Ngày thứ hai (22-06-2020) – Trang suy niệm

21/06/2020

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Hai Tuần XII Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I:     2 V 17, 5-8. 13-15a. 18

“Chúa xua đuổi Israel khỏi mặt Chúa và chỉ còn lại chi họ Giuđa”.

Trích sách Các Vua quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, Salmanassar, vua dân Assyria, xâm chiếm khắp miền và bao vây Samaria trong ba năm. Năm thứ chín đời vua Hôsê, vua Assyria chiếm được Samaria, và đem dân Israel sang Assyria, định cư họ ở Hala và ở Habor, gần sông Gozan, và trong các thành thuộc nước Mêđia.

Xảy ra như thế, vì con cái Israel phạm đến Chúa là Thiên Chúa họ, Đấng đã đưa họ ra khỏi Ai-cập, khỏi quyền lực Pharaon, vua nước Ai-cập. Họ đã thờ các thần ngoại bang; họ noi theo các tập tục của dân ngoại mà Chúa đã xua đuổi trước bước tiến của con cái Israel, và họ đã theo các nghi lễ mà vua Israel đã quy định.

Chúa đã dùng các tiên tri, các vị tiên kiến mà khuyến cáo Israel và Giuđa rằng: “Các ngươi hãy cải tà quy chính, hãy tuân giữ các điều răn và nghi lễ, theo đúng lề luật Ta đã dùng các tiên tri tôi tớ Ta mà truyền cho cha ông các ngươi, và chuyển lại cho các ngươi”. Nhưng họ không muốn nghe. Họ cứ cứng đầu cứng cổ như cha ông họ, không muốn vâng phục Chúa là Thiên Chúa. Họ chối bỏ các huấn lệnh của Chúa và lời giao ước Người đã ký kết với cha ông họ, và cả những mệnh lệnh rõ ràng Người đã truyền, nên Chúa nổi giận dân Israel, và xua đuổi họ khỏi mặt Chúa. Chỉ còn lại chi họ Giuđa mà thôi. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 59, 3. 4-5. 12-13

Đáp:  Lạy Chúa, xin Chúa ra tay hữu phù trợ và nhậm lời chúng con (c. 7b).

Xướng:

1) Ôi Thiên Chúa, Ngài đã hất hủi chúng con, Ngài đã làm cho hàng ngũ chúng con tan rã, Ngài đã thịnh nộ, nhưng xin cho chúng con được phục hồi! – Đáp.

2) Ngài đã rung động đất nước và xâu xé, xin hàn lại chỗ đổ vỡ, vì nó đang xiêu té. Chúa để dân Ngài gặp những thử thách cam go, Ngài cho chúng con uống thứ rượu say mê choáng váng. – Đáp.

3) Ôi Thiên Chúa, há không phải Ngài đã hất hủi chúng con ư? Ôi Thiên Chúa, Ngài đã không xuất trận cùng quân đội chúng con. Xin Chúa giúp đỡ chúng con chống lại quân thù, vì sự hỗ trợ của người trần là vộ hiệu quả. – Đáp.

ALLELUIA: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 7, 1-5

“Hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy. Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: ‘Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh’, và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Đồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

22/06/2020 – THỨ HAI TUẦN 12 TN

Th. Pao-li-nô, giám mục Nô-la

Mt 7,1-5

“MÊ” GIÊ-SU Ở ĐIỂM NÀY!

“Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy.” (Mt 7,1-2)

Suy niệm: Xét đoán. Bạn và tôi đã từng đoán xét ai chưa? Câu hỏi này có lẽ sẽ đụng chạm đến chúng ta ngay. Đức giáo hoàng Phanxicô rất nhiều lần nhắc nhở thói xét đoán, nói xấu, như căn bệnh trầm kha khó chữa lành. Chính Đức Giê-su dạy ta đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Dĩ nhiên, chính Ngài cũng đã sống lời khuyên này. Chúng ta hãy nhớ lại cung cách của Ngài trong câu chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Trong khi mọi người lên án phải ném đá chị, Ngài mời gọi họ phải tự xét mình trước khi xét người. Rồi nhắc nhở chị về bình an và từ nay đừng phạm tội nữa. Hay trên  thánh giá, Ngài xin Cha tha tội cho đội hành hình – ta quen gọi là quân dữ – dù họ đã làm nhiều điều ác cho mình. Con người hôm nay thích bêu xấu người khác, đặc biệt qua phương tiện truyền thông, quen gọi là “ném đá.” Là môn đệ Ngài, ta kính phục, “say mê” Ngài, sống tinh thần khoan dung của Ngài.

Mời Bạn: Hôm nay, ngày mai, ngày mốt, bạn và tôi có dám chắc là bỏ thói quen xét đoán này không? Chỉ khi bạn “say mê” Giê-su, muốn rập theo cách sống của Ngài, chỉ khi tin tưởng, say mến Thiên Chúa, thì trái tim bạn mới đủ lớn để sống như Giê-su: một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình.

Sống Lời Chúa: Thực hành cung cách sống của Đức Giê-su: nhẫn nại, bao dung, luôn sẵn lòng tha thứ: “Vì tôi đến không phải để xét xử thế gian, nhưng để cứu thế gian.” (Ga 12,47).

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin dạy con đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy Niệm

Mỗi ngày chúng ta đưa ra biết bao nhận xét về người khác.

Thầy cô phải nhận xét về học trò, cấp trên phải nhận xét về thuộc hạ.

Việc lượng giá về từng cá nhân thường rất cần thiết và hữu ích.

Trong đời sống tu trì, vẫn có chuyện anh em sửa lỗi cho nhau.

Nói chung, sống thì phải đưa ra những phán đoán về người khác.

Nhưng làm sao để phán đoán ấy không trở nên một xét đoán lệch lạc?

Đức Giêsu dạy ta biết cách xét đoán qua bài Tin Mừng hôm nay.

“Anh em đừng xét đoán”: thật ra Đức Giêsu không cấm mọi thứ xét đoán.

Ngài còn dạy các môn đệ biết cách phân biệt ngôn sứ giả và thật (Mt 7,15),

phân biệt người xứng đáng và người không xứng đáng (Mt 10, 11),

biết cách đề phòng thói xấu của nhóm Xađốc và Pharisêu (Mt 16, 6).

Đức Giêsu chỉ đòi các tín hữu sống trong cộng đoàn huynh đệ

phải tránh lối xét đoán thiếu bao dung, khắc nghiệt,

mà quên chính mình cũng có những lỗi lầm lớn hơn nhiều.

“Anh em xét đoán thế nào, thì cũng bị Thiên Chúa xét đoán như vậy” (c. 2).

Ngài muốn ta nhẹ tay và nhân từ khi cần phải xét đoán người anh em.

Vì cái đấu ta dùng để đong cho họ, Thiên Chúa sẽ dùng để đong cho ta.

Đấu đong đi càng lớn, đấu đong lại càng đầy.

Chỉ cần thay đổi cái đấu ta vẫn quen dùng, là cuộc đời của ta thay đổi.

Đức Giêsu dùng một hình ảnh liên quan đến nghề mộc của Ngài,

để nói về chuyện người đạo đức giả.

Đó là hình ảnh bụi mùn cưa trong mắt người khác và cái xà trong mắt mình.

Một cái thì thật bé, một cái thì to đến độ khó lòng ở trong mắt được.

Hình ảnh phóng đại này hẳn làm ai cũng phải buồn cười.

Tôi thấy lỗi bé nơi anh em, nhưng lại không để ý tới lỗi lớn nơi tôi.

Tôi hăng hái xin được lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh em,

nhưng lại rất khoan dung với cái xà trong mắt mình.

Đức Giêsu hóm hỉnh khuyên chúng ta nên lấy xà ra khỏi mắt trước đã,

rồi mới thấy tỏ tường để lấy hạt bụi mùn cưa khỏi mắt anh em.

Điều khó vẫn là thấy được cái xà trong mắt mình.

Lẽ ra tôi phải thấy ngay vì nó quá lộ liễu, ai cũng thấy.

Nhưng nó khó thấy, vì tôi không muốn thấy cái xấu của mình.

Càng có quyền, có chức, có uy tín, có tuổi tác và kinh nghiệm,

càng khó chấp nhận nếp nhăn nơi khuôn mặt mình.

Giá mà tôi thấy được cái xà nơi mắt tôi,

chắc tôi đã không dám đòi lấy hạt bụi nơi mắt người khác,

hay nếu có được ai nhờ lấy đi nữa,

thì cũng chỉ lấy một cách khiêm hạ, nhẹ nhàng.

Trong bài hát “Chúa Hòa Bình” của Phạm Duy có câu:

“Nếu có ai lầm lỡ, rồi sinh ra khắt khe…”

Chỉ mong chúng ta, nhờ thấy mình lầm lỡ và đã được Chúa thứ tha,

nên sinh ra dễ cảm thông với lỗi lầm người khác.

 

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.

Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.

Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.

Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

22 THÁNG SÁU

Thiên Chúa Mời Gọi Đích Danh Mỗi Người Chúng Ta

Đồng thời, chúng ta cũng gặp thấy nơi truyền thống một hành trình kiên thủ trong đức tin. Ở đây, Giáo Hội là bạn đồng hành luôn sát cánh với con người. Giáo Hội luôn sẵn sàng khi con người yêu cầu những cách thế mới của sự quan phòng của Thiên Chúa. Các Công Đồng Vatican I và II, mỗi Công Đồng theo cách riêng mình, là những tiếng nói quí giá của Chúa Thánh Thần mà chúng ta không được phép dửng dưng. Giáo Hội mời gọi chúng ta suy tư lại về những chân lý sống động mà các Công Đồng ấy đã nêu ra, cũng như suy tư lại về những tài liệu quan trọng của truyền thống.

Mọi câu hỏi nghiêm túc phải nhận được một câu trả lời thấu đáo. Đó là lý do tại sao chúng ta đang liên hệ tới những khía cạnh khác nhau của sự quan phòng thần linh trong nhiệm cục sáng tạo và cứu độ. Vì thế , chúng ta hãy dành thời gian để suy tư về chân lý vĩnh cửu mãi mãi tồn tại ấy. Đây là sự khôn ngoan siêu việt mà Thiên Chúa yêu thương con người và mời gọi con người tham dự vào trong kế hoạch cứu độ của Ngài. Con người được mời gọi nhận ra sự săn sóc ân cần của Thiên Chúa và hợp tác với ơn cứu độ của Ngài.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 22/6

Thánh Paulinô, giám mục Nôla,

Thánh Gioan Fisher, giám mục, tử đạo

và Thánh Tôma More, tử đạo

2V 17, 58.13-15a.18; Mt 7, 1-5.

Lời Suy Niệm: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy.”

       Theo lời của Chúa Giêsu hôm nay; Giáo hội giúp cho người Kitô hữu trong việc xết đoán: “Con người luôn phải tuân theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình. Nếu chủ ý hành động nghịch với phán đoán đó, con người tự kết án mình.” (GL 1790)

       Lạy Chúa Giêsu. Xin cho chúng con luôn chú tâm đến những lỗi lầm của cá nhân mình, còn những lỗi lầm của những người anh em khác dành để Chúa lo liệu.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 22-06: Thánh GIOAN FISHER

Giám Mục (1469 – 1535)

Thánh Gioan Fisher sinh tại Beverly, Yorkshire là con của một thương gia giàu có. Cha Ngài đã qua đời năm 1477. Khoảng năm 1482, Ngài được Mẹ gởi tới đại học Cambriage và đã trở thành một học giả nổi danh. Năm 1941, Ngài thụ phong linh mục. Sau mười năm học thần học. Năm 1501, và sau này Ngài được coi như một trong các nhà thần học hàng đầu của Âu Châu.

Đại học sớm nhận ra khả năng quản trị của Ngài, lần lượt Ngài đã giữ chức vụ giám thị, phó chưởng ấn, rồi chưởng ấn. Năm 1514, Ngài được chọn làm chưởng ấn suốt đời.

Ngài được đặt làm giám mục Rochester năm 1504 và Ngài đã là một mục tử chân chính, lo khích lệ các linh mục bằng sự quan tâm tới cuộc sống của các Ngài. Là một nhà giảng thuyết thời danh, Ngài làm hết sức để có thể cung ứng cho Giáo hội các linh mục đầy đủ khả năng giảng dạy dân chúng.

Do ảnh hưởng của Ngài mà Erasnius được đưa vào giảng dạy tiếng Hy lạp ở đại học Cambrige Erasmus. Tôma More cũng đã trở thành bạn thân của Gioan Fisher. Năm 1516, có bản văn ghi chép về cả ba nhân vật này ở Rochester.

Ngài Tôma More làm Tổng quản lý đại học Cambrige. Từ năm 1525 đến những năm sau đó Tôma và Gioan Fisher hợp tác với nhau để đáp ứng người chống lại lạc thuyết của Lutherô. Đức giám mục Gioan Fisher đã viết cuốn Confutatio (1523) bằng tiếng Latinh. Đó là cuốn sách của thần học gia viết cho các thần học gia. Người tín hữu (More) viết cuốn Dialogue concerning Heresies (1528) cho giới bình dân.

Năm 1527, năm định mệnh cho nước Anh vì là lúc, Henri VIII đi bước đầu, tới việc tiêu hủy hôn nhân của ông với Catarina miền Atagon. Năm 1501 bà thành hôn với Arthur, anh của vua. Nhưng được sáu tháng thì Athur từ trần. Năm 1509, đức Giáo hoàng cho phép vua được thành hôn với người vợ goá của anh mình. Về sau, vì không có con trai để nối dõi, ông tìm cách phá hủy hôn nhân này vịn cớ là phép chuẩn của Đức Giáo hòang không thành. Đức Hồng y Wolsey hỏi ý kiến Đức cha Gioan Fisher. Sau khi nghiên cứu đầy đủ đức giám mục kết luận là phép chuẩn của Đức Giáo hoàng thành. Ngài giữ vững lập trường này mãi. Henry coi sự chống đối này là như một hành vi bội phản.

Năm 1534 có luật thừa kế. Luật này tuyên bố rằng hôn phối với Catatina là vô hiệu và hôn nhân với Anna Boleyn là hợp pháp. Quyền kế vị thuộc về con bà ta. Mọi người phải thề nhận trọn đạo luật này. Đức giám mục Gioan Fisher từ chối. Tôma More cũng vậy, bởi vì đạo luật bao hàm việc coi phép chuẩn của đức giáo hoàng là bất thành.

Ngày 17 tháng 4 năm 1534, đức giám mục Gioan Fisher và Sir Tômas More bị xử tại Tower và bị giam biệt ra. Ngày 20 tháng 5 năm 1535 đức giám mục Gioan Fisher được phong làm hồng y . Điều này làm nhà vua giận dữ và vội vã lập toà án chống lại đức tân hồng y.

Ngày 17 tháng 4 năm 1535, Ngài bị xử là bội phản. Ngày 17 tháng 6 năm 1535, Ngài bị xử là bôi phản. Ngày 22, Ngài bị chém đầu, thân xác trần trụi của Ngài bi bỏ lại pháp trường cho đến khi được chôn cất vội vã không một nghi thức tang lễ trang Hallows. Đầu Ngài bị treo ở Lôndôn Bridge cho tới ngày 6 tháng 7 rồi bị ném xuống sông Thames … nhường chỗ cho đầu bạn Ngài là Tomas More.

*************************
Ngày 22-06: Thánh TOMA MORE

(1478 – 1535)

Thánh Toma More sinh tại Luân Đôn ngày 06 tháng 2 năm 1478 trong một gia đình mà chính Ngài đã nói: “Không danh giá nhưng lại lương thiện”. Lên 12 tuổi, Ngài giúp việc Đức Hồng Y Morton tổng giám mục giáo phận Canterbury. Hai nămsau, Ngài được gởi học tại Ozford. Để cho Ngài chăm chú học hành, cha Ngài đã giới hạn việc cung cấp tiền bạc đến nỗi Ngài không có tiền để sửa đổi giày. Vào tuổi 15, Ngài bỏ Ozford tới Luân Đôn.

Ba năm sau, tức năm 1493, Ngài gặp Eramus trong khi ông thăm viếng nước Anh lần đầu tiên. Vừa học, vừa trắc nghiệm ơn kêu gọi tu trì trong bốn năm sống tại Luân Đôn.

Cuối cùng More quyết định rằng: Ngài không có ơn gọi sống bậc tu trì. Ngài bước vào hôn nhân một cách đặc biệt, Ngài chọn cô em gái thứ xinh đẹp và dễ thương. Nhưng rồi thấy rằng người chị sẽ đau khổ và xấu hổ nếu cô em lập gia đình trước. Vì thế Ngài cưới cô chị. Họ sống với nhau được 4 năm thì bà vợ qua đời. Một năm sau Tôma More tái hôn với người khác mà không có con. Người vợ mới hay nóng giận, nhưng gia đình thật êm thắm.

Ba người con gái cũng như người con trai của Ngài đều được giáo dục rất cẩn thận. “Trong gia đình này không có ai làm biếng cả…”

Thực tế các cô con gái Ngài thông minh đến nỗi được mời tới trước mặt vua để tranh luận về triết học. Bầu khí gia đình hạnh phúc còn là nơi tụ tập của nhiều loại người, từ những người yếu đau già cả tới những kẻ thông thái. Erasmus cũng là một người bạn thân của gia đình này. Lần kia, khi được tin kho lúa bị thiêu rụi Tôma có viết thư cho vợ: “Có lẽ chúng ta có lý do để cảm tạ Chúa vì sự mất mát này hơn là về những cái chúng ta tích lũy được”.

Và Ngài cũng lo lắng cho hàng xóm.- “Anh không muốn còn đầy muỗm nếu một trong số họ chịu thiệt thòi vì tai nạn xảy đến cho chúng ta”.

Toma More cũng viết cuốn Utophia, nói về một hòn đảo hạnh phúc đầy tưởng tượng. Ngài cũng viết cuốn “Dialogue concerning Heresies” (Đối thoại về các lạc thuyết). Danh tiếng của Ngài như một luật sư đã lôi kéo được sự chú ý của vua Henry III. Vua thúc ép Ngài phục vụ triều đình. More bằng lòng và trở nên giàu có. Được phong làm hiệp sĩ và năm 1523 được đặt làm phát ngôn viên của thư viện thứ dân.

Tuy nhiên năm 1527, nhà vua muốn chấm dứt đời sống hôn nhân với hoàng hậu Catarina và cưới Anna Boleyn. Toma More trách cứ nhà vua và bị thải hồi. Một ngày kia bá tước Norfolk thấy rằng: Ngài sẽ bị nguy hiểm nếu chống lại nhà vua. Nhưng bình tĩnh Ngài trả lời: – Thưa Đức ông, tất cả có thể thôi sao ? Thực sự có điều này khác biệt giữa Ngài và tôi là: Hôm nay tôi chết, nhưng Ngài cũng sẽ chết ngày mai.

Ngày 12 tháng 4 năm 1534, Toma More được mời để tuyên thệ nhận Anna More Boleyn và từ bỏ uy quyền của đức giáo hoàng, Ngài từ khước. 14 tháng tù ở là những ngày tháng cầu nguyện chẳng khác gì nơi tu viện. Trước toà án Ngài nói: – Vương quốc Anh không thể bất phục tòa thánh như một người con không thể bất phục cha mình.

Khi nghe tuyên án tử hình Ngài nói: – Thánh Phaolô đồng loã với cái chết của Stêphanô lại chẳng hợp nhất với Ngài trong cuộc sống vĩnh cửu sao ? Vậy, tôi sẽ cầu nguyện tha thiết cho các lãnh Chúa đã kết án tôi, để ít ra chúng ta sẽ gặp nhau trên trời sau này. Tôi cũng cầu xin Chúa toàn năng bảo vệ đức tin và gởi tới cho Ngài một lời khuyên tốt đẹp.

Bình thản, Ngài lên đường tới pháp trường, khi bước lên đoạn đầu đài, Ngài còn khôi hài nói: – Lúc xuống, chỉ mình tôi thủ lợi.

Ngài ôm người đao phủ và bảo: – Can đảm lên đừng sợ. Cổ tôi ngắn quá hãy cẩn thận vì danh dự của anh ở đó.

Tự bịt mắt, Ngài nằm lên đoạn đầu đài, vén râu lên Ngài nói: – Nó không phạm tội phản bội. Thánh Toma More đã chịu chết như vậy ngày 6 tháng 7 năm 1535 với tất cả trịnh trọng, vui tươi và đơn thành.

************************
Ngày 22-06: Thánh PAULINÔ NÔLANÔ

(355 – 431)

Thánh Paulinô sinh tại Bordeax khoảng năm 355. Cha Ngài là một pháp quan. Ngài được thụ huấn với nhà hùng biện và thi sĩ Ausônô. Ngài được thừa hưởng rất nhiều đất đai ở Gaule và Italia. Năm 378, Ngài trở nên danh tiếng trước pháp đình và được đặt làm chánh án. Khi sang Tây Ban Nha thăm các lãnh địa của gia đình Ngài kết hôn với Therasia, một thiếu nữ Tây Ban Nha và được hưởng thêm nhiều đất đai như của hồi môn. Khoảng năm 389, Ngài lãnh phép rửa tội ở Bordeauz và bắt đầu một cuộc đổi mới. Trước sự chán nản của Ausôniô và cơn thịnh nộ của gia đình, Ngài và vợ cũng không ngần ngại sống tiết độ: lần lượt bán đất đai và phân phát lợi nhuận cho dân nghèo. Chính Ngài chỉ mặc áo quần nghèo khó và ăn chay kham khổ.

Một biến cố đau lòng dẫn Ngài tới sự thánh thiện lớn lao hơn đó là cái chết của đứa con trai Ngài, Paulinô và Therasia toàn hiến cho Thiên Chúa. Họ giải phóng nô lệ, bán hết của cải và phân phát cho người nghèo. Còn Paulinô từ giã nghị trường và năm 394 hay là 395 chịu chức linh mục tại Barcelôna. Nhưng vì được kính phục ở Tây Ban Nha, nên ít lâu s au, Ngài đã ẩn mình sang Nôla miền nam nước Ý. Còn một ít đất đai ở đây, Ngài bán để xây một thánh đường dâng kính thánh Fêlixita.

Cuộc sống khắc khổ của Ngài bị chê cười. Thánh Anmbrôsiô ghi nhận: – “Có nhiều người theo thị hiếu của họ đã không ngạc nhiên gì khi chịu những thay đổi rất kỳ dị. Vậy mà khi có một Kitô hữu quan tâm tới sự trọn lành mà thay đổi thói quen của mình thì họ la lối giận dữ”.

Thánh Paulinô thường nói: – Phật lòng người để được lòng Chúa quả là một cuộc chạm trán hồng phúc.

Thánh Augustuinô cũng viết vào thời này: – Hãy đến Campania xem con người dòng dõi quý quyền tài ba và giầu có; hãy xem lòng đại độ mà người tôi tớ Chúa Kitô đã tự thoát để chiếm hữu Thiên Chúa. Hãy xem Ngài đã từ khước sự kiêu hãnh để ôm ấp sự khiêm tốn của thập giá thế nào.

Để trả lời những người thán phục đời nghèo khó tự nguyện của mình, thánh Paulinô viết:
– “Tôi ngạc nhiên khi người ta cho là có công một người mua ơn cứu rỗi đời đời bằng những cái mau tàn, khi người ta ca tụng hắn vì việc đổi đất lấy trời.

Ngài kêu gọi mọi người rộng tay bố thí: – “Sự nghèo khó của anh em bạn là một vốn liếng cho bạn, nếu bạn lo lắng chi người nghèo khó túng thiếu.

Và Ngài giải thích thêm: – Một người phải qua sông sẽ bơi tới bờ bên kia nếu biết rũ bỏ áo quần và dùng mọi năng lực để chống lại dòng nước chảy.

Dầu vậy còn phải biết tự chế nữa: – Hy sinh bề ngoài chẳng đáng kể. Hy sinh mà Chúa đòi chính là sự hy sinh trong lòng .

Thán phục, nhiều người muốn bắt chước thánh nhân. Nhà Paulinô trở thành một tu viện. Ngài viết một cách đầy thú vị: – Chúng tôi tiến tới một đời sống tốt đẹp hơn và khi lột bỏ gánh nặng trần gian, chúng tôi thấy như được gieo vào lòng một cái gì thần linh và được mọc cánh như các thiên thần.

Năm 409, Paulinô được đặt làm giám mục Nôla. Cuộc xâm lược của người Goth gieo kinh hoàng cho nước Ý. Họ cướp phá Rôma và bây giờ tàn phá Nola. Thánh Paulinô lấy tiền của Giáo hội để mua chuộc các tù nhân, nâng đỡ những người bất hạnh. Rơi vào hoàn cảnh khốn cùng, Ngài chỉ còn biết cầu nguyện: – Lạy Chúa, xin đừng để con bị dày vò bởi tiền bạc vì chưa biết rõ của cải con hiện ở đâu.

Thánh Gregoriô Cả còn gán cho thánh nhân một hành vi bác ái đầy quả cảm là bán mình để chuộc lại đứa con bị tù đày của một bà góa. Nhưng có lẽ Ngài đã lầm với Đức Paulinô III, giám mục Nôla thời chinh phục của người Vandales.

Cái chết năm 431 của thánh Paulinô được nhân chứng Uraniô kể lại. Từ giường chết, Ngài đã cử hành thánh lễ với hai giám mục đến thăm. 32 bài thơ và 51 lá thư của Ngài vẫn còn tới ngày hôm nay.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

22 Tháng Sáu

Romeo Và Juliet 

Một trong các vở tuồng bất hủ trên sân khấu kịch nghệ quốc tế phải kể là vở kịch mang tựa đề “Romeo và Juliet” của nhà văn hào trứ danh người Anh, ông William Shakespeare. Vở kịch này được sáng tác vào năm 1595, nhưng mãi cho đến nay, khi vở kịch được phổ nhạc, được các ca sĩ nổi tiếng trình diễn, khán giả vẫn nối đuôi nhau chờ mua vé để vào theo dõi một câu chuyện tình cảm động giữa hai thanh niên nam nữ yêu nhau thắm thiết, nhưng đường tình duyên bị trắc trở không thể tiến đến hôn nhân, vì chàng và nàng thuộc về hai gia đình có mối thù truyền kiếp với nhau trong bối cảnh xã hội mang nặng đầu óc nuôi oán, báo thù tại Italia thời trung cổ.

Sau khi nàng Juliet đem câu chuyện tình ngang trái tỏ lộ cùng một vị linh mục và cho ngài biết ý định sẽ cùng với Romeo thoát ly gia đình để tìm đến một phương trời xa lạ xây tổ uyên ương, vị linh mục đề nghị nàng dùng phương thế uống một thứ thuốc mê để giả chết. Sau đó ngài sẽ cứu sống nàng và giao cho Romeo đem nàng đi. Kế hoạch này được giữ bí mật đến nỗi chính chàng Romeo cũng không hay biết. Khi thấy người yêu đã vì mình dùng độc dược quyên sinh, chàng Romeo cũng dùng gươm tự sát để đáp lại mối tình tuyệt vọng của người yêu. Khi thuốc mê đã hết hiệu nghiệm, nàng Juliet tỉnh dậy thấy người yêu đang thoi thóp bên vũng máu đào: tình yêu kêu gọi tình yêu, nàng cũng dùng gươm lết liễu phận bạc để cùng chết với chàng.

Hình như những câu chuyện tình thương tâm trong tuồng kịch hay tiểu thuyết nào cũng kết thúc bằng trắc trở, chia ly, chết chóc. Dù bi ai, nhưng các câu chuyện ấy cũng nói lên một phần nào sự thật. Ðó có lẽ là lý do tại sao trong các thiệp hồng báo tin hôn lễ, các đôi trai gái tính chuyện trăm năm thường chọn và cho in câu: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”.

Trong các cuộc giao tế thường ngày giữa người với người hoặc trong mối quan hệ láng giềng, bạn bè, kể cả cha mẹ, con cái, anh chị em trong gia đình hay giữa tình thân, vợ chồng, chúng ta cần có những dấu chỉ biểu lộ ra bên ngoài để diễn tả tâm tình yêu mến chất chứa bên trong: Từ những dấu chỉ đơn sơ, thi vị “yêu nhau cởi áo cho nhau” đến chỗ hy sinh cả cuộc đời tận tụy, làm lụng vất vả, gánh chịu những nhọc nhằn, chịu đựng tha thứ cho nhau “Một câu nhịn, chín câu lành” đối với những người thân thương trong gia đình.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Hai Tuần 12 TN2, Năm Chẵn

Bài đọc: 2 Kgs 17:5-8, 13-15a, 18; Mt 7:1-5.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán.

Con người thích xét đoán vì đó là dịp để đề cao mình và giảm danh giá tha nhân. Không những xét đoán tha nhân, nhiều người còn nghi ngờ quyền năng Thiên Chúa và xét đoán luôn cả sự quan phòng của Ngài. Họ chất vấn hay than phiền những đau khổ Thiên Chúa bắt họ phải chịu. Con người xét đoán không năng xét mình; vì thế, họ thấy họ tốt lành; nhưng nếu họ chịu khó xét mình, họ sẽ thấy họ mang đầy những khuyết điểm, và sẽ không dám xét đoán tha nhân. Con người dễ xét đoán, vì họ nghĩ chẳng có ai rỗi hơi kiểm điểm những lời xét đoán của họ; nhưng nếu họ biết Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự, họ sẽ cẩn thận hơn khi phải xét đoán tha nhân.

Các bài đọc hôm nay muốn nêu bật những lý do tại sao con người hãy năng xét mình và đừng xét đoán tha nhân. Trong bài đọc I, tác giả Sách Các Vua II nêu rõ những lý do tại sao vương quốc Israel thất thủ và toàn thể dân chúng bị lưu đày: vì họ đã quay lưng lại với Thiên Chúa và thờ các thần ngoại bang và không giữ những Lề Luật Thiên Chúa đã ra cho cha ông họ. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ đừng xét đoán; nhưng hãy biết xét mình trước. Hãy “lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.”

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Tại sao Thiên Chúa để Assyria chinh phục Israel?

1.1/ Israel bị thất thủ và bị lưu đày bên Assyria: Vua Assyria tiến đánh Israel, đến Samaria và vây hãm thành này ba năm. Năm 721 B.C., vua Assyria chiếm được Samaria và đày Israel sang Assyria. Vua cho họ định cư ở Halah, và ở ven sông Habor thuộc vùng Gozan, và trong các thành xứ Medes.

Nhiều người Do-thái tự hỏi tại sao Đức Chúa lại để dân riêng của Người rơi vào tay vua Dân Ngoại Assyria? Vẫn biết con cái Israel đắc tội với Đức Chúa; nhưng Dân Ngoại còn mắc tội nhiều và nặng hơn. Lý do Đức Chúa phải sửa phạt không phải vì Ngài ghét bỏ dân chúng; nhưng là để cho họ có cơ hội xét mình và nhận ra những tội lỗi họ đã xúc phạm đến Ngài. Trong khi con cái Israel lưu đày, Đức Chúa vẫn không ngừng sai các ngôn sứ của Ngài đến an ủi và khuyên bảo dân chúng hãy giữ vững niềm hy vọng. Ngài sẽ cứu dân dù chỉ còn sót lại một nhóm nhỏ và sẽ cho họ về lại quê hương.

1.2/ Nguyên nhân của việc thất thủ và lưu đày: Trong nơi lưu đày, rất nhiều các ngôn sứ và dân đã có cơ hội xét mình và nhận ra những tội tày trời họ đã xúc phạm đến Đức Chúa. Một số tội chính được liệt kê ra hôm nay:

+ Họ đã quay lưng lại với Đức Chúa và chạy theo thờ các thần khác.

+ Họ theo những thói tục của các dân Đức Chúa đã trục xuất cho khuất mắt con cái Israel và những thói tục các vua Israel đã tạo ra.

+ Họ đã không nghe lời cảnh cáo của các ngôn sứ và thầy chiêm; lại còn khinh dể, bắt bớ và bỏ tù các ngôn sứ của Đức Chúa.

+ Họ đã không tuân giữ Lề Luật của Đức Chúa.

Nói mãi không nghe, nên Đức Chúa nổi cơn thịnh nộ với Israel và đẩy Israel cho khuất nhan Người. Chỉ còn lại chi tộc Judah.

2/ Phúc Âm: Anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy.

2.1/ Tuyệt đối không xét đoán: Chúa Giêsu truyền: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy.” Có ít nhất 3 lý do ngăn cấm con người xét đoán tha nhân:

(1) Con người không biết hết hoàn cảnh và các dữ kiện liên quan: Con người dễ phê phán tha nhân vì họ nhìn từ bên ngoài; nhưng để phê phán đúng, họ phải đặt mình vào bên trong để hiểu hoàn cảnh của đương sự. Ví dụ, một người nghèo đói phải ăn cắp để có của ăn nuôi sống là điều hợp lý phải làm; chứ không phải trường hợp ăn cắp nào cũng xấu. Tục ngữ Việt-nam có câu: “Có ở trong chăn mời biết chăn có rận.” Hay trong truyện Kiều của Nguyễn Du có câu: “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.” Nàng Kiều phải bán mình để chuộc cha để trả ơn sinh thành nuôi dưỡng là điều một người con hiếu thảo phải làm, chứ không phải trường hợp mãi dâm nào cũng bị kết án.

(2) Con người bị chi phối bởi rất nhiều thành kiến: ngôn ngữ, chủng tộc, màu da, giai cấp, liên hệ, quyền lợi … Một khi đã có những thành kiến, rất khó để con người phán đoán cách chí công vô tư. Người Hy-lạp có thói quen phân xử nạn nhân trong phòng tối để tránh thành kiến; nhưng cả hai bên vẫn có thể nghe tiếng nói của nhau và đoán được nguồn gốc của nhau.

(3) Con người không sạch hoàn toàn để phán xét: Trong câu truyện “Người phụ nữ ngoại tình” của Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu thách thức những người đòi kết án và ném đá người phụ nữ: “Ai trong các ông sạch tội, hãy quăng viên đá trước.” Và họ dần dần rút lui đến khi chỉ còn mình Chúa Giêsu, Đấng có quyền phán xét mọi người vì Ngài không bao giờ phạm tội. Nhưng Ngài nói với chị: “Tôi cũng vậy, tôi không phán xét chị. Thôi! chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Jn 8:12).

Có những trường hợp con người buộc phải xét xử như: bề trên, quan tòa, cha mẹ … Trong những trường hợp buộc phải xét xử, hãy xét xử cách rộng lượng, phải có đầy đủ các dữ kiện, và theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, vì theo Lời Chúa cảnh cáo: “Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em.”

2.2/ Hãy kiểm điểm mình trước: Một trong những cách giúp con người đừng đóan xét tha nhân là năng kiểm điểm bản thân mình. Khi con người thành thật với chính mình, họ tìm ra trong người họ cũng đầy dẫy những tính hư, nết xấu, nhiều khi còn to lớn hơn của tha nhân gấp bội. Nhận ra bản thân như thế, họ sẽ dễ dàng thông cảm và không đoán xét tha nhân. Ngược lại, khi con người không năng xét mình, họ dễ dàng đoán xét tha nhân, vì họ nghĩ họ sạch tội. Chúa Giêsu đưa ra một ví dụ để cảnh cáo hạng người này: ”Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người anh em: ”Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn,” trong khi có cả một cái xà trong con mắt anh? Hỡi kẻ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Khi gặp hoạn nạn, chiến tranh hay thiên tai, chúng ta hãy nắm lấy cơ hội để xét mình xem tại sao Thiên Chúa để những điều đó xảy ra. Chúng ta đừng kiêu ngạo và ngông cuồng kết án luôn sự quan phòng của Thiên Chúa.

– Chúng ta cần tập thói quen tuyệt đối không xét đoán tha nhân, vì đó không phải là việc của chúng ta. Trường hợp vì bổn phận phải xét xử, hãy theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, có tất cả các bằng chứng liên quan, hiểu hoàn cảnh của đương sự, và phán xét cách rộng lượng.

– Chúng ta dùng đấu nào đong cho tha nhân, Thiên Chúa sẽ dùng chính đấu ấy mà đong lại cho chúng ta. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************