Ngày thứ ba (14-07-2020) – Trang suy niệm

13/07/2020

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Ba Tuần XV Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I:    Is 7, 1-9

“Nếu các ngươi không tin, các ngươi sẽ không còn tồn tại nữa”.

Trích sách Tiên tri Isaia.

Xảy ra trong đời Acaz con của Gioatham, Gioatham con của Ozia, vua nước Giuđa, Rasin vua nước Syria, và Phaxê con của Rômêlia, vua Israel, tiến lên gây chiến với Giêrusalem, nhưng không thể thắng trận được. Người ta báo tin cho nhà Đavít rằng: “Syria đã đóng quân ở Ephraim”. Nghe vậy, vua và dân đều run sợ, như cây trong rừng rung động trước gió.

Và Chúa phán cùng Isaia rằng: “Ngươi và con ngươi là Giasub, hãy đi đón vua Acaz đang ở cuối cống ao thượng, trên đường ra ruộng Fullon, và nói rằng: “Hãy cẩn thận ở yên lặng, đừng sợ, và đừng nao núng trước hai ngọn đuốc xông khói này là cơn thịnh nộ của Rasin, vua nước Syria, và của con trai Rômêlia, vì chưng Syria, Ephraim và con trai của Rômêlia đã toan mưu hại ngươi, họ nói rằng: “Chúng ta hãy tiến đánh Giuđa, quấy rối nó và lôi cuốn nó theo ta, và đặt con trai Tabeel làm vua”.

Chúa phán thế này: “Sự việc này không thành và không xảy ra đâu, vì Đamas là thủ đô của Syria, và Rasin là thủ lãnh của Đamas. Còn sáu mươi lăm năm nữa, thì Ephraim sẽ bị tiêu diệt và không còn là một dân tộc nữa. Thủ đô của Ephraim là Samaria, và thủ lãnh của Samaria là con của Rômêlia. Nếu các ngươi không tin, các ngươi sẽ không còn tồn tại”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 47, 2-3a. 3b-4. 5-6. 7-8

Đáp:  Thiên Chúa kiên thủ thành trì của Người tới muôn đời (c. 9d).

Xướng:

1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Người là ngọn đồi duyên dáng, là niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu. – Đáp.

2) Núi Sion là cùng kiệt phương Bắc, là thành trì của Đức Đại Đế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Người, tự chứng tỏ Người là an toàn chiến lũy. – Đáp.

3) Bởi chưng, kìa các vua chúa đã họp nhau, họ đã nhất tề xung phong tác chiến. Nhưng thoạt nhìn thấy, họ đã ngẩn người ra, họ đã thất kinh và chạy trốn. – Đáp.

4) Chính tại đây, họ đã khiếp run sợ hãi, đau đớn như người phụ nữ lúc lâm bồn, và lúc Chúa dùng ngọn gió Đông đánh cho những chiến thuyền Tác-xi tan vỡ. – Đáp.

ALLELUIA: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 11, 20-24

“Trong ngày phán xét, Tyro và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu quở trách các thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối: “Hỡi Corozain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.

“Còn ngươi, hỡi Capharnaum, chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được xét xử khoan dung hơn ngươi”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

14/07/2020 – THỨ BA TUẦN 15 TN

Th. Ca-mi-lô Len-li, linh mục

Mt 11,20-24

ĐỪNG BỎ LỠ CƠ HỘI

Bấy giờ Người bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối. (Mt 11,20)

Suy niệm: Dù bạn không phải là ‘fan’ bóng đá, hẳn bạn cũng xuýt xoa tiếc rẻ cho một đội bóng ‘toàn sao’ sau 90 phút thi đấu với không biết bao nhiêu cơ hội ăn bàn mười mươi nhưng lại để vuột trôi qua trước mũi giày mà không thể chuyển thành bàn thắng và rồi bị thủng lưới trong những phút đá bù giờ. Quy luật trong bóng đá là thế: đội bóng nào không biết tận dụng cơ hội, đội đó sẽ chuốc lấy thất bại. Theo dòng thời sự để ví von, cũng có thể nói như thế: Các ‘đội bóng’ Khô-ra-din, Ca-phác-na-um, Bét-sai-đa, với biết bao cơ hội là những phép lạ thực hiện ở giữa họ mà họ không ‘ghi được bàn thắng’ trước đối thủ là sự ác, ắt là họ sẽ không thoát khỏi thất bại ê chề: chính họ sẽ bị trầm luân. Chả bù với các ‘đội’ Tia và Si-đôn, giá mà họ chỉ có được một nửa cơ hội như thế thôi, ắt họ đã ghi bàn quyết định đó là sám hối ăn năn và lãnh nhận được ơn cứu độ rồi.

Mời Bạn: điểm lại những cơ hội Chúa đã ban cho bạn, nhất là những cơ hội bị bỏ lỡ. Bạn có thấy tiếc xót cho mình không? Rất may cho bạn, khi bạn đang đọc những dòng chữ này, bạn vẫn còn trong 90 phút thi đấu của đời bạn! Trong thời gian còn lại đó, xin bạn tận dụng những cơ hội Chúa ban cho, đừng bỏ lỡ nữa!

Chia sẻ: Cộng đoàn của bạn đã có thể tận dụng những ơn huệ Chúa ban để giúp nhau thăng tiến chưa?

Sống Lời Chúa: Nghiêm túc kiểm điểm đời sống mỗi ngày để kịp thời khắc phục những lỗi lầm thiếu sót.

Cầu nguyện: Đọc kinh Ăn Năn Tội.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm

Lời giảng đầu tiên của Đức Giêsu là một lời mời sám hối (Mt 4, 17).
Những phép lạ Ngài làm cũng là một lời mời tương tự.
Phép lạ không phải chỉ là những biểu lộ của uy quyền và tình thương.
nhằm vén mở khuôn mặt của Thiên Chúa và của Con Ngài.
Phép lạ còn là lời mời gọi đổi đời, vì Nước Trời đã gần đến.
Đức Giêsu quở trách các thành đã lần lữa không chịu sám hối,
dù họ đã được chứng kiến phần lớn các phép lạ Ngài làm (c. 20).

 “Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin ! Khốn cho ngươi, hỡi Bếtsaiđa !”
Đức Giêsu đã kêu than như một ngôn sứ, buồn phiền và đau đớn,
trước sự cứng lòng của những nơi mà Ngài đã đặt chân và thi ân.
Khoradin là một vùng ở tây bắc của Hồ Galilê (Mc 10, 13).
Nay chỉ còn là cánh đồng gạch vụn, với dấu tích của một hội đường.
Bếtsaiđa nghĩa là “nhà của cá”, nằm nơi sông Giođan đổ vào Hồ nói trên.
Thành này ngày nay cũng biến mất, có lẽ vì bị tràn ngập bởi phù sa. 
Đức Giêsu đã so sánh hai thành này với hai thành dân ngoại Tia và Xiđôn.
Nếu Tia và Xiđôn nhận được sự hiện diện của Đức Giêsu,
hẳn họ đã ăn năn sám hối từ lâu rồi (c. 21).

Caphácnaum được coi là trụ sở của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ.
Nơi đây Ngài đã làm bao điều tốt lành (Mt 4, 13; 8, 5; 9, 1; 17, 24).
Vậy mà có vẻ nó lại không muốn đón nhận Đấng mang ơn cứu độ.
Phải chăng vì nó đã tự hào, tự cao trước những ơn Chúa ban ?
“Ngươi sẽ được đưa lên tới tận trời sao ? Ngươi sẽ bị tống xuống âm phủ.”
Đức Giêsu dám so sánh Caphácnaum với Sơđôm.
Sơđôm là một thành phố trụy lạc, đã bị thiêu hủy hoàn toàn (St 19, 25).
Ngài cho rằng Sơđôm mà được thấy những điều kỳ diệu Ngài làm,
hẳn nó đã hoán cải và còn tồn tại đến nay (c. 23).

Đến ngày phán xét, con người sẽ bị xét xử theo điều mình đã lãnh nhận.
Lãnh ít thì sẽ được khoan hồng nhiều hơn.
Mỗi người chúng ta thật sự chẳng rõ mình đã nhận được bao nhiêu.
Chúng ta dễ có thái độ tự cao của những người được gần gũi Chúa.
“Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt Ngài,
và Ngài cũng đã từng dạy dỗ trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13,26).
Nhưng điều quan trọng không phải là đã nghe giảng và đã thấy phép lạ.
Điều quan trọng là sám hối.
Những ơn lộc Chúa ban cho đời kitô hữu lại đòi ta phải hoán cải nhiều hơn.
Chúng ta không thể coi mình là Caphácnaum để khinh Xơđôm được.
Thiên Chúa xét xử theo điều Ngài ban cho từng con người,
từng nền văn hóa hay văn minh, từng vùng đất hay từng tôn giáo.

Làm sao tôi có thể thấy được những phép lạ Chúa làm cho tôi mỗi ngày ?
Có những phép lạ xảy ra đều đặn và bình thường nên tôi không nhận ra.
Mỗi cử chỉ yêu thương tôi nhận được cũng là phép lạ.
Mong tôi đáp lại phép lạ đó bằng một cử chỉ yêu thương.

Lời nguyện

Con tạ ơn Cha vì những ơn Cha ban cho con,
những ơn con thấy được,
và những ơn con không nhận là ơn.
Con biết rằng
con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng,
biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.

Con thường đau khổ vì những gì
Cha không ban cho con,
và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.

Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban
bởi lẽ điều đó có hại cho con,
hay vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.

Xin cho con vững tin vào tình yêu Cha
dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

14 THÁNG BẢY

Được Trao Ban Những Ân Sủng Đặc Biệt

Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài, con người là tạo vật hữu hình duy nhất mà Đấng Tạo Hóa “nhắm đến vì chính nó” (MV 24). Thiên Chúa – Đấng cai quản thế giới với sự khôn ngoan và quyền lực siêu việt của Ngài – trao cho con người mục tiêu để đạt đến trong cuộc sống này. Nhưng con người cũng là một cứu cánh nơi tự thân mình, không giống như các tạo vật khác. Con người cần đạt đến sự thành toàn trong tư cách là một nhân vị được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài.

Được làm cho phong phú với một ân huệ đặc biệt – và cũng là một trách nhiệm – con người có quan hệ mật thiết với mầu nhiệm quan phòng thần linh. Chẳng hạn, chúng ta đọc thấy trong Sách Huấn Ca: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người… Ngài mặc cho nó sức mạnh… để chúng thống trị muông chim cầm thú. Ngài ban cho chúng trí khôn, lưỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ. Ngài làm cho chúng đầy kiến thức thông minh, tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu. Ngài đặt con mắt mình vào tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Ngài… Ngài còn ban kiến thức cho chúng, và cho thừa hưởng luật đem lại sự sống” (Hc 17,1.3.5-7.9).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 14/7

Thánh Camillô Leltis, linh mục

Is 7, 1-9; Mt 11, 20-24.

LỜI SUY NIỆM: “Bấy giờ Người bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối.”

          Lời Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: “Khốn cho các ngươi” đây không chỉ nói riêng cho các thành: Khoradim. hay là Bếtxađa. Nhưng Người cũng đang nói với mỗi người trong chúng ta ngay lúc này; Mỗi người tín hữu chúng ta cần phải xem xét lại: Trong cuộc sống của mình; mỗi người đã sống, có nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa với sự tương quan của mình với Ngài, và những ân ban của Ngài đã ban cho trong ngày sống của mình như thế nao? Khi sống với Ngài và với người đồng loại cũng như các tạo vật chung quang mình trong “ngôi nhà chúng” mà Thiên Chúa đã tạo dựng và trao ban cho mỗi người trong chúng ta quản lý và tiếp tục xây dựng theo ý của Thiên Chúa. Nếu chúng ta sống không có trách nhiệm, là xúc phạm đến Thiên Chúa; cần phải biết sám hối; để được sống.

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người chúng con, nhận ra Chúa trong mọi người và mọi cảnh vật đang hiện diện chung quanh. Để chúng con biết cảm tạ Chúa và biết sám hối những sai phạm của chúng con, hầu giúp cho tâm hồn chúng con được sự bình an và vui sống với nhau cùng với các tạo vật mà |Chúa đã ban cho chúng con.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 14-07: Thánh CAMILLÔ LELLIS

Linh Mục – (1550 – 1614)

Thánh Camillô Lellis là con của ông Gioan Laliis, một hiệp sĩ danh giá trong quân đội của Chales-Quint. Mẹ Ngài thuộc vào một gia đình thời danh nhất ở Neples. Từ những năm đầu thời hôn nhân, họ có được một người con, nhưng lại bị cất đi ngay, khi đứa bé còn ở trong nôi. Lúc bà Lellis 60 tuổi, sau bao lời cầu hôn khẩn thiết, bà đã sinh ra Camillô vào ngày 25 tháng 5 năm 1550. Khi đang mang thai, bà đã thấy mộng con trẻ mang trên ngực một hình thánh giá, có vô số trẻ em theo sau. Mộng thấy vậy, bà lo sợ rằng mình sẽ sinh hạ một người con làm đầu bọn cướp, Camillô mới sinh ra ít lâu thì mồ côi mẹ. Chưa được 6 tuổi, Ngài lại mồ côi cha. Do những tai họa này, việc giáo dục Camillô bi bỏ mặc.

Những buổi đầu đời của con trẻ đã chứng thực điều lo sợ của người mẹ là đúng. Camillô biếng nhác và phóng túng, lao mình vào cuộc chơi. Đến tuổi 19, Ngài theo đuổi binh nghiệp và năm năm sau Ngài xuất ngũ.

Người thanh niên này phung phí hết tài sản và lâm cảnh cùng quẫn, phải làm phụ hồ cho công trình xây cất nhà cho các cha Phanxicô. Tại Fermô, Ngài gặp hai thầy dòng và mến phục nết đạo đức khiêm tốn của hai vị. Tự đáy lòng, Camillô nguyện một ngày kia sẽ nhập dòng. Bỏ binh nghiệp, Ngài đến nhà dòng Phanxicô ở Aquila. Một người cậu của Camillô giữ cổng nhà dòng này. Camillô kể lại cho ông nghe tất cả những gì đã qua và xin được mặc áo dòng. Cha giữ cửa biết rõ quá khứ đau lòng của cháu, muốn thử thách ơn kêu gọi bất ngờ này đã từ khước trong một thời gian.

Camillô lại rơi vào cơn rối loạn. Ngài trở nên bất hạnh đến nỗi phải đi ăn xin cùng với một người lính cùng khốn khổ như Ngài. Ngày lễ thánh Anrê năm 1574, Ngài ăn xin ở cửa nhà thờ Manfredonia. Một lãnh chúa đi qua. Ong thương tình đề nghị Camillô làm việc cho nhà dòng. Camillô nhận lời, ngày kia trước lời khuyên nhủ của một cha dòng, Ngài động lòng và bật tiếng khóc.

– Lạy Chúa, thật là khốn cho con. Tại sao con biết Chúa trễ quá ? Sao con có thể giả điếc làm ngơ trước bao nhiêu lời mời gọi của Chúa như vậy được. Xin Chúa tha thứ cho con là đứa tội lỗi khốn nạn. Xin hãy cho con đủ thời gian đền bù tội lỗi của con.

Lúc đó Camillô 25 tuổi. Ngài xin nhập dòng ngày hôm đó và được nhận vào tập viện. Nhưng một mụn nhọt ở chân mở miệng, Ngài phải đi chữa trị. Lành bệnh Ngài trở lại dòng, nhưng mụn nhọt lại mở miệng. Các bác sĩ cho rằng ung nhọt này vô phương chữa trị. Ngài được nhận vào một bệnh viện nan y ở Roma. Nơi đây Camillô nhận ra ơn gọi của mình. Ngài thấy các nhân viên được trả lương như vô tâm trước nỗi đau đớn của các bệnh nhân. Ngài tận tụy phục vụ các bệh nhân ngày đêm. Ngài còn qui tụ các bạn thành một để thực hành đức ái nữa. Trên ngực họ đeo một thánh giá đỏ. Công việc nặng nề và các bạn Ngài thường tỏ ra lo lắng. Camillô nhắc cho họ lời của thánh Catarina thành Siêna:
– Hãy lo cho ta và ta sẽ lo lắng cho con.

Camillô được đặt cai quản nhà thương, lệnh Ngài đưa ra là:

– Hãy phục vụ bệnh nhân như phục vụ chính Chúa Giêsu vậy.

Để phục vụ hữu ích hơn, Ngài đã theo lời khuyên của Đức Hồng Y Taragi để tiến tới chức linh mục. Nhưng trở ngại quá lớn, vì học thức Ngài còn quá kém. Một thị kiến đã giúp Ngài can đảm thắng vượt mọi khó khăn. Ngài thấy Chúa Kitô đưa tay ra nói:
– Camillô, con đừng sợ chi, cha sẽ giúp đỡ con và ở cùng con.

32 tuổi, Ngài không mắc cỡ khi ngồi với các em nhỏ để học vần Latinh. Sự kiên trì đã giúp người kinh viện này vượt qua mọi khó khăn. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1584, Camillô thụ phong linh mục và dâng thánh lễ đầu tiên tại nhà thờ thánh Giacôbê. Vài tháng sau, Ngài được trao phó cho cai quản nhà thờ Đức Bà hay làm phép lạ.

Tại đây, Ngài thiết lập một tu hội. Anh em qui tụ quanh Ngài dấn thân phục vụ những người hấp hối ở bất cứ nơi nào. Họ luôn trung thành với lời khuyên của Ngài: – Hãy hồi tâm để dâng lên những lời kinh nguyện tắt và các bạn sẽ được nâng đỡ đặc biệt bên cạnh các bệnh nhân. Chớ gì họ biết cầu xin ơn tha thứ, biết dâng cái chết của họ hợp với sự chết của Chúa Giêsu Kitô và xin Người đón nhận linh hồn họ vào lòng nhân từ Người.

Năm 1586, Đức giáo hoàng Sixtô V chấp thuận chương trình của Ngài. Năm 1588, Ngài được gọi đến lập tu viện ở Nappples. Nơi đây Ngài đã thực hiện những hành vi đức ái kỳ diệu đối với các nạn nhân của một cơn dịch hạch.

Năm 1591, Đức giáo hoàng Grêgôriô XV đã nâng tu hội của Ngài thành dòng tu, ngoài ba lời khấn còn có lời khấn thứ tư là hiến thân phục vụ nhân loại đau khổ, dầu bởi bất cứ bệnh tật nào. Dòng thánh Camillô phổ biến khắp nước Ý và còn phổ biến sang cả Pháp, Tây Ban Nha.

Con người số tu sĩ và nhà dòng ngày một nhiều. Tuy nhiên, lòng tin tưởng của Camillô vào Chúa quan phòng thật vô bờ. Các chủ nợ lo âu hỏi Ngài: – Bao giờ cha mới trả hết nợ cho chúng tôi ?

Ngài trả lời: – Đừng sợ gì Thiên Chúa quyền năng không gởi cho chúng ta món tiền nào sáng mai sao ?

Các chủ nợ cười nói: – Thời phép lạ đã qua rồi.

Nhưng rồi vài ngày sau, Ngài được những túi tiền lớn đủ để trả nợ. Sự quan phòng cho thấy rằng các phép lạ có mãi cho những ai phó thác cho Chúa.

Khi tuổi cao, Camillô vẫn không giảm bớt những phục vụ bên cạnh các người đau khổ. Thấy vậy, các bệnh nhân nói: – Cha nghỉ đi kẻo té ngã mất.

Nhưng các Ngài trả lời: – Này các con, cha là nô lệ của các con, cha phải làm mọi sự có thể làm được để phục vụ các con.

Đi từ giường này tới giường khác, Ngài tự nhủ:

– Hạnh phúc tôi mong đợi lớn lao đến nỗi mọi đau khổ đều thành niềm vui của tôi.

Kiệt sức vì công việc và đau đớn, Camillô Lellis chỉ còn là một bộ xương. Khi thấy giờ chết tới gần, Ngài vui sướng:

– Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: nào ta đi về nhà Chúa.

Được đưa về phòng, Ngài còn nói trong nước mắt: – Lạy Chúa, con biết con là một tội nhân ghê gớm. Nhưng xin hãy cứu con nhờ lòng nhân lành Chúa.

Ngày 14 tháng 7 năm 1614 Camillô Lellis qua đời. Năm 1746, Đức giáo hoàng Bênêdictô đã suy tôn Ngài lên bậc hiển thánh.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

14 Tháng Bảy

Tự Do Ðích Thực 

Trong tập thơ mang tựa đề Gitanjali, thi hào Tagore đã có bài thơ về tù nhân như sau:

“Hỡi tù nhân, hãy nói cho ta hay ai đã xiềng xích ngươi. Tù nhân đáp, thưa chính là chủ tôi. Tôi đã muốn thắng vượt mọi người, bằng của cải và quyền lực, cho nên tôi đã vơ vét vào kho tàng của tôi tất cả tiền bạc của chủ. Mệt mỏi vì cuộc chạy đua theo tiền của tôi, cuối cùng tôi đã thiếp ngủ ngay trên chính giường của chủ tôi. Khi thức dậy, tôi thấy mình đã bị giam hãm ngay trên kho tàng của tôi.

Hỡi tù nhân, hãy nói cho ta hay ai đã rèn chiếc xích sắt này cho ngươi. Tù nhân đáp: tôi đã muốn giam hãm tất cả thế giới, vì như thế tôi sẽ được tự do và không còn ai quấy rầy. Ngày đêm, tôi đã dùng lửa, búa và chiếc dũa để rèn sợi xích này. Khi nó được hoàn thành, và chiếc mốc cuối cùng được nối lại, tôi đã để cho sợi xích giam hãm cả cuộc đời của tôi, khiến không có gì bẻ gãy được”.

Năm 1989, nước Pháp đã mừng kỷ niệm 200 năm cuộc cách mạng 1789. Cùng với việc lật đổ chế độ quân chủ, bản tuyên ngôn nhân quyền được công bố ngày 04 tháng 8 năm 1789 đã đánh dấu một bước dài của nhân loại tiến đến tự do, dân chủ.

Nhưng oái oăm thay, người ta đã nhân danh tự do để chống lại tự do và phạm không biết bao nhiêu tội ác đối với con người. Nhân danh tự do, Robespierre đã giết hại 25 ngàn người cũng như cấm chế nhiều quyền tự do trong đó cơ bản nhất là quyền tự do tôn giáo.

Lịch sử cũng đã được lập lại trong rất nhiều cuộc cách mạng sau này. Mới đây tại Trung Quốc, người ta đã nhân danh tự do dân chủ để đạp đổ Nữ Thần Tự Do và sát hại không biết bao nhiêu người đòi tự do.

Nhân danh tự do để chối bỏ tự do của người khác, nhân danh quyền con người để chà đạp quyền sống của người khác: đó là thảm trạng của không biết bao nhiêu cuộc cách mạng trong thời đại ngày nay. Chính khi con người chối bỏ tự do và chà đạp quyền sống của người khác là cũng chính lúc con người tự giam hãm mình trong nô lệ, nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho tiền bạc, nô lệ cho bất an… Lắm khi con người tự rèn lấy cho mình xích xiềng để tự chói lấy mình. Nhà tù ấy, sợi xích ấy chính là lòng tham lam nơi con người: tham lam tiền của, tham lam quyền lực, tham lam danh vọng.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Ba Tuần 15 TN2

Bài đọc: Isa 7:1-9; Mt 11:20-24

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phép lạ và niềm tin.

Người Do-thái thích phép lạ, người Việt-nam cũng thích phép lạ không kém. Điển hình là vào đêm 13 tháng 6 vừa qua, có một nguồn tin cho biết là Đức Mẹ sẽ hiện ra trên bầu trời Houston, biết bao nhiêu người đã mất ngủ vì mong được nhìn thấy. Hậu quả, chẳng có ai thấy Đức Mẹ hiện ra cả. Khi được chất vấn, những người phao nguồn tin ấy chống chế: vì người Houston không có đức tin đủ nên không thấy! Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu làm phép lạ để khơi dậy niềm tin. Khi đã có đức tin rồi, phép lạ không còn cần thiết nữa. Với những người cứng lòng, có làm phép lạ bao nhiêu cũng không dẫn tới niềm tin.

Các bài đọc hôm nay muốn dẫn chứng sự liên hệ giữa niềm tin và phép lạ. Trong bài đọc I, khi phải đối diện với sức mạnh của liên minh Syro-Israel, lòng vua và dân Judah “run rẩy như cây rung rinh trước gió.” Đức Chúa sai cha con ngôn sứ Isaiah đến củng cố tinh thần cho nhà vua và nhắc nhở: Đừng sợ thế lực của họ, cứ tin tưởng vào Thiên Chúa thì vương quốc Judah sẽ đứng vững. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu so sánh dân chúng của các thành khác nhau để chứng minh một sự thật: Nghe giảng dạy nhiều và chứng kiến nhiều phép lạ không luôn dẫn tới niềm tin. Ngài cũng cảnh cáo khán giả: Hưởng càng nhiều đặc quyền bao nhiêu sẽ càng bị phán xét nặng bấy nhiêu.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Nếu các ngươi không vững tin, thì các ngươi sẽ không đứng vững.

1.1/ Cõng rắn cắn gà nhà: Lịch sử chứng minh người cùng một quốc gia không luôn thương yêu và bảo vệ nhau. Vì tham vọng chính trị, vua Israel liên minh với vua Syria để chống lại vua Judah. Khi vua của Judah nghe tin này, “tim của nhà vua và của dân thành run rẩy như cây rung trước gió.”

1.2/ Cần có niềm tin vững mạnh nơi Thiên Chúa: Trong lúc khốn khó là lúc biểu lộ niềm tin nơi Thiên Chúa. Ngài sai Judah và con ông là Shearjashub đến củng cố tinh thần Ahaz, vua Judah: “Đừng sợ! hãy tin tưởng vào Thiên Chúa.” Chúa đòi niềm tin của vua Judah: “Trừ phi nhà vua có một đức tin mạnh mẽ, nhà vua không thể đứng vững.”

Đức Chúa gọi vua Israel và vua Syria là “hai cái đầu que củi chỉ còn khói.” Thực tế chứng minh vương quốc Israel bị rơi vào tay của Assyria vào năm 721 BC, và Assryria bị rơi vào tay Babylon chỉ ít lâu sau đó. Ngôn sứ muốn nói cho Ahaz biết Đức Chúa là Đấng quan phòng mọi sự. Ngài sẽ bảo vệ những ai đặt trọn vẹn niềm tin nơi Ngài.

2/ Phúc Âm: Nếu các phép lạ đã làm nơi ngươi mà được làm tại Sodom, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay.

2.1/ So sánh Chorazin và Bethsaida với Tyre và Sidon: Bấy giờ Chúa Giêsu bắt đầu quở trách các thành đã chứng kiến phần lớn các phép lạ Người làm mà không sám hối: “Khốn cho ngươi, hỡi Chorazin! Khốn cho ngươi, hỡi Bethsaida! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tyre và Sidon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tyre và thành Sidon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi.”

(1) Chorazin và Bethsaida: Chorazin được các nhà khảo cổ đồng nhất với thành Kerazeh hiện đại, cách xa Capernaum chừng 2.5 dặm về phía Bắc. Bethsaida là một làng của vùng Galilee, nằm về phía Tây của hồ Tiberias, trong “giải đất của Gennesaret.” Bethsaida là quê hương của Peter, Andrew và Philip; và là chỗ Chúa Giêsu thường xuyên lui tới. Hai phép lạ Chúa Giêsu làm được kể chi tiết là phép lạ Chúa chữa người mù tại Bethsaida (Mk 8:22) và phép lạ nuôi 5,000 người ăn tại Bethsaida (Lk 9:10-17). Ngoài ra, Luca cũng tường thuật việc Chúa Giêsu dạy dỗ, và chữa lành nhiều người tại đây.

(2) Tyre và Sidon: là hai hải cảng thương mại lớn của người Phoenecia (Lebanon ngày nay), nằm dọc theo bờ biển Mediterranean. Tyre nằm khoảng 23 dặm về phía Bắc của Arco, và cách Sidon khoảng 20 dặm về phía Nam. Chúa Giêsu rất ít khi rao giảng ngoài lãnh thổ của Palestine, và các thánh ký chỉ tường thuật một lần Chúa đến vùng Tyre và Sidon, khi một người đàn bà Canaan nài xin Ngài cứu con gái bà khỏi bị quỉ ám. Chúa Giêsu thử thách đức tin của bà cách trầm trọng: “Không nên lấy lương thực của con cái mà vứt cho chó” (Mt 15:21); trước khi chữa lành con gái của bà.

2.2/ So sánh Capernaum với Sodom: “Còn ngươi nữa, hỡi Capernaum, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi ngươi mà được làm tại Sodom, thì thành ấy đã tồn tại cho đến ngày nay. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, đất Sodom còn được xử khoan hồng hơn các ngươi.”

(1) Capernaum: có thể nói là “thành của Chúa Giêsu” vì Ngài thường xuyên lui tới dạy dỗ và làm phép lạ tại đây. Gioan tường thuật Chúa làm phép lạ đầu tiên cho nước hóa thành rượu tại tiệc cưới Cana (Jn 2:12) và chữa lành con trai của một quan chức (Jn 4:46). Matthew tường thuật phép lạ Chúa chữa đầy tớ của viên Đại Đội Trưởng Rôma (Mt 8:5). Marcô tường thuật Chúa chữa người bại liệt được thòng xuống từ mái nhà (Mk 2:1). Luca tường thuật Chúa chữa người bị quỉ ám (Lk 9:33). Marcô tường thuật Chúa giảng trong hội đường Capernaum (Mk 1:21) và Gioan ghi lại rõ ràng: diễn từ về BT Thánh Thể xảy ra sau phép lạ hóa bánh nuôi 5,000 người và phản ứng của dân chúng cũng xảy ra tại đây (Jn 6).

(2) Sodom: Chúng ta biết đến thành phố này trong Sách Sáng Thế khi Thiên Chúa khiến lửa từ trời thiêu rụi thành phố này vì những tội tày trời họ xúc phạm đến Ngài, nhất là tội thác loạn tình dục như tên thành được gọi (Gen 18:16-33, 19:1-29). Thành phố này nằm đối diện với Zoar, về phía SW của Biển Chết.

Trong 3 năm rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài dùng nhiều thời gian cho việc rao giảng chung quang vùng Biển Hồ, rất ít khi Ngài đi ra khỏi Galilee và Jerusalem. Vì thế, các thành của Dân Ngoại như Tyre, Sidon, Sodom… hầu như không có cơ hội được nghe lời giảng hay chứng kiến các phép lạ người làm.

Khi đưa ra sự so sánh giữa các thành phố, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh một điểm quan trọng: Ai được cho nhiều cơ hội để ăn năn, sẽ phải chịu sự phán xét nặng nề hơn. Bethsaida và Capernaum chắc chắn sẽ bị phán xét nặng nề hơn Tyre, Sidon, và Sodom.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Được hưởng đặc quyền nhiều không nhất thiết sẽ tin và yêu mến nhiều. Trái lại, như Chúa đã báo trước: không có tiên tri nào được yêu mến nơi xứ sở của mình.

– Được hưởng đặc quyền nhiều sẽ bị phán xét nặng hơn.

– Thách đố của chúng ta: Có quá nhiều cơ hội để biết Chúa có làm cho chúng ta yêu Chúa nhiều và vững vàng trong đức tin không? 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************