Ngày thứ hai (15-10-2018) – Trang suy niệm

14/10/2018

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Hai Tuần XXVIII Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: Gl 4, 22-24. 26-27. 31 – 5, 1

“Chúng ta không phải là con của nữ tỳ, nhưng là con của người vợ tự do”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, có lời chép rằng: Abraham có hai người con trai: một sinh bởi người nữ tỳ, và một sinh bởi người vợ tự do. Nhưng con sinh bởi nữ tỳ, thì đã sinh ra theo lối xác thịt, còn con sinh bởi người vợ tự do, đã sinh ra bởi lời hứa. Những sự ấy đã được nói cách bóng bảy, vì hai người vợ tiêu biểu cho hai giao ước: một bởi núi Sanai, sinh con cái làm nô lệ, đó là Agar. Còn Giêrusalem ở trên cao thì được tự do, đó là mẹ chúng ta, vì có lời chép rằng: “Hỡi người son sẻ, chẳng sinh con, hãy hân hoan! Hỡi người không sinh sản, hãy vui reo và hò lên! Vì con cái của người vợ bị ruồng bỏ, lại đông hơn con của gái có chồng”.

Bởi đó, anh em thân mến, chúng ta không phải là con của nữ tỳ, nhưng là con của người vợ tự do; chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát chúng ta. Anh em hãy đứng vững, đừng để bị đặt dưới ách nô lệ một lần nữa. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 112, 1-2. 3-4. 5a và 6-7

A+B=Nguyện danh Chúa được chúc tụng đến muôn đời! (c. 2).

A=Hãy ngợi khen, hỡi những người tôi tớ Chúa, chư vị hãy ngợi khen danh Chúa! Nguyện danh Chúa được chúc tụng từ bây giờ và cho đến muôn đời!

B=mặt trời mọc lên tới khi lặn xuống, nguyện cho danh Chúa được ngợi khen! Chúa siêu việt trên hết thảy chư dân, trên muôn cõi trời, là vinh quang của Chúa.

A=Ai được như Thiên Chúa chúng ta, Người để mắt nhìn coi khắp cả trên trời dưới đất? Người nâng kẻ hèn hạ lên khỏi trần ai, và rước người nghèo khó khỏi nơi phẩn thổ.

A+B=Nguyện danh Chúa được chúc tụng đến muôn đời! (c. 2).

ALLELUIA: Tv 118, 27

-Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 11, 29-32

“Không ban cho dòng giống này điềm lạ nào ngoài điềm lạ của tiên tri Giona”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, thấy dân chúng từng đoàn lũ tụ tập lại, Chúa Giêsu phán rằng: “Dòng giống này là dòng giống gian ác. Chúng đòi điềm lạ, nhưng sẽ không ban cho chúng điềm lạ nào, ngoài điềm lạ của tiên tri Giona. Vì Giona đã nên điềm lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là điềm lạ cho dòng giống này như vậy. Đến ngày phán xét, nữ hoàng phương nam sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì bà đã từ tận cùng trái đất mà đến nghe sự khôn ngoan của Salomon. Nhưng ở đây còn có người hơn Salomon. Dân thành Ninivê cũng sẽ đứng lên tố cáo và lên án dòng giống này, vì họ đã sám hối theo lời Giona giảng, nhưng ở đây còn có người hơn Giona nữa”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

15/10/2018 – THỨ HAI TUẦN 28 TN

Th. Tê-rê-xa Giê-su, tiến sĩ Hội Thánh

Lc 11,29-32

LỜI MỜI GỌI SÁM HỐI

“Trong cuộc phán xét, dân thành Ni-ni-vê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giô-na rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giô-na nữa.” (Lc 11,32)

Suy niệm: Trong các tôn giáo, sám hối không phải là một ý tưởng xa lạ. Đặc biệt, Phật giáo dạy phải sám hối nhằm loại bỏ những nghiệp căn để trở thành người tốt ở kiếp này và cả kiếp sau. Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng sáng lập Ki-tô giáo, cũng khởi đầu công cuộc rao giảng bằng lời mời gọi sám hối: “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Lời mời gọi sám hối của Đức Ki-tô mang tính cách đòi buộc và khẩn thiết như một mệnh lệnh. Là mệnh lệnh, trước hết, vì thế giá của Đức Ki-tô, người truyền lệnh, “còn lớn hơn ông Gio-na nữa.” Thứ đến là vì Chúa Giê-su kêu gọi sám hối không chỉ để tu dưỡng bản thân để trở nên người tốt, mà mục đích tối hậu của mệnh lệnh ấy là để chúng ta được trở nên một với Đức Ki-tô và được hưởng hạnh phúc với Ngài.

Mời Bạn: Trong Phụng Vụ của Giáo Hội không thiếu những lời kêu gọi sám hối. Ngoài bí tích Hoà Giải, mỗi thánh lễ đều bắt đầu bằng nghi thức sám hối. Mùa Vọng, mùa Chay là thời gian mời gọi con người hoán cải để chuẩn bị tâm hồn cử hành những mầu nhiệm trọng đại. Phụng Vụ Lời Chúa trong những tuần lễ cuối của Năm Phụng Vụ mời gọi các tín hữu ăn năn sám hối để hướng về ngày cánh chung. Qua đó, bạn thấy, sám hối cần thiết cho đời sống thiêng liêng là dường nào!

Sống Lời Chúa: Kiểm điểm đời sống mỗi ngày và xin ơn biết hoán cải.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa không ngừng kêu gọi chúng con hoán cải trở về với Chúa. Xin giúp chúng con hoán cải mỗi ngày. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

15 THÁNG MƯỜI

Tình Yêu Chúa Kitô Thúc Bách Các Nhà Thừa Sai Bác Ái

Sứ mệnh cứu thế của Đức Giêsu Na-da-rét đã được triển khai ở Ấn Độ, đặc biệt ở Calcutta, bằng một cách thế hết sức hùng hồn, thể hiện một lời chứng đích thực về Thiên Chúa. Đó là một lời chứng làm cho cả thế giới phải thán phục, một chứng tá làm rung động lương tâm nhân loại. Tôi đang muốn nói đến cuộc sống và hoạt động của một người phụ nữ: dù bà không sinh ra ở Ấn Độ, mọi người vẫn gọi bà là Mẹ Têrêsa Calcutta.

Cách đây ít năm, người phụ nữ này đã được tình yêu Chúa Kitô thúc bách để phục vụ Ngài nơi những người khốn khổ và bất hạnh nhất. Mẹ đã bỏ công việc dạy học để thành lập Hội Dòng Thừa Sai Bác Aùi. Qua những công việc phục vụ đầy ấn tượng cho những người nghèo khổ nhất, Mẹ Tê-rê-sa thi hành một cách cụ thể sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu: “mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Mẹ đã trao cho thế giới một bài học đầy khích lệ về lòng trắc ẩn và tình yêu chân thành đối với những ai cần được giúp đỡ. Tấm gương của mẹ đã biểu lộ sức mạnh cứu độ. Tấm gương ấy đang thôi thúc nhiều người nam cũng như nữ thể hiện những chứng tá phục vụ rất anh hùng. Quả thật, tấm gương của Mẹ Tê-rê-sa vẫn còn tiếp tục động viên họ kiên trì phục vụ không mệt mỏi.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 15/10

Thánh Têrêxa Giêsu, trinh nữ tiến sĩ Hội Thánh

Gl 4, 22-24.26-27.31-5,1; Lc 11, 29-32.

LỜI SUY NIỆM: “Khi dân chúng tụ họp đông đảo, Đức Giêsu bắt đầu nói: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giona. Quả thật, ông Giona đã là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy.”

            Chúa Giêsu đang sống và giảng dạy về Nước Thiên Chúa, cùng làm nhiều phép lạ giữa đám đông dân chúng, trong số họ có những người tin vào Người, nhưng cũng có những người hoài nghi, nên đã cố nài xin Người tỏ cho họ một dấu lạ. Nhưng Người đã từ chối. Bởi điều này Người đã công khai nói và làm, để tỏ cho họ biết rồi: “Phần các con, mắt các con có phúc vì được thấy, tai các con có phúc vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con, nhiều sứ ngôn, nhiều người công chính đã ao ước được thấy điều các con thấy mà không được, nghe điều các con nghe mà không được.” (Mt 13,16..). Trong đó họ đã nghe gì và thấy gì?  Trước hết là việc trừ quỷ, chính Chúa Giêsu đã giải thích: “Nếu tôi lấy quyền phép Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là Thiên Chúa đã đến với các ông.” (Lc 11,20..)

            Lạy Chúa Giêsu. Chúng con đang được tình yêu của Chúa thúc đẩy phải mang ánh sáng của Thiên Chúa hằng sống đến cho những ai không biết Chúa, hoặc chối từ Chúa. Xin cho chúng con thể hiện bằng chính đời sống đức tin của mình.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 15-10

Thánh TÊRÊXA AVILA

Đồng Trinh, Tiến Sĩ Hội Thánh (1515 – 1585)

Sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515, Têrêxa là một trong 12 người con của ông Anphong Cpêda, lớn lên tại Avila, vương quốc Castille, miền đất của mộng mơ và của các thánh “. Ngài ham thích đọc các sách dạy sống khổ hạnh và suy gẫm cuộc đời các thánh. Với lòng nhiệt thành, Ngài ngây ngất vì hạnh phúc vĩnh cửu ân thưởng cho những đau khổ của các thánh, cũng như kính sợ những khốn khổ của hoả ngục tồn tại mãi mãi. Ngài đã nói trong run sợ: – Ai có thể chịu nổi cái ý nghĩ như vậy được ?

Mong mỏi được tử đạo, một ngày kia, Ngài lén dẫn cậu em Rodrigue đi về miền dân dữ tợn đang hành hạ các Kitô hữu này. Nhưng mới đi được nửa dặm đường thì ông cậu bắt được và dẫn đưa về nhà. Không tử đạo được, các em sẽ trở thành những nhà ẩn tu. Các em làm những cái hầm và cầu nguyện lâu giờ tại đó. Nhưng rồi một ngày kia, những bức tường nhỏ bằng đá bị sập. Các em nhỏ thánh thiện này thường nhịn ăn để làm việc bác ái.

Năm 13 tuổi, tức năm 1528, Têrêxa mất mẹ, Ngài khấn nài Mẹ Maria là Mẹ. Chuỗi Mân Côi trở thành vịệc sùng kính đặc biệt của Ngài.

Têrêxa có một bản chất ngay thẳng, nhiệt hành và tha thiết mến Chúa. Khoảng 15 tuổi, Ngài lén đọc các truyện kiếm hiệp làm cho Ngài ra mơ mộng, lúc này, Ngài muốn mặc đẹp, xức dầu thơm, lo trang sức và thích được ve vãn. Chị em cho Ngài xinh đẹp. Một cô em họ ngây ngất không muốn rời xa Ngài. Họ nói truyện phiếm với nhau hàng giờ. Têrêxa nói: – Tôi được cứu thoát, chính là vì kính sợ Chúa, điều mà tôi không bao giờ bỏ mất, và vì sợ mất danh dự.

Ngài còn nói: – Tôi đã rất ghê tởm những điều bất lương.

Dầu vậy cha Ngài cũng lo âu và quyết định gởi Ngài học nội trú ở nơi các nữ tu dòng thánh Augustinô. Têrêxa không thích thú gì, nhất là đã không hề muốn rằng sau này mình sẽ là nữ tu. Nhưng Ngài phải vâng lời. Và Ngài sắp tìm lại được lòng đạo đức nhiệt thành của tuổi thơ khi sống gần các bậc thầy này. Hơn khi nào, Ngài khao khát những của cải đời đời. Nhưng đời sống khắc khổ trong tu viện làm Ngài run sợ.

Têrêxa ngã bệnh. Ngài trở về nhà cha và nghe ông cậu nhắc lại rằng mọi sự đời này chỉ là phù vân và sẽ qua mau như chớp. Sau cùng Ngài hiểu rằng: ơn gọi của mình là sống đời tu sĩ. Nhưng những chống đối dữ dội nổi lên trong lòng. Hơn nữa, Ngài phải coi thường những chối từ của cha Ngài. Năm 1536, Ngài vào dòng kín Camelô, sau khi phải chịu đựng cuộc chiến đấu kinh khủng với chính mình: để giã từ nhà cha, Ngài khổ sở đến dộ xương cốt như rã rời và tan nát con tim. Nhưng rồi Ngài đã mạnh mẽ thắng vượt mọi cám dỗ đau khổ.

Têrêxa đã trải qua 27 năm tại tu viện Nhập Thể, là nơi luật lệ được châm chước cho phép giải trí và tiếp khách, Ngài còn phải qua một bước dài trước khi dấn mình vào con đường cực nhọc để xây dựng và cải sửa các dòng tu. Trước hết, sức khỏe của Ngài xem ra không chịu đựng nổi. Bệnh tật, Ngài trở về nhà, các bác sĩ tuyên bố là bất trị, Ngài tín thác vào thánh Giuse và khỏi bệnh sau một cơn ngất trí. Trở lại tu viện, Ngài được chị em yêu mến.

Cách nói chuyện hấp dẫn của Ngài lôi kéo nhiều cuộc viếng thăm. Ngài kể lại:
– Một đàng Chúa gọi tôi, đang khác thì thế gian lôi kéo. Cuộc chiến nội tâm xâu xé tôi.

Ngày kia trong một câu chuyện trần tục, Ngài đã được thị kiến thấy Chúa Giêsu đầy thương tích. Têrêxa thấy đau lòng, nhưng Ngài còn phải chiến đấu nhiều để đạt tới chỗ chỉ yêu các tạo vật trong Chúa và vì Chúa. Trong nhiều năm, Ngài đã trải qua sự khô khan, qua cơn sợ hãi hỏa ngục. Trong vòng 20 năm Ngài đã không tìn ra cha giải tội hiểu được Ngài và muốn bàn về việc thị kiến. Thánh Phanxicô Borgia đã trấn an Ngài.

Sau cùng, các cha giải tội buộc Ngài ghi lại điều đã xảy ra trong tâm hồn. Và thánh nữ, một con người ít học, đã viết nên được những tác phẩm có giá trị, đến nỗi Ngài đã đáng được danh hiệu là Tiến Sĩ Hội Thánh.

Nếu trước hết, sự sợ hãi các khổ cực đời đời đã dẫn Têrêxa vào đường hẹp đưa tới chỗ cứu rỗi thì bây giờ tình yêu Chúa xâm chiếm Ngài như cơn hỏa hào. Các cuộc xuất thần tăng thêm. Ba Ngôi, Đức Trinh nữ, các thiên thần và các thánh hiện ra với Ngài. Ngài được nâng lên khỏi mặt đất và ở nguyên như vậy khi cầu nguyện. Vào tuổi 43, thánh nữ thường thấy Đấng cứu thế và nghe Người nói: – Cha không muốn con nói truyện với loài người, nhưng với các thiên thần.

Một thiên thần dùng giáo đâm thủng tim Ngài và Chúa Giêsu gọi Ngài là hiền thê. Cho tới cuối đời, Ngài đã hiệp nhất với đấng cứu chuộc bị đóng đinh và đã ước được chịu khổ vì Người đến nỗi người ta thường nghe Ngài kêu lên: – Lạy Chúa, hoặc là chết, hoặc là đau khổ.

Ngài tự ràng buộc bởi lời khân anh hùng này, là luôn làm điều thiện hảo hơn, nhưng lại chẳng tỏ ra nhiệm nhặt chút nào, trái lại còn nhanh nhẹn vui tươi duyên dáng tới độ gõ sênh mua vui cho các nữ tu dòng kín Camêlô. Vị nữ tu chiêm niệm này còn tỏ lộ một sự hiểu biết tích cực, một tinh thần thực tiễn sẽ đưa Ngài tới cuộc cải đổi dòng Camelô.

ịnh mệnh đặc biệt sắp đưa Ngài qua mọi chặng đường để thiết lập các tu viện. Trước hết năm 1562, khép mình ở Avila nhưng một nhà mang danh thánh Giuse, là nơi các nữ tu sống trong thinh lặng, nghèo khó, cầu nguyện, chay tịnh, đi chân không trong mọi mùa, Têrêxa ra khỏi nơi này và không ngừng thiết lập, tổ chức những tu viện mới. Hầu như luôn luôn bệnh hoạn, Ngài theo đuổi những cuộc hành trình mệt lả trước sự nóng nung, làm mồi cho các côn trùng tấn công hay những đêm lạnh lẽo mùa đông đã giữ Ngài lại trong những đoạn đường không tên không có nơi trú ẩn. Những cuộc bắt bớ tấn công Ngài. Ngài viết cho một ân nhân: – Cho tiền bạc chẳng là gì, nhưng khi chúng tôi như đến lúc bị ném đá, thì công việc lại trôi chảy.

Và khi mẹ đã vượt thắng mọi ngăn trở và thiết lập các tu viện mới, cơn đau đớn nhức nhối lại đợi chờ Ngài vì phải giã từ con cái yêu dấu để ra đi xây dựng tu viện ở nơi khác. Đây là: – Nỗi thống khổ đớn đau nhất. Tim tôi tan nát đau khổ nghĩ rằng: sẽ không còn gặp lại họ nữa.

Thánh Gioan thánh giá trợ lực, Ngài trải rộng việc canh tân tới các cha dòng Carmes mà Ngài muốn tái lập sự nghiêm ngặt ban đầu, điều gây nên cho Ngài nhiều xôn xao và dường như làm cho Ngài bị cầm tù. Nhà vua và đức giáo hoàng bảo vệ Ngài. Ngài đã thiết lập hơn 30 tu viện. Hoạt động chưa từng nghe thấy của Ngài, những việc thiết lập, những cuộc du hành, những khó khăn vô số… đã không ngăn cản Ngài vui hưởng sự hiện diện của Chúa, kiên trì cầu nguyện, và thường xuất thần, Ngài nói: – Tôi không hiểu tại sao người ta bảo tôi là nhà sáng lập, chính Chúa sáng lập chứ không phải tôi.

Người ta còn nói lại những phép lạ của Ngài, như tăng thêm đống bột để nuôi cả cộng đoàn. Khi đi qua đồng quê, nhiều gia đình lũ lượt xin Ngài ban phép lành.

Giữa các hoạt động lạ lùng, Têrêxa vẫn viết về đời mình mà Ngài gọi là sách các kỳ công của Chúa, và “Lâu Đài Nội Tâm” là nơi tâm hồn Ngài, từng phòng một vươn tới uy linh Chúa. Với sự linh hoạt, Ngài biết dùng vài lời tóm gọn tất cả sự thánh thiện:

– Phải can đảm để trở thành phụ nữ của vua trên trời.

– Đừng lo suy nghĩ nhiều, nhưng là yêu nhiều.

– Ta nhân đức hơn khi liên kết với nhân đức của Chúa, hơn là dính chặt với phận bụi đất của ta.

– Nỗ lực của ta là bắt chước con tằm, xây tổ của ta bằng cách tẩy trừ ích kỷ và thực hiện những việc xám hối cầu nguyện, hy sinh, vâng lời. Thiên Chúa sẽ biến ta thành bướm trắng khi Ngài muốn.

– Quan trọng là biết yêu mến và kính sợ, hai nhân đức vĩ đại.

– Khi bị đau khổ bên ngoài cần chăm lo làm việc bác ái và biết hy vọng vào lòng thương xót của Chúa.

Ngài có chút hài hước trong sự thánh thiện, như lời hóm hỉnh được biết đến nhiều, khi Ngài bị thương ở chân: – Lạy Chúa, sau bao nhiêu phiền muộn lại đến chuyện đó nữa, Cha đối xử với bạn hữu của cha như thế đó…. Vâng lạy Chúa của con, không lạ gì mà Chúa ít bạn.

Lòng Ngài rảo khắp thế giới: – Những người An độ nghèo khổ này làm tôi đổ bao nhiêu là nước mắt.

Têrêxa qua đời tại miền quê ở Albe de Tormès ngày 04 tháng 10 năm 1583. Chính tình yêu quá mức hơn là con bệnh đã đưa tới cái chết của Ngài. Khi đưa Thánh thể vào phòng, Ngài đã ngăn cho Ngài khỏi tung ra khỏi giường. Ngài đã la to: “Lạy Chúa, đến lúc chúng ta gặp nhau rồi”. Và đời đời, Têrêxa đã hiệp nhất với tình yêu.

Ngài được tuyên thánh năm 1628 và ngày 27 tháng 9 năm 1970, Đức giáo hoàng Phaolô VI đã đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh .

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

15 Tháng Mười

Người Ðàn Bà “Rất Ðàn Bà” 

Hôm nay là ngày kính nhớ thánh nữ Têrêxa Avila.

Vị nữ tiến sĩ hội thánh này đã sống trong một giai đoạn có nhiều xáo trộn nhất đối với Giáo Hội. Thánh nữ chào đời khi cuộc cải cách của người Tin Lành bắt đầu và qua đời khi Công Ðông Trento vừa chấm dứt. Ngài đã được Thiên Chúa ban cho Giáo Hội như một đóa hoa đẹp đẽ nhất giữa những gái góc đang ụp phủ trên Giáo Hội. Nhưng Têrêxa Avila cũng chỉ là một người đàn bà giống như rất nhiều người đàn bà khác. Ðẹp, có nhiều năng khiếu, đảm đang, đa tình… Têrêxa lại là một người đàn bà “rất đàn bà”. Thế nhưng nơi người đàn bà này, người ta thấy có nhiều tương phản: thông minh nhưng lại thực tế; biết nhiều nhưng không xa vời với kinh nghiệm sống; thần bí nhưng lại đầy nghị lực để trở thành một nhà cải cách.

Têrêxa là một người đàn bà hoàn toàn sống cho Chúa, nghĩa là một người đàn bà cầu nguyện, kỷ luật và biết cảm thông. Trái tim của Têrêxa hoàn toàn thuộc về Chúa. Ðã thách thức tất cả mọi chống đối của người cha để gia nhập dòng kín, Têrêxa cũng tiếp tục đương đầu với không biết bao nhiêu chống đối khác khi muốn cải tổ dòng kín. Người đàn bà yếu đuối này chỉ còn một nơi nương tựa duy nhất: đó là Thiên Chúa.

Là một người sống cho Chúa hoàn toàn, Têrêxa cũng hoàn toàn sống cho người khác. Canh tân cuộc sống của mình, Têrêxa cũng không ngừng đi khắp đó đây để giúp người khác canh tân cuộc sống.

Suốt cuộc đời trải qua trong gian lao và thử thách, về cuối đời, Thánh nữ đã thốt lên: “Ôi lạy Chúa, tất cả những ai làm việc cho Chúa đều được đpá trả bằng gian lao, khốn khó. Nhưng cao quý thay phần thưởng dành cho những ai yêu mến Chúa, nếu họ hiểu được giá trị của nó”.

Hiện nay, người ta nói đến rất nhiều thứ giải phóng, trong đó có giải phóng người phụ nữ.

Có lẽ tất cả những ai đang tranh đấu cho nữ quyền nên nhìn vào mẫu gương của thánh nữ Têrêxa Avila. Một người đàn bà đã có thể thực hiện được nhiều việc vĩ đại, nhưng bản chất đàn bà vẫn không hề thay đổi trong con người ấy. Phải chăng người đàn bà có thể đóng trọn vai trò của họ trong Giáo Hội và trong xã hội khi họ biết trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa đã trao ban qua nữ tính của họ!

Người nữ có phúc nhất trong những người nữ, người nữ cũng đã sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là Ðức Maria. Bí quyết để người nữ ấy thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người nữ và làm người của mình chính là hai tiếng “Xin vâng”. Thiên Chúa đã tạo dựng con người và đã quy định cho con người một định mệnh: định mệnh đó chính là sống cho Chúa. Ðức Maria, thánh nữ Têrêxa và bao nhiêu vị thánh nam nữ khác, đã thực hiện được định mệnh đó qua một cuộc sống hoàn toàn vâng phục ý Chúa. Chỉ có một sự bình đẳng duy nhất: đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Ðức Maria đã minh chứng được sự bình đẳng đó qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu rỗi của Ðức Kitô.

Trước mặt Chúa, mỗi người chúng ta đều có một chỗ đứng. Không có chỗ đứng nào cao trọng hơn chỗ đứng khác. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc ở sự đáp trả của chúng ta đối với tiếng gọi của Chúa.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Hai Tuần 28 TN2, Năm Chẵn

Bài đọc: Gal 4:22-24, 26-27, 31-5:1; Lk 11:29-32.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Kế họach Cứu Độ của Thiên Chúa.

Trong chương trình Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài đã chọn Dân Do-Thái ngay từ đầu và ký kết với họ một giao ước trên Núi Sinai. Theo giao ước cũ này, nếu họ giữ cẩn thận các giới răn Chúa truyền thì Ngài sẽ bảo vệ họ, và họ sẽ là Dân Riêng của Ngài. Nhưng như lịch sử đã chứng minh, họ đã không tôn trọng giao ước và Thiên Chúa đã để mặc họ cho kẻ thù phương Bắc xâm lấn và bắt làm nô lệ. Tuy nhiên, vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã ký với tòan thể con người (cả Do-Thái và Dân Ngọai) một giao ước mới. Theo giao ước mới này, con người sẽ được cứu độ: không bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật (việc không thể cho con người), nhưng bằng niềm tin vào Chúa Kitô và ân sủng của Thánh Thần. Dẫu vậy, nhiều người Do-Thái vẫn ngoan cố tin vào giao ước cũ và bắt Dân Ngọai cũng phải làm như họ. Trong Bài đọc I, thánh Phaolô dùng Cựu Ước để chứng minh giao ước mới đã được báo trước để thay thế giao ước cũ qua câu truyện của Sarah và Hagar. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu cảnh cáo người Do-Thái đừng nên khinh thường Dân Ngọai. Tuy họ không được hưởng các đặc quyền như Dân Do-Thái, nhưng họ đã biết tận dụng những gì Chúa ban để học hỏi và ăn năn xám hối.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Anh em là những người con sinh ra do lời Thiên Chúa hứa.

1.1/ Hai giao ước cũ và mới trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa: Thánh Phaolô dùng cách cắt nghĩa Kinh Thánh theo kiểu lọai suy (allegorical) ở đây: Ông Abraham có hai người con: Isaac và Ishmael, mẹ của Ishmael là một người là nô lệ (Hagar), mẹ của Isaac là người tự do (Sarah). Con của người mẹ nô lệ thì sinh ra theo luật tự nhiên (ăn ở giữa Abraham và Hagar); còn con của người mẹ tự do thì sinh ra nhờ lời hứa của Thiên Chúa với tổ phụ Abraham.

Thánh Phaolô cắt nghĩa: Truyện đó ngụ ý thế này: Hai người đàn bà là tượng trưng cho hai giao ước. Giao ước thứ nhất tại núi Si-nai, thì sinh ra nô lệ: đó là Ha-gar. Ha-gar chỉ núi Si-nai trong miền Ả-rập, và tương đương với Giê-ru-sa-lem ngày nay, vì thành này cùng với các con đều là nô lệ. Còn Giê-ru-sa-lem thượng giới thì tự do: đó là mẹ chúng ta. Thật vậy, có lời chép: Reo mừng lên, hỡi người phụ nữ son sẻ, không sinh con; hãy bật tiếng reo hò mừng vui, hỡi ai chưa một lần chuyển dạ, vì con của phụ nữ bị bỏ rơi thì đông hơn con của phụ nữ có chồng!

1.2/ Như Isaac, anh em là những người con sinh ra do lời Thiên Chúa hứa: “Nhưng cũng như thuở ấy đứa con sinh ra theo luật tự nhiên đã ngược đãi đứa con sinh ra theo thần khí, thì bây giờ cũng vậy. Thế nhưng Kinh Thánh nói gì? Kinh Thánh nói: Tống cổ người nô lệ và con của nó đi, vì con của nô lệ không đời nào được thừa kế gia tài cùng với con của người tự do.”

Vì thế, giao ước cũ đã được thay thế bằng giao ước mới; sự nô lệ cho Lề Luật đã được thay thế bằng sự tự do sống theo Thánh Thần, như thánh Phaolô khuyên các tín hữu của ngài: “Ấy vậy, thưa anh em, chúng ta không phải là con của một người nô lệ, nhưng là con của người tự do. Chính để chúng ta được tự do mà Đức Ki-tô đã giải thoát chúng ta. Vậy, anh em hãy đứng vững, đừng mang lấy ách nô lệ một lần nữa.”

2/ Phúc Âm: Hưởng đặc quyền càng nhiều, bị phán xét càng nặng.

2.1/ Đòi hỏi phép lạ: Người Do-Thái tìm kiếm phép lạ, và Chúa đã làm nhiều phép lạ giữa họ. Nhưng mục đích của phép lạ là để khơi dậy niềm tin. Sau khi đã làm nhiều phép lạ mà họ vẫn không tin nên Đức Giê-su bắt đầu nói: “Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Jonah. Quả thật, ông Jonah đã là một dấu lạ cho dân thành Nineveh thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy.” Tại đây Chúa Giêsu muốn nói: như tiên tri Jonah đã ở trong bụng cá 3 ngày 3 đêm, Chúa Giêsu cũng ở trong mồ 3 ngày 3 đêm như vậy, và sau đó Ngài sẽ sống lại.

2.2/ Cần phản ứng thích đáng khi được hưởng đặc quyền: Chúa Giêsu đưa ra 2 ví dụ cho người Do-Thái phải suy nghĩ:

2.2.1/ Nữ Hòang Phương Nam: là người đến với Vua Solomon từ Phi Châu để học sự khôn ngoan của Vua. Thế mà Chúa Giêsu còn khôn ngoan hơn Vua Solomon đang ở giữa và dạy dỗ họ, họ đã từ chối không nghe và tin vào Ngài. Vì thế, “trong cuộc Phán Xét, Nữ Hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với những người của thế hệ này và bà sẽ kết án họ, vì xưa bà đã từ tận cùng trái đất đến nghe lời khôn ngoan của vua Solomon; mà Chúa Giêsu còn hơn vua Solomon nữa.”

2.2.2/ Dân Thành Nineveh: là thành của Dân Ngọai (Bắc của Iraq hiện giờ). Họ đã sẵn sàng nghe lời giảng dạy của tiên tri Jonah dù chỉ một lần và đã ăn chay, xức tro, và mặc áo nhặm trở về với Chúa. Thế mà Chúa Giêsu còn cao trọng hơn tiên tri Jonah đang đứng giữa họ để dạy dỗ và kêu gọi họ bỏ đàng tội lỗi, ăn năn trở lại với Thiên Chúa, mà họ vẫn giả điếc làm ngơ. Vì thế, “trong cuộc Phán Xét, dân thành Nineveh sẽ chỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Jonah rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Jonah nữa.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta phải siêng năng học hỏi để nhận ra những đặc quyền mình đang được hưởng. Đừng ngoan cố như những người Do-Thái, mặc dầu đã được thánh Phaolô chỉ dạy cho là họ không thể nào được cứu rỗi bằng việc giữ Luật (giao ước cũ), mà chỉ có thể được cứu độ bằng việc tin vào Chúa Kitô (giao ước mới); thế mà họ cứ ngoan cố trong niềm tin của họ vào Luật và dạy các tín hữu Galat làm như thế.

– Chúng ta cần biết nắm lấy cơ hội Thiên Chúa gởi đến trong cuộc đời. Như Nữ Hòang Phương Nam lặn lội tìm đến để học sự khôn ngoan của Vua Solomon, chúng ta cũng cần chạy đến với những người rao giảng để học hỏi sự khôn ngoan của Thiên Chúa trong Kinh Thánh. Như dân Thành Nineveh đã nghe lời giảng dạy của tiên tri Jonah mà ăn năn trở lại, chúng ta cũng cần biết nghe lời mời gọi của Mẹ Giáo Hội qua các Mục Tử để năng kiểm điểm cuộc sống và quay trở về làm hòa cùng Thiên Chúa.

– Nếu không biết tận dụng các cơ hội của Chúa ban, chúng ta sẽ không có lý do nào để trách Chúa trong Ngày Phán Xét; vì sẽ có nhiều người tố cáo chúng ta là nếu họ có được những cơ hội như chúng ta đã có, thì họ đã ăn năn trở lại từ lâu rồi.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************