Ngày thứ ba (13-07-2021) – Trang suy niệm

12/07/2021

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Ba Tuần XV Mùa Thường Niên Năm lẻ

BÀI ĐỌC I: Xh 2, 1-15a

“Bà đặt tên cho trẻ là Môsê, vì vớt nó dưới nước lên; và khi đã khôn lớn Môsê đi thăm anh em”.

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, có một người đàn ông thuộc nhà Lêvi đi cưới vợ cũng trong chi tộc mình. Nàng mang thai và sinh hạ một con trai. Thấy con trẻ khôi ngô tuấn tú, nàng giấu kín trong ba tháng. Khi thấy không thể nào giấu kín được nữa, nàng liền lấy chiếc thúng trét nhựa thông, rồi bỏ đứa trẻ vào trong, đem thả trong đám sậy ở bờ sông. Chị đứa bé đứng xa xa để quan sát sự việc xảy ra thế nào.

Bấy giờ có công chúa con Pharaon xuống tắm dưới sông, còn các nữ tỳ đi bách bộ theo bờ sông. Khi thấy cái thúng mây ở giữa bụi sậy, nàng sai một nữ tỳ xuống vớt lên, vừa mở ra, thấy một trẻ nam nằm khóc trong đó, nàng thương hại và nói: “Đây là đứa trẻ Do-thái”. Bấy giờ chị đứa trẻ thưa với công chúa rằng: “Bà có muốn tôi đi tìm cho bà một phụ nữ Do-thái có thể nuôi đứa trẻ này không?” Công chúa đáp: “Đi tìm đi”. Chị đứa trẻ liền đi kêu mẹ nó. Công chúa Pharaon nói với mẹ đứa trẻ rằng: “Chị hãy lãnh nuôi đứa trẻ này giùm tôi, tôi sẽ trả công cho chị”. Chị ta liền nhận nuôi đứa trẻ, và khi nó lớn lên, thì đem đến cho công chúa Pharaon. Công chúa nhận đứa trẻ làm con nuôi, đặt tên cho nó là Môsê và nói: “Vì tôi đã vớt nó dưới nước lên”.

Trong những ngày ấy, Môsê đã khôn lớn, liền đi thăm anh em mình, người thấy họ cơ cực, và thấy một người Ai-cập đang hành hung một người Do-thái là anh em của mình. Sau khi đã nhìn qua nhìn lại, không thấy ai, Người liền hạ sát tên Ai-cập và vùi thây dưới cát. Hôm sau, người đi ra, thấy hai người Do-thái đang đánh lộn với nhau, người bảo kẻ có lỗi rằng: “Tại sao anh đánh người bạn của anh?” Anh ta trả lời: “Ai đã đặt anh làm lãnh tụ và quan án xét xử chúng tôi? Anh cũng muốn giết tôi như anh đã giết người Ai-cập hôm qua sao?” Môsê lo sợ và nói: “Việc này người ta đã hay biết rồi sao?”

Pharaon nghe biết câu chuyện, liền tìm giết Môsê. Nhưng Môsê đã lánh mặt nhà vua, trốn sang xứ Mađian. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 68, 3. 14. 30-31. 33-34

Đáp: Các bạn khiêm cung, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh (x. c. 33).

Xướng:

1) Tôi bị dìm trong hố bùn lầy, không có chỗ để đặt chân nương tựa. Tôi bị rơi trong đầm sâu nước lớn, và ba đào đang lôi cuốn thân tôi. – Đáp.

2) Nhưng lạy Chúa, con dâng lời nguyện cầu lên Chúa. Ôi Thiên Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương. Xin nhậm lời con theo lượng cả đức từ bi, theo ơn phù trợ trung thành của Chúa. – Đáp.

3) Phần con, con đau khổ cơ hàn; lạy Chúa, xin gia ân phù trợ, bảo toàn thân con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân. – Đáp.

4) Các bạn khiêm cung hãy nhìn coi và hoan hỉ; các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù. – Đáp.

ALLELUIA: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 11, 20-24

“Trong ngày phán xét, Tyro và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối: “Hỡi Corozain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.

“Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi”. Đó là lời Chúa

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

13/07/2021 – THỨ BA TUẦN 15 TN

Th. Hen-ri-cô

Mt 11,20-24

ƠN BAN ĐI VỚI TRÁCH NHIỆM

Chúa Giê-su nói: “Khốn cho ngươi hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi hỡi Bét-sai-đa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xi-đon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu mà tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và Xi-đon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi.” (Mt 11,21-22)

Suy niệm: Lẽ thường ở đời thì quyền lợi phải đi đôi với trách nhiệm. Tương tự ân sủng Chúa ban cho ai cũng kéo theo những trách nhiệm đối với người ấy như vậy. Hưởng ơn ban càng nhiều, chịu trách nhiệm càng lớn. Và do đó, nếu không chu toàn trách nhiệm cách tương xứng, thì án phạt càng nặng nề. Những phép lạ Chúa thực hiện ở Kho-ra-din hay ở Bét-sai-đa, cho dù chỉ có một số người thụ hưởng trực tiếp nhưng cũng là một ơn ban cho toàn thể cư dân của những thành ấy. Vì thế theo qui tắc liên đới, họ phải chịu đồng trách nhiệm trong việc đáp lại sứ điệp của Chúa qua những phép lạ đó. Mà sứ điệp đó là: “Hãy ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến.”

Mời Bạn: Ơn Chúa ban cho ta không phải chỉ để ta hưởng thụ một mình, mà ta phải nhờ đó để trổ sinh nhiều hoa quả thiêng liêng “xứng với lòng thống hối” chẳng những nơi mình và mà còn cho người khác nữa.

Chia sẻ: Nhiều người được Chúa ban ơn đặc biệt (khi đi hành hương, xin khấn, v.v…) nhưng có người nên thánh, có người không. Bạn nghĩ gì về điều này?

Sống Lời Chúa: Mỗi lần kiểm điểm đời sống, bạn hãy cố khám phá một ơn Chúa đã ban cho bạn để cảm tạ và nhờ đó sửa đổi đời sống.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con luôn biết cảm tạ Chúa về những hồng ân Chúa ban và cho con biết nên thánh xứng với những ơn huệ đó.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm

Lời giảng đầu tiên của Đức Giêsu là một lời mời sám hối (Mt 4, 17).
Những phép lạ Ngài làm cũng là một lời mời tương tự.
Phép lạ không phải chỉ là những biểu lộ của uy quyền và tình thương.
nhằm vén mở khuôn mặt của Thiên Chúa và của Con Ngài.
Phép lạ còn là lời mời gọi đổi đời, vì Nước Trời đã gần đến.
Đức Giêsu quở trách các thành đã lần lữa không chịu sám hối,
dù họ đã được chứng kiến phần lớn các phép lạ Ngài làm (c. 20).

 “Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin ! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtsaiđa !”
Đức Giêsu đã kêu than như một ngôn sứ, buồn phiền và đau đớn,
trước sự cứng lòng của những nơi mà Ngài đã đặt chân và thi ân.
Khoradin là một vùng ở tây bắc của Hồ Galilê (Mc 10, 13).
Nay chỉ còn là cánh đồng gạch vụn, với dấu tích của một hội đường.
Bếtsaiđa nghĩa là “nhà của cá”, nằm nơi sông Giođan đổ vào Hồ nói trên.
Thành này ngày nay cũng biến mất, có lẽ vì bị tràn ngập bởi phù sa. 
Đức Giêsu đã so sánh hai thành này với hai thành dân ngoại Tia và Xiđôn.
Nếu Tia và Xiđôn nhận được sự hiện diện của Đức Giêsu,
hẳn họ đã ăn năn sám hối từ lâu rồi (c. 21).

Caphácnaum được coi là trụ sở của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ.
Nơi đây Ngài đã làm bao điều tốt lành (Mt 4, 13; 8, 5; 9, 1; 17, 24).
Vậy mà có vẻ nó lại không muốn đón nhận Đấng mang ơn cứu độ.
Phải chăng vì nó đã tự hào, tự cao trước những ơn Chúa ban ?
“Ngươi sẽ được đưa lên tới tận trời sao ? Ngươi sẽ bị tống xuống âm phủ.”
Đức Giêsu dám so sánh Caphácnaum với Sơđôm.
Sơđôm là một thành phố trụy lạc, đã bị thiêu hủy hoàn toàn (St 19, 25).
Ngài cho rằng Sơđôm mà được thấy những điều kỳ diệu Ngài làm,
hẳn nó đã hoán cải và còn tồn tại đến nay (c. 23).

Đến ngày phán xét, con người sẽ bị xét xử theo điều mình đã lãnh nhận.
Lãnh ít thì sẽ được khoan hồng nhiều hơn.
Mỗi người chúng ta thật sự chẳng rõ mình đã nhận được bao nhiêu.
Chúng ta dễ có thái độ tự cao của những người được gần gũi Chúa.
“Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài,
và Ngài cũng đã từng dạy dỗ trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13,26).
Nhưng điều quan trọng không phải là đã nghe giảng và đã thấy phép lạ.
Điều quan trọng là sám hối.
Những ơn lộc Chúa ban cho đời kitô hữu lại đòi ta phải hoán cải nhiều hơn.
Chúng ta không thể coi mình là Caphácnaum để khinh Xơđôm được.
Thiên Chúa xét xử theo điều Ngài ban cho từng con người,
từng nền văn hóa hay văn minh, từng vùng đất hay từng tôn giáo.

Làm sao tôi có thể thấy được những phép lạ Chúa làm cho tôi mỗi ngày ?
Có những phép lạ xảy ra đều đặn và bình thường nên tôi không nhận ra.
Mỗi cử chỉ yêu thương tôi nhận được cũng là phép lạ.
Mong tôi đáp lại phép lạ đó bằng một cử chỉ yêu thương.

Lời nguyện

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

13 THÁNG BẢY

Sự Tự Do Của Con Người Diễn Tả Sự Khôn Ngoan Của Thiên Chúa

Ở đây, khi đối diện với kế hoạch sáng tạo từ đời đời của Thiên Chúa, chúng ta đứng trước một mầu nhiệm lạ lùng và khôn dò. Mầu nhiệm đó chính là mối quan hệ mật thiết giữa các hành động của Thiên Chúa và những quyết định của con người.

Chúng ta biết rằng sự tự do chọn lựa là khả năng tự nhiên của một tạo vật có lý trí. Kinh nghiệm cũng cho chúng ta biết rằng tự do của con người là cái có thực – ngay cả khi nó bị làm cho thương tổn và suy yếu đi bởi tội lỗi. Về mối quan hệ giữa sự tự do của con người với hành động của Thiên Chúa, chúng ta nên nhìn trong ánh sáng của những gì mà Thánh Tô-ma Aquinô đã nói về sự quan phòng thần linh. Thánh Tô-ma mô tả sự tự do của con người như biểu hiện của sự khôn ngoan Thiên Chúa – sự khôn ngoan xếp đặt và hướng dẫn mọi sự đạt đến mục tiêu của chúng (cf. Tổng Luận Thần Học I,22,1). Tất cả những gì được Thiên Chúa tạo thành đều nhận sự hướng dẫn này, và trở thành đối tượng của sự quan phòng thần linh (vs. 2).

Qua con người – được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa – tất cả thế giới tạo vật hữu hình tiến tới gần Thiên Chúa và tìm thấy con đường đưa dẫn chúng đến sự thành toàn cuối cùng. Quan niệm này được diễn tả bởi nhiều người khác nữa, trong đó có Thánh I-rê-nê và được phản ảnh bởi giáo huấn của Công Đồng Vatican II về tác động phát triển thế giới của con người (MV 7). Nói tắt, sự phát triển hay sự tiến bộ đích thực mà con người được mời gọi thực hiện trong thế giới không được phép chỉ hạn định trong phương diện kỹ thuật, mà phải bao gồm phương diện đạo đức nữa. Đây là điều kiện thiết yếu để xây dựng Nước Thiên Chúa trong thế giới thụ tạo này (MV các số 35,43,57,62).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 13/7 – Thánh Henricô

Xh 2, 1-15a; Mt 11, 20-24.

LỜI SUY NIỆM:  Bấy giờ Người bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối: “Khốn cho các ngươi, hỡi Kho-ra-din! Khốn cho ngươi, hỡi Bết-xai-đa!”

          Chúa Giêsu đang quở trách dân hai thành này, bởi vì họ có những cơ sở, có trình độ học đạo cấp cao, nhưng ở đó họ đã không đón nhận Tin Mừng Người mang đến cho họ. Điều này bắt buộc mỗi người trong chúng ta, cũng phải tự xét lấy mình. Bản thân mình có Giáo Hội cung phụng mọi nhu cầu cần thiết để sống đạo: Lời Chúa, Thánh Lễ, và các phép Bí Tích; cũng như các hội đoàn Công Giáo Tiến Hành, bản thân mình có cám nhận đó là sự cần thiết cho đời sống hôm nay và cả mai sau hay không?

          Lạy Chúa Giêsu, Chúa đang nhắc nhở và cảnh báo cho chúng con những điều chúng con sống đang thiếu sót; xin cho mỗi thành viên trong gia đình chúng con biết sám hỗi và sửa mình lại để khỏi bị Chúa quở trách như đã quở trách hai thành Kho-ra-din và Bết-sai-đa.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 13-7: Thánh HENRI

(973 – 1024)

Thánh Henri sinh năm 972. Cha Ngài là Henri bá tước xứ Bavière. Mẹ Ngài là Gisèle, con gái của Conrad, vua miền Bourgogne. Để bảo đảm cho việc giáo dục con cái, Ngài được mẹ giao phó cho các thầy dòng ở Mildeshim, miền Saxe, rồi sau đó cho thánh Wolfgang, giám mục Ratisbonne.

Nhưng thật rủi ro, trong một năm, Henri đã chịu hai cái tang cha và thầy.

Thánh Wolfgang từ trần ngày 30 tháng 10 năm 994 và vua Henri từ trần ngày 28 tháng 12 năm 994. Tuy nhiên ở bên kia thế giới các Ngài dường như không ngừng săn sóc Henri. Một truyền thuyết kể rằng: Henri đã mơ thấy thánh Wolfgang hiện ra viết trên tường nhà thờ hai chữ “còn sáu”. Tỉnh dậy, Henri nghĩ rằng mình chỉ còn sống được sáu ngày nữa. Ngài vội vã bố thí rộng rãi để chuẩn bị ra trước tòa Chúa. Nhưng rồi hạn định đã qua Henri vẫn sống. Vị bá tước nghĩ rằng Ngài còn sáu tháng để làm việc lành. Sáu tháng trôi qua Ngài vẫn sống. Lần này Ngài nghĩ thời hạn kéo dài 6 năm và cố gắng sống hoàn hảo hơn nữa. Sau 6 năm trong trường nhân đức ấy, Henri bỗng được chọn làm hoàng đế nước Đức -Roma.

Trước khi lên ngai hoàng đế, Henri đã kế vị người cha từ trần, lên làm bá tước miền Bavière. Các lãnh Chúa thân thiết với Ngài. Dân chúng cũng cảm mến Ngài sâu xa. Họ ao ước bá tước trẻ của mình lập gia đình. Nhưng Ngài đã hứa với Chúa sẽ sống độc thân. Vì vâng lời mẹ và dưới áp lực của các lãnh Chúa. Ngài nhận cưới Cunégonda, một thiếu nữ trong số 11 người con của công tước miền Luxembourg.

Nàng có sắc đẹp mặn mà và nhiều đức tính làm cho mọi người mến phục. Sau các lễ nghi cưới hỏi, lúc về chốn riêng tư, Henri mở lời với người bạn đời: – Em yêu, anh không muốn em không hay biết rằng anh đã thề với Chúa sẽ hiến dâng hồn xác phụng sự Ngài, và vì tình yêu Chúa Giêsu Kitô, anh muốn tiếp tục hoàn toàn.

Và Cunégonde vui sướng trả lời: – Chúa công của em, lời khấn hứa, em cũng đã hứa rồi. Thật hạnh phúc, chúng ta có thể trung thành với những ước nguyện của chúng ta.

Đó là đám cưới tinh tuyền của Henri và Cunégonde. Hoàng đế Henri lên ngôi và được Đức Giám mục thành Mayence xức dầu phong vương năm 1002. Mấy hôm sau hoàng hậu Cunégonde cũng được truy phong và đội triều thiên ở giáo đường Paderbonne. Với tính tình vui vẻ, bình dân và đầy lòng bác ái, hoàng đế rất được dân chúng mến chuộng. Nhưng đế quốc Đức – Roma lúc ấy đang thời suy vong và tình hình rất phức tạp. Vì thế việc đầu tiên của hoàng đế là lo giải hoà các cuộc tranh chấp. Trước hết, Ngài nhường quyền bá tước miền Bavière chi Henri, người Luxembourg.

Tuy nhiên có thể nói rằng: suốt đời hoàng đế, Ngài luôn phải lo vãn hồi trật tự trong đế quốc. Ngay khi lên ngôi hoàng đế, Ngài mang quân sang chinh phục đất Ý, là nơi Arduin tự phong làm vua, tách rời khỏi đế quốc. Dẹp tan đối phương ở biên giới, gần núi Alpes, Ngài đã được dân chúng tưng bừng đón rước. Đức Tổng Giám mục Milanô phong vương cho Ngài tại Pavie. Trở về nước Ngài lại phải đối phó với Boleslaw, xứ Balan. Mấy năm sau, Boleslaw bị quân nhà vua đánh tan và Jarômia lên quản trị xứ Balan.

Bất đắc dĩ, vua Henri mới phải dùng đến binh lực, nhưng Ngài luôn tỏ ra nhân từ. Chẳng hạn Hermann vì muốn tiếm ngôi, đã đốt phá thành Strabourg. Trước lời khuyên nên trả thù thành phố dung dưỡng Hermann, hoàng đế trả lời: – Thiên Chúa trao quyền tối thượng cho ta, không phải là mang đến quanh ta những sát nhân và cướp bóc, nhất là không phải để cho ta phải thiệt mất linh hồn.

Lời này đến tai Hermann và ông ta hối cải.

Hoàng đế Henri bảo vệ Đức giáo hoàng Bênêditô chống lại đức giáo hoàng giả. Nhờ Ngài. Đức giáo hoàng nghĩ tới một Giáo hội trần thế, đã trao cho Ngài một trái cầu bằng vàng có cắm thánh giá để biểu trưng quyền hạn trao phó của Ngài, lo cho vương quyền Chúa Kitô phổ biến khắp muôn dân. Trở lại quốc gia, Ngài vội lo dẹp loạn ở Lombardie. Rồi với nhiệt tình, Ngài đã viếng tu viện Cluny. Ơ đó cầu nguyện lâu ngày và tặng cho tu viện món quà của Đức giáo hoàng.

Hoàng đế sống trong cung điện như trong tu viện và chỉ nghĩ tới hòa bình và đức ái. Ngài góp phần cải hóa dân Hungarie bằng việc gả em gái mình cho vua thánh Stêphanô. Để gây thuận hòa giữa các dân tộc, Ngài thực hiện cuộc gặp gỡ vua Robert nước Pháp. Đối với Giáo hội, Ngài lo trùng tu các thánh đường, giúp đỡ các giám mục. Đặc biệt hơn cả, Ngài đã thành lập giáo phận Banberg và chính tại nhà thờ chính tòa giáo phận này Ngài sẽ được mai táng.

Trên ngôi hoàng đế, Ngài luôn trung thành với lý tưởng. Giữa muôn công việc bề bộn, Ngài luôn dành thời gian cho việc cầu nguyện. Tương truyền rằng ao ước lớn lao nhất của Ngài là được sống trong tu viện. Lần kia, Ngài tới thăm tu viện thánh Vanne ở Verdun. Ngài đã xin với chân phước Richasd, tu viện trưởng nhận Ngài làm tu sĩ. Đức Đan viện phụ nói rằng: chỗ an toàn của vị hoàng đế là ở trên ngai tòa hơn là ở trong tu viện. Khi thấy vị hoàng đế khẩn nài, Đức Đan viện phụ hỏi: – Ngài có sẵn sàng thực hiện đức vâng lời cho đến chết không ?

Hoàng đế Henri cương quyết trả lời: – Con sẵn sàng.

Đức Đan viện phụ liền nhận Ngài như một tu sĩ của dòng và nhân danh đức vâng lời, truyền cho Ngài cai quản đế quốc để hiến thân tìm vinh quang Chúa và ông cứu rỗi cho thần dân.

Ngày 15 tháng 7 năm 1024 hoàng đế Henri từ trần, ai khi đã dùng trọn sức lực để xây dựng một đế quốc theo tinh thần Kitô giáo.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

13 Tháng Bảy

Niềm Vui Và Kho Tàng

Theo một bảng thống kê thì hằng năm tại Hoa Kỳ, có khoảng 60 triệu toa bác sĩ cho mua thuốc Valium. Valium hiện nay được xem là loại thuốc an thần công hiệu nhất.

Nói chung, xem chừng như văn minh càng tiến bộ, con người càng bất an. Niềm vui đích thực trong tâm hồn dường như đã vỗ cánh bay xa.

Nhưng an bình và vui tươi là vấn đề sống còn của con người. Ðạt được tất cả, có tất cả nhưng không có niềm vui trong tâm hồn, thì sống như thế chẳng khác nào như một thây chết.

Người Ai Cập thời cổ tin rằng khi chết con người phải trình diện trước thần Osires để trả lời cho hai câu hỏi: “Ngươi có tìm thấy niềm vui không? Ngươi có mang lại niềm vui cho người khác không?”. Số phận đời đời của họ tùy thuộc vào cách họ trả lời cho hai câu hỏi ấy.

Số phận đời đời của con người, tương quan của con người với Thiên Chúa tùy thuộc ở niềm vui của họ trong cuộc sống này.

Một ngày kia, người ta hỏi nhạc sĩ Franz Joseph Haydn tại sao nhạc tôn giáo của ông lúc nào cũng vui tươi? Nhà nhạc sĩ tài ba của thế kỷ thứ 18 đã trả lời như sau: “Tôi không thể làm khác hơn được. Tôi viết nhạc theo những cảm xúc của tôi. Khi tôi nghĩ về Chúa, trái tim tôi tràn ngập niềm vui đến nỗi các nốt nhạc như nhảy múa trước ngòi bút của tôi”. Người tín hữu Kitô, theo định nghĩa, không thể không là người của niềm vui. Họ phải vui mừng bởi vì Thiên Chúa chính là gia nghiệp của họ, bởi vì tâm hồn của họ luôn có Chúa.

Trong quyển sách có tựa đề “Những sự thuộc về Chúa Thánh Thần”, Ðức Gioan Phaolô II đã viết như sau: “Ðức Kitô đến để mang lại niềm vui: niềm vui cho con cái, niềm vui cho cha mẹ, niềm vui cho gia đình và bạn hữu, niềm vui cho công nhân và trí thức, niềm vui cho người bệnh tật, già cả, niềm vui cho toàn nhân loại. Theo đúng nghĩa, niềm vui là trọng tâm của sứ điệp Kitô và ý lực của Phúc Âm. Chúng ta hãy là sứ giả của niềm vui”.

Nhưng niềm vui không phải là một kho tàng có sẵn: nó đòi hỏi phải được kiến tạo. Người ta kiến tạo niềm vui bằng cách làm cho người khác được vui. Càng chia sẻ, càng trao ban, niềm vui càng lớn mạnh.

Mỗi ngày chúng ta van xin người khác không biết bao nhiêu lần: xin vui lòng. Chúng ta xin người “vui lòng”, nhưng chúng ta lại không muốn làm cho lòng mình vui lên. Nếu chúng ta muốn người khác “vui lòng” để ban ân huệ cho chúng ta, thì có lẽ chúng ta phải làm cho lòng mình vui lên bằng bộ mặt vui tươi hớn hở của chúng ta, bằng những chia sẻ vui tươi của chúng ta, bằng những nụ cười vui tươi của chúng ta, bằng những chịu đựng vui tươi của chúng ta.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Ba – Tuần 15 – TN1 – Năm lẻ

Bài đọc: Exo 2:1-15; Mt 11:20-24.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cơ hội càng nhiều, phán xét càng nặng.

Có những người chỉ cần cho họ một cơ hội trong cuộc đời là họ biết nắm lấy, ra sức làm việc, và thành công trong cuộc đời. Cũng có những người được cho hết cơ hội này đến cơ hội khác; nhưng vẫn không biết nắm lấy, tối ngày chỉ lo ăn chơi, nghịch phá, và làm việc gì cũng thất bại. Trong lãnh vực đức tin cũng thế: Có những người ngoại giáo, chỉ cần nghe biết về Chúa Giêsu thôi; nhưng cách biểu lộ niềm tin của họ đã làm cho Chúa Giêsu phải ngạc nhiên: viên đại đội trưởng người Rôma, người phong cùi… Nhưng cũng có những người đồng hương với Chúa Giêsu biết rõ Chúa, nhưng họ vẫn không tin Ngài. Chúa Giêsu ngạc nhiên vì sự cứng lòng của họ.

Các Bài Đọc hôm nay cho chúng ta những ví dụ tương phản như thế. Trong Bài Đọc I, Thiên Chúa quan phòng cho Moses có cơ hội được cứu sống nhờ lòng nhân từ của công chúa Ai-cập. Khi lớn lên, ông Moses không thể dằn lòng trước những cử xử dã man giữa con người với con người, ông đã giết một người Ai-cập và khuyên nhủ hai người Do-thái đừng cãi vã nhau. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã lớn tiếng trách mắng các thành Chorazin, Betsaida, và Capernaum, vì tuy họ đã nhiều lần chứng kiến các phép lạ Chúa làm và nghe những lời Chúa giảng, họ vẫn không xám hối và tin vào Ngài. Trong khi các thành của dân ngoại như Tyre và Sidon, mặc dù ít được Chúa tới, nhưng cách biểu lộ niềm tin của họ làm chính Chúa phải ngạc nhiên.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Cuộc đời của ông Moses

1.1/ Moses được cứu thoát bởi công chúa Ai-cập: “Có một người thuộc dòng họ Levi đi lấy một người con gái cũng thuộc họ Levi. Người đàn bà ấy thụ thai và sinh một con trai. Thấy đứa bé kháu khỉnh, nàng giấu nó ba tháng trời. Khi không thể giấu lâu hơn được nữa, nàng lấy một cái thúng cói, trét hắc ín và nhựa chai, bỏ đứa bé vào, rồi đặt thúng trong đám sậy ở bờ sông Nile. Chị đứa bé đứng đàng xa để xem cho biết cái gì sẽ xảy ra cho em nó.”

Nhờ sự quan phòng của Thiên Chúa, công chúa của Pharao đã động lòng thương đứa trẻ dù biết nó là người Do-thái; và với sự khôn ngoan của người chị khi hỏi công chúa Pharao: “Bà có muốn con đi gọi cho bà một vú nuôi người Do-thái, để nuôi đứa bé cho bà không?” Khi công chúa Pharao đồng ý, người chị liền đi gọi mẹ mình. Công chúa của Pharao bảo bà ấy: “Chị đem đứa bé này về nuôi cho tôi. Chính tôi sẽ trả công cho chị.” Thế là mẹ được ở gần nuôi con và còn được cấp dưỡng. Khi đứa bé lớn lên, bà đưa nó đến cho công chúa của Pharao. Nàng coi nó như con và đặt tên là Moses; nàng nói: “Đó là vì ta đã vớt nó lên khỏi nước.”

1.2/ Tính can đảm của Moses: Là con của công chúa, ông Moses có thể chọn lối sống an bình dễ dãi như một hoàng tử của Ai-cập; nhưng ông chọn để sống anh hùng và theo Lề Luật của Thiên Chúa. Trình thuật đưa ra 2 ví dụ chứng minh tính khí khái của Moses:

(1) Ông không thể chịu đựng cảnh bất công: “Khi ông ra ngoài thăm anh em đồng bào và thấy những việc khổ sai họ phải làm. Ông thấy một người Ai-cập đang đánh một người Do-thái, anh em đồng bào của ông. Nhìn trước nhìn sau không thấy có ai, ông liền giết người Ai-cập, rồi vùi dưới cát.”

(2) Ông không thể chịu đựng cảnh bất hòa: “Hôm sau, ông lại đi ra, gặp hai người Do-thái đang xô xát nhau, ông nói với người có lỗi: “Tại sao anh lại đánh người đồng chủng?” Người đó trả lời: “Ai đã đặt ông lên làm người lãnh đạo và xét xử chúng tôi? Hay là ông tính giết tôi như đã giết tên Ai-cập? “Ông Moses phát sợ và tự bảo: “Vậy ra người ta đã biết chuyện rồi!” Nghe biết chuyện này, Pharao tìm cách giết ông Moses. Ông Moses liền đi trốn Pharao và ở lại miền Midian.

2/ Phúc Âm: Ai được cho có cơ hội nhiều sẽ bị phán xét nhiều.

2.1/ So sánh Chorazin và Bethsaida với Tyre và Sidon: Bấy giờ Chúa Giêsu bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối: “Khốn cho ngươi, hỡi Chorazin! Khốn cho ngươi, hỡi Bethsaida! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tyre và Sidon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tyre và thành Sidon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi.”

(1) Chorazin và Bethsaida: Chorazin được các nhà khảo cổ đồng nhất với thành Kerazeh hiện đại, cách xa Capernaum chừng 2.5 dặm về phía Bắc. Bethsaida là một làng của vùng Galilee, nằm về phía Tây của hồ Tiberias, trong “giải đất của Gennesaret.” Bethsaida là quê hương của Peter, Andrew và Philip; và là chỗ Chúa Giêsu thường xuyên lui tới. Hai phép lạ Chúa Giêsu làm được kể chi tiết là phép lạ Chúa chữa người mù tại Bethsaida (Mk 8:22) và phép lạ nuôi 5,000 người ăn tại Bethsaida (Lk 9:10-17). Ngoài ra, Luca cũng tường thuật việc Chúa Giêsu dạy dỗ, và chữa lành nhiều người tại đây.

(2) Tyre và Sidon: là hai hải cảng thương mại lớn của người Phoenecia (Lebanon ngày nay), nằm dọc theo bờ biển Mediterranean. Tyre nằm khoảng 23 dặm về phía Bắc của Arco, và cách Sidon khoảng 20 dặm về phía Nam. Chúa Giêsu rất ít khi rao giảng ngoài lãnh thổ của Palestine, và các thánh ký chỉ tường thuật một lần Chúa đến vùng Tyre và Sidon, khi một người đàn bà Canaan nài xin Ngài cứu con gái bà khỏi bị quỉ ám. Chúa Giêsu thử thách đức tin của bà cách trầm trọng: “Không nên lấy lương thực của con cái mà vứt cho chó” (Mt 15:21); trước khi chữa lành con gái của bà.

2.2/ So sánh Capernaum với Sodom: “Còn ngươi nữa, hỡi Capernaum, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi ngươi mà được làm tại Sodom, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, đất Sodom còn được xử khoan hồng hơn các ngươi.”

(1) Capernaum: có thể nói là “thành của Chúa Giêsu” vì Ngài thường xuyên lui tới dạy dỗ và làm phép lạ tại đây. Gioan tường thuật Chúa làm phép lạ đầu tiên cho nước hóa thành rượu tại tiệc cưới Cana (Jn 2:12) và chữa lành con trai của một quan chức (Jn 4:46). Matthew tường thuật phép lạ Chúa chữa đầy tớ của viên Đại Đội Trưởng Rôma (Mt 8:5). Marcô tường thuật Chúa chữa người bại liệt được thòng xuống từ mái nhà (Mk 2:1). Luca tường thuật Chúa chữa người bị quỉ ám (Lk 9:33). Marcô tường thuật Chúa giảng trong hội đường Capernaum (Mk 1:21) và Gioan ghi lại rõ ràng: diễn từ về BT Thánh Thể xảy ra sau phép lạ hóa bánh nuôi 5,000 người và phản ứng của dân chúng cũng xảy ra tại đây (Jn 6).

(2) Sodom: Chúng ta biết đến thành phố này trong Sách Sáng Thế khi Thiên Chúa khiến lửa từ trời thiêu rụi thành phố này vì những tội tày trời họ xúc phạm đến Ngài, nhất là tội sodomy như tên thành được gọi (Gen 18:16-33, 19:1-29). Thành phố này nằm đối diện với Zoar, về phía SW của Biển Chết.

Khi đưa ra sự so sánh giữa các thành phố, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh một điểm quan trọng: Ai được cho nhiều cơ hội để ăn năn, sẽ phải chịu sự phán xét nặng nề hơn.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta phải biết tận dụng thời gian, của cải, và tài năng Thiên Chúa ban để sinh lợi ích cho chính chúng ta, cho gia đình, và cho tha nhân.

– Nếu Thiên Chúa đã ban nhiều, Ngài có quyền đòi lại cho tương xứng của Ngài đã ban. Chúng ta phải coi chừng vì chúng ta sẽ bị Thiên Chúa phán xét nặng nề hơn.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************