Ngày thứ hai (10-01-2022) – Trang suy niệm

09/01/2022

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Hai Tuần I Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: 1 Sm 1, 1-8

“Anna buồn sầu, vì Chúa đã để bà phải son sẻ”.

Khởi đầu sách Samuel quyển thứ nhất.

Khi ấy, có một người quê ở Rama-Sôphim, miền núi Ephraim, tên là Elcana, con của Giêrôha, Giêrôha con của Êlihu, Êlihu con của Thôhu, Thôhu con của Súp, người Ephratha. Elcana có hai người vợ: một tên là Anna, người kia tên là Phênenna. Và Phênenna có nhiều con, còn Anna thì không có con. Vào những ngày luật quy định, ông này thường rời quê mình lên Silô để thờ lạy Chúa các đạo binh và hiến dâng của lễ. Tại Silô, có hai người con của Hêli là Ophni và Phêni, cả hai đều là tư tế của Chúa. Ngày kia Elcana đi tế lễ, ông chia phần cho bà vợ Phênenna và tất cả các con trai con gái của bà. Ông buồn sầu chia cho Anna có một phần, mặc dầu ông yêu bà: vì Thiên Chúa để cho bà phải son sẻ. Cả đối thủ của bà cũng làm cho bà buồn phiền và nhục mạ bà, vì Chúa đã để bà phải son sẻ. Hằng năm, mỗi lần đến ngày lên đền thờ Chúa, Elcana đều chia phần như thế, và Anna cũng đều bị khiêu khích như vậy. Bà than khóc và không ăn uống gì. Vậy Elcana, chồng bà, đã nói với bà rằng: “Hỡi Anna, sao bà khóc, và không ăn uống gì? Sao bà buồn như vậy? Tôi đây chẳng quý hơn mười đứa con sao?”. Đó là lời Chúa. 

ĐÁP CA: Tv 115, 12-13. 14 và 17. 18-19

A+B:  Lạy Chúa, con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ (c. 17a). 

A) Con lấy gì dâng lại cho Chúa, để đền đáp những điều Ngài ban tặng cho con? Con sẽ lãnh chén cứu độ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa.

B) Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài. Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa.

A) Con sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài, trong nơi hành lang nhà Chúa, ở giữa lòng ngươi, Giêrusalem hỡi!

A+B:  Lạy Chúa, con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ (c. 17a).

ALLELUIA: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mc 1, 14-20

“Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: “Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Đang lúc đi dọc theo bờ biển Galilêa, Người thấy Simon và em là Anrê đang thả lưới xuống biển, vì các ông là những người đánh cá. Chúa Giêsu bảo các ông: “Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Lập tức bỏ lưới, các ông theo Người. Đi xa hơn một chút nữa, Người thấy Gia-côbê con ông Giêbêđê và em là Gioan đang xếp lưới trong thuyền, Người liền gọi các ông. Hai ông bỏ cha là Giêbêđê ở lại trên thuyền cùng với các người làm công, và đi theo Người. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

10/01/2022 – THỨ HAI TUẦN 1 TN

Mc 1,14-20

ĐƯỢC GỌI KHI ĐANG LÀM VIỆC

Đức Giê-su thấy ông Si-mon với người anh của ông là ông An-rê đang quăng lưới xuống biển…ông Gia-cô-bê, và người em là ông Gio-an… đang vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông…  Và các ông đi theo Người.” (Mc 1,16-20)

Suy niệm: Khởi đầu sứ mạng rao giảng, Đức Giê-su kêu gọi những kẻ Người muốn (Mc 3,13) để họ đi theo làm môn đệ và tiếp tục sứ mạng của Người. Bốn môn đệ đầu tiên này là những ngư dân chất phác, họ đang có một công việc, một cuộc sống ổn định và cũng đang chăm chỉ, miệt mài với công việc. Họ đang làm việc sinh sống thường ngày khi Người kêu gọi họ. Có thể họ đã được nghe giới thiệu, đã gặp gỡ Người, và họ đã khát khao đi theo Người. Hôm nay ước nguyện đó trở thành hiện thực: “Lập tức, họ bỏ mọi sự mà đi theo Người.” Họ vẫn là những ngư dân chất phác, nhưng giờ đây trở thành môn đệ Đức Ki-tô, họ được sai đi để “lưới người như lưới cá.”

Mời Bạn: Chu toàn việc bổn phận hằng ngày theo bậc sống mình là ơn gọi nên thánh của mọi người đã lãnh nhận bí tích Rửa Tội (x. Tông Huấn Ki-tô hữu Giáo Dân Christifideles Laici, số 16). Hơn thế, các Ki-tô hữu còn có thể biến đổi cuộc sống đời thường, công việc làm ăn sinh sống, thành cơ hội loan báo Tin Mừng như các môn đệ được kêu gọi và sai đi “lưới người như lưới cá”.

Sống Lời Chúa: Mỗi khi bắt tay làm việc gì, bạn xin Chúa thánh hoá việc bạn sắp làm và biến đổi việc ấy thành một lời loan báo Tin Mừng.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa luôn muốn chúng con mỗi ngày nên hoàn thiện hơn “như Cha trên trời” (Mt 5,48). Xin cho chúng con nghe được tiếng Chúa, can đảm dám dấn bước theo Chúa, góp phần xây dựng Giáo Hội của Chúa.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Sau khi chịu phép rửa của Gioan ở sông Giođan
Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải rời bỏ gia đình ở Nadarét,
phải chia tay với người mẹ thân yêu,
phải từ giã nghề nghiệp mà mình đã theo đuổi mấy chục năm trời.
Sau khi nhận Thánh Thần từ trên xuống,
Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải lên đường
dấn thân cho sứ mạng do Cha ủy thác.
Vùng Galilê là vùng Ngài bắt đầu rao giảng Tin Mừng về Nước Trời (c.14).
Ngài mời người ta sám hối và tin vào Tin Mừng mà Ngài rao giảng.(c.15).

Nhưng Đức Giêsu không nghĩ rằng mình có thể tự mình làm mọi sự.
Ngài cần người cộng tác, dù nước Ítraen chỉ là một nước bé nhỏ.
Đức Giêsu đi tìm môn đệ, và Ngài bắt gặp các anh đánh cá nơi hồ Galilê.
Có hai đôi anh em ruột đã lọt vào mắt của Ngài.
Ngài THẤY Phêrô và Anrê đang quăng lưới bắt cá.
“Hãy theo tôi. Tôi sẽ làm các anh thành những kẻ lưới con người” (c. 17).
Đây là một mệnh lệnh nhưng cũng là một lời mời thân thương.
Ngài GỌI họ đi theo Ngài, theo chính con người của Ngài,
chứ không phải theo một lý tưởng hay một chủ nghĩa nào đó, dù là cao đẹp.
Theo Ngài sẽ dẫn đến một thay đổi lớn nơi họ: từ lưới cá đến lưới con người.
Bây giờ con người là mối bận tâm của họ, không phải là cá như xưa nữa.

Đức Giêsu cũng thấy cặp anh em ruột thứ hai là Giacôbê và Gioan.
Họ đang vá lưới trong khoang thuyền với người cha.
Khung cảnh cha con thật êm đềm, tưởng như chẳng gì có thể làm xáo trộn.
Tiếng gọi của Thầy Giêsu vang lên, gây cuộc chia ly.

Bốn anh đánh cá đầu tiên này đã BỎ để dáp lại tiếng gọi của Thầy Giêsu.
Họ đã bỏ chài lưới, bỏ nghề dánh cá, bỏ những thú vui của sông nước.
Hơn nữa họ còn bỏ gia đình, bỏ vợ, bỏ cha, để gắn bó với Thầy Giêsu.
Họ bỏ một giá trị để sống cho một Giá Trị lớn hơn,
bỏ một tình yêu để sống cho một Tình Yêu lớn hơn.
Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về sự đau đớn khi phải từ bỏ như vậy.
Nhưng bỏ chính là để THEO (cc. 18.20).
Theo một Đấng sống không chỗ tựa đầu, và bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.

Hôm nay Đức Giêsu vẫn cần những con người dám sống cho người khác,
dám bỏ lại những điều rất quý giá và thân thương,
dám bỏ lại cuộc sống ổn định và ấm êm, tiện nghi và dễ chịu.
Xin cho chúng ta nghe được tiếng gọi thì thầm của Ngài và vui sướng đáp lại.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo Hội.

Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.

Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.

Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.

Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.

Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

10 THÁNG GIÊNG

Ánh Sáng Cho Các Dân Tộc

Lời Chúa giới thiệu cho chúng ta hình ảnh Đức Giê-su Na-da-rét như là “người tôi tớ của Thiên Chúa” đã được báo trước trong Sách Ngôn sứ Isaia, như là người được Thiên Chúa tuyển chọn và hài lòng. Trong tư cách là người tôi tớ của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chu toàn sứ mạng của Người với sự dấn thân trọn vẹn cho Thánh Ý Thiên Chúa; và Người nêu mẫu gương khiêm nhường trong quan hệ với mọi người. Như vậy, Thiên Chúa đã đặt Người “như một giao ước với con người”, “như một ánh sáng cho các dân tộc”, để đem lại ánh sáng cho người mù và trả lại tự do cho các tù nhân.

Người tôi tớ kỳ diệu ấy của Thiên Chúa là Đức Kitô, Đấng đã đến để đem ơn cứu độ cho nhân loại – như được mạc khải trong nước của phép Rửa. Trong Tin Mừng của Luca, Đức Giêsu được Gio-an làm phép Rửa. Bấy giờ trời mở ra, và Chúa Thánh Thần hiện xuống trên Đức Kitô trong hình một chim bồ câu. Rồi tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con Yêu Dấu của Ta; Ta hài lòng về Người.” (Mt 3, 17).

Giờ đây sấm ngôn xưa đã được ứng nghiệm. Thiên Chúa vui thỏa đối với tôi tớ của Ngài; Cha hài lòng về Con đời đời của mình. Bởi người Con ấy đã đảm nhận bản tính nhân loại. Với lòng khiêm nhường sâu thẳm, Người đã xin Gio-an làm phép rửa cho Người trong nước. Tuy nhiên, Gio-an Tẩy Giả chỉ là một vị tiền hô của Đức Kitô, và phép rửa của Gio-an trong nước chỉ là một chuẩn bị cho cuộc xuất hiện của Đấng Mêsia – một chuẩn bị để đón nhận ân sủng. Đức Giêsu, người tôi tớ khiêm nhường của Thiên Chúa, mới là người mang ân sủng đến và làm phép Rửa bằng Thánh Thần và bằng lửa.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 10/01

1Sm 1, 1-8; Mc 1, 14-20

Lời Suy Niệm: Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối, và tin vào Tin Mừng”.

          Thời kỳ đã mãn, mà Chúa Giêsu khi loan báo ngay từ đầu sứ vụ của Người, được Thánh Phaolô Tông Đồ nói trong thư Ga-lát là: “Thời gian Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người phụ nữ, và sống dưới Lề Luật.” (Gl 4,4) cũng như trong thư gởi cho giáo đoàn Ê-phê-sô: “Thời gian quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền thủ lãnh của Đức Kitô” (Ep 1,10). Để những ai trông đợi Người, không còn phải trông đợi nữa, nhưng phải biết Người đang hiện diện giữa họ, để họ biết canh tân đời sống của mình bằng cách sám hối và tin vào Lời Người. Để được Cứu Độ.

          Lạy Chúa Giêsu. Chúng con đang được ở trong ơn Cứu Độ của Chúa. Xin cho mọi thành viên trong gia dình chúng con vững tin vào Tin Mừng.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

10 Tháng Giêng

 Hạt Giống Của Hy Vọng  

Văn hào Shakespeare của nước Anh đã nói rằng: liều thuốc duy nhất còn lại cho những người khốn khổ chính là niềm Hy Vọng. Bao lâu còn hy vọng, bấy lâu con người muốn tiếp tục sống.

 Những người Mỹ tại một thành phố nọ thường truyền tụng cho nhau nghe câu chuyện nuôi niềm hy vọng của một gia đình nọ như sau: Có một đôi vợ chồng nọ vừa yêu người cũng lại vừa yêu thiên nhiên. Ngoài năm đứa con ruột thịt ra, họ còn nhận thêm năm đứa con nuôi. Niềm vui chung của mọi người trong nhà là được săn sóc vườn hoa và những thứ cây cảnh trong nhà. Người vợ tưởng chừng như không biết thế nào là đau khổ. Nhưng cả bầu trời như sụp xuống, vườn hoa trở thành hoang tàn, khi người chồng ngộ nạn, qua đời. Kể từ đó, người đàn bà không còn muốn ra khỏi nhà nữa. Thiếu bàn tay săn sóc của bà, ngôi vườn cũng mỗi lúc một tàn lụi.

 Mùa đông đến càng làm cho ngày tháng càng thêm ảm đạm hơn. Thế nhưng, một bữa sáng nọ, người đàn bà bỗng nghe tiếng cười nói và cào xới trong ngôi vườn. Kéo tấm màn cửa sổ phòng ngủ lên, bà thấy các con của bà đang hì hục xới đất. Trước sự ngạc nhiên của bà, người con cả trong gia đình chỉ mỉm cười đáp: “Má sẽ biết khi mùa xuân đến”. Và nguyên một mùa đông, ngày nào các con của bà cũng ra vườn để xới đất.

 Thế rồi khi mùa xuân đến, bao nhiêu hoa đẹp đều nở rộ trong vườn. Những hạt giống mà những người con đã âm thầm gieo vãi trong mùa đông nay thức giấc bừng dậy làm cho ngôi vườn trở thành tươi mát, sặc sỡ.

 Cùng với hạt giống của các thứ hoa, những người con đã gieo vào lòng người mẹ một thứ hạt giống khác: đó là hạt giống của Hy Vọng. Chính niềm hy vọng đó đã đem người đàn bà trở lại cuộc sống và đánh tan mọi buồn phiền trong tâm hồn bà.

 Câu chuyện trên đây có lẽ cũng chính là bức tranh của không biết bao nhiêu thăng trầm trong cuộc sống hiện tại của chúng ta. Có những ngày tháng, mọi sự xem chừng như vô vọng. Có những lúc mây mù của khổ đau bao phủ kín khiến chúng ta không còn thấy đâu là lối thoát. Chính trong những lúc đó, chúng ta hãy nhớ đến hạt giống của niềm Hy Vọng. Thánh Phaolô đã viết trong thư gửi cho các tín hữu Rôma như sau: “Chính trong niềm Hy Vọng mà chúng ta được cứu thoát. Chính trong niềm Hy Vọng đó, chúng hãy nhìn thấy Sức Sống đang chờ đợi chúng ta. Chính trong niềm Hy Vọng đó, chúng ta hãy nhìn thấy những hoa trái của những hạt giống mà chúng ta đã vất vả gieo vãi.

 Một người Hòa Lan và một người Mỹ bàn về ý nghĩa của hai lá cờ quốc gia. Người hòa Lan phát biểu một cách mỉa mai như sau: lá cờ của chúng tôi có ba màu: đỏ, trắng, xanh. Chúng tôi tức giận đỏ cả người lên, mỗi khi chúng tôi bàn đến thuế má. Chúng tôi run sợ đến trắng bệch cả người mỗi khi chúng tôi nhận được giấy thuế má. Và chúng tôi xanh như tàu lá sau khi đã trả hết các thứ thuế. Người Mỹ cũng nói lên một cảm tưởng tương tự mỗi khi nhận được các thứ giấy đòi nợ, nhưng lại bảo rằng: bù lại, chúng tôi chỉ thấy toàn các thứ sao.

 Sao trên bầu trời là biểu hiện của chính niềm Hy Vọng. Bên kia những vất vả thử thách, bên kia những mất mát, bên kia những thất bại khổ đau, phải chăng người Kitô chúng ta không được mời gọi để thấy được các ngôi sao của niềm Hy Vọng.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Hai – Tuần 1 – TN2

Bài đọc: I Sam 1:1-8; Mk 1:14-20.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Cùng nhau làm việc.

          Người Việt Nam chúng ta rất thành công khi làm việc một mình; nhưng thường thất bại khi phải làm việc chung với người khác. Lý do là vì chúng ta sợ: sợ bị mất quyền hành, sợ người khác hơn mình, sợ phải san sẻ lợi lộc cho người khác. Để có thể làm việc chung, chúng ta phải vượt qua những nỗi lo sợ này; phải cho các cộng sự viên của mình cơ hội để họ chứng minh họ xứng đáng với niềm tin của chúng ta; và phải nhìn thấy những mối lợi do sự làm việc chung mang lại hơn là lo sợ những gì chúng ta phải mất.

            Hơn nữa, để làm việc chung có hiệu quả, trước khi trao công việc, chúng ta phải: huấn luyện để các cộng sự viên biết làm những gì chúng ta trao cho họ; trao việc là phải trao quyền hành: cộng sự viên là những người đại diện chúng ta để giải quyết vấn đề, chúng ta cần cho họ biết trước những giới hạn về quyền hành nếu có; và phải giúp mọi phương tiện, để họ có thể thi hành sứ vụ được trao phó.

            Các Bài đọc hôm nay cho thấy ích lợi của làm việc chung: Trong Bài Đọc I, tác giả nêu lên sự tương phản giữa sự khinh thường và sự thông cảm hoàn cảnh đau khổ của bà Hannah. Bà Peninnah luôn tìm cơ hội để chọc tức và khinh thường; trong khi ông Elkanah luôn tìm dịp an ủi và yêu thương bà Hannah. Trong Phúc Âm, sau khi nhận lãnh sứ vụ từ Chúa Cha, Chúa Giêsu mời gọi 4 môn đệ đầu tiên để Ngài huấn luyện họ, trước khi sai họ đi để tiếp tục sứ vụ của Ngài trên trần gian.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài Đọc I: Hai thái độ trước nỗi đau khổ của tha nhân           

1.1/ Thái độ khinh thường và chọc tức của bà Peninnah: Trình thuật kể ông Elkanah có hai vợ: bà Peninnah và bà Hannah. Bà Peninnah có con, còn bà Hannah không có con. Hằng năm, ông Elkanah đưa gia đình lên thờ lạy và dâng hy lễ cho Đức Chúa các đạo binh tại Shiloh. Đến ngày ông Elkanah dâng hy lễ, ông thường chia các phần cho bà Peninnah, vợ ông, và cho các con trai con gái bà ấy. Còn bà Hannah, thì ông chia cho một phần ngon, vì ông yêu bà, mặc dù Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được.

            Ông Elkanah đối xử công bằng đồng đều và yêu thương mọi người trong gia đình; nhưng bà Peninnah thì không. Bà luôn kiếm cơ hội để chọc tức và hạ nhục bà Hannah, vì Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Đây là điều thường xảy ra cho những người có nhiều vợ, vì bà nào cũng muốn không những được chồng thương yêu; nhưng còn phải ghét bỏ những bà khác.

1.2/ Thái độ thông cảm với nỗi buồn tủi của bà Hannah: Khi nhìn thấy nỗi đau khổ của bà Hannah, ông Elkanah biết ông không thể thay đổi tính kiêu ngạo và ghen tị của bà Peninnah; nên ông dành tình yêu thương cho Bà Hannah nhiều hơn. Khi thấy bà khóc và không chịu ăn, ông Elkanah an ủi bà: “Hannah, sao em khóc? Sao em không chịu ăn? Sao lòng em rầu rĩ vậy? Đối với em, anh lại không hơn mười đứa con trai sao?”

            Làm vợ mà không có con là một sự sỉ nhục cho người đàn bà. Miệng lưỡi người thế gian thường cho là hậu quả của việc ăn ở thất nhân ác đức. Đó là lý do bà Hannah u sầu đau khổ: Bà biết mình không ăn ở thất nhân, ác đức; nên Bà đến cầu xin thống thiết với Thiên Chúa. Nếu Ngài thương cất nỗi nhục nhằn và ban cho Bà một mụn con trai, Bà sẽ dâng con trả lại cho Thiên Chúa, để nó phục vụ Ngài suốt đời; chứ Bà sẽ không giữ con cho mình. Thiên Chúa đã thấu hiểu nỗi đau khổ của Bà; nên qua miệng thầy cả Eli, Ngài hứa sẽ ban cho Bà điều Bà xin.     

2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu gọi 4 môn đệ đầu tiên.

2.1/ Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá: Trình thuật hôm nay bắt đầu sứ vụ công khai rao giảng của Chúa Giêsu sau 30 năm ẩn mình tại Nazareth. Sứ điệp của Chúa Giêsu cho mọi người: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại của Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy xám hối và tin vào Tin Mừng.” Hai điều quan trọng Chúa muốn nhấn mạnh đến:

            (1) Thời giờ đã điểm, triều đại của Thiên Chúa đã đến: Giống như Thư Do-Thái, Marcô nhấn mạnh đến sự xuất hiện quan trọng của Chúa Giêsu: tuy vẫn có sự liên tục trong Kế Họach Cứu Độ, nhưng Chúa Giêsu mang Kế-hoạch này đến chỗ hoàn hảo.

            (2) Anh em hãy xám hối và tin vào Tin Mừng: Đây là điều kiện để con người được hưởng Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa.

            Để kiếm người cộng tác loan truyền sứ điệp, Chúa Giêsu gọi các môn đệ đầu tiên. Ngài không xa lạ gì với Biển Hồ Galilee và dân chài lưới, có thể Ngài đã từng dạo chơi chung quanh, và đã nói chuyện với họ; nhưng hôm nay, Ngài mời gọi họ bỏ mọi sự để cất bước theo Ngài. Nghề đánh cá là nghề khó nhọc và đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn: phải thả lưới bắt cá khi nào cá đi tìm mồi, chứ không phải muốn thả lúc nào thì thả. Thời giờ bắt cá thường là đêm tối cho đến lúc tảng sáng, đó là giờ ngủ của con người. Chúa Giêsu chỉ hứa hẹn với các ông một điều: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Nói cách khác, Ngài hứa sẽ huấn luyện các ông để cứu vớt linh hồn của người ta. Ngài muốn cho các ông nhận ra ý nghĩa của cuộc đời bằng chính việc các ông đang làm: Đánh cá để kiếm của ăn sinh sống không quan trọng cho bằng việc đánh cá để cứu linh hồn các con người đang cần đến các ông.

2.2/ Thái độ của các môn đệ khi được Chúa Giêsu gọi.

            (1) Simon và Anrê: Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. Thái độ của hai ông đáp trả rất can đảm và dứt khóat. Can đảm vì phải bỏ nghề nghiệp sinh sống, các ông không chút thắc mắc “giải nghệ rồi làm gì ăn?” Dứt khóat vì quyết định rất nhanh chóng, không tiếc nuối chút nào cả.

            (2) Giacôbê và Gioan: Các ông bỏ cha mình là ông Zebedee ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người. Hai ông không những bỏ nghề mà còn bỏ cả cha, đấng sinh thành ra mình. Chúa Giêsu phải có điều gì lôi cuốn các ông hơn là nghề nghiệp và tình cảm gia đình.         

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            – Thiên Chúa có thể làm tất cả một mình, nhưng Ngài muốn sự cộng tác của con người. Ngài muốn con người cộng tác với nhau để cùng nhau sinh sống và giúp đỡ lẫn nhau. Để có thể làm việc chung, chúng ta cần tin tưởng, thông cảm, giúp đỡ, và tạo cơ hội thuận tiện cho tha nhân để họ có thể đóng góp vào công việc chung.

            – Chúng ta cần tuyệt đối tránh thái độ kiêu ngạo, khinh thường tha nhân, và sợ họ hơn mình. Để có được những điều này, chúng ta cần có tầm nhìn rộng lớn, tích cực, và những lợi ích do làm việc chung mang lại.

            – Chúng ta cần phản ứng cách tích cực trước lời mời gọi của Thiên Chúa; nhất là trong việc rao giảng Tin Mừng. Mỗi người được Chúa ban tài năng và hoàn cảnh khác nhau để góp phần trong việc mang Lời Chúa đến cho mọi người.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************