Ngày thứ ba (18-01-2022) – Trang suy niệm

17/01/2022

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Ba Tuần II Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: 1 Sm 16, 1-13

“Samuel xức dầu cho Đavít trước mặt các anh em ngài; và Thánh Thần ngự xuống trên ngài”.

Trích sách Samuel quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Samuel rằng: “Ta đã loại bỏ Saolê không cho cai trị Israel nữa, thế mà ngươi còn thương khóc nó đến bao giờ? Ngươi hãy đổ dầu cho đầy bình và lên đường; Ta sai ngươi đến nhà Isai dân thành Bêlem. Vì Ta chọn một người con của ông ấy lên làm vua”. Samuel thưa: “Làm sao mà đi được? Vì nếu Saolê hay biết việc đó, ông sẽ giết con”. Chúa nói: “Ngươi hãy tự tay bắt một con bê trong đàn, và nói: ‘Tôi đến để dâng lễ tế lên cho Chúa’. Ngươi sẽ mời Isai đến để dự lễ tế, Ta sẽ tỏ cho ngươi biết việc phải làm, và sẽ chỉ cho ngươi biết phải xức dầu cho ai?”

Vậy Samuel làm như lời Chúa dạy và đi đến Bêlem. Các vị kỳ lão trong thành bỡ ngỡ chạy đến Samuel mà nói rằng: “Ông đem bình an đến chăng?” Ông đáp: “Phải, bình an! Tôi đến để dâng lễ tế cho Chúa. Các ông giữ mình thanh sạch và cùng tôi đến dâng của lễ”. Vậy ông làm cho Isai và con cái ông ấy được thanh sạch và mời họ đến dâng lễ tế. Khi (họ) vào nhà, Samuel gặp ngay Êliab và nói: “Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?” Và Chúa phán cùng Samuel: “Đừng nhìn xem diện mạo, vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi; Ta không xem xét theo kiểu con người, vì chưng con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn”. Isai gọi Abinađab đến và dẫn đến trước mặt Samuel. Samuel nói: “Cũng không phải Chúa chọn người này”. Isai cho dẫn Samma đến. Samuel lại nói: “Nhưng Chúa cũng không chọn người này”. Isai lần lượt đem bảy đứa con mình ra trình diện với Samuel.

Samuel nói với Isai: “Chúa không chọn ai trong những người này”. Samuel nói tiếp: “Tất cả con ông có bấy nhiêu đó phải không?” Isai đáp: “Còn một đứa út nữa, nó đi chăn chiên”. Samuel nói với Isai: “Ông hãy sai người đi gọi nó về, vì chúng ta không ngồi vào bàn ăn trước khi nó về”. Isai sai người đi tìm đứa con út. Đứa út này có mái tóc hoe, có đôi mắt xinh và gương mặt đẹp. Chúa phán: “Ngươi hãy chỗi dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó”. Samuel lấy bình dầu ra, xức lên nó trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự trong Đavít từ ngày đó trở đi. Còn Samuel đứng dậy trở về Rama. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 88, 20. 21-22. 27-28

A+b: Ta đã gặp Đavít là tôi tớ của Ta (c. 21a).

a) Xưa trong cuộc thị kiến, Chúa đã phán cùng bầy tôi Chúa: “Ta đội mão triều thiên cho vị anh hùng, Ta cất nhắc người được kén chọn tự trong dân.

b) Ta đã gặp Đavít là tôi tớ của Ta. Ta đã xức dầu thánh của Ta cho người, để tay Ta bang trợ người luôn mãi, và cánh tay Ta củng cố thân danh người.

a) Chính người sẽ thưa cùng Ta: “Chúa là Cha tôi, là Thiên Chúa và Tảng Đá cứu độ của tôi”. Và Ta sẽ đặt người làm trưởng tử, cao sang hơn các vua chúa ở trần gian.

A+b: Ta đã gặp Đavít là tôi tớ của Ta (c. 21a).

ALLELUIA: Ga 8, 12 – Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống”. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mc 2, 23-28

“Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Vào một ngày Sabbat, Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, môn đệ Người vừa đi vừa bứt lúa. Tức thì những người biệt phái thưa Người rằng: “Kìa Thầy xem. Tại sao ngày Sabbat người ta làm điều không được phép như vậy?” Người trả lời rằng: “Các ông chưa bao giờ đọc thấy điều mà Đavít đã làm khi ngài và các cận vệ phải túng cực và bị đói ư? Người đã vào nhà Chúa thời thượng tế Abiata thế nào, và đã ăn bánh dâng trên bàn thờ mà chỉ mình thượng tế được ăn, và đã cho cả các cận vệ cùng ăn thế nào?” Và Người bảo họ rằng: “Ngày Sabbat làm ra vì loài người, chứ không phải loài người vì ngày Sabbat; cho nên Con Người cũng làm chủ cả ngày Sabbat”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

18/01/2022 – THỨ NĂM TUẦN 2 TN

Tuần lễ cầu nguyện cho hiệp nhất Ki-tô hữu

Mc 2,23-28

YÊU THƯƠNG CHU TOÀN LỀ LUẬT

“Ngày sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sa-bát.” (Mc 2,27)

Suy niệm: Người Pha-ri-sêu thấy các môn đệ Chúa Giê-su trên đường đi bứt vài bông lúa chà sát để ăn cho đỡ đói, liền vin vào đó để bắt bẻ họ vi phạm luật ngày sa-bát. Nhân cơ hội đó, Chúa Giê-su cho thấy chuẩn mực xét đoán của Ngài là tình thương và vì hạnh phúc cho con người. Lề luật được đặt ra không phải để bắt con người trở thành nô lệ cho nó mà là để đem lại hạnh phúc cho con người. Thiên Chúa yêu thương con người; ngay cả khi con người phạm tội phản nghịch lại Thiên Chúa, Ngài vẫn yêu thương, trung tín và hoạch định chương trình để cứu chuộc con người.

Mời Bạn: Thánh Augustinô nói: “Hãy yêu đi rồi thì làm gì thì làm”. Đó không phải là coi thường, phá bỏ lề luật bởi vì thánh Phao-lô viết: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,8.10). Và luật Chúa Giê-su dạy, điều luật duy nhất và tóm gọn mọi lề luật, đó là: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em” (Ga 13,34). Tình yêu làm cho luật lệ trở nên sống động và có ý nghĩa. Bạn và tôi đã cảm nghiệm được tình Chúa như thế nào trong cuộc đời qua những biến cố? Chúng ta giữ luật Chúa vì tình yêu hay vì sợ tội?

Sống Lời Chúa: Như thánh Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su, chúng ta hãy làm tất cả với lòng yêu mến Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã làm tất cả chỉ vì yêu chúng con. Chúa dạy chúng con sống tình yêu đích thực. Chính tình yêu Chúa làm chúng con được hạnh phúc thật. Con muốn được thưa lên với Chúa như thánh Augustinô: “Chúa đã tạo dựng nên chúng con cho Chúa nên lòng chúng con khắc khoải cho đến khi yên nghỉ trong Chúa”.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Các Kitô hữu gốc Do Thái của Giáo Hội sơ khai
thường bị chê trách vì đã lơ là trễ nải trong việc giữ ngày sabát.
Giữ ngày sabát là điều hết sức quan trọng đối với người theo Do Thái giáo
Ai vi phạm ngày này có thể bị xử tử (Xh 31, 14), bị ném đá (Ds 15, 32-36).
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu hẳn đã soi sáng cho vấn đề này.

Câu chuyện xảy ra vào một ngày sabát.
Khi thầy trò băng qua đồng lúa, các môn đệ đã bứt các bông lúa.
Và hẳn họ đã vò lúa trong tay trước khi có thể ăn hạt bên trong.
Theo sách Đệ nhị luật (23, 26) thì hành động này được phép làm:
“Khi vào đồng lúa của người đồng loại, anh em có thể lấy tay bứt bông lúa.”
Nhưng theo các kinh sư, điều này bị cấm làm trong ngày sabát,
lý do là vì bứt lúa và vò trong tay cũng giống với hành vi gặt và xay lúa,
mà gặt và xay lúa là một trong ba mươi chín việc không được phép làm ngày sabát.
Từ đó người Pharisêu kết luận việc các môn đệ bứt lúa là phạm đến luật Môsê.
Ngày nay chúng ta có thể buồn cười về chuyện này,
nhưng nó nói lên việc các kinh sư vì sợ người ta phạm luật
nên sau này đã thêm thắt những quy định tỉ mỉ chi li.

Đức Giêsu đã trả lời người Pharisêu bằng đức cách trưng dẫn chuyện vua Đavít.
Trong truyền thống Do Thái, vua này thường được coi là đạo đức mẫu mực.
Đavít đã làm điều không được phép làm, đó là ăn bánh tiến (x. 1 Sm 21, 1-6).
Bánh này gồm mười hai ổ lớn được đặt trước nhà tạm (x. Lv 24, 5-9).
Vào mỗi ngày sabát, bánh mới được thay, bánh cũ chỉ dành cho các tư tế.
Khi kể câu chuyện về vua Đavít, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng
nếu Đavít và các thuộc hạ có thể được miễn giữ luật liên quan đến bánh thánh
thì Đức Giêsu và các môn đệ trong trường hợp nào đó
cũng có thể được miễn giữ ngày sabát thánh (x. 1 Mac 2, 34-38).

Theo Đức Giêsu, ngày sabát được tạo cho loài người, chứ không phải ngược lại.
Người Pharisêu có lẽ đã quên đi mục đích của việc giữ luật ngày sabát.
Thiên Chúa lập nên ngày sabát để loài người có thời gian nghỉ ngơi
hầu nhớ đến công trình tạo dựng và giải phóng của Ngài (Đnl 5, 14-15).
Ngày sabát đúng là ngày của Chúa, dành cho Chúa,
nhưng nó cũng là ngày cho loài người sau sáu ngày làm việc vất vả.

Ngày nay chúng ta không còn giữ ngày sabát nữa,
nhưng giữ ngày Chúa Nhật, ngày của Chúa.
Cám ơn vị nào đã lần đầu tiên dùng từ này để chỉ ngày đầu tiên của tuần.
Trong thế giới quá cạnh tranh hiện nay, chúng ta cần được nhắc nhở
về chuyện nghỉ ngơi để sống cho mình, cho nhau, cho Chúa.
Ngày Chúa Nhật là thời gian tuyệt vời đề sống cả ba chiều kích ấy.

Cầu nguyện:

Ngày lại ngày, lạy Thiên Chúa,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan,
hai tay cung kính, lạy Thiên Chúa muôn loài,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.

Dưới bầu trời bao la,
trong cô đơn và thầm lặng,
với tấm lòng thanh tịnh,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.

Trong thế giới ồn ào vì nhọc nhằn,
huyên náo vì đấu tranh,
giữa đám đông hối hả lăng xăng,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.

Và khi đã hoàn tất việc đời,
lạy Thiên Chúa muôn loài,
một mình, lặng lẽ,
tôi sẽ đứng trước Người chiêm ngưỡng dung nhan.

(R. Tagore – Ðỗ Khánh Hoan dịch)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

18 THÁNG GIÊNG

Giá Trị Và Phẩm Cách Của Lao Động

Mọi người – nam cũng như nữ – đều là những lữ khách trên mặt đất này, những lữ khách trong cuộc hành hương kiếm tìm sự thật, kiếm tìm Thiên Chúa! Và mọi người đều được mời gọi vào cuộc hành hương này. Chúng ta là khách hành hương, là thành phần của Dân Thiên Chúa; chúng ta được Đấng Tạo Hóa, Cha chúng ta, dẫn dắt tiến về với sự thánh thiện viên mãn nơi Ngài. Ngài đang dẫn đưa chúng ta đến với Ngài xuyên qua bao kinh nghiệm và thử thách của cuộc sống hôm nay.

Để chỉ cho ta biết con đường sự sống đưa ta về hiệp nhất với Ngài, Thiên Chúa đã gửi chính Con của Ngài đến với ta. Ngài đã đặt người Con ấy làm viên đá góc, nhờ đó chúng ta có thể vươn tới ơn cứu độ (1Pr 2, 6 – 8). Thật vậy, trong Đức Giêsu Kitô, chúng ta cũng trở nên những viên đá sống “xây dựng tòa nhà thiêng liêng để thành hàng tư tế thánh dâng lễ vật thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa” (1Pr 2, 5). Những lễ vật thiêng liêng này được gắn kết với mọi thực tại dệt nên cuộc sống chúng ta, nhất là gắn kết với lao động con người – vì lao động là chiều kích nền tảng của cuộc sống con người trên trái đất.

Tôi tưởng cần nêu vài suy tư về giá trị và phẩm cách của lao động con người. Đức Giêsu Kitô là con của một người thợ mộc. Phần lớn cuộc đời Người, trong kiếp người, Người cần cù làm việc nối nghiệp của Thánh Giu-se – cha nuôi Người. Bằng chính nghề thợ mộc của Người, Đức Giêsu cho thấy rằng trong đời sống hằng ngày, chúng ta được kêu gọi sống phẩm giá của lao động. Bằng lao động, con người tham dự vào công cuộc sáng tạo của chính Thiên Chúa. Dù làm việc ở nhà máy hay trong văn phòng, trong bệnh viện hay ngoài đồng ruộng…, ở bất cứ đâu chúng ta cũng đang góp phần vào công trình tạo dựng của chính Thiên Chúa; điều này đem lại giá trị và ý nghĩa cho mọi công việc của chúng ta.

“Giá trị lao động của một người được ấn định trước hết không phải bởi loại công việc mà người ấy làm, nhưng là bởi vì công việc ấy được làm bởi một nhân vị” (Thông Điệp Laborem exercens, 6). Như vậy, mọi lao động của con người, dù có vẻ nhỏ nhặt đến đâu, đều phải được hết mực kính trọng, bảo vệ và tưởng thưởng thích đáng. Nhờ đó, mọi gia đình – và toàn thể cộng đồng xã hội – sẽ có thể sống trong hòa bình, thịnh vượng và phát triển.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 18/01

1Sm 16, 1-13; Mc 2, 23-28.

Lời Suy Niệm: “Ngày Sa-bát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sa-bát”

Trong Cựu Ước, ngày Sa-bát được Thiên Chúa lập ra, và Ngài đã chúc phúc, thánh hóa  cho ngày đó. (St 2,2-3). Và trong Sách Xuất Hành cũng trình bày chỉ thị của Thiên Chúa về: “Năm Sa-bát và ngày Sa-bát”. (Xh 23,10-13) Không những thế, trong Sách Lêvi và Sách Đệ Nhị Luật còn cho chúng ta được biết về mục đích của: “Năm Sa-bát” và “Năm Toàn Xá”. Tất cả đều là vì lợi ich cho con người, nhất là đối với người nghèo. Để con người được nghỉ ngơi tạ ơn, thờ phượng Thiên Chúa và quan tâm đến nhau. Gần đây Đức Thánh Cha Phanxicô còn nhắc cho chúng ta biết dùng những ngày nghỉ lễ trong năm như là quà tặng của Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã tạo ra ngày lễ và ban tặng nó cho toàn gia đình nhân loại, để con người biết có cái nhìn yêu thương và biết ơn đối với công việc được làm cách tốt đẹp, và ý thức mình là chủ, chứ không phải là nô lệ của lao động. Nô lệ lao động là chống lại Thiên Chúa và phẩm giá con người.”

Lạy Chúa Giêsu. Chúa muốn mỗi ngày Chúa Nhật hôm nay chúng con biết nghỉ ngơi, để thờ phượng Chúa, nhận ơn tha thứ và làm việc thiện. Xin Chúa ban cho mọi thành viên trong gia đình chúng con biết dành nhiều thì giờ nghỉ ngơi đó để quan tâm đến nhau, và tạo niềm vui cho nhau.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

 18 Tháng Giêng

 Tấm Gương Sự Thật  

Theo câu chuyện cổ tích của người Tây Phương về Cô Bạch Tuyết và bảy chú lùn thì Sự Thật chiếu sáng và nói qua một tấm gương. Khi hoàng hậu, người kế mẫu của Bạch Tuyết nhìn vào tấm gương sự thật ấy để hỏi về mình, bà được trả lời như sau: “Thưa hoàng hậu, hoàng hậu là người đẹp nhất hiện nay”. Mà quả thật, so sánh với những người đàn bà đương thời, bà ta là người đẹp nhất.

 Nhưng công chúa Bạch Tuyết mỗi ngày một lớn và trở nên xinh đẹp. Trắng như tuyết, đỏ như máu, đen như mun: ba màu sắc ấy kết hợp một cách hài hòa để mỗi ngày một gia tăng vẻ đẹp cho cô bé, dù chỉ mới lên 7 tuổi. Ai cũng nhận thấy rằng cô đã vượt xa người kế mẫu về sắc đẹp.

 Một hôm, hoàng hậu kế mẫu hỏi ý kiến của chiếc gương Sự Thật một lần nữa. Lần này, tấm gương đã trả lời: “Thưa hoàng hậu, quả thực hoàng hậu là người xinh đẹp ít ai sánh bằng. Nhưng hiện nay, công chúa Bạch Tuyết đã đẹp hơn hoàng hậu bội phần. Ðây là điều mà không ai chối cãi được, 7 chú lùn đã xác định điều đó”. 

Người kế mẫu không muốn chấp nhận Sự Thật ấy. Bà không thể nào chấp nhận một đứa con riêng của chồng được quyền đẹp hơn Bà. Sự ganh ghét đã bắt đầu gặm nhấm tâm hồn bà để rồi bà chỉ còn có mỗi một ý nghĩ trong đầu: đó là loại bỏ người đối thủ tí hon của bà. Bà sai người cho thuốc độc vào một trái táo rồi mang đến cho Bạch Tuyết. Cô bé bị ngộ độc và đã đi vào cõi chết, nhưng vẫn giữ nguyên nét đẹp trên gương mặt. Một hoàng tử đã say mê nhìn khuôn mặt bất động ấy. Chàng đã đặt trên môi Bạch Tuyết một chiếc hôn. Trái táo độc rớt khỏi môi và Bạch Tuyết đã được hồi sinh. Người hoàng hậu kế mẫu nghe điều đó. Sự oán hận và ganh tức đã dồn lên khiêùn cho người đàn bà chết tốt.

 Tấm gương Sự Thật của chúng ta chính là Ðức Kitô.

 Philatô đã có lần hỏi Chúa Giêsu: Sự Thật là gì? Chúa Giêsu đã không trả lời cho câu hỏi ấy. Nhưng hẳn những người môn đệ đã có lần nghe Chúa Giêsu tuyên bố: “Ta là Ðường, là Sự Thật, và là Sự Sống” đều có thể trả lời cho câu hỏi ấy. 

Chúa Giêsu không chỉ là Sự Thật một cách trừu tượng, một cách trống rỗng, mà là Sự Thật của con người, đối với con người. Cũng chính Philatô, sau khi đã ra lệnh đánh đòn Chúa Giêsu, đã đưa Người ra trước dân chúng và tuyên bố: “Này là Người”. Này là người, này là con người, hay đúng hơn là sự thật về con người. Chúa Giêsu đã để lộ tất cả con người của ngài qua những vết thương trên người. Phải chăng con người chỉ để lộ nhân tính và tất cả những nét cao quý nhất của mình qua những lằn roi, qua những vết thương đau vì yêu thương, vì phục vụ?

 Chúa Giêsu là tấm gương Sự Thật của con người. Chỉ qua Ðức Kitô, chúng ta mới có thể nhận diện được con người đích thực của chúng ta. Nhìn vào Ðức Kitô, tội lỗi và những bất toàn của chúng ta sẽ hiện ra, nhưng hình ảnh cao quý được Thiên Chúa in trên mỗi người chúng ta cũng tỏ lộ.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Ba – Tuần 2 – TN2

Bài đọc: Heb 6:10-20; I Sam 16:1-13; Mk 2:23-28.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người quí trọng hơn luật lệ.

Phẩm giá con người rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Các Lề Luật Ngài ban là để bảo vệ và phục vụ con người. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, Ngài không bao giờ muốn cho con người phải làm nô lệ cho Lề Luật và tội lỗi; nhưng muốn Lề Luật phục vụ con người và làm cho đời sống con người được bảo vệ và an toàn hơn.

Các Bài Đọc hôm nay nói lên sự quan tâm của Thiên Chúa dành cho con người. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác giả Thư Do-thái khuyên các tín hữu phải bền lòng trông cậy vào lời Thiên Chúa đã hứa. Một khi Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thi hành. Tác giả đưa ra một ví dụ là lời Thiên Chúa hứa với tổ-phụ Abraham. Lời hứa này đã được thực hiện nơi Đức Kitô, khi Ngài đi tiên phong vào nơi Cực Thánh để mở đường cho con người đến trực tiếp với Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, tác giả tường thuật việc Thiên Chúa chọn người và phong vương cho một trẻ chăn chiên nhỏ nhất và không ai ngờ trong những người con của ông Jesse; vì Ngài nhìn thấu tâm hồn cao đẹp của David. David đã trở thành vị vua sáng giá nhất của Israel. Trong Phúc Âm, các Pharisees tố cáo với Chúa Giêsu: các môn đệ của Ngài đã vi phạm luật của ngày Sabbath. Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài có lý do làm như thế để bảo vệ sự sống. Ngài nhắc cho họ biết luật lệ làm ra là vì con người, chứ không phải con người cho luật lệ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I (năm lẻ): Mọi việc chúng ta làm đều được ghi nhận bởi Thiên Chúa.

1.1/ Phải kiên nhẫn trong khi Chúa thực hiện lời hứa: Tác giả Thư Do-thái xác tín: “Quả thế, Thiên Chúa không bất công đến nỗi quên việc anh em đã làm và lòng yêu mến anh em đã tỏ ra đối với danh Người, khi trước đấy anh em phục vụ các người trong dân thánh, và hiện nay vẫn còn đang phục vụ. Nhưng chúng tôi ao ước cho mỗi người trong anh em cũng tỏ ra nhiệt thành như thế, để niềm hy vọng của anh em được thực hiện đầy đủ cho đến cùng.” Qua đoạn văn này, tác giả muốn khuyên các tín hữu 2 điều:

(1) Những lúc tăm tối của cuộc đời: Đừng nản lòng! Hãy nắm giữ niềm hy vọng vào lời Thiên Chúa hứa. Con người ai cũng phải trải qua những đêm tăm tối này. Trong những lúc như thế, tác giả khuyên cứ giữ vững đức tin, thực hành các việc lành như đã và đang làm. Chắc chắn tăm tối sẽ qua, và ánh sáng của Thiên Chúa lại tiếp tục chiếu sáng.

(2) Bắt chước gương tổ-phụ Abraham: “Anh em đừng trở nên uể oải, nhưng hãy bắt chước những người nhờ có đức tin và lòng kiên nhẫn mà được thừa hưởng các lời hứa… Như thế, vì nhẫn nại đợi chờ, ông Abraham đã nhận được lời hứa.”

1.2/ Lời Thiên Chúa hứa với tổ-phụ Abraham: “Ta sẽ ban phúc dư dật cho ngươi và sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông vô số” (Gen 22:16-18).

(1) Lời hứa được bảo đảm bằng lời thề: Con người thường lấy danh ai cao hơn mình mà thề để bảo đảm lời mình đã long trọng hứa. Khi Thiên Chúa hứa với ông Abraham, Người đã không thể lấy danh ai cao trọng hơn mình mà thề, nên đã lấy chính danh mình mà thề. Như vậy, cả lời hứa lẫn lời thề đều bất di bất dịch, và khi thề hứa, Thiên Chúa không thể nói dối được. Do đó, chúng ta là những kẻ ẩn náu bên Thiên Chúa, chúng ta được mạnh mẽ khuyến khích nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta.

(2) Lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện qua Đức Kitô: “Chúng ta có điều này như cái neo chắc chắn và bền vững của tâm hồn, là hy vọng được vào cung điện cực thánh bên trong, đàng sau tấm màn. Đó là nơi Đức Giêsu đã vào như người tiền phong mở đường cho chúng ta, sau khi trở thành vị Thượng Tế đời đời theo phẩm trật Melkisedek.”

Đối với các thủy thủ, cái neo là khí cụ cần thiết cho việc sinh tồn. Một khi đã thả neo là không còn sợ sóng gió làm thuyền lật được nữa. Trong thế giới ngày xưa, cái neo là biểu tượng của hy vọng. Pythagore nói: “Của cải là cái neo mỏng giòn; danh vọng còn yếu hơn. Khôn ngoan, rộng lượng, và can đảm, là những cái neo mà không sóng gió nào có thể vùi giập được.” Tác giả Thư Do-thái nhấn mạnh người tín hữu có một hy vọng lớn lao nhất trong thế giới là hy vọng của họ vào Lời Thiên Chúa hứa.

Niềm hy vọng đó là được vào trong thánh điện đàng sau bức màn. Trong Đền Thờ, chỗ cực thánh là nơi chứa đựng Hòm Bia Thiên Chúa, được che phủ bởi bức màn. Đây là nơi Thiên Chúa ngự. Trong nơi này, chỉ độc quyền có một người được vào, mỗi năm một lần; đó là vị thượng tế trong Ngày Xá Tội mà thôi. Tác giả Thư Do-Thái có ý muốn nói: Giờ đây, Chúa Giêsu Kitô đã mở đường vào nơi đó cho tất cả con người ở mọi nơi và mọi thời. Từ ngữ ông dùng để chỉ Chúa Giêsu như prodromos = người tiên phong mở đường. Chúa Giêsu đi tiền phong mở đường vào nơi hiện diện của Thiên Chúa, và Ngài bảo đảm an toàn cho tất cả những ai theo sau. Nói cách khác, trước khi Đức Kitô xuất hiện, Thiên Chúa là Người Khách xa lạ và cách biệt với con người; chỉ một số nhỏ có thể đến gần và luôn sợ bị thiệt mạng. Nhưng sau khi Đức Kitô đến, Thiên Chúa trở nên bạn hữu của tất cả; mọi người đều có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa.

2/ Bài đọc I (năm chẵn): Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.

2.1/ Cuộc lựa chọn người làm vua trong số các con của ông Jesse: Thiên Chúa hứa Ngài sẽ hành động trong ngôn-sứ Samuel ngay tại nơi đang diễn ra cuộc lựa chọn người làm vua trong gia đình ông Jesse. Cả ngôn sứ Samuel và ông Jesse đều không hay biết hậu quả của những gì sắp xảy ra.

– Phản ứng của ngôn-sứ Samuel: Thoạt trông thấy Eliab, ông nghĩ: “Đúng rồi! Người Đức Chúa xức dầu tấn phong đang ở trước mặt Đức Chúa đây!” Nhưng Đức Chúa phán với ông Samuel: “Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng.”

– Ông Jesse gọi Abinadab và cho cậu đi qua trước mặt Samuel, nhưng ông Samuel nói: “Cả người này, Đức Chúa cũng không chọn.” Ông Jesse cho Samah đi qua, nhưng ông Samuel nói: “Cả người này, Đức Chúa cũng không chọn.” Ông Jesse cho bảy người con trai đi qua trước mặt ông Samuel, nhưng ông Samuel nói với ông Jesse: “Đức Chúa không chọn những người này.”

2.2/ Thiên Chúa chọn một trẻ út chăn chiên làm vua cai trị dân Người: Samuel lại hỏi ông Jesse: “Các con ông có mặt đầy đủ chưa?” Ông Jesse trả lời: “Còn cháu út nữa, nó đang chăn chiên.” Ông Samuel liền nói với ông Jesse: “Xin ông cho người đi tìm nó về, chúng ta sẽ không nhập tiệc trước khi nó tới đây.”

– Ông Jesse cho người đi đón cậu về. Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp và khuôn mặt xinh xắn. Đức Chúa phán với ông Samuel: “Đứng dậy, xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó đó!” Ông Samuel cầm lấy sừng dầu và xức cho cậu, ở giữa các anh của cậu. Thần khí Đức Chúa nhập vào David từ ngày đó trở đi.

– Chính ông Jesse cũng không ngờ Thiên Chúa chọn David, một đứa trẻ út đang chăn chiên ngoài đồng. Đó là lý do mà ông không buồn cho gọi con về; nhưng Thiên Chúa nhìn thấu tâm hồn đẹp và các việc tốt lành của David. Ngài muốn chọn cậu làm vua cai trị dân Ngài và David đã trở thành vị vua nổi danh nhất của dân tộc Israel.

3/ Phúc Âm: Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbath.

3.1/ Người Pharisees tố cáo các môn đệ Chúa Giêsu vi phạm ngày Sabbath: Vào ngày Sabbath, Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa. Dọc đường, các môn đệ bắt đầu bứt lúa. Người Pharisees liền nói với Đức Giêsu: “Ông coi, ngày Sabbath mà họ làm gì kia? Điều ấy đâu được phép!” Có tất cả 39 luật về ngày Sabbath ngăn cấm không cho làm việc, và các môn đệ phạm 4 luật bằng hành động bứt lúa để ăn: gặt (bứt lúa), xay (vò lúa trong tay), sàng (thổi vỏ đi), và chuẩn bị bữa ăn (làm lúa sẵn sàng để ăn). Sự tỉ mỉ của Luật có thể có thể làm chúng ta lắc đầu; nhưng đối với các Rabbi, nó liên quan đến tội, và có thể gây ra cái chết. Đó là lý do họ tố cáo các môn đệ với Chúa Giêsu, và họ chờ Chúa sửa phạt các môn đệ.

3.2/ Chúa Giêsu bảo vệ các môn đệ của Ngài: Chúa Giêsu đưa ra một trường hợp riêng đã được ghi lại trong Cựu Ước, và sau đó, Ngài thiết lập một qui luật chung về ngày Sabbath.

(1) Trường hợp vua David (I Sam 21:1-6): Người đáp: “Các ông chưa bao giờ đọc trong Sách sao? Ông David đã làm gì, khi ông và thuộc hạ bị thiếu thốn và đói bụng? Dưới thời thượng-tế Abiathar, ông vào nhà Thiên Chúa, ăn bánh tiến, rồi còn cho cả thuộc hạ ăn nữa. Thứ bánh này không ai được phép ăn ngoại trừ tư tế.” Chúa Giêsu có ý muốn nói: trong trường hợp phải bảo vệ sự sống, con người có thể vi phạm Lề Luật.

(2) Luật chung của ngày Sabbath: Người nói tiếp: “Ngày Sabbath được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabbath. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabbath.” Điều này hiển nhiên, vì con người được Thiên Chúa tạo dựng trước khi luật về ngày Sabbath ra đời. Con người không được tạo dựng để trở thành nạn nhân hay làm nô lệ cho luật lệ của ngày Sabbath. Sở dĩ có luật lệ về ngày Sabbath là để bảo vệ con người, làm cho con người biết thân xác họ cần được nghỉ ngơi, và linh hồn họ cần được nuôi dưỡng bởi thức ăn tinh thần.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Phẩm giá con người chúng ta rất quí trọng trước mặt Thiên Chúa. Ngài đã hy sinh Người Con của Ngài để cứu chúng ta thóat khỏi làm nô lệ cho Lề Luật, tội lỗi, và sự chết.

– Nhờ lễ tế hy sinh của Người Con, chúng ta có thể đến trực tiếp với Thiên Chúa mà không cần qua trung gian; đến bất cứ lúc nào chứ không phải đợi một ngày cố định trong năm.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************