Ngày thứ hai (05-10-2020) – Trang suy niệm

04/10/2020

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Hai Tuần XXVII Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: Gl 1, 6-12

“Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, nhưng là do Đức Giêsu Kitô mạc khải”.

Trích thư Thánh Phalô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, tôi ngạc nhiên thấy anh em thay lòng đổi dạ chóng như thế đối với Đấng đã kêu gọi anh em thông phần vào ân sủng của Đức Kitô, để anh em quay sang một tin mừng khác: Tin mừng khác làm gì có, chỉ có những kẻ phá rối anh em và muốn anh em đảo lộn Tin Mừng của Đức Kitô. Nhưng cho dù chúng tôi, hay một thiên thần nào từ trời đến giảng tin mừng khác với Tin Mừng chúng tôi đã rao giảng cho anh em, thì người đó bị chúc dữ. Như chúng tôi đã nói trước, và giờ đây tôi xin nói lại rằng: Nếu ai trong anh em rao giảng cho anh em Tin Mừng khác hơn điều anh em đã lãnh nhận, thì người đó bị chúc dữ.

Giờ đây, tôi phải làm vừa lòng người ta hay là Thiên Chúa? Nào có phải tôi tìm cách làm vừa lòng người ta sao? Nếu tôi còn làm vừa lòng thiên hạ, thì tôi không phải là đầy tớ của Đức Kitô.

Anh em thân mến, tôi cho anh em biết rằng Tin Mừng do tôi rao giảng không phải thuộc về loài người, vì tôi không nhận cũng không học với loài người, nhưng là do Đức Giêsu Kitô mạc khải. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 110, 1-2. 7-8. 9 và 10c

Đáp: Cho tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).

Xướng:

1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi. – Đáp.

2) Công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính, mọi giới răn của Người đều đáng cậy tin. Những giới răn đó được lập ra cho đến muôn ngàn đời, được ban hành một cách chân thành và đoan chính. – Đáp.

3) Chúa đã gửi tặng ơn giải phóng cho dân Người, để thiết lập lời minh ước tới muôn đời. Danh Người thực là thánh thiện và khả úy. Lời khen ngợi Chúa còn tồn tại tới muôn đời. – Đáp.

ALLELUIA: 1 Sm 3, 9; Ga 6, 69

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 10, 25-37

“Ai là anh em của tôi?”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?” Người nói với ông: “Trong Lề luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?” Ông trả lời: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình”. Chúa Giêsu nói: “Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống”. Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Nhưng ai là anh em của tôi?”

Chúa Giêsu nói tiếp: “Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: ‘Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông’.

“Theo ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?” Người thông luật trả lời: “Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy”. Và Chúa Giêsu bảo ông: “Ông cũng hãy đi và làm như vậy”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

05/10/2020 – THỨ HAI TUẦN 27 TN

Lc 10,25-37

HÃY LÀM NHƯ VẬY

Đức Giê-su trả lời ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.” (Lc 10,28)

Suy niệm: Phúc Âm theo thánh Lu-ca cho biết nhà thông luật khi chất vấn Đức Giê-su ông ta không hề có ý đi tìm chân lý mà chỉ muốn “thử” Ngài và để tỏ ra mình là người thông thái. Dù vậy Chúa đã cho ông cơ hội để bộc lộ sự hiểu biết của mình và còn khen “ông trả lời đúng lắm.” Nhưng đồng thời Ngài mời gọi ông đừng chỉ dừng lại ở lý thuyết mà phải thực hành “yêu người thân cận” “thì sẽ được sống.” Nhưng nhà thông luật này vẫn chưa hài lòng mà còn muốn thể hiện sự uyên bác và “chứng tỏ mình có lý” nên mới hỏi vặn Chúa: “Ai là người thân cận của tôi?” Chính vì thế mà một lần nữa Chúa nhắc lại cho ông điều quan trọng là “hãy đi và làm như vậy” nghĩa là hành động như hình mẫu người Sa-ma-ri tốt lành trong dụ ngôn, coi mình là người thân cận với người đi đường xa lạ gặp cơn hoạn nạn và mau mắn ra tay cứu giúp.

Mời Bạn: Để được sự sống đời đời thì học biết lý thuyết xuông không đủ, điều cần thiết là phải đưa những kiến thức ấy đi vào thực tế của đời sống, nghĩa là phải “làm”. Có thể bạn rất thuộc những bài giáo lý, nhớ rất rõ những đoạn Thánh Kinh nhưng nếu bạn chưa đem những điều ấy ra thực hành trong cuộc sống thì bạn vẫn chưa phải là môn đệ đích thực của Chúa.

Sống Lời Chúa: Tâm nguyện mỗi ngày làm một việc thiện cho người anh em.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, sống triệt để theo những đòi hỏi của Tin Mừng quả là điều khó, nếu không có ơn Chúa thì tự sức mình chúng con không thể làm được. Xin Chúa thêm sức để chúng con quyết tâm thực hành điều Chúa dạy. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Trong Tin Mừng Mátthêu và Máccô (Mt 22, 36; Mc 12, 28)
vị luật sĩ đặt câu hỏi về điều răn nào là điều răn lớn nhất.
Còn theo Tin Mừng Luca, vị này lại hỏi Đức Giêsu
về việc phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp (c. 25).
Đức Giêsu nghĩ rằng câu trả lời đã có trong sách Luật, nên Ngài hỏi lại ông.
Ông này đã trích sách Đệ Nhị Luật 6,5 và sách Lêvi 19,18 để trả lời.
Động từ yêu mến diễn tả thái độ đối với Thiên Chúa và người thân cận :
“Hãy yêu mến Thiên Chúa với tất cả trái tim con, với tất cả linh hồn con,
với tất cả sức lực con và với tất cả trí khôn con,
và người thân cận như chính mình” (c. 27).
Đức Giêsu khen ông trả lời đúng và khích lệ ông (c. 28).
Như thế giữa Ngài và vị thầy Do thái giáo đã có sự nhất trí nào đó.
Tình yêu không phải là một đòi hỏi mới của Kitô giáo,
nhưng tình yêu đã là điều cốt yếu của Do thái giáo từ xưa.
Vấn đề là phải yêu Thiên Chúa với tất cả trái tim, linh hồn, sức lực và trí khôn.
Từ tất cả được lặp lại bốn lần để nói lên một đòi hỏi tận căn, trọn vẹn.

Nhưng Đức Giêsu còn phải trả lời cho vị luật sĩ câu hỏi: Ai là người thân cận của tôi ?
Đức Giêsu đã trả lời câu hỏi này bằng một dụ ngôn nổi tiếng,
qua đó ngài đã mở rộng quan niệm truyền thống về người thân cận.
Một người từ Giêrusalem xuống Giêrikhô.
Anh phải vượt qua đoạn đường dài gần 25 cây số.
Đoạn đường này thời bấy giờ có nhiều trộm cướp.
Anh đã bị bọn cướp trấn lột, đánh nhừ tử và đặt nằm đó nửa sống nửa chết.
Anh bị cướp này là ai, chúng ta không rõ.
Chỉ biết anh đang rất cần sự trợ giúp của người khác.
Nhìn vào tình cảnh bi đát của anh, có ai muốn thương giúp anh không?
Có ba người đi qua chỗ anh nằm, một là thầy tư tế, hai là thầy Lêvi,
Cả hai đều có phản ứng giống nhau: thấy và tránh qua bên kia mà đi.
Chúng ta không rõ tại sao họ làm thế.
Có thể vị tư tế sợ mình bị ô nhơ qua việc đụng chạm đến xác chết,
vì sách Lêvi 21, 1-3 cấm không được làm thế, trừ phi là xác bà con gần.

Nhân vật thứ ba đi ngang qua nạn nhân là một người Samari.
Hầu chắc nạn nhân là một người Do Thái,
vì không có chi tiết nào cho thấy anh ấy là dân ngoại cả.
Giữa người Do Thái và người Samari vốn có mối hiềm thù lâu đời.
Người Samari cũng thấy như hai người trước,
nhưng đó không phải là cái nhìn lạnh lùng, vô cảm.
Anh thấy bằng trái tim của mình, chính vì thế anh chạnh lòng thương,
điều mà hai người trước không có.
Mọi sự phải bắt đầu từ trái tim, không có sức thúc đẩy của tim thì tay bất động.
Người Samari đã làm một loạt hành động cụ thể :
lấy dầu và rượu đổ lên vết thương, băng bó, đặt nạn nhân trên lưng lừa,
đưa về quán trọ săn sóc, ở lại quán trọ nguyên ngày hôm ấy,
trả tiền cho chủ quán và hứa sẽ trở lại trả thêm nếu cần.
Tất cả những hành động này khởi đi từ lòng thương xót  (Lc 10,33).
Lòng thương xót thật sự khiến ta chấp nhận mất công, mất của, mất giờ,
và có thể mất mạng nữa, vì có thể tên cướp vẫn còn núp đâu đây.

Khi giúp cho kẻ lâm nạn, dù đó là một người Do Thái kẻ thù của mình,
người Samari đã làm một phép lạ lớn,
đó là biến mình trở thành người thân cận với anh ấy,
và biến anh ấy trở thành người thân cận của mình.
Đây là phép lạ của tình thương phá vỡ và vượt qua mọi biên giới
của chủng tộc, tôn giáo và nhất là vượt qua những thù oán lâu đời.
Để trả lời câu hỏi của vị luật sĩ: ai là người thân cận của tôi ?
Đức Giêsu đặt câu hỏi ngược lại cho vị luật sĩ:
“Theo ông, trong ba người, ai đã trở thành người thân cận với kẻ bị nạn ?”
Câu hỏi quá dễ, nhưng hàm chứa một điều mới mẻ sâu xa.
Trước khi giúp một người, không nên tự hỏi người này có thân cận với tôi không.
Chúng ta không chỉ giúp những người thân cận và loại trừ người khác.
Chúng ta giúp một người chỉ vì người đó cần chúng ta.
Khi giúp, chúng ta trở thành người thân cận với người ấy, và ngược lại.
Ai được ta giúp đỡ thì người ấy trở nên thân cận với ta.
Càng giúp nhiều ta càng có nhiều người thân cận.
Đức Giêsu kết luận: Hãy đi và hãy làm như vậy.

Đất nước chúng ta đã giàu lên đáng kể, nhưng vẫn không thiếu người nghèo,
nghèo sức khỏe, nghèo tri thức, nghèo vật chất tối thiểu, nghèo nhân phẩm…
Chúng ta cũng bị cám dỗ “tránh sang bên kia đường”,
thấy mà làm như không thấy những Ladarô nằm trước cửa.
Yêu những người nghèo như chính mình, thương người như thể thương thân:
Đó là cách chúng ta rao giảng Tin Mừng cho quê hương Việt Nam hôm nay.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,
lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau
để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng
cần phải buông tay nhau
để nhận những người bạn mới,
để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng
và trái tim được lớn lên mãi.

Lạy Chúa, chúng con biết rằng
cần phải nối vòng tay lớn
uyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hóa.

Chúng con thích Chúa
đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con,
nắm lấy tay chúng con
và đưa chúng con lên cao.

Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá
giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau
và nhận nhau là anh em.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

5 THÁNG MƯỜI

Tính Nhân Bản Của Thánh Kinh

Từ khi Thiên Chúa tự biểu lộ chính Ngài cho Abraham – nghĩa là tái lập cuộc đối thoại giữa con người với Đấng Sáng Tạo vốn đã bị gãy đổ do tội Adam – tính nhân bản đích thực theo Thánh Kinh không ngừng khẳng định phẩm giá độc đáo nơi mỗi con người. Mỗi người đều được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Mỗi người đều được Chúa Kitô cứu chuộc và mời gọi đi vào trong mối hiệp thông với Ngài.

Đó là địa vị của con người trong thế giới này và trong bậc thang giá trị. Đành rằng văn chương và nghệ thuật thường đề cập đến tính yếu đuối, mỏng dòn, thú nhục dục, thói đạo đức giả và tính thô bạo của con người. Nhưng chúng ta cũng biết rằng, trên hết, con người thật kỳ diệu với lối suy nghĩ sáng sủa, với những khám phá khoa học, với những cảm hứng trữ tình trong thi ca, với những sáng tạo nghệ thuật trác tuyệt, với tính cách đạo đức anh hùng, và quan trọng nhất là với những chứng tá thánh thiện trong Đức Kitô.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 05/10

Gl 1, 6-12; Lc 10, 25-37.

LỜI SUY NIỆM: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp” Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ thực thi lòng thương xót đối với người ấy.”

          Trước một câu hỏi của người thông luật: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời”. Đây không phải chỉ có người thông luật sau khi đã nghiên cứu Luật để được sự sống đời đời nhưng những gì ông nghiên cứu đã không thể làm thỏa mãn tâm tư của ông. Nhân qua người thông luật Chúa Giêsu cho chúng ta một điều cần thiết cho có sự sống đời đời đó là thực hiện đức yêu thương săn sóc và phục vụ người anh em đang cần đến mình, một cách vô vị lợi, chỉ đơn thuần là vì yêu mến.

          Lạy Chúa Giêsu. Sau câu trả lời của vị thông luật. Chúa đã dạy ông ta: “Ông hãy đi, và cũng làm như vậy.” Xin cho mỗi người trong chúng con luôn nhận ra những người anh em đang cần đến chúng con để chúng con đem lòng yêu mến mà phục vụ đến nơi đến chốn.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

05 Tháng Mười

Sứ Ðiệp Của Một Người Tàn Tật 

Hằng năm tổ chức có tên là “Tự nguyện chịu đau khổ” hành hương đến Lộ Ðức để chia sẻ kinh nghiệm của họ khi đối đầu với đau khổ. Năm 1982, khách hành hương đã chú ý đến lời chia sẻ của Jacques Lebreton, một phó tế vĩnh viễn không tay, mù mắt. Chúng ta hãy lắng nghe chứng từ của ông:

Sau trận đánh ở El Alamem, tôi và các bạn của tôi đang lo gỡ mìn. Một anh bạn tôi cầm một quả lựu đạn và vô tình mở chốt. Trong cơn hốt hoảng, anh trao cho tôi. Tôi cứ tự nhiên cầm lấy quả lựu đạn. Nó đã nổ tung trong tay tôi. Tôi tối tăm mặt mũi, không nói được nữa. Tôi cảm thấy mình đang chết. Tôi chỉ còn là một người không tay, không mắt… Tôi toan tự tử.

Trên giường bệnh ở nhà thương, tôi, một người đã không giữ đạo từ lâu, tôi bắt đầu cầu nguyện. Tôi xin được rước lễ. Tôi đã hiểu nguyên do sự đau khổ của tôi là tội lỗi nhân loại: đó là thù oán, kiêu căng, chiến tranh… Và tôi đã tìm lại được sự an vui và trông cậy.

Tôi cảm thấy một cái gì tương tự như Chúa Giêsu trong vườn Giêtsêmani. Ngài cũng không muốn chịu đau khổ. Ngài đã van xin: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này”, nhưng liền sau đó, Ngài lại thưa: “Lạy Cha, xin vâng theo ý Cha”. Sau thảm kịch Golgotha, Ngài đã sống lại. Chính nhờ mầu nhiệm chết và sống lại mà Chúa Kitô muốn cho chúng ta cùng sống. Tôi đã đạt đến mức độ không phải là chịu đựng mà là chấp nhận. Chịu đựng là một thất bại. Chấp nhận là một chiến thắng. Trên giường bệnh, tôi đã khóc, khóc vì sung sướng với ý nghĩ ấy. Ðiều mà tự nhiên tôi cũng không thể chịu được, nay nhờ ơn Chúa tôi đã chịu được.

Như lời văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng để cùng hiện diện với những người đau khổ”. Tôi đã cảm nghiệm được lời Chúa phán: “Phúc cho những kẻ khóc lóc, phúc cho những kẻ đau khổ”.

Tại Evreux, tôi được gặp một người đàn bà hoàn toàn bất toại, đến nỗi không thể nói được. Nhưng nhờ ngón chân cái của bà, bà có thể máy động bàn chữ cái trên một miếng ván và bà đã tặng cho tôi một bài thơ có tựa đề “Nụ cười”.

Tôi liên tưởng đến một người đàn ông khác, bị điếc lúc 14 tuổi, mù từ lúc lên 16 tuổi. Trên giường bệnh, lúc hấp hối, người đàn ông 87 tuổi này đã thốt lên như sau: “Tôi đã trải qua một cuộc đời tốt đẹp”.

Ông Jacques Lebreton kết luận như sau: “Tôi, một người không tay, không mắt, tôi cũng thấy đời tươi đẹp. Cuối cùng, sự tàn tật lớn lao nhất là bị chia lìa với Thiên Chúa. Tôi không thể nói như vậy, nếu tôi lành lặn với đôi mắt và đôi tay. Nhưng tôi có thể nói như vậy vì tôi biết thế nào là sống xa Chúa. Và hôm nay, sau một chặng đường dài, tôi lớn tiếng kêu lên với tất cả các người anh em của tôi rằng: Thiên Chúa hằng sống. Ðức Kitô đã sống lại”.

Ðã có khoảng 6,000 vụ lành bệnh lạ lùng được ghi nhận tại Lộ Ðức, trong số này chỉ có 64 vụ được Giáo Hội công nhận là phép lạ. Nhưng phép lạ cả thể nhất của Lộ Ðức cũng như của những trung tâm Thánh Mẫu khác: chính là phép lạ của lòng tin. Và trong những phép lạ của lòng tin ấy, kỳ diệu hơn cả vẫn là niềm tin, sự chấp nhận, tinh thần lạc quan của chính những người đau khổ. Trong niềm đau tột cùng trong thân xác cũng như tâm hồn, những con người ấy vẫn còn thấy được ý nghĩa của cuộc sống, tình yêu cao cả của Chúa. Ðó chính là phép lạ mà Chúa vẫn tiếp tục thực hiện qua những người có lòng tin. Và đó cũng là phép lạ mà chúng ta không ngừng kêu cầu Chúa thực hiện.

Nhìn lên thập giá Chúa, trong niềm hiệp thông với Mẹ Ngài, chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta được tiếp tục tin yêu, được tiếp tục nhìn thấy ánh sáng phục sinh giữa những đêm tối của khổ đau, thử thách. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện cho không biết bao nhiêu người đang quằn quại trong đau đớn của thể xác, trong cô đơn của tâm hồn. Xin cho họ được nâng đỡ, ủi an và tìm được niềm tin.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Hai Tuần 27 TN2, Năm Chẵn. 

Bài đọc: Gal 1:6-12; Lk 10:25-37.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin Mừng đích thực

Con người thường hay lầm lẫn giữa cái đích thực với cái giả mạo và ngược lại. Để khỏi bị lầm lẫn, con người cần phải học hỏi và nhiều khi phải trả giá đắt qua kinh nghiệm mới có thể phân biệt giữa thực và giả. Trong Bài đọc I, cộng đòan tín hữu ở Galat lầm lẫn vì họ tin có nhiều Tin Mừng khác nhau; thánh Phaolô chỉ cho họ thấy đâu là Tin Mừng đích thực. Trong Phúc Âm, thầy thông luật tuy có biết phải làm gì để được sự sống đời đời nhưng không biết ai là người thân cận để giúp họ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Chỉ có một Tin Mừng đích thực.

Điểm căn bản trong Thư gởi tín hữu Galat là Thiên Chúa trao ban ân sủng cách nhưng không cho con người. Thánh Phaolô xác tín rằng con người không thể làm bất cứ việc gì để xứng đáng được hưởng tình yêu Thiên Chúa. Chỉ có một điều con người có thể làm là đặt mình hòan tòan dưới lòng thương xót Chúa qua sự biểu tỏ của niềm tin. Điều quan trọng không phải ở chỗ con người đã làm gì nhưng ở chỗ Thiên Chúa đã làm cho con người.

1.1/ Chỉ có một Tin Mừng đích thực được mặc khải qua Đức Kitô. Sau khi thánh Phaolô đã rao giảng Tin Mừng và thành lập cộng đòan Galat, có những người đến sau ngài đã rao truyền một thứ Tin Mừng theo kiểu của Do-Thái. Họ rao truyền: Nếu con người muốn làm đẹp lòng Thiên Chúa, con người phải chịu cắt bì và giữ tất cả các luật lệ như người Do-Thái. Theo họ, con người có thể kiếm điểm với Thiên Chúa qua việc giữ cẩn thận các luật lệ. Thánh Phaolô sững sờ khi thấy niềm tin như thế nơi cộng đòan của ngài. Ngài viết cho họ: “Tôi lấy làm ngạc nhiên, khi thấy anh em trở mặt mau lẹ như thế với Đấng đã kêu gọi anh em nhờ ân sủng của Đức Kitô, để theo một Tin Mừng khác. Không có Tin Mừng nào khác đâu, mà chỉ có một vài kẻ phá rối anh em, và muốn làm xáo trộn Tin Mừng của Đức Kitô đó thôi.”

1.2/ Sự kiêu ngạo và ghen tị làm con người phát minh ra một Tin Mừng khác: Những đối thủ của thánh Phaolô tố cáo: sở dĩ ngài đã loan báo một Tin Mừng không cần giữ luật là để làm đẹp lòng các tín hữu vì họ không thích bị ràng buộc bởi luật lệ. Ngài phản đối : Nếu việc giữ luật đủ để con người được hưởng ơn cứu độ thì việc giáng trần và chịu chết của Chúa Kitô là điều không cần thiết; và Tin Mừng ngài rao giảng không có lý do để tồn tại. Nhưng Đức Kitô thực sự đã chết cho con người; điều này chứng minh Lề Luật không đủ để mang lại ơn cứu độ. Thánh Phaolô cũng phản đối lời tố cáo ngài muốn làm đẹp lòng các tín hữu: “Vậy, giờ đây tôi tìm cách lấy lòng người đời, hay lấy lòng Thiên Chúa? Phải chăng tôi tìm cách làm đẹp lòng người đời? Nếu tôi còn muốn làm đẹp lòng người đời, thì tôi không phải là tôi tớ của Đức Kitô.” Ngài đã mang những vết thương của Chúa Kitô trên thân thể như người nô lệ mang tên của chủ; và ngài chỉ trung thành và làm đẹp lòng Đức Kitô mà thôi.

1.3/ Tin Mừng đích thực là do Chúa Kitô mặc khải: Thánh Phaolô nhắc đi nhắc lại cho mọi người biết: tuy ngài không thuộc về Nhóm Mười Hai, nhưng ngài được sai đi trực tiếp từ Chúa Kitô Phục Sinh đến các Dân Ngọai, và Tin Mừng ngài rao giảng không do lòai người truyền lại cho ngài, nhưng được chính Chúa Kitô Phục Sinh mặc khải.

2/ Phúc Âm: Ai là người thân cận của tôi?

2.1/ Phải làm gì để được sự sống đời đời? Đây là câu hỏi rất quan trọng và thực tế của cuộc đời, nhưng người hỏi là thầy thông luật: tuy ông đã biết câu trả lời nhưng vẫn hỏi để thử Chúa Giêsu. Thay vì cho ông câu trả lời, Chúa Giêsu hỏi lại ông: “Trong Luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?” Ông ấy thưa: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi (Dt 6:5), và yêu mến người thân cận như chính mình (Lev 19:18).” Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống.”

2.2/ Ai là người thân cận của tôi? Tuy Jericho cách Jerusalem khỏang 20 dặm nhưng độ cao khác biệt là 3,600 ft. Đây là đọan đường rất nguy hiểm vì lối đi hẹp và có rất nhiều hang động, chỗ ẩn của trộm cướp. Rất ít ai dám đi một mình trên quãng đường này. Người bị đánh trọng thương rất có thể là người Do-Thái vì đi từ Jerusalem xuống. Chúa Giêsu liệt kê ra 3 lọai người và phản ứng của họ khi nhìn thấy người bị thương:

(1) Thầy tư tế: là người Do-Thái. Lý do tại sao ông tránh có thể vì sợ sẽ bị không sạch trong 7 ngày (Num 19:11) nếu động tay vào xác chết, và sẽ không được phục vụ trong Đền Thờ. Ông đặt việc tế tự trên lòng thương xót khi ông tránh qua bên kia mà đi.

(2) Thầy Lêvi: cũng là người Do-Thái. Nhiệm vụ của Levites là phục vụ cung điện nơi Hòm Bia của Thiên Chúa ngự. Giống như thầy tư tế, ông có lẽ cũng sợ bị không sạch, nên tuy cũng thấy người bị trọng thương, nhưng rồi cũng tránh qua bên kia mà đi.

(3) Người Samaria xem người Do-Thái như thù địch và không muốn chung chạ gì với họ. Nhưng khi thấy người bị trọng thương, người Samaria không để ý đến nạn nhân là người Do-Thái hay không, ông chạnh lòng thương nạn nhân đau khổ: một niềm thương xót giữa người với người.

Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác.”

2.3/ Chúa Giêsu hỏi thầy thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp? ” Người thông luật trả lời: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy.” Đức Giê-su bảo ông ta: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta cần phải học hỏi thì mới có thể biết cái chân chính và cái giả tạo; nếu không sẽ lầm lẫn đi trong bóng tối và dễ bị đánh lừa.

– Mến Chúa yêu người là phương thức để đạt được sự sống đời đời.

– Chúng ta không chỉ mến Chúa yêu người bằng miệng, nhưng phải thể hiện bằng cuộc sống thờ phượng Thiên Chúa và thực hành các việc bác ái. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************