Ngày thứ hai (08-08-2022) – Trang suy niệm

07/08/2022

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Hai Tuần XIX Mùa Thường Niên Năm chẵn

Thánh Đa Minh

BÀI ĐỌC I: Ed 1, 2-5. 24 – 2, 1a (Hr 1, 2-5. 24-28c)

“Đây là hình lạ trông giống vinh quang của Chúa”.

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Ngày mồng năm trong tháng, năm thứ năm vua Gioakim bị lưu đày, có lời Chúa phán cùng tư tế Êdêkiel, con của Buzi, ở xứ Calđêa, trên bờ sông Côbar. Chính tại đây, bàn tay Thiên Chúa đã đặt trên tôi.

Tôi nhìn thấy có một cơn gió mạnh từ phương bắc thổi đến. Có một đám mây to lớn và lửa bao bọc chung quanh và bốn bề có ánh sáng phát ra, và ở giữa bầu lửa như vàng pha sáng chói. Chính giữa, có giống gì như bốn con vật hình dáng giống như hình người.

Và tôi nghe tiếng cánh của chúng như tiếng nước lũ, như tiếng của Chúa vạn năng; khi chúng đi thì khác nào như đám đông người, như tiếng đạo quân: khi chúng dừng lại thì chúng xếp cánh xuống. Vì khi chúng nghe có tiếng trên không trung, trên đầu chúng, thì chúng dừng lại và xếp cánh xuống.

Và trên không trung, trên đỉnh đầu chúng, có cái gì như một viên ngọc thạch, hình như chiếc ngai, và trên ngai đó, phía trên hẳn, có hình giống như hình người. Và tôi thấy người như vàng pha sáng chói, bên trong, tứ bề khác nào như lửa, từ lưng người trở lên, và từ lưng trở xuống, tôi thấy có gì như lửa chiếu sáng chung quanh, giống như cái mống hiện ra trên mây trong ngày mưa: đó là hình thể chiếu sáng chung quanh. Đây là hình lạ trông giống vinh quang của Chúa. Tôi nhìn thấy thì sấp mặt xuống đất. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 148, 1-2. 11-12ab. 12c-14a. 14bcd

Đáp: Trời đất đầy vinh quang của Người.

Hoặc đáp: Alleluia.

Xướng:

1) Hãy ca tụng Chúa từ muôn cõi trời, hãy ca tụng Người trên nơi cao thẳm. Các thiên thần Chúa, hãy ca tụng Người đi; ca tụng Người đi, hỡi các đạo thiên binh. – Đáp.

2) Quân vương địa cầu và tất cả chư dân, quan chức và các vị chính quyền nơi cõi đất, các thanh nhiên và cả những cô trinh nữ, những ông cụ già với đoàn con trẻ. – Đáp.

3) Họ hãy ca tụng danh Chúa, vì danh Người siêu phàm, độc nhất, oai nghiêm Người tràn lan trên trời dưới đất, và Người nâng cao quyền thế dân Người. – Đáp.

ALLELUIA: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! – Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 17, 21-26 (Hl 22-27)

“Họ sẽ giết Người, nhưng Người sẽ sống lại. Con cái thì được miễn thuế”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, các môn đệ và Chúa Giêsu còn đang ở Galilêa, thì Chúa Giêsu bảo các ông rằng: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết người, nhưng ngày thứ ba, Người sẽ sống lại”. Các môn đệ rất đỗi buồn phiền.

Khi các ngài đến Capharnaum, thì những người thu thế đền thờ đến gặp Phêrô và hỏi rằng: “Thầy các ông không nộp thuế ‘đền thờ’ sao?” Ông nói: “Có chớ”.

Khi ông về đến nhà, Chúa Giêsu hỏi đón trước rằng: “Simon, con nghĩ sao? Vua chúa trần gian thu thuế má hạng người nào? Đòi con cái mình hay người ngoài?” Ông thưa rằng: “Đòi người ngoài”. Chúa Giêsu bảo ông rằng: “Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để chúng ta không làm cho họ vấp phạm, con hãy ra biển thả câu: con cá nào câu lên trước hết thì bắt lấy, mở miệng nó ra, sẽ thấy một đồng tiền, con hãy lấy tiền đó mà nộp cho họ, trả phần Thầy và phần con”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

08/08/2022 – THỨ HAI TUẦN 19 TN

Th. Đa-minh, linh mục

Mt 17,22-27

ĐỂ KHÔNG LÀM CỚ VẤP PHẠM

Đức Giê-su hỏi đón ông: “Si-mon, anh nghĩ sao? Vua chúa trần gian bắt ai đóng sưu nộp thuế? Con cái mình hay người ngoài?” Ông Phê-rô đáp: “Thưa, người ngoài.” Đức Giê-su liền bảo: “Vậy thì con cái được miễn. Nhưng để khỏi làm gai mắt họ, anh ra biển thả câu…” (Mt 17,25-27)

Suy niệm: Hai quan tiền tương đương hai ngày công là tiền thuế đàn ông Do Thái trưởng thành phải nộp, nhằm trang trải cho các chi phí của Đền thờ. Khi Chúa Giê-su phân biệt tư cách “con cái-người ngoài” trong việc nộp thuế đền thờ, Ngài gián tiếp xác nhận Ngài là Con Thiên Chúa, theo lẽ “con cái được miễn”. Tuy nhiên, điều đáng nói là Chúa Giê-su lại không muốn làm cớ cho người khác vấp phạm: “Nhưng để khỏi làm gai mắt họ anh hãy lấy đồng tiền ấy nộp thuế cho họ, phần của Thầy và phần của anh.” Người hoàn toàn tự do để chọn lựa, nhưng đã chọn cách nộp thuế như bao người. Hẳn đó không phải vì sự công bằng mà vì lòng bác ái.

Bạn nhớ rằng, tự do không có nghĩa muốn làm gì cũng được, nhưng là tự nguyện làm điều xứng hợp phẩm giá của mình. Có nhiều việc không buộc phải làm, nhưng vì đức bác ái, tránh “gây cớ vấp phạm,” bạn vẫn nên làm. Do đó, trước khi làm, cần phân định: tôi làm điều này có gây thiệt hại hay gương mù cho cộng đoàn không? Thái độ hy sinh, chấp nhận hy sinh vì thiện ích chung là điều chúng ta phải hướng tới.

Sống Lời Chúa: Hôm nay bạn tập suy nghĩ và sống cho người khác, không đòi quyền lợi cho bản thân.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin đong đầy trái tim con sự khiêm nhường và lòng quảng đại, để con biết sống bác ái với người khác, nhất là đừng làm cớ cho ai phải vấp ngã vì con. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy nim:

Đọc bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta không khỏi mỉm cười,
khi nghĩ đến việc anh Phêrô đi ra hồ Galilê để thả câu bắt cá,
một chuyện bắt cá rất bất thường, vì một mục đích cũng bất thường.
Thầy Giêsu dặn anh hãy túm lấy con cá đầu tiên câu được,
bắt lấy, mở miệng nó ra, thấy ngay một đồng tiền trị giá bốn quan,
vừa vặn để nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.
Đây là thứ thuế mà hàng năm, theo sách Xuất hành (30, 14)
những người đàn ông Do Thái trên hai mươi tuổi phải nộp
để lo việc tu bổ Đền Thờ và việc tế tự trong đó.
Ta không thấy kể chuyện anh Phêrô đã vâng lời Thầy ra sao,
và phép lạ đã xẩy ra như thế nào.
Chỉ biết chẳng khi nào trong Tân Ước
Thầy Giêsu lại có ý làm một phép lạ vì lợi ích cho mình như vậy.

Nhưng chuyện bắt cá để lấy tiền nộp thuế
lại không phải là chuyện quan trọng của đoạn Tin Mừng này.
Điểm chính yếu nằm ở những câu nói của Thầy Giêsu.
Ai cũng biết con cái của vua chúa trần gian thì được miễn thuế,
vì các vua chỉ đánh thuế người ngoài thôi (c. 26).
Đức Giêsu chính là Người Con tuyệt hảo của Vị Vua thiên quốc.
Và những Kitô hữu cũng là con cái của Đức Vua tối cao.
Họ là những người đã mở lòng đón nhận Nước Trời (Mt 13, 38),
và đã gọi Thiên Chúa là Cha trên trời của chúng con (Mt 6, 9).
Như thế Thầy Giêsu và các môn đệ của mình đều được miễn thuế.
Thầy trò không phải nộp thuế Đền Thờ như những người Do Thái khác.

Tuy Thầy trò có quyền không nộp thuế,
nhưng Thầy Giêsu lại không muốn làm cớ cho người khác vấp phạm.
Khi về đến nhà của anh Phêrô ở Caphácnaum,
Thầy Giêsu bày tỏ ý muốn nộp thuế Đền Thờ cho cả Thầy lẫn trò.
Mối bận tâm của Thầy là tránh làm cớ cho người khác vấp phạm.
Thầy biết mình có tự do,
nhưng Thầy cũng dám hy sinh tự do ấy vì lợi ích cho người khác.
Thánh Phaolô cũng sẽ nói về nguyên tắc này khi bàn về việc ăn đồ cúng.
“Đành rằng mọi thức ăn đều thanh sạch,
nhưng ăn mà gây cớ vấp ngã, thì là điều xấu” (Rm 14, 20).
Chúng ta cần lưu tâm đến những người “yếu” trong cộng đoàn.
Chính tình yêu đối với họ khiến tôi cân nhắc điều mình được phép làm.
Tự giới hạn tự do của mình là một cách để biểu lộ tình yêu.

Thế giới hôm nay ca ngợi tự do, nên cũng đầy cớ gây vấp phạm.
Bao sa ngã của giới trẻ là do sự phóng túng của người lớn.
Con người hôm nay quá gần nhau bởi các phương tiện truyền thông,
nên ảnh hưởng xấu lan đi vừa nhanh lại vừa rộng.
Nếu chúng ta tự ý làm hay tránh làm một điều gì đó
chỉ vì tôn trọng lương tâm mong manh của người khác,
thì Thiên Chúa cũng sẽ giúp ta bằng những phép lạ thật ngỡ ngàng.

Cầu nguyn:

Lạy Chúa,
xin dạy con luôn tươi tắn và dịu dàng
trước mọi biến cố của cuộc sống,
khi con gặp thất vọng, gặp người hờ hững vô tâm,
hay gặp sự bất trung, bất tín
nơi những người con tin tưởng cậy dựa.

Xin giúp con gạt mình sang một bên
để nghĩ đến hạnh phúc người khác,
giấu đi những nỗi phiền muộn của mình
để tránh cho người khác phải đau khổ.

Xin dạy con biết tận dụng đau khổ con gặp trên đời,
để đau khổ làm con thêm mềm mại,
chứ không cứng cỏi hay cay đắng,
làm con nhẫn nại chứ không bực bội,
làm con rộng lòng tha thứ,
chứ không hẹp hòi hay độc đoán, cao kỳ.

Ước gì không ai sút kém đi
vì chịu ảnh hưởng của con,
không ai giảm bớt lòng thanh khiết, chân thật,
lòng cao thượng, tử tế,
chỉ vì đã là bạn đồng hành của con
trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu.

Khi con loay hoay với bao nỗi lo âu bối rối,
xin cho con có lúc
thì thầm với Chúa một lời yêu thương.
Ước chi đời con là cuộc đời siêu nhiên,
tràn trề sức mạnh để làm việc thiện,
và kiên quyết nhắm tới lý tưởng nên thánh.

Amen.
(dịch theo Learning Christ)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

8 THÁNG TÁM

Tìm Kiếm Câu Trả Lời Bằng Con Mắt Đức Tin

Sự đau khổ được nhìn qua con mắt đức tin – ngay cả dù vẫn có vẻ thật ảm đạm – sẽ cho phép chúng ta nhận ra mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa. Mầu nhiệm này được tóm kết trong mạc khải Đức Kitô, nhất là trong cái chết Thập Giá và cuộc Phục Sinh của Người. Con người vẫn không ngừng đặt ra những vấn nạn về sự dữ và đau khổ trong thế giới thụ tạo, song chắc chắn con người không thể nào tìm thấy những lời giải đáp trực tiếp được. Không thể tìm thấy sự giải đáp trực tiếp nếu không có một đức tin sống động vào Đức Giê-su Kitô.

Nhưng dần dần, với sự giúp đỡ của đức tin được nuôi duỡng bằng cầu nguyện, chúng ta có thể khám phá ra ý nghĩa đích thực của những nỗi thống khổ mà mọi con người kinh nghiệm trong đời. Sự khám phá này phụ thuộc vào lời mạc khải thần linh và vào “lời của thập giá” Đức Kitô (1Cr 1,18) – thập giá chính là “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cr 1,24).

Công Đồng Vatican II dạy chúng ta: “Nhờ Đức Kitô và trong Đức Kitô, chúng ta được soi sáng về bí ẩn của sự đau khổ và sự chết, bí ẩn này sẽ đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết đến Phúc Âm” (MV 22). Nếu nhờ đức tin, chúng ta khám phá ra sức mạnh và “sự khôn ngoan” này, thì đấy là chúng ta đang bước đi trên con đường cứu độ của sự quan phòng của Thiên Chúa. Ý nghĩa của lời Thánh Vịnh bấy giờ sẽ thành hiện thực hoàn toàn đối với chúng ta:

“Chúa là mục tử chăn dắt tôi …

Dù tôi đi trong thung lũng tối tăm,

tôi vẫn không lo sợ gì,

vì có Chúa ở cùng tôi” (Tv 23,1-4).

Vâng, trong sự quan phòng của Thiên Chúa, chúng ta nhận thấy rằng Thiên Chúa luôn sóng bước cùng với con người.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 08/8

Thánh Đa Minh, linh mục

Ed 1, 2-5. 24-28c; Mt 17, 22-27.

LỜI SUY NIỆM: “Khi Thầy trò tụ họp ở miền Galilê. Đức Giêsu nói với các ông: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy. Các môn đệ buồn phiền lắm.”

          Các môn đệ của Chúa Giêsu đã chứng kiến dấu lạ tại tiệc cưới Cana: “Nước hóa thành rượu ngon”. “Phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân được no nê.” Được nghe lời xác nhận của Chúa Giêsu, sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” và được nhìn thấy Chúa tỏ vinh quang Người trên núi cao có sự hiện diện của Môsê và Êlia. Giờ đây trong âm thầm các ông liên tưởng đến vinh quang của Người là Đấng Mêsia Chiến Thắng. Chúa Giêsu không muốn các ông hiểu sai về sứ vụ của Người, nên Người đã chính thức công bố thêm một lần nữa: “Con Người sắp bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết Người và ngày thứ ba Người sẽ trỗi dậy.” Để giúp các ông tỉnh thức mà hiểu đúng về Người hơn.

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi thành viên trong gia đình chúng con luôn lần theo dấu chân Chúa và cùng bước đi trên những dấu chân đó, để chúng con được đoàn tụ và vui sống trong ngày sau hết trong Nước Trời.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 08-08: Thánh ĐAMINH

Linh mục (1170 – 1221)

Thánh Đaminh sinh tại Castille, Tây Ban Nha, năm 1170. Truyện về tuổi trẻ của Ngài nói tới nhiều điềm báo lạ lùng. Mẹ Ngài, bà Aza mơ thấy con mình như một con chó ngậm đuốc chạy khắp cả thế gian. E ngại vì giấc mơ này bà làm tuần cửu nhật xin cho được sinh nở vuông tròn đến ngày thứ bảy, vị chánh sở nói với bà : – Đừng sợ gì vì đứa trẻ sinh ra sẽ trở thành ánh sáng thế gian và niềm an ủi cho Giáo hội, nhờ sự thánh thiện và giáo thuyết của nó.

Khi trẻ Đaminh còn nằm trong nôi, một bầy ong mật lượn quanh rồi êm ái đậu xuống nơi nôi Ngài. Điều này báo trước rằng lời lẽ miệng Ngài sẽ êm dịu như mật ngọt. Ngày chịu phép rửa tội, vú nuôi Ngài thấy một vì sao chói sáng trên trán Ngài. Đó là dấu ơn thánh Ngài sẽ tỏa chiếu để thu hút các linh hồn.

Được cưng chiều, thánh Đaminh sớm sống đời khổ hạnh. Ngài học hãm mình cầu nguyện khi vừa thôi nôi. Người vú nuôi nhiều lần thấy Ngài âm thầm thức dậy trong đêm tối để cầu nguyện. Ngài chọn một nơi thanh vắng ở cuối vườn làm nơi tâm sự với Chúa. Đức Trinh nữ thường hiện ra với Ngài, dạy Ngài lần chuỗi. Việc đạo đức này về sau trở thành phương thế hữu hiệu để cải hóa những người theo lạc giáo.

Đến tuổi đi học, Đaminh được gởi tới thụ giáo với ông cậu là tổng linh mục ở Gumiel. Năm 14 tuổi, Ngài theo học tại đại học ở Palencia và đã tiến triển rất nhanh về hiểu biết lẫn nhân đức. Nạn đói lan tràn nước Tây Ban Nha, một người bạn đến thăm Đaminh không thấy đồ dùng lẫn những pho sách quí đâu nữa. Ngài đã bán để giúp người nghèo khó rồi. Gương sáng này đã lôi kéo được nhiều sinh viên lẫn các giáo sư bắt chước.

Sau khi hoàn tất việc học, Đaminh được đức Chadiegô, giám mục Osma truyền chức linh mục. Vị giám mục đạo đức này đang muốn canh tân lòng đạo đức trong giáo phận, đã đặt cha Đaminh làm kinh sĩ. Khi lo chuyện nhà nước qua Châu Au, đức cha Diegô dẫn cha Đaminh đi theo. Tại Languedoc, các Ngài được chứng kiến được tàn phá mà bè rối Albigeois gây ra. Họ chủ trương rằng: mọi vật chất đều xấu và do ma quỉ. Sự hoàn thiện theo họ, hệ tại sự từ bỏ phi nhân bản để sống khắc khổ. Chủ trương này dẫn tới sự lãnh cảm. Chẳng hạn đối với việc hôn nhân và chôn vùi mọi cơ cấu xã hội gia đình. Họ còn có lễ nghi, và phẩm trật riêng. Người ta bị phân thành hai loại: một bên gồm những người hoàn thiện và những nhà lãnh đạo sống rất khắc khổ; bên kia là quần chúng tìm thấy nơi giáo thuyết mới lý do bào chữa cho sự tự do luân lý không bị kiềm chế của mình.

Trên đường về, đức cha Diegô và cha Đaminh đến Roma xin từ nhiệm để dấn thân vào cuộc truyền giáo quanh vùng Dniepen. Đức giáo hoàng Innocentê III từ lâu đã mong có người ra đi rao giảng tại miền nam nước Pháp, chống lại ảnh hưởng của bè rối Albigeois, thay vì chấp nhận lời thỉnh cầu, Đức giáo hoàng sai các Ngài tới miền nam nước Pháp. Hai người đã tới phụ lực với các sứ giả đã được sai tới trước kia. Tại Montpellier, đức cha Diegô đã nhận thấy sự khác biệt giữa các nhà giảng thuyết công giáo đầy xa hoa với các nhà giảng thuyết phái Albigeois đầy khiêm tốn giản dị. Các Ngài chọn đường lối khác, lấy khó nghèo và cầu nguyện làm gương sáng thu hút mọi người. Tháng 4 năm 1207, nhiều tu sĩ Xitô đến trợ lực. Trong vòng một năm trời, có đến 40 vị dấn thân vào hoạt động. Những thành công sơ khởi bắt đầu tới, nhưng không kéo dài được lâu. Các tu sĩ Xitô nản lòng. Đức cha Diegô trở về Tây Ban Nha kiếm thêm người trợ lực và qua đời tại đây. Một vị sự thần cũng từ trần. Tệ hại hơn cả là Phêrô Castelman, vị sự thần khác, bị bọn lạc giáo ám sát.

Còn lại mình cha Đaminh. Ngài vẫn tiếp tục nhiệt tình hoạt động trong đường lối khổ hạnh và cầu nguyện. Không chấp nhận kiểu rao giảng khua trống gióng chiêng, Ngài nói : – Không thể đến với kẻ thù như vậy được. Hãy trang bị bằng kinh nguyện và chân không mà đến với tên khổng lồ Goliath.

Trong sáu năm, cha Đaminh trải qua nhiều sóng gió, ngay khi mới tới, đức cha Diegô và Ngài đã thiết lập một cộng đoàn nữ tu tại Prouille. Bây giờ Ngài chỉ còn là trợ lực duy nhất, một ngày kia trong khi nhiệt tình cầu nguyện, thánh nhân than thở tại sao số người lạc giáo quá nhiều mà trở lại thì quá ít. Đức Trinh nữ đã hiện ra và dạy Ngài hãy rao giảng phép lần hạt Mân Côi. Vâng lời Mẹ, thánh nhân dồn nỗ lực vào việc truyền bá sự sùng kính kỳ diệu này, thay vì tranh luận như trước, Ngài dạy dân chúng hiểu phương pháp và tinh thần khi lần chuỗi. Ngài dẫn giải cho họ các mầu nhiệm thánh. Kết quả thật lạ lùng. Sau một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã được an ủi khi thấy hơn một trăm ngàn người tội lỗi và những kẻ lạc giáo được đưa trở về với Giáo hội.

Hoàn thành sứ mệnh, thánh Đaminh có ý định thành lập một dòng tu làm vườn ươm các tông đồ. Ngài trình bày dự tính với Đức giáo hoàng Innocentê III. Nhưng đức giáo hoàng ngần ngại. Đêm sau Ngài mơ thấy đại giáo đường Lateranô bị rung chuyển và thánh Đaminh đưa vai chống đỡ bức tường cho khỏi sụp đổ. Biết ý Chúa Ngài cho gọi thánh nhân đến và chấp thuận cho lập dòng mới. Đây là dòng giảng thuyết.

Khi còn ở Roma, một đêm kia, trong lúc cầu nguyện, thánh Đaminh thấy Chúa Giêsu giận dữ muốn phóng ba ngọn đuốc xuống thiêu hủy thế gian: – Loài người lao mình vào nết xấu kiêu căng nhục dục và biển lận, nên Ta muốn hủy diệt chúng bằng 3 ngọn lửa này.

Nhưng đức trinh nữ cản lại: – Con ơi, hãy thương xót thế gian. Này đây có hai người sẽ làm sống dậy các nhân đức.

Đaminh biết mình là một, nhưng người kia là ai thì chưa rõ. Hôm sau khi đến nhà thờ Ngài gặp một tu sĩ, mặc đồ người ăn xin ngồi ngay cửa. Đó là thánh Phanxicô. Hai người chưa gặp nhau, nhưng đã ôm choàng lấy nhau và gọi tên nhau. Các Ngài hợp nhất với nhau trong công cuộc của Chúa.

Thánh Đaminh đề cao việc học, Ngài gởi các tu sĩ đến các đại học, Ngài truyền : – Chớ gì các tu sĩ chuyên cần học tập ngày đêm. Lúc ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, họ phải không ngừng đọc sách và suy gẫm.

Thánh Đaminh rảo qua khắp nẻo trên đường giảng dạy, một thanh niên ngây ngất hỏi Ngài đã học cách nào, Ngài nói : – Hỡi con trong sách đức ái đó, sách này hơn mọi sách dạy bảo tất cả.

Một năm trước khi qua đời, các cha dòng Đaminh đã được sai tới Oxford, Hungaria, Đan Mạch và Hy lạp. Thánh Đaminh qua đời tại Bologna ngày 6 tháng 8 năm 1221.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

08 Tháng Tám

Vị Thánh Của Kinh Mân Côi 

Ðaminh, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, mở mắt chào đời năm 1170 bên Tây Ban Nha trong một gia đình quý tộc, nhưng ngay từ nhỏ, Ðaminh đã tập quen sống hãm mình. Ngoài ra, Ðaminh có tính khẳng khái, thích làm việc có hệ thống và chú ý đến việc trau dồi kiến thức.

Khi làm linh mục, rồi kinh sĩ, Ðaminh nổi bật về lòng ngay thẳng, hăng hái và tinh thần hy sinh. Ngài cảm thấy như được Chúa gọi đi để loan báo Tin Mừng cho các bộ lạc bên nước Nga, nhưng Ðức Innocentê thứ 3 lại cử ngài đến hoạt động tại Toulouse bên Pháp, nơi những làn sóng lạc giáo đang làm lung niềm tin của nhiều người.

Ðaminh xác tín rằng: Lời giảng dạy phải đi đôi với cuộc sống. Vì thế, ngài đã lập một hội dòng, quy tụ các tu sĩ sống khó nghèo theo tinh thần Phúc Âm để có thể rao giảng, không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống của mình. Chính Ðaminh đã là người đầu tiên làm gương về nếp sống ấy bằng cách đi chân không, ngủ dưới đất, ăn chay và sống bằng của bố thí.

Vào năm 1216, Ðức Hônôriô thứ 3 đã phên chuẩn dòng do cha Ðaminh sámg lập mang tên “Dòng anh em giảng thuyết” thưo quy luật của thánh Augustinô, tức là dòng Ðaminh ngày nay. Thiên Chúa chỉ dành cho cha Ðaminh 5 năm vắn vỏi để chu toàn sứ mệnh của người gieo giống. Suốt thời gian này ngài đã rảo qua các nước Pháp, Italia và Tây Ban Nha để rao giảng và đã đưa nhiều người ly giáo trở về với Giáo Hội.

Trong suốt cuộc sống, Ðaminh đã nêu cao gương hy sinh và cầu nguyện. Ngoài ra, ngài còn truyền bá lòng sùng kính Ðức Maria và kinh Mân Côi, vì thế, ngài đã thành lập một dòng nữ để giúp chị em sống theo tinh thần này.

Cha Ðaminh qua đời tại Bologna bên italia ngày 06/8/1221 và chỉ 13 năm sau, vào năm 1234, Ðức Gregoriô thứ 9 tôn phong ngài lên bậc hiển thánh.

Có một câu chuyện thuật lại giấc mơ của thánh Ðaminh: Ngài thấy thế gian sắp bị án công thẳng của Thiên Chúa luận phạt, nhưng được cứu thoát nhờ lời cầu bàu của Ðức Maria. Ðức Mẹ chỉ cho Chúa Giêsu hai hình ảnh: một hình ảnh là chính Ðaminh và hình ảnh kia là một người ăn mày quần áo rách tả tơi.

Ngày hôm sau, trong lúc cầu nguyện trong nhà thờ, Ðaminh thấy người ăn mày trong mộng xuất hiện, tiến đến gần, ôm chầm Ðaminh và nói: “Anh là người đồng hành với tôi. Nếu chúng ta cùng sánh vai tiến bước, thì không quyền lực nào có thể thắng chúng ta”. Nhìn kỹ, Ðaminh nhận ra người ăn mày đó chính là Phanxicô thành Assisi.

Cuộc gặp gỡ này của hai vị sáng lập dòng vẫn được các tu sĩ Ðaminh và Phanxicô mừng mỗi năm. Vào ngày lễ kính hai thánh nhân, họ cùng nhau dâng Thánh Lễ và sau đó ngồi vào bàn để chia sẻ với nhau những tấm bánh và những lý tưởng đã làm cho Giáo Hội trở nên phong phú trong việc sống theo tinh thần Phúc Âm trải qua 7 thế kỷ nay.

Lý tưởng mà dòng Ðaminh cũng như của các dòng khác không phải chỉ để chúng ta kính phục, nhưng cũng là để chúng ta noi gương. Các tu sĩ là những người tự nguyện sống trọn những lời khuyên của Phúc Âm qua ba lời khấn: khó nghèo, thanh tinh, vâng lời. Ðó cũng là ba nhân đức mà mỗi người Kitô cũng phải thực hành tùy sức, tùy hoàn cảnh và địa vị của mình.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Lễ Thánh Tổ Phụ Đaminh (Ngày 8 tháng 8)

Bài đọc: Isa 52:7-10; 2 Tim 4:1-8; Mt 5:13-19.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Rao giảng Tin Mừng để đưa các linh hồn về cho Chúa.

            Cuộc đời của Thánh Đa-minh có thể tóm gọn trong chủ đề: “Rao giảng Tin Mừng để đưa các linh hồn về cho Chúa.” Thánh Đa-minh yêu mến Thiên Chúa nên muốn đem tất cả linh hồn về cho Ngài, và cách thức Ngài dùng là “rao giảng Tin Mừng.” Câu châm ngôn trong cuộc đời của thánh nhân là: “Chỉ nói với Chúa và về Chúa.” Khi ngài nói với Chúa là lúc ngài cầu nguyện; khi ngài nói về Chúa là lúc ngài rao giảng Tin Mừng cho tha nhân. Thánh Đa-minh kết hợp cả hai chiều kích của đời tu: chiêm niệm và hoạt động. Người tu sĩ Đa-minh là người chiêm niệm và sau đó đem những gì mình đã chiêm niệm chia sẻ cho tha nhân.

            Đường lối dùng Tin Mừng để đem các linh hồn về cho Thiên Chúa được đặt căn bản trên Lời Chúa trong ba bài đọc hôm nay. Trong bài đọc I, ngôn-sứ Isaiah được Thiên Chúa cho thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ cứu độ dân của Ngài, và để cho Tin Mừng này được loan đi, ngôn sứ thấy sự cao đẹp của những người rao giảng Tin Mừng. Còn gì đẹp hơn bước chân của những người mang Tin Mừng của Thiên Chúa đến cho dân của Ngài đang đau khổ! Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên môn đệ của ngài là Timothy phải kiên trì trong việc rao giảng, vì ông sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc rao giảng Tin Mừng. Các nhà giảng thuyết phải kiên nhẫn vượt mọi gian khổ mới có thể đưa các linh hồn về cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, để có thể chu toàn thành công sứ vụ rao giảng, nhà giảng thuyết phải kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, lắng nghe tiếng của Ngài, và thực thi những gì Ngài dạy trước khi loan báo những lời này cho tha nhân.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố ơn cứu độ.

1.1/ Thiên Chúa cho dân trở về Sion từ nơi lưu đày: “Đẹp thay trên đồi núi bước chân người loan báo tin mừng, công bố bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng: “Thiên Chúa ngươi là Vua hiển trị.” Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Sion.” Người loan báo Tin Mừng phải loan báo 3 điểm có liên quan mật thiết với nhau, mỗi điểm nói lên một khía cạnh của ơn cứu độ:

            (1) Công bố bình an: Bình an là một trong những chữ được tiên-tri Isaiah dùng nhiều nhất; nó không phải là sự vắng mặt của chiến tranh, nhưng là quà tặng của Thiên Chúa ban cho con người. Con người được hòa giải với Thiên Chúa; vì thế, con người có bình an.

            (2) Loan tin tốt lành: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa, Đấng Tốt Lành. Ngài ban phúc lành của Ngài cho con người, nhất là tha thứ tội lỗi và cho được hưởng ơn cứu độ.

            (3) Công bố ơn cứu độ: Ơn Cứu Độ đến từ Thiên Chúa. Ơn Cứu Độ không chỉ giới hạn trong việc giải phóng dân Do-thái khỏi lưu đày Babylon; nhưng bao gồm cả việc giải phóng dân khỏi tội lỗi, và đem lại cho dân sự tốt lành và bình an.

            Thiên Chúa là Vua hiển trị, chính Ngài sẽ lãnh đạo dân. Những người canh gác của Thành Thánh Jerusalem sẽ nhìn thấy Đức Chúa, và cất tiếng reo hò. Ngài sẽ cai trị dân và cho họ hưởng bình an, những điều tốt lành, và ơn cứu độ.

1.2/ Mọi người sẽ nhìn thấy Thiên Chúa cứu độ Jerusalem: Sự kiện Chúa giải phóng dân Do-thái khỏi lưu đày Babylon và cho về lại Jerusalem, là một phép lạ mà các dân trong vùng đều hay biết: không bằng sức mạnh quân sự, không bằng sức cố gắng của dân Do-thái; nhưng bằng niềm tin tưởng của Cyrus, vua Ba-tư vào Thiên Chúa. Tương tự khi Chúa Giêsu giải phóng dân khỏi tội bằng cái chết của Ngài trên Thập Giá tại Jerusalem, nước Do-thái còn đang dưới ách đô hộ của Đế-quốc Rôma.

2/ Bài đọc II: Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện.           

2.1/ Những khó khăn trong việc rao truyền Lời Chúa

            (1) Lý do phải trung thành rao giảng: Phaolô đưa ra hai lý do chính để chỉ thị Timothy phải trung thành rao giảng Tin Mừng: Thứ nhất, Đức Kitô sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết; không một ai và không một hành động nào của con người thoát khỏi sự phán xét của Ngài. Thứ hai, Ngài sẽ xuất hiện và nắm vương quyền; lúc đó, Ngài sẽ trả công cho mỗi người tùy theo việc làm của họ. Vì thế, anh “hãy rao giảng Lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ.”

            Nhiều người chủ trương: “gió chiều nào che chiều đó.” Khi hoàn cảnh xã hội đã đổi, họ cũng phải thay đổi sao cho phù hợp; vì nếu không thay đổi sẽ bị người khác ghét và không trở thành phổ thông. Vì thế, nhiều nhà rao giảng có khuynh hướng thay đổi cách giảng dạy: họ chỉ nói những gì khán giả thích và tránh đề cập những tội mà khán giả đang mang trong mình. Tiên tri Jeremiah đã tuyên sấm nặng nề cho các ngôn sứ giả này: Họ sẽ phải chịu trách nhiệm về sự hư đi của khán giả.

            (2) Khuynh hướng thay đổi của con người: Phaolô nói trước cho môn đệ mình biết về sự thay đổi của khán giả: “Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng vì ngứa tai, họ sẽ tìm kiếm cho họ những nhà rao giảng thích hợp với sở thích của họ, và sẽ quay lưng lại với sự thật và hướng về những chuyện hoang đường.” Điều này không lạ, vì theo tâm lý con người, họ không muốn ai làm cho họ phải cắn rứt về những chuyện họ đang mang trong lòng; nhưng chỉ muốn ai khen những chuyện họ làm hoặc nói những chuyện vui cười để giải trí. Nhà rao giảng Tin Mừng chân chính không được chiều theo thị hiếu của khán giả, như Phaolô khuyên nhủ Timothy: “anh hãy thận trọng trong mọi sự, hãy chịu đựng đau khổ, làm công việc của người loan báo Tin Mừng và chu toàn chức vụ của anh.”

2.2/ Hãy cố gắng dành cho được phần thưởng không hư nát: Câu hỏi quan trọng đặt ra cho mọi người: Họ muốn làm vừa lòng ai? Thiên Chúa hay con người? Họ muốn làm vừa lòng Thiên Chúa để lãnh phần thưởng bất diệt là sự sống đời đời, hay làm vừa lòng con người để lãnh phần thưởng mau hư nát. Thánh Phaolô cho chúng ta một tấm gương để soi chung: “Còn tôi, tôi sắp phải đổ máu ra làm lễ tế, đã đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa dành cho người công chính; Chúa là vị Thẩm Phán chí công sẽ trao phần thưởng đó cho tôi trong Ngày ấy, và không phải chỉ cho tôi, nhưng còn cho tất cả những ai hết tình mong đợi Người xuất hiện.”

3/ Phúc Âm: Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.

3.1/ Công dụng của muối: Không có gì rẻ và căn bản hơn muối; nhưng muối làm nhiều điều hữu ích cho con người:

            + Muối tượng trưng cho trong sạch tinh tuyền: vì được kết tinh bởi ánh sáng mặt trời và nước biển. Kitô hữu là những người đã được rửa sạch bằng máu Đức Kitô và thấm nhuần mọi quà tặng của Thánh Thần, họ phải trở nên thánh thiện và tinh tuyền trước khi sinh ích cho người khác.

            + Muối dùng để ngăn ngừa đồ ăn cho khỏi hư: Vì đặc tính mặn mà của muối, nên muối được dùng để làm cho lương thực khỏi hư: thịt cá cần muối, rau cỏ cần muối như dưa, cà, kim chi, trái cây cần muối nếu muốn để lâu. Ca dao Việt-nam dùng việc muối cá để nói lên sự cần thiết của con cái phải vâng lời cha mẹ: “Cá không ăn muối cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư.” Nếu điều này cần thiết cho con cái, những điều dạy dỗ của Đức Kitô còn cần thiết hơn cho các Kitô hữu. Nếu không có vị mặn của muối, làm sao các Kitô hữu có thể “ướp mặn lòng người.

            + Muối dùng để thêm gia vị cho thực phẩm: Muối không thể thiếu trong việc nấu ăn, thực phẩm có ngon tới đâu mà nếu không có chất mặn của muối hay nước mắm (cũng từ muối), cũng trở thành vô vị. Người Kitô hữu đã được trang bị để trở thành muối cho đời. Điều cần chú ý ở đây là Chúa Giêsu dùng động từ ở thời hiện tại “là;” có nghĩa: người Kitô hữu đã và luôn có. Bản chất của Kitô hữu có những điều tốt để giúp cho thế gian trở nên tốt.

3.2/ Công dụng của ánh sáng: Biểu tượng này còn gần gũi với con người hơn cả muối. Ánh sáng có rất nhiều công dụng.

            + Ánh sáng dùng để soi sáng: Khi trời tối, con người cần ánh sáng để khỏi vấp ngã và tìm đồ đạc. Người Kitô hữu có sự thật soi sáng để khỏi rơi vào sai lầm.

            + Ánh sáng dùng để sưởi ấm: Khi trời lạnh, con người cần ánh sáng để sưởi ấm như ánh sáng mặt trời hay lửa. Người Kitô hữu có Thánh Thần để sưởi ấm mọi cô đơn, buồn khổ.

            + Ánh sáng bảo vệ con người khỏi nguy hiểm: Tội lỗi thường xảy ra ở nơi không có ánh sáng. Người làm tội lỗi ghét ánh sáng vì họ sợ việc làm đen tối của họ bị phơi bày…

            Chúa Giêsu nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.” Đã là ánh sáng thì không thể che giấu; nhưng phải đặt trên cao để soi sáng cho mọi người, vì “chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà.” Mục đích của việc soi sáng là để những người chưa biết Thiên Chúa “thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời.”

3.3/ Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ: Tất cả Luật và Lời Thiên Chúa phán ra đều tốt lành và muôn đời không đổi vì phát xuất từ Thiên Chúa và có khả năng giúp con người sống tốt lành; nhưng vấn đề là ở phía con người. Một số những lý do làm con người hiểu sai Luật của Thiên Chúa:

            (1) Không hiểu nguyên tắc của Lề Luật và phiên dịch Luật theo ý mình: Ví dụ: Luật ngày Sabbath. Nguyên tắc là để con người nghỉ ngơi và thờ phượng Chúa; chứ không phải để tranh luận trong những vấn đề liên quan đến sự sống như: có nên chữa bệnh nhân trong ngày Sabbath, có nên bứt bông lúa để ăn cho khỏi đói, vì đó thuộc lãnh vực bảo vệ sự sống.

            (2) Tạo thêm nhiều Luật khác: Những nhà làm luật của Do-thái tạo thêm 615 luật từ những Luật Chúa ban cho Moses, ấy là chưa kể những luật bất thành văn (truyền khẩu) vì vô tình hay vì lợi nhuận (định nghĩa thế nào là của lễ thanh sạch). Những luật do con người làm ra có thể thay đổi hay hủy bỏ.

            Khi Chúa tranh luận những việc liên quan đến Luật, Chúa muốn con người nhận ra đâu là Luật của Thiên Chúa và đâu là luật của con người. Các kinh sư tranh luận với Chúa muốn đánh lừa mọi người để kết tội Chúa như người phá bỏ Luật của Thiên Chúa. Ngài cũng muốn cho họ nhận ra nguyên lý đứng đang sau là tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, chứ không giữ cách vụ luật.           

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            – Điều quan trọng nhất trong cuộc đời là lo sao cho chúng ta và mọi người được về hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa, chứ không phải lo tìm của cải đời này.

            – Chúng ta phải học hỏi và sống Tin Mừng của Thiên Chúa trước khi có thể loan báo Tin Mừng đó cho tha nhân.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************