Ngày thứ bảy (12-12-2020) – Trang suy niệm

11/12/2020

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Bảy Tuần II Mùa Vọng Năm B

Đức Mẹ Guadalupê

BÀI ĐỌC I: Dcr 2, 14-17

“Hỡi thiếu nữ Sion, hãy hân hoan”.

Trích sách Tiên tri Dacaria.

Chúa phán: “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy ca tụng và hân hoan: vì này đây Ta đến ngự giữa ngươi. Trong ngày ấy sẽ có nhiều dân tộc quy phục Chúa, họ sẽ là dân Ta và Ta sẽ ngự giữa ngươi. Ngươi sẽ biết rằng Chúa các đạo binh đã sai ta đến cùng ngươi”. Thiên Chúa sẽ chiếm lấy Giuđa làm sản nghiệp của Người trong thánh địa, và sẽ còn tuyển chọn Giêrusalem. Mọi xác phàm hãy thinh lặng trước nhan thánh Chúa, vì Người đã chỗi dậy trong thành thánh của Người. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Gđt 13, 23bc-24a. 25abc (Hr 18cde. 19. 20)

Đáp: Mẹ là vinh dự của dân tộc chúng con (15, 10d: Hr 9d).

1) Hỡi con gái ta, con đã được Chúa là Thiên Chúa Tối Cao chúc phúc trên tất cả mọi người nữ sinh ra ở gian trần. Chúc tụng Thiên Chúa là Đấng đã dựng nên đất trời. – Đáp.

2) Vì hôm nay Thiên Chúa ca tụng danh nàng, miệng người đời không ngớt lời tung hô, và hằng ghi nhớ quyền năng Thiên Chúa đến muôn đời. – Đáp.

BÀI ĐỌC II: Kh 11, 19; 12, 1-6. 10

“Một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời”.

Trích sách Khải Huyền của Thánh Gioan.

Đền thờ Thiên Chúa trên trời đã mở ra. Và một điềm lạ vĩ đại xuất hiện trên trời: một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao: bà đang mang thai, kêu la chuyển bụng, và đau đớn sinh con. Lại một điềm lạ khác xuất hiện trên trời: một con rồng đỏ khổng lồ, có bảy đầu, mười sừng, và trên bảy đầu, đội bảy triều thiên. Đuôi nó kéo đi một phần ba tinh tú trên trời mà ném xuống đất. Con rồng đứng trước mặt người nữ sắp sinh con, để khi bà sinh con ra, thì nuốt lấy đứa trẻ.

Bà sinh được một con trai, Đấng sẽ dùng roi sắt mà cai trị muôn dân: Con bà được mang về cùng Thiên Chúa, đến tận ngai của Người. Còn bà thì trốn lên rừng vắng, ở đó bà được Thiên Chúa dọn sẵn cho một nơi. Và tôi nghe có tiếng lớn trên trời phán rằng: “Nay sự cứu độ, quyền năng, vương quyền của Thiên Chúa chúng ta, và uy quyền của Đức Kitô của Người đã được thực hiện”. Đó là lời Chúa.

ALLELUIA: Lc 1, 28

Alleluia, alleluia! – Kính chào Trinh Nữ Maria đầy ơn phúc, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ, Trinh Nữ được chúc phúc giữa các người phụ nữ. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 1, 26-38

“Này Bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ”. Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.. Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận”.

Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”

Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Đấng Bà sinh ra, sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được”. Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền”. Và thiên thần cáo biệt Bà. Đó là lời Chúa.

Hoặc đọc:

Lc 1, 39-47

“Phúc cho Bà là kẻ đã tin”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Dacaria và chào bà Êlisabeth. Và khi bà Êlisabeth nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà, và bà Êlisabeth được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng:

“Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc! Bởi đâu tôi được Mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm tôi? Vì này tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”. Và Maria nói rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ trong Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

12/12/2020 – THỨ BẢY TUẦN 2 MV

Đức Mẹ Gua-đa-lu-pê

Mt 17,10-13

SỰ CỨNG LÒNG CỦA CON NGƯỜI

“Ông Ê-li-a đến rồi và họ không nhận ra nhưng đã xử với ông theo ý của họ. Con Người cũng sẽ khổ vì họ như thế.” (Mt 17,12)

Suy niệm: Người Do thái không chỉ coi Đấng Cứu Thế như một vị vua thống lĩnh muôn dân bằng những cuộc chinh phạt; họ còn dựa vào các lời tiên tri (x. Ml 4,5-6) để vẽ ra hình ảnh của vị tiền hô –mà theo họ là đích thân Ê-li-a– cũng sẽ đến chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a bằng con đường quyền lực. Như thế thì làm sao họ nhận ra Gio-an Tẩy Giả đến như hiện thân của Ê-li-a với sứ điệp sám hối? Quan niệm sai thì hành động cũng sai: Chả trách gì họ đã “xử tệ” với ông “theo ý của họ.” Chúa Giê-su cho biết Gio-an Tẩy Giả không chỉ giới thiệu bằng lời nói suông Ngài là “Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian;” ông còn lấy chính cuộc khổ nạn của mình để loan báo cuộc khổ nạn của Chúa Ki-tô: “Con Người cũng sẽ khổ vì họ như thế.” Người dám làm chứng cho Chúa Ki-tô bằng lời nói, bằng cuộc sống và bằng cả cái chết của mình mới đúng là vị ngôn sứ đích thực của Ngài.

Mời Bạn: Ngày hôm nay, Thiên Chúa vẫn còn hiện diện, vẫn đồng hành với con người nơi Đức Ki-tô qua Lời Chúa và qua Thánh Thể… Thế nhưng phải chăng chúng ta tiếp tục “làm khổ” Ngài cũng giống như người Do Thái xưa? Chúng ta phải luyện tập con mắt của mình để có thể “nhìn thấy” Thiên Chúa qua các dấu chỉ trong cuộc sống, nhất là dấu chỉ thập giá để luôn biết sống theo ý Chúa.

Sống Lời Chúa: Dùng việc kiểm điểm mỗi ngày để tập nhận định nhìn ra ý Chúa trong các biến cố của cuộc sống.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin mở cho chúng con cặp mắt đức tin để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống thường ngày.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Các nhà thông luật, dựa trên ngôn sứ Malaki,
nói rằng Êlia phải đến trước để dọn đường cho Chúa (c. 10),
để “đưa tâm hồn cha ông trở lại với con cháu,
và đưa tâm hồn con cháu trở lại với cha ông” (Ml 3, 1. 24).
Đức Giêsu nhất trí với họ, nhưng nhấn mạnh:
“Êlia đã đến rồi, và họ đã không nhìn nhận ông,
nhưng đã xử với ông theo ý họ muốn” (c. 12a).
Theo Đức Giêsu, chẳng cần phải đợi Êlia nữa.
Gioan Tẩy giả chính là Êlia (c. 13).

Gioan đã đến để chỉnh đốn mọi sự (c. 11).
Đời ông đã là một tiếng kêu to trong hoang địa.
Ông mời mọi người sinh hoa trái diễn tả lòng sám hối ăn năn.
Dân chúng đã đổ xô đến với ông như đến với một ngôn sứ,
để thú tội và nhận phép rửa của ông ở sông Giođan.
Ông trở nên nổi tiếng đến độ có người tưởng ông là Đấng Mêsia.
Gioan đã không bao giờ nhận mình là Đấng Cứu thế.
Ông chỉ xin được cúi xuống cởi dây giày
cho Đấng đến sau ông, nhưng cao trọng hơn ông.
Kết cục của đời ông là bị cầm tù (Mt 11, 2),
và sau đó là một cái chết bi đát và đột ngột (Mt 14, 10-12).
Đầu ông rơi dưới tay của Hêrôđê, người vừa sợ, vừa kính nể ông.

Vào Mùa Vọng, chúng ta lại được Đức Giêsu nhắc đến cái chết
của người đã giới thiệu Ngài với chính đồng bào của mình.
Gioan đã chu toàn nhiệm vụ của tiếng, nhưng ông không phải là lời.
Ông là ngọn đèn, nhưng không phải là ánh sáng (Ga 1, 8; 5, 35).
Bạo quyền có thể làm cho tiếng phải im, ngọn đèn phải tắt,
nhưng lời chứng của Gioan thì vẫn còn mãi trong dòng lịch sử cứu độ.
Ông đã sống một đời sống tuyệt vời, hoàn toàn xóa mình,
nên nhân loại hôm nay, qua ông, có thể tin vào Đức Giêsu.

Êlia đã chịu nhiều đau khổ.
Gioan và Đức Giêsu cũng không được nhìn nhận (c.12b).
Số phận của các ngôn sứ trong mọi thời đại đều như nhau.
Họ chịu khổ vì phải nói hay làm một điều gì đó đòi người ta thay đổi.
Họ gây khó chịu cho những người có quyền thế vững vàng.
Nhìn kết cục cuộc đời của Gioan và Đức Giêsu ta thấy khó tin.
Một người chết vì bị xử trảm, một người chết vì bị đóng đinh.
Khó mà tin được một vị là Êlia, vị kia là Mêsia.
Êlia phải quyền thế hơn nhiều, Mêsia thì không hề nếm mùi thất bại.
Để đón lấy một Êlia như Gioan, đón lấy một Mêsia như Giêsu,
phải bỏ những định kiến khô cứng, vì Chúa đi đường chẳng ai ngờ.
Thế giới hôm nay vẫn cần những ngôn sứ như Gioan,
làm chứng bằng lời giới thiệu và bằng đời sống.
Lời giới thiệu hấp dẫn nhờ đời sống thanh liêm.
Đời sống thu hút nhờ lời giới thiệu soi sáng.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.

Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.

Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.

Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

12 THÁNG MƯỜI HAI

Emmanuel – Thiên Chúa Ở Với Chúng Ta

Thiên sứ thưa với Đức Maria: “Cô sẽ mang thai, sinh một con trai và cô sẽ đặt tên cho con trẻ là Giêsu” (Lc 1,31). Sự hoàn thành những lời này đang đến rất gần. Tất cả phụng vụ Mùa Vọng đều đầy ắp niềm mong đợi này.

Trong những ngày cuối cùng của mùa phụng vụ thánh này, chúng ta chào mừng Đấng sắp đến với những điệp ca Mùa Vọng tuyệt mỹ, những điệp ca tóm lược cả mầu nhiệm Nhập Thể. Giáo Hội thưa lên với Đấng sắp được sinh hạ bởi Đức Nữ Trinh và đặt tên Giêsu rằng:

Lạy Đấng Khôn Ngoan, xuất phát từ Đấng Tối Cao,

Lạy Đức Chúa, thủ lãnh nhà Israel,

Lạy Chồi Non gốc Giêsê, được dựng nên như cờ hiệu cho các dân tộc,

Lạy Chìa Khóa nhà Đavít, Ngài mở và không ai đóng lại được, Ngài khóa và không ai có thể mở ra,

Lạy Aùnh Bình Minh Phương Đông, Ngài là vẻ huy hoàng của ánh sáng muôn thuở và là mặt trời công chính,

Lạy Vua muôn dân và là đá góc tường,

Lạy Đấng Emmanuel!

“Một trinh nữ sẽ mang thai, sinh một con trai và sẽ đặt tên là Emmanuel” (Is 7,14). Đó là những lời của Ngôn Sứ Isaia, được viết từ nhiều thế kỷ trước Đức Kitô.

Đức Maria, cùng với thánh Giuse, đang tiến gần tới Bê lem. Mùa Vọng Đấng Cứu Độ đang chạm đến tột điểm của nó. Và chính Đức Maria cũng là một món quà phúc ân trọn vẹn làm tràn ngập trong tâm hồn chúng ta niềm đợi trông và hy vọng.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 12/12

Đức Mẹ Guađalupê

Hc 48, 1-4. 9-11; Mt 17, 10-13.

LỜI SUY NIỆM: Thầy nói cho anh em biết: “Ông Êlia đã đến rồi mà họ không nhận ra, lại còn xử với ông theo ý họ muốn. Con Người cũng sẽ phải đau khổ vì họ như thế.”

          Sau khi ba Tông Đồ của Chúa Giêsu chứng kiến tỏ tường Chúa Hiển Dung; các ông đã tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô khi nghe tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Ngươi. Các ngươi hãy vâng nghe Lời Người”;  Nhưng các ông vẫn thắc mắc; nên đã hỏi Chúa Giêsu: “Vậy sao các kinh sư lại nói Êlia phải đến trước?” Và đã được Chúa Giêsu đã giải thích và các ông đã nhận ra nơi Gioan Tẩy Giả.

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con khi học giáo lý và Kinh Thánh, luôn luôn biết học và hỏi, để thấu suốt những gì đã học để giúp sống đức tin.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 12-12: Thánh GIOANA PHANXICA CHANTAL

(1572 – 1641)

Gioana Phanxica Fremyet chào đời ngày 23.01.1572 ở Dijon, là con của vị chủ tịch nghị viện. Thuộc một gia đình công giáo đạo đức, ông đã đào tạo con gái của mình nên một đứa trẻ có đời sống tín hữu mạnh mẽ. Học tập như các trẻ em khác, thánh nữ có một tinh thần sống động và tỏ ra vừa vui tươi vừa đứng đắn.

Dầu còn nhỏ, Gioana Phanxica quyết xa rời những người lạc đạo, Ngài la hét khi có ai trong số họ chạm tới Ngài. Khi đến tuổi hoà mình với đời sống đài các, sự dè giữ của thánh nữ chứng tỏ Ngài đã không ao ước một cuộc sống dễ dãi trống rỗng. Một trong những nhiệt huyết nơi Ngài là được thực hiện những công trình lớn cho Thiên Chúa: Ngài muốn được tử đạo. Ngài đã phát khóc khi thấy những người khốn cực, Ngài nói: – “Nếu không yêu thương người nghèo, tôi thấy mình như không yêu mến Thiên Chúa”.

Vị bá tước de Chantal thấy rằng: Gioana Phanxica sẽ là người vợ quí nhất trên thế gian. Cuộc hôn nhân hoàn tất. Gioana Fremyet lúc ấy 20 tuổi trở thành Gioana De Chantal. Buổi đầu, vị nữ bá tước trẻ lo âu vì những món nợ cũ phải thanh toán. Nhưng GIOANA đã vui cười bắt tay vào việc. Ngài chỗi dậy từ 5 giờ sáng, dự thánh lễ, dùng ngựa để đi thăm nông trại và đất đai, kéo sợi và may vá với những người giúp việc, Ngài tỏ ra là một người quản lý danh tiếng, đồng thời cũng rất bác ái và dễ yêu đến nỗi người ta gọi Ngài là “bà phúc hậu”.

Có người còn nói rằng: mình thích mang bệnh để được nữ bá tước viếng thăm, nhưng Ngài cũng biết rằng: săn sóc và mỉm cười chưa đủ, phải có Chúa giúp sức. Chẳng hạn đến với một bênh nhân xem như tuyệt vọng, Ngài thức đêm cầu nguyện và đến sáng thì bệnh nhân được lành. Vị bá tước nhiều lần thấy người vợ đầy lòng bác ái quì cầu nguyện .

Khi xảy ra nội chiến, cảnh khốn cùng lan rộng cắp làng quê. Vị nữ bá tước đón tiếp các người bị bỏ rơi. Bệnh tật và các trẻ sơ sinh. Đoàn người thiếu ăn trong vòng bảy dặm tuôn đến, Ngài tự tay múc cháo phục vụ mọi người. Thấy người đã được trợ cấp trở lại, Ngài không từ chối giúp đỡ họ và thưa với Chúa: – “Con đến gõ cửa van xin lòng thương xót của Chúa, nào là con có muốn đến lần thứ hai thứ ba mà bị xua đuổi đâu ?”

Bá tước de Chantal là một sị quan, thường vắng mặt để phục vụ nhà vua nơi triều đình hay trong quân đội. Khi ấy thánh nữ bỏ đồ trang sức và áo nhung, tự khép mình với sáu người con và các việc nội trợ, dành nhiều thời gian hơn để cầu nguyện. Khi bá tước trở về, Ngài tổ chức ăn mừng với nét mặt rạng rỡ vui tươi. Hạnh phúc chiếu sáng tổ ấm gia đình.

Nhưng trong một cuộc đi săn, bá tước bị tử thương. Ngườivợ trẻ thành góa bụa lúc 28 tuổi, đã đau đớn khóc lóc: – “Lạy Chúa, xin hãy cất đi mọi của cải và con cái, nhưng xin để lại người chồng yêu quí mà Chúa ban cho con”.

Dầu vậy, trong cơn thất vọng, thánh nữ đã điều khiển được lòng mình và tìm vâng theo thánh ý Chúa. Gioanna Phanxica phải từ giã lâu đài để về sống gần cha chồng. Những người nghèo vây quanh xe Ngài khóc lóc vì họ đã mất người mẹ hiền. Một cảnh huống nặng nề đang đợi Gioanna nơi nhà cha chồng. Người quản gia già nắm mọi quyền bính, bắt Ngài nuôi nấng con cái bà với con cái của thánh nữ. Người đàn bà trẻ đã cố gắng để khỏi bị chống đối, Ngài luôn hiền hậu và không hề làm cha chồng nổi nóng. Ngài cũng tổ chức một phòng thuốc cấp cứu và săn sóc người nghèo. Bảy năm trôi đi trong nếp sống khó khăn và hãm mình.

Năm 164, Gioanna Phanxica gặp thánh Phanxicô Salesiô. Vị thánh quyết định đời Ngài. Thánh nhân giảng mùa chay tại Dijon và nhận thấy thánh nữ chăm chú nghe mình. Ngài hỏi thánh nữ có ý định tái gái không ? Thánh nữ kêu: – Không !

Và thánh nhân đã trả lời: – “Vậy phải kéo bảng hiệu xuống”. Chỉ muốn Chúa thôi, đừng làm dỏm, dẹp bỏ tất cả chi tiết phong lưu lẫn lòng kiêu hãnh.

Gioanna tự lo cho mình, phục vụ người nghèo, lau rửa những người khốn klhổ đầy chấy rận. Mặc đồ sạch sẽ cho họ rồi nấu giặt và vá mạng áo quần cho họ. Thánh Phaxicô Salesiô dẫn Ngài tới sự Thánh thiện bằng đời sống ngày càng kết hiệp sâu xa hơn với Chúa. Thánh nhân cũng qủa quyết rằng: thời giờ đã đến để thánh nữ từ bỏ thế gian. Đường chân thực của thánh nữ là trở nên tu sĩ và thiết lập dòng thăm viếng.

Gioanna đã anh hùng từ giã gia đình, Ngài dẫn người con gái không lập gia đình là Fracoise để bổ túc việc giáo dục bên cạnh Ngài. Người con trai ở lại với ông nội đã chống lại việc Ngài ra đi và nằm ngang cửa ngăn cản. Cử chỉ của thánh nữ không theo tầm mức của chúng ta: Gioanna lau nước mắt bước qua mình con. Ngài biết rằng: con mình sẽ không bị bỏ rơi, vì Ngài đã trao phó cho người cậu là tổng giám mục Bourges. Và mỗi khi cần đến, Ngài sẽ đi thăm để lo cho lợi ích của các con.

Tháng 6 năm 1610, thánh nữ đã thiết lập tu viện dầu tiên ở Annecy và khẩn nguyện luôn thực hiện điều gì xem ra hoàn hảo hơn. Danh tiếng của các nữ tu dòng Thăm Viếng tận tâm phục vụ người nghèo, bệnh nhân và giáo dục các thiếu nữ lan rộng mau chóng. Suốt 30 năm, mẹ de Chanltal đã thiết lập nhiều tu viện, hiến mình làm nọi việc.

Vào cuối đời, Ngài kể lại: – “Tôi như những nữ tá thô kệch thời thu hoạch. Người cha gia đình nói với họ: hãy đến chỗ này, hãy đi chỗ nọ, hãy trở lại cánh đồng này, hãy đi tới chỗ khác. Chẳng hạn người cha diễm phúc của chúng tôi đã nói: hãy đi thiết lập ở Lyon , ở Grenoble, hãy trở lại để đi Bourges, hãy đi Paris, hãy từ giã Paris và trở lại Dijon. Chẳng hạn nhiều năm tôi chỉ đi và đến, khi thì ở một trong những cánh đồng, khi thì ở một nơi khác của cha thân yêu”.

Nơi nào thánh nữ đi qua, Ngài đều để lại sự êm dịu, sự phấn khởi và niềm tin tưởng. Người ta thấy Ngài chống lại sự nhọc mệt bằng niềm vui và can đảm. Linh động trong công việc, Ngài nấu ăn và coi bò, giờ giải trí, Ngài vui vẻ với các nữ tu… khiến họ nói: “Khi Mẹ chúng ta không giải trí được là thiếu một phần vui tươi êm ái”. Bệnh tật không ngăn cản Ngài săn sóc và nghĩ tới mọi sự .

Với một trí khôn nhanh nhẹn và chính xác, một lúc, Ngài đọc cho 3 nữ tu ghi chép.

Mười chín năm trước khi qua đời, Gioanna Phanxica mất người bạn, người cha, người nâng đỡ là thánh Phanxicô Salesio. Sự đau đớn của Ngài thực sự lớn lao. Rồi đến cái chết của người con trai để lại một cháu gái sẽ là nữ nam tước de Sévigné. Các tang lễ liên tiếp nơi các người thân. Nhưng thử thách lớn lao nhất của thánh nữ là những chán nản nội tâm, những cám dỗ kinh khủng nghịch lại đức tin. Ngài không hể tỏ lộ những đau đớn của mình và lấy sự bình thản để phủ lấp những lo âu. Mẹ de Claugy đã nói về những khô khan liên tục của Ngài: – “Chỉ trong cõi đời đời, người ta mới biết hết được”.

Khi Ngài qua đời, cha giải tội nói: – “Suốt 23 năm, tôi đã thán phục nơi thánh nữ một lương tâm tinh ròng trong suốt và rõ rệt hơn cả pha lê”.

Trong những hành trình cuối cùng mẹ de Chantal được reo mừng khắp nơi. Khi có dịch hạch ở Annecy, Ngài đã không từ chối bỏ nơi này và tăng gấp các việc bố thí và lời cầu nguyện . Ở St. Germain, hoàng hậu đưa hai người con tới gặp và xin Ngài chúc lành. Ngài hân hạnh được gặp thánh Vinh -sơn Phaolô, Dân Paris chen lấn để mong chạm tới Ngài và nghe Ngài nói. Trở về, Ngài ngã bệnh ở Monlins. Tới phút cuối Ngài vẫn còn lo lắng đến mọi việc. Và sau 3 lần kêu danh Chúa Giêsu, Ngài tắt thở năm 1641, năm 1767 Ngài được tuyên thánh.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

12 Tháng Mười Hai

Thế Giới Sẽ Hết Nghèo Ðói 

Mẹ Têrêxa thành Cacutta, người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979 đã kể lại câu chuyện sau đây: ngày nọ, có một thiếu phụ và 8 đứa con dại đến gõ cửa xin gạo. Từ nhiều ngày qua, bà và các con của bà không có được một hạt cơm trong bao tử. Mẹ Têrêxa đã trao cho bà một túi gạo. Người đàn bà nhận gạo, cám ơn và chia ra làm hai phần… Ngạc nhiên về cử chỉ ấy, Mẹ Têrêxa hỏi bà tại sao lại phân làm hai. Người đàn bà nghèo khổ ấy trả lời: “Tôi dành lại một phần cho gia đình người Hồi Giáo bên cạnh nhà, vì đã mấy ngày qua họ cũng không có gì để ăn”.

Mẹ Têrêxa kết luận như sau: Thế giới này sẽ hết nghèo đói nếu người ta biết chia sẻ cho nhau. Càng giàu có, chúng ta càng muốn tích lũy thêm, nhưng càng nghèo khổ, chúng ta càng dễ chia sẻ hơn.

Nghèo không là một điều xấu, giàu cũng không là một cái tội. Xấu hay không, tội hay không đó là lòng tham lam và ích kỷ của con người mà thôi. Giá trị và danh dự của con người tùy thuộc ở lòng quảng đại của mình.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Lễ Đức Mẹ Guadalupe, Năm ABC

Bài đọc: Zec 2:14-17; Lk 1:26-38.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Thiên Chúa tôn vinh những ai khiêm nhường.

            Lễ Đức Mẹ Guadalupe rất gần với Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm vì lý do lịch sử của nó. Anh Gioan Diego, một nông dân người Mễ-tây-cơ, đang trên đường đi ngang qua ngọn đồi Tepeyac để tham dự thánh lễ buộc này thì được Đức Mẹ hiện ra vào sáng sớm thứ bảy, ngày 8 tháng 12 năm 1531. Đức Mẹ truyền cho anh phải đi gặp Đức Giám-mục giáo phận, Juan de Zumárraga, để xin ngài xây một nhà thờ trên đồi Tepeyac dâng kính Đức Mẹ. ĐGM nói ngài cần thời giờ để suy nghĩ. Lần thứ hai Đức Mẹ hiện ra và thúc giục anh đi gặp ĐGM và nhắc lại lời yêu cầu, anh đi gặp và ngài nói cần một dấu chỉ để ngài biết đó là ý của Đức Mẹ thật. Anh trở về và chuyển lời yêu cầu của ĐGM, Đức Mẹ hứa sẽ thoả mãn lời yêu cầu trong lần gặp kế tiếp ngày 11 tháng 12. Vì bận săn sóc cậu bị bệnh nặng, anh không thể đến gặp Đức Mẹ ngày đã hẹn. Hôm sau, ngày 12 tháng 12, anh cố tình đi con đường khác vì đã lỡ hẹn với Đức Mẹ, để mời cha ban bí tích Xức Dầu cho cậu; Đức Mẹ vẫn hiện ra với anh. Đức Mẹ yêu cầu anh đi lên đồi nhặt hoa hồng, là thứ hoa chưa bao giờ nở trên đồi khô cằn Tepeyac vào tháng 12. Sau khi đã nhặt hoa, Đức Mẹ xếp những đoá hồng này trên chiếc áo khoác của anh, và yêu cầu anh mặc vào và đi gặp ĐGM. Khi gặp ngài, anh mở tung chiếc áo choàng đang mặc làm các hoa hồng rớt xuống, và trên áo có in hình “Đức Mẹ Guadalupe.” ĐGM nhận ra đó là ý của Đức Mẹ thật và ngài truyền thi hành công trình xây dựng ngôi thánh đường trên đồi Tepeyac. Chiếc áo choàng này, sau gần năm trăm năm, nay vẫn còn nguyên vẹn và được giữ cẩn thận tại Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Guadalupe bên Mễ-tây-cơ.

            ĐGH Leo XIII ban tặng “chuẩn y của Toà Thánh” trên áo choàng anh Gioan Diego ngày 12 tháng 10 năm 1895. Đức Mẹ Guadalupe được tôn xưng là “Nữ Hoàng của Mễ-tây-cơ”; “Người Bảo Vệ Mỹ Châu” (1945); “Nữ Hoàng Mỹ Châu La-tinh” và “Người bảo vệ của những trẻ em chưa sinh” bởi ĐGH J.P. II năm 1999. Anh Gioan Diego được tôn phong Chân-phước năm 1990 và hiển thánh năm 2002 bởi ĐGH J.P. II. Mẹ Giáo Hội truyền phải kính lễ Đức Mẹ Guadalupe trên khắp lục địa Mỹ Châu ngày 12 tháng 12 hàng năm.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC: 

1/ Bài đọc I: Thiên Chúa sẽ qui tụ mọi dân cùng hướng về Jerusalem.

            Thiên Chúa quan phòng mọi sự xảy ra trong cuộc đời này; tất cả là cho mục đích cứu độ dân chúng của Ngài. Ban đầu Ngài chọn dân Do-thái như là dân riêng để chuẩn bị cho biến cố Nhập Thể của Đức Ki-tô. Trong hai cuộc thất thủ và lưu đày của miền Bắc (721 B.C.) và miền Nam (587 B.C.), chúng ta có thể quan sát thấy hai mục đích chính của Thiên Chúa:

1.1/ Hai cuộc lưu đày cần thiết để thanh tẩy dân của Thiên Chúa:

            Ngôn sứ Zechariah và ngôn sứ Haggai là hai ngôn sứ sau thời lưu đày và có công trong việc đốc thúc dân chúng xây dựng lại Đền Thờ Jerusalem đã bị phá huỷ vào năm 587 B.C. bởi quân đội Babylon. Đền Thờ mới được khánh thành bởi thống đốc Nehemiah và kinh sư Ezra vào năm 515 B.C. Trong ngày khánh thành, kinh sư Ezra đã cho đọc và giảng kinh thánh từ sáng sớm tới trưa gồm Lề Luật và các Tiên Tri để nhắc lại cho dân biết sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, tội bất trung của dân là lý do chính của toàn thể quốc gia bị huỷ diệt và lưu vong. Ông và các tư tế nhấn mạnh đến tình thương Thiên Chúa dành cho họ trong việc quan phòng để Các vua Ba-tư ra chiếu chỉ phóng thích cho họ về lại quê hương và giúp tài chánh để xây dựng lại Đền Thờ, sau 50 năm miền Nam bị thất thủ, đúng như lời các ngôn sứ đã loan báo (x/c Ezra 8-9).

            Vì thế, điều lợi ích đầu tiên trong việc miền Nam bị thất thủ và lưu đày là thanh tẩy dân chúng, giúp họ nhận ra mọi lỗi lầm họ đã vi phạm. Đối với Thiên Chúa, việc phá huỷ và xây dựng lại đều có thể xảy ra cách dễ dàng cho mục đích thanh tẩy dân của Ngài để Ngài có thể ở với họ. Trong đoạn văn của ngôn sứ Zechariah, ông kêu gọi dân chúng, “Hỡi con gái Xi-on, hãy vui sướng reo hò, vì này Ta đang đến để ở lại giữa ngươi, sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.”

1.2/ Hai cuộc lưu đày cần thiết để Dân Ngoại biết đến và tin vào Thiên Chúa: Muốn cho Dân Ngoại biết đến đạo Thiên Chúa, cần có những người đi rao giảng và làm chứng. Dân Do-thái trở thành những người rao giảng dẫu bị bắt buộc; vì Thiên Chúa vẫn có thể dùng những khí cụ bất toàn để hoàn tất ý định của Ngài. Ngôn sứ Isaiah đã tiên báo rằng khi Thiên Chúa phục hồi dân Do-thái từ nơi lưu đày, thì không phải chỉ có dân Do-thái trở về Jerusalem mà thôi, nhưng còn rất nhiều con cái của các dân tộc khác nữa (Isa 49:6, 52:10, 60:3-11). Trong đoạn văn hôm nay, ngôn sứ Zechariah cũng đề cập đến sự kiện này: “Ngày ấy, nhiều dân tộc sẽ gắn bó cùng ĐỨC CHÚA: Chúng sẽ thành dân thánh của Ta, và Ta sẽ cư ngụ ở giữa ngươi.”
            Trong cuộc hiện ra lần đầu tiên, Đức Mẹ truyền cho anh Gioan Diego đi gặp ĐGM để xây một Đền Thờ biệt kính Mẹ trên Đồi Tepeyac. Mục đích của việc xây Đền Thờ là để Mẹ có thể ở giữa dân để chia sẻ những nỗi khốn khổ và chỉ đường cho các dân tộc Châu Mỹ đến với Thiên Chúa. Biến cố này đã giúp cho việc truyền giáo lục địa trẻ nhất của thế giới gần năm trăm năm qua. Chúng ta phải nhận ra sự quan phòng khôn ngoan và tình yêu của Thiên Chúa và Mẹ Maria trong biến cố này. 

2/ Phúc Âm: Đức Kitô nhập thể nhờ lời thưa “Xin Vâng” của Đức Trinh Nữ Maria.

2.1/ Thiên Chúa chọn Maria làm Mẹ Đấng Cứu Thế: Trước tiên, chúng ta cần xác định câu 26 trong trình thuật hôm nay là Lời Giới Thiệu tổng quát của Luca trước khi đi vào chi tiết của biến cố Truyền Tin. Điều này giúp chúng ta tránh được việc thắc mắc: Tại sao Mẹ trả lời “không biết đến chuyện vợ chồng” trong câu 34, lại còn “đã thành hôn với một người tên là Giuse” trong câu 26.

            Có thể nói hầu hết các danh hiệu của Đức Mẹ mà Giáo Hội tuyên xưng qua các thời đại, có nguồn gốc trong các chi tiết của biến cố Truyền Tin:

            (1) Mẹ Maria là Đấng đầy tràn ân sủng và Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ, như lời sứ thần Gabriel chào Đức Mẹ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”

            (2) Mẹ Maria luôn đẹp lòng Thiên Chúa: Sứ thần nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.” Điều này chứng tỏ Mẹ luôn sạch tội.

            (3) Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa: “Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao.” Hiển nhiên Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu là Con Đấng Tối Cao.

            (4) Mẹ là người đem lời Thiên Chúa hứa với các tổ phụ tới chỗ thành tựu: “Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua David, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Jacob đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

2.2/ Xung đột giữa ý của Thiên Chúa và của Maria: Khi được biết ý của Thiên Chúa qua sứ thần Gabriel, Mẹ Maria cũng trình bày cho sứ thần ý muốn của Mẹ là muốn sống cuộc đời thánh hiến: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!” Sứ thần mặc khải cho Mẹ Maria biết cuộc thụ thai kỳ diệu, không giống như bất cứ cuộc thụ thai nào trong lịch sử nhân loại: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.”

            Điều này có nghĩa Mẹ mang thai mà vẫn còn đồng trinh, như đã được tiên báo trước bởi tiên tri Isaiah 7:14, và được nhắc lại bởi Matthew 1:23. Thánh Luca xác định điều này bằng chứng từ của sứ thần Gabriel: “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.” Nếu Thiên Chúa có thể cho một người sinh con trong lúc tuổi gìa như Abraham và Sarah, như mẹ của Thủ-lãnh Sampson, như mẹ của Tiên-tri Samuel, hay như Zachariah và Elisabeth trong trình thuật hôm nay, Ngài cũng có thể làm cho Mẹ Maria mang thai con của Ngài và vẫn đồng trinh.

2.3/ Lời thưa “Xin Vâng” của Đức Maria: Câu trả lời của Mẹ dạy chúng ta hai điều: Thứ nhất là thái độ khiêm nhường của Mẹ Maria khi nói với sứ thần: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa!” Thứ hai là thái độ vâng lời làm theo ý Chúa của Mẹ Maria: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Với hai thái độ thích đáng này, Mẹ đã cưu mang Đức Kitô và khai mào kỷ nguyên cứu độ cho nhân loại. 

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG: 

            – Thiên Chúa và Đức Mẹ yêu thích người khiêm nhường. Anh Gioan Diego chỉ là một nông dân nghèo hèn nhưng thành thật; anh được Đức Mẹ chọn để thi hành ý định của Đức Mẹ. Đức Mẹ cũng được Thiên Chúa chọn để cưu mang Đức Ki-tô vì sự khiêm nhường và vâng lời của Đức Mẹ.

            – Hậu quả của tội lỗi là do lòng kiêu ngạo và sự bất tuân lệnh Thiên Chúa của ông Adong và bà Evà. Chúng ta phải cố gắng hết sức khử trừ hai tội nguy hiểm này.

            – Chúng ta vẫn còn đang phải chiến đấu với Satan và đồng bọn của hắn, vì đó là mối thù truyền kiếp; nhưng chúng ta được hứa sẽ chiến thắng, nếu chúng ta khiêm nhường và làm theo thánh ý Thiên Chúa như Đức Kitô và Mẹ Maria. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************