khinh thường, nhục mạ, mão gai, roi đòn, và đóng đinh trên Thập Giá. So sánh với những gì Chúa Giêsu phải trải qua, đau khổ của chúng ta không thể nào so sánh được với những đau khổ của Ngài. Vì thế, tác-giả Thư Do-thái khuyên các tín hữu: “Anh em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để anh em khỏi sờn lòng nản chí. Quả thật, trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa chống trả đến mức đổ máu đâu.”

3/ Phúc Âm: Lời sự thật sẽ gây chia rẽ           

3.1/ “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!”   Lửa có ít nhất 3 công dụng: soi sáng, thanh tẩy (luyện kim), và sưởi ấm.

            (1) Chúa Giêsu soi sáng con người bằng Lời Chúa;

            (2) Sống Lời Chúa sẽ giúp con người thanh tẩy tất cả sai trái và tật xấu trong tâm hồn;

            (3) Cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa sẽ giúp con người có sức mạnh xóa tan đi những hố sâu chia rẽ và sưởi ấm lại tình người.

            Lửa mà Chúa Giêsu đã ném vào mặt đất mà muốn cho bùng lên là Sự Thật và Tình Yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói tiếp: “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” Phép Rửa Chúa Giêsu đề cập đến ở đây chính là Phép Rửa bằng Máu, là Cuộc Thương Khó của Ngài. Phép Rửa này chỉ hoàn tất khi Ngài giang tay chết trên Thập Giá để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.

3.2/ Thầy đến để đem sự chia rẽ?

            Lời tuyên bố của Chúa Giêsu sẽ làm không ít người ngạc nhiên: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban bình an cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ.” Nhiều người sẽ hỏi: “Tại sao Thiên Chúa của bình an lại đem chia rẽ?”

            Bình an của Thiên Chúa khác với bình an của con người và cách để có bình an của Thiên Chúa cũng khác với cách của con người. Bình an của trái đất là bình an giả tạo vì đặt trên những hiểu biết của con người; và chiến tranh có thể tái phát bất cứ lúc nào nếu có sự xung đột giữa những hiểu biết của con người. Thiên Chúa ban bình an cho con người không theo kiểu của thế gian: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Jn 14:27). Bình an của Thiên Chúa chỉ thực sự có được khi mọi người nhận ra sự thật trong Mầu Nhiệm Cứu Độ và tình thương của Thiên Chúa dành cho con người.

            Vì sự thật của Thiên Chúa khác với sự thật của con người nên những lời dạy của Chúa Giêsu sẽ tạo nên sự chia rẽ: có những người tin vào Lời Chúa giảng dạy như các Tông Đồ và môn đệ; có những người sẽ phản đối và không tin như một số Kinh-sư, Biệt-phái, và Luật-sĩ. Hậu quả là họ tìm cách để tiêu diệt Chúa và các Tông Đồ. Cũng vậy, khi Lời Chúa được gieo trong cùng một mái nhà: sẽ có những người trong gia đình tin; sẽ có những người không tin. Hậu quả là gia đình bị chia rẽ. Nhưng nếu mọi người trong gia đình đều nhận ra sự thật và tin vào Lời Chúa, lúc ấy gia đình mới thực sự có bình an, và không một quyền lực nào có thể phá tan sự bình an đích thực này.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            – Sự thật mất lòng nhưng chỉ có sự thật mới giải thoát. Chúng ta hãy để cho Lời Chúa thấm nhập vào tận tâm hồn để thanh tẩy tất cả những tính hư tật xấu trong con người.

            – Chúng ta là những ngôn sứ của sự thật. Chúng ta phải can đảm nói và làm chứng cho sự thật, cho dù có phải trả giá bằng những giận ghét, oán hờn, và ngay cả cái chết.

            – Có thông phần đau khổ chúng ta mới được thông phần vinh quang với Đức Kitô trong Nước của Thiên Chúa. Chúng ta tin chắc sự thật sẽ toàn thắng.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************