Ngày thứ hai (23-08-2021) – Trang suy niệm

22/08/2021

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Hai Tuần XXI Mùa Thường Niên Năm lẻ

BÀI ĐỌC I: 1 Tx 1, 1-5. 8b-10

“Anh em đã từ bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa, để trông đợi Con của Người, Đấng mà Người cho sống lại”.

Khởi đầu thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Phaolô, Silvanô và Timôthêu kính gửi giáo đoàn Thêxalôni-ca trong Thiên Chúa Cha và trong Chúa Giêsu Kitô. Nguyện chúc cho anh em được ân sủng và bình an.

Tôi hằng tạ ơn Thiên Chúa cho mọi người anh em; trong khi tôi cầu nguyện, tôi hằng nhớ đến anh em không ngừng, tôi nhớ đến sự nghiệp của lòng tin, công việc của lòng bác ái, sự vững lòng trông cậy của anh em vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Hỡi anh em là những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, tôi từng biết anh em được Chúa tuyển chọn, bởi vì Tin Mừng của chúng tôi ở nơi anh em, không phải chỉ với lời nói mà thôi, mà là với quyền năng, với Thánh Thần, và với lòng xác tín, như khi chúng tôi còn ở giữa anh em, anh em biết chúng tôi sống thế nào vì anh em.

Trong mọi nơi, lòng tin của anh em vào Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa. Vì người ta thuật lại việc chúng tôi đã đến với anh em thế nào, và anh em đã bỏ tà thần trở về với Thiên Chúa làm sao để phụng thờ Thiên Chúa hằng sống và chân thật, để trông đợi Con của Người từ trời mà đến, (Đấng mà Người đã làm cho từ cõi chết sống lại) là Đức Giêsu, Đấng đã giải thoát chúng ta khỏi cơn thịnh nộ sắp đến. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 149, 1-2. 3-4. 5-6a và 9b

Đáp: Chúa yêu thương dân Người (c. 4a).

Xướng:

1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, hãy vang lên lời khen ngợi trong công hội các tín đồ. Israel hãy mừng vui vì Đấng tạo tác bản thân, con cái Sion hãy hân hoan vì vua của họ. – Đáp.

2) Họ hãy hoà nhạc để ngợi khen Người, hãy hát mừng Người với cây đàn cầm, với trống con: bởi vì Chúa yêu thương dân Người, và ban cho kẻ khiêm nhường chiến thắng vẻ vang. – Đáp.

3) Các tín đồ hãy mừng rỡ trong vinh quang, hãy hoan hỉ trong những nơi khu phố. Miệng họ hãy reo lên lời hoan hô Thiên Chúa. Đó là vinh quang cho mọi tín đồ của Chúa. – Đáp.

ALLELUIA: 2 Cr 5, 19

Alleluia, alleluia! – Thiên Chúa ở trong Đức Kitô đã giải hoà thế gian với Người, và đã đặt lời giải hoà trên môi miệng chúng tôi. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mt 23, 13-22

“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đóng cửa nước trời không cho người ta vào: vì các ngươi không vào, mà kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào.

“Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi đọc kinh cho dài để nuốt tài sản của các bà goá, bởi thế, các ngươi sẽ chịu phán xét nặng hơn.

“Khốn cho các ngươi, hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình! Vì các ngươi rảo khắp biển khơi và lục địa, để tìm cho được một người tòng giáo, nhưng khi đã cho người đó tòng giáo, các ngươi làm cho nó trở thành con cái hoả ngục gấp hai lần các ngươi.

“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ dẫn đường đui mù! Vì các ngươi nói rằng: Ai lấy đền thờ mà thề, thì không có giá trị gì, nhưng ai lấy vàng trong đền thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi kẻ ngu ngốc và đui mù, chớ thì vàng hay là đền thờ thánh hoá vàng, cái nào trọng hơn? Các ngươi còn bảo rằng: Ai lấy bàn thờ mà thề, thì không giá trị gì, nhưng ai lấy của lễ để trên bàn thờ mà thề, thì mắc lời thề. Hỡi những kẻ đui mù, chớ thì của lễ hay là bàn thờ thánh hoá của lễ, cái nào trọng hơn?

“Vậy ai lấy bàn thờ mà thề, thì lấy cả bàn thờ và mọi sự để trên bàn thờ mà thề. Kẻ nào lấy đền thờ mà thề, thì lấy cả đền thờ và Đấng ngự trong đền thờ mà thề. Và kẻ nào lấy trời mà thề, thì lấy ngai toà Thiên Chúa và Đấng ngự trên ngai toà ấy mà thề”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

23/08/2021 – THỨ HAI TUẦN 21 TN

Th. Rô-sa Li-ma, trinh nữ

Mt 23,13.15-22

CHÚA CHÚNG TA “DỮ” LẮM SAO?

“Các người khóa cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào. Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào.” (Mt 23,13)

Suy niệm: Một người giáo dân tâm sự: “Thưa cha, mỗi lần đi lễ về, con lại có ‘một bản xét mình.’ Nghe bài giảng giải Lời Chúa, con chẳng thấy chút niềm vui, ánh sáng hân hoan nào cho đời mình; ngược lại, chỉ nghe toàn bài học luân lý và xét mình. Lời nào của Chúa Giê-su cũng được diễn giải thành lỗi thành tội; thế là con thấy mình có bao tội. Con cảm thấy buồn mỗi khi dự lễ.” Câu chuyện đó có thể là cảm nhận chủ quan của một người, nhưng đáng chúng ta suy nghĩ về việc giáo huấn, giảng dạy trong cộng đoàn. Đọc lại Tin Mừng, ta thấy có vẻ như những lời nặng nề nhất của Chúa Giê-su dành cho những người lãnh đạo Do Thái giáo là người Pha-ri-sêu, kinh sư: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu…” (Mt 23,13). Họ bị Chúa khiển trách, bởi vì họ là những người thay quyền Chúa, nhưng đôi khi hành xử như mình là Chúa.

Mời Bạn: Chúa Giê-su của chúng ta rất hiền hậu, dịu dàng, nhưng thẳng thắn chỉ cho người sai lỗi thấy sự thật: sửa lỗi vì yêu thương, yêu thương trong sự thật. Chúa “nghĩa nộ,” khiển trách vì muốn chúng ta phản tỉnh, nhận ra sai sót, và hoán cải.

Sống Lời Chúa: Sống tinh thần tôi tớ phục vụ khi được Chúa sai đi trong ơn gọi của bậc sống mình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa hiền lành và khiêm nhường, nhưng Chúa cũng khiển trách, “nghĩa nộ.” Chúa yêu thương nhưng công bằng. Xin Chúa thức tỉnh con, để con sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày trong tinh thần phục vụ khiêm tốn. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Trong Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đã nói đến Các Mối Phúc.
Ngài chúc mừng những ai thuộc về Nước Trời bằng các lời Phúc cho.
Còn trong chương 23 của Tin Mừng Mátthêu,
Đức Giêsu lại 7 lần dùng lối nói Khốn cho,
khi nói với giới lãnh đạo Do Thái giáo là các kinh sư và nhóm Pharisêu.
Đức Giêsu không phải là người đầu tiên dùng lối nói khó chịu này.
Các ngôn sứ thời xưa như Amốt hay Isaia (Am 6, 1; Is 5, 8-24)
cũng đã lắm khi dùng lối nói này để tố cáo những người quyền thế.
Mục đích của các ngôn sứ là vạch trần những sai phạm của họ,
và cảnh báo cho mọi người biết mà tránh xa.

Đức Giêsu đã nói như một vị ngôn sứ.
Khi nói khốn cho, Ngài không có ý nguyền rủa hay kết án ai,
cho bằng nói lên sự đau xót, thậm chí giận dữ đến độ trách phạt.
“Khốn cho ngươi, hỡi Khoradin! khốn cho ngươi, hỡi Bétsaiđa!”
Đức Giêsu đã nói như thế với các thành phố từ chối Ngài (Mt 11, 21).
“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người, thà nó đừng sinh ra thì hơn” (Mt 26, 24).
Đây không phải là một lời chúc dữ cho Giuđa,
hay kết án anh phải đời đời hư mất.
Đúng hơn đây diễn tả một tiếc nuối xót xa về tội của người môn đệ.

Vào thời thánh Mátthêu viết sách Tin Mừng, từ sau năm 70,
có một sự xung đột nghiêm trọng giữa các Kitô hữu gốc Do Thái
với những nhà lãnh đạo Do Thái giáo lúc bấy giờ.
Bài Tin Mừng hôm nay phản ánh sự căng thẳng đó.
Các vị kinh sư và những người pharisêu đầy quyền lực
không muốn đồng bào của mình tin vào một ông Giêsu bị đóng đinh.
Ai tin sẽ bị trục xuất khỏi hội đường (x. Ga 9, 22).
Như thế họ đã khóa cửa Nước Trời để chẳng ai vào được, kể cả họ (c. 13).
Các vị kinh sư và nhóm Pharisêu hăng say trong việc truyền giáo.
Họ muốn làm cho dân ngoại trở thành Dân Chúa.
Tiếc thay, sau khi đã vào đạo rồi, những người tân tòng này
có thể trở nên cứng nhắc vì nệ luật, và rơi vào thói giả hình.
Họ “trở thành con cái của hỏa ngục gấp đôi các ông” (c. 15).
Đức Giêsu cũng tố cáo sự phân biệt quá chi li về giá trị những lời thề.
Đối với Ngài, thề nhân danh Đền thờ hay vàng trong Đền thờ,
nhân danh bàn thờ hay lễ vật trên bàn thờ (cc. 16-20),
thì cũng chẳng khác gì thề nhân danh chính Thiên Chúa (cc. 21-22).

Tất cả lời thề đều phải được giữ như nhau, đều ràng buộc như nhau.
Những lời tố giác của Đức Giêsu đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo
vẫn đặt câu hỏi cho chúng ta thời nay.
Làm sao để tôn giáo mở đường cho con người gặp gỡ Thiên Chúa,
chứ không khép lại hay gây cản trở?
Làm sao để người tân tòng thực sự trở thành con cái Nước Trời?
Làm sao để chúng ta khỏi sa vào những chi li thái quá của luật lệ?
Những lời của Đức Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lại mình và thay đổi.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
khi đến với nhau,
chúng con thường mang những mặt nạ.
Chúng con sợ người khác thấy sự thật về mình.
Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt
dù đó chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.

Khi đến với Chúa,
chúng con cũng thường mang mặt nạ.
Có những hành vi đạo đức bên ngoài
để che giấu cái trống rỗng bên trong.
Có những lời kinh đọc trên môi,
nhưng không có chỗ trong tâm hồn,
và ngược hẳn với cuộc sống thực tế.

Lạy Chúa Giêsu,
chúng con cũng thường ngắm mình trong gương,
tự ru ngủ và đánh lừa mình,
mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.

Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ,
đã ăn sâu vào da thịt chúng con,
để chúng con thôi đánh lừa nhau,
đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành,
để chúng con được lớn lên trong bình an.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

23 THÁNG TÁM

Chúng Ta Đang Ở Giữa Một Trận Chiến

“Như lời Chúa phán (Mt 24,13), cả lịch sử nhân loại là một trận chiến cam go chống lại quyền lực bóng tối, khời đầu từ khi thế giới khai nguyên và sẽ kéo dài đến ngày cuối cùng. Dấn thân vào cuộc chiến này, con người phải luôn luôn chiến đấu để gắn bó với sự thiện và chỉ tìm được sự thống nhất trong chính mình sau khi hết sức cố gắng với sự trợ giúp của ơn Chúa” (MV 37).

Chúng ta có thể kết luận rằng mặc dù không được đồng hóa sự phát triển của Nước Thiên Chúa với sự phát triển và tiến bộ thế tục, song quả thực rằng Nước Thiên Chúa có mặt ngay nơi thế giới và, nhất là, nơi con người sống và hoạt động trong thế giới. Người Kitôhữu biết rằng xuyên qua những nỗ lực của chính mình cùng với sự giúp đỡ của ơn Chúa, mình đang làm cho Nước Thiên Chúa trở thành hiện thực. Công việc của mọi Kitôhữu dẫn đến sự hoàn thành của mọi sự trong Đức Kitô, theo kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 23/8

Thánh Rôsa Lima, trinh nữ

St 1, 1-5. 8b-10; Mt 23, 13. 15-22.

LỜI SUY NIỆM:  “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các ngươi khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào!”

          Chúa Giêsu không những chỉ khiển trách các kinh sư giả hình; nhưng đây cũng là điều mà mỗi người Kitô hữu cũng phải tự cảnh giác: là phải sống đúng những gì mình đã học biết nơi Giáo Hội chỉ dạy; không được tuỳ tiện hướng dẫn người khác theo suy nghĩ riêng của mình, có thể đi ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội về đức tin.

          Lạy Chúa Giêsu. Xin Chúa ban cho cộng đoàn chúng con có những vị chủ chăn đạo đức chân thật, để hướng dẫn chúng con đi đúng vào đường  đến Nước Trời.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 23-8: Thánh ROSA LIMA

Đồng Trinh (1586 – 1617)

Có những vị thánh chỉ đáng cho chúng ta thán phục hơn là bắt chước. Thánh Rosa thuộc loại này. Chúng ta tôn kính và thán phục sự thánh thiện của Ngài nhưng không phải tìm cách bắt chước theo đường lối Ngài đã theo để nên thánh. Thánh Rosa chính là người đầu tiên ở tân thế giới được phong thánh. Ngài trở nên quan trọng vì chứng tỏ rằng giữa sự bất công và phi nhân dính liền với cuộc chinh phục Mỹ Châu của người Tây Ban Nha. Men Kitô giáo vẫn hoạt động.

Rosa sinh tại Lima nước Peru năm 1568. Cha mẹ Ngài, ông Caspar del Flores và Maria del Oliva đặt tên cho Ngài là Isabelle. Nhưng vì sắc đẹp của Ngài, người ta gọi Ngài bằng tên một loài hoa Rosa. Khi đến tuổi có trí khôn thánh nữ đã muốn được gọi là Rosa Maria, để tỏ lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ. Ngài còn có lòng yêu mến đặc biệt thánh nữ Catarina Siena và can đảm bắt chước vị thánh này vì lòng yêu mến sống thinh lặng, hãm mình cũng như chuyên chăm cầu nguyện. Dường như được ơn Chúa gìn giữ đặc biệt, nên ngay vào buổi mà các trẻ em khác chưa có trí khôn, thánh nữ đã có những nét thánh thiện, đáng ghi nhớ. Năm tuổi, Ngài đã hứa giữ mình trinh khiết. Sáu tuổi Ngài đã ăn chay 3 lần trong tuần, chỉ ăn bánh và uống nước thôi.

Gia đình nghèo túng, Rosa mất ngủ lại thiếu ăn lại còn tự ý hãm mình để giảm đi sức hấp dẫn tự nhiên. Khi khách đến thăm khen ngợi sắc đẹp của mình, thánh nữ thoa hồ tiêu lên má cho sưng phồng lên. Cẩn thận ngâm tay vao vôi khiến cả tháng không một việc được. Khi người mẹ kết một vòng hoa lên đầu cho Ngài, thánh nữ kín đáo kết gai vào trong cho đau đớn để cảnh giác tính xa hoa.

Gia đình gặp bước khó khăn, thánh Rosa đã tận tụy làm vườn suốt ngày, đêm về lại thức giấc vá may. Thánh nữ luôn luôn vâng lời cha mẹ. Dầu vậy trên mười năm rời, Ngài đã dốc quyết từ khuốc bước vào hôn nhân. Ngài còn cắt ngắn mái tóc đẹp hiếm hoi của mình. Sự từ khước đã gây nên nhiều phản ứng khốc liệt. Người ta bắt dầu vu oan giá hoạ cho Ngài đủ điều, nhưng Ngài đã nhẫn nại chịu đựng tất cả. Năm 1606, Ngài gia nhập dòng ba Đaminh và nhận thánh Catarina như gương mẫu đời mình.

Ngoài những hy sinh hãm mình tự ý. Thánh Rosa còn phải trải qua những năm bị hiểu lầm, mù tối trong chính nội tâm. Dầu vậy Ngài vẫn nhẫn nại, khiêm tốn chịu dựng và không bao giờ mất niềm tín thác vào lòng từ bi vô bờ của Chúa. Ngài tìm săn sóc những trường hợp ghê tởm nhất.

15 năm khủng khiếp trôi qua. Tâm hồn trung tín anh hùng đã được ân thưởng. Thánh Rosa gặp lại được ánh sáng. Ngài mời gọi mọi tạo vật hợp ý ca ngợi và yêu mến Thiên Chúa. Ngài nói: – Nếu mọi người biết ơn thánh là gì, họ sẽ muốn được chịu đau khổ, sẽ đón tìm cực khổ, bắt bớ để chiếm hữu cho được, bởi vì ơn thánh là cái giá khôn sánh đáp đền cho lòng nhẫn nại.

Đối với phép Thánh Thể Ngài nói : – Điều mà mặt trời thực hiện trong thế giới hữu hình, sự thông hiệp Thánh Thể sẽ phát sinh trong tôi.

Quả quyết tình Chúa quan phòng còn lớn gấp bội những khốn khổ và yếu đuối của con người, Ngài nói: – Tôi có một hôn phu có thể làm điều lớn lao nhất, sở hữu điều họa hiếm nhất. Tôi thấy mình mới chỉ biết trông đợi nơi Người có một chút đỉnh thôi.

Từ đây, Ngài luôn được an bình, Ngài sống trong một cái chòi như một nhà ẩn tu. Năm 1614, Ngài ở dưới sự bảo trợ của ông Don Gonzalo de Massa và vợ ông. Họ cho Ngài trọ và săn sóc Ngài trong cơn bệnh dài trước khi chết.

Vào đầu tháng tám cuối đời, cơn bệnh đau đớn dữ dội. Ngài thú nhận: – Tôi không hiểu được tại sao bao nhiêu đau đớn như vậy lại đổ trên đầu một tạo vật.

Nhưng đầy can đảm Ngài nói : – Lạy Chúa xin tăng thêm những đau đớn, miễn là Chúa cũng thêm lòng yêu mến cho con.

Ngày 24 tháng 8 năm 1617 thánh nữ qua đời với lời cuối cùng trên môi : – Chúa Giêsu, Chúa Giêsu, Chúa ở với tôi .

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

23 Tháng Tám

Hoa Ðầu Mùa Của Mỹ Châu

Hôm nay Giáo Hội kính nhớ thánh Rosa Lima, vị thánh đầu tiên của Châu Mỹ. Thánh nữ có hai đặc điểm mà dường như vị thánh nào cũng có, đó là: bị chống đối và sống khắc khổ.

Chọn thánh nữ Catarina Siena làm mẫu mực, Rosa quyết sống trọn vẹn cho Thiên Chúa. Sợ nhan sắc của mình có thể quyến rũ nhiều người cũng như làm cớ vấp phạm cho chính mình, Rosa đã lấy tiêu thoa lên mặt để biến mình thành một người xấu xí. Cô cũng lấy thép cuốn thành vòng gai nhọn đội trên đầu.

Nhưng Rosa không phải là một con người mơ mộng viển vông. Khi thấy gia đình gặp khó khăn về kinh tế, Rosa đã hy sinh làm lụng suốt ngày ngoài đồng và tối về may vá suốt đêm để kiếm tiền đắp đổi cho gia đình. Sống cho cha mẹ, lo cho gia đình, nhưng Rosa vẫn quyết tâm dâng hiến trọn đời cho Chúa. Cô đã mất mười năm để chống lại ý định của cha mẹ nhằm cưỡng bách cô phải lập gia đình. Và cuối cùng, vì cha mẹ cũng không chấp nhận cho cô vào dòng, Rosa đã gia nhập vào dòng ba thánh Ða Minh. Như thế cô vừa sống được lý tưởng tu dòng vừa sống thánh giữa đời.

Trong những năm cuối đời, Rosa dành một phòng trong nhà để đón tiếp trẻ em không nhà không cửa và những người già cả bệnh tật. Ðây là một trong những hình thức hoạt động xã hội đầu tiên tại Pêru.

Rosa qua đời năm 31 tuổi. Cả thành phố Lima thương khóc cô như một vị thánh trẻ đã kết hợp tinh thần chiêm niệm, khổ chế với hoạt động bác ái.

Thánh Rosa kể lại rằng trong một giấc mơ, ngài được Chúa dẫn đến một xưởng điêu khắc dành cho những người muốn nên thánh. Thánh nhân chứng kiến cảnh không biết bao nhiêu người đang ngồi trước các khối đá cẩm thạch. Có người sắp hoàn thành xong một tác phẩm nghệ thuật. Có người chỉ mới bắt đầu đục đẽo trên một phiến đá sần sù, cứng nhắc. Thánh nữ cũng được Chúa trao cho những đồ nghề cần thiết và đặt ngồi trước một phiến đá lớn. Người mẫu của tác phẩm chính là hình ảnh mà Thiên Chúa đã đặt để từ đời đời trong thánh nữ.

Mỗi ngày chúng ta kính nhớ một vị thánh. Mỗi một vị thánh là một nhắc nhở chúng ta về ơn gọi nên thánh của mỗi người chúng ta. Không một vị thánh nào giống vị thánh nào. Không ai bắt buộc phải sống khuôn dập theo bất cứ một mẫu mực nào. Mỗi người là một vị thánh cá biệt. Nhưng tất cả đều có một mẫu số chung: đó là họa lại hình ảnh của Thiên Chúa trong cuộc đời của mình.

Và hình ảnh mà Thiên Chúa muốn mỗi người chúng ta họa lại trong cuộc đời của chính mình là Ðức Giêsu Kitô. Nhưng người Kitô không chỉ sống như Ðức Kitô, mà còn sống bằng chính Ðức Kitô. Họa lại Ðức Kitô cũng có nghĩa là để cho Ðức Kitô uốn nắn, tạc vẽ cho đến khi nào chúng ta đạt được tầm mức của Ngài.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Hai – Tuần 21 – TN1

Bài đọc: I Thes 1:1-5, 8b-10; Mt 23:13-22

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Một niềm tin, hai lối sống.

Thủ tướng Ghandi có lần nhận xét: “Nếu tất cả các Kitô hữu sống đúng những gì Chúa dạy, có lẽ cả thế giới đã tin vào Ngài.” Thật vậy, các Kitô hữu là những người cùng chung một niềm tin nơi Thiên Chúa, nhưng không phải ai cũng thực hành những gì Ngài dạy.

Các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy những ví dụ cụ thể về hai lối sống của những người cùng một niềm tin vào Thiên Chúa. Trong bài đọc I, thánh Phaolô khen ngợi các tín hữu Thessalonica, vì họ không chỉ tin Đức Giêsu Kitô, nhưng còn sống niềm tin này cách sống động, đến nỗi gương sáng của họ không chỉ chiếu dọi trong các cùng Macedonia và Achaia, mà còn lan rộng tới những nơi mà Phaolô rao giảng. Ngược lại, trong Phúc Âm, Chúa Giêsu quá chán ghét và phê bình nặng nề lối sống giả hình của các Kinh-sư và Biệt-phái. Họ tìm đủ mọi cách để biện minh cho thói giả hình để không phải thực thi Lề Luật của Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Lối sống chân thật của các tín hữu Thessalonica

1.1/ Phaolô chứng nhận cuộc sống chân thật của các tín hữu Thessalonica: Có lẽ trong tất cả cộng đoàn mà thánh Phaolô đã thiết lập, không một cộng đoàn nào có đời sống gương mẫu như cộng đoàn Thessalonica. Trong lời mở đầu Thư, Phaolô chỉ đề cập đến gương sáng của họ cách tổng quát như sau: “Chúng tôi không ngừng nhớ đến những việc anh em làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc anh em gánh vác vì lòng mến, và những gì anh em kiên nhẫn chịu đựng vì trông đợi Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô.”

Đức tin của các tín hữu Thessalonica không phải chỉ biểu tỏ bằng lời nói, nhưng bằng các việc làm. Đức ái của họ biểu lộ ra bằng cách gánh chịu các nỗi khó nhọc của nhau. Đức cậy của họ biểu tỏ bằng cách kiên nhẫn chịu đựng trong khi chờ đợi Ngày Đức Kitô quang lâm vinh hiển.

Loan báo Tin Mừng và sống những giá trị của Tin Mừng không phải chỉ thuần túy lời nói, nhưng còn liên quan đến ba điều quan trọng là:

(1) Quyền năng (dunamis): Danh từ này chỉ dành cho Thiên Chúa. Quyền năng của Thiên Chúa được thể hiện trong cả việc rao giảng lẫn việc sống những gì Tin Mừng đòi hỏi.

(2) Thánh Thần: Để có đức tin, Thánh Thần phải hoạt động trong cả người rao giảng lẫn người nghe.

(3) Sự xác tín sâu xa (plerophoría polle): Có lẽ thánh Phaolô muốn ám chỉ niềm tin tuyệt đối của các tín hữu vào những gì Tin Mừng chứa đựng: Đức Kitô, những lời giảng dạy của Ngài, sự tha tội, sự sống lại… Từ này được dùng nhiều trong Tân Ước (Col 2:2; Heb 6:11; 10:22, Rom 15:29).

1.2/ Tiếng lành đồn xa: Đức tin là sự xác tín bên trong tâm hồn không ai thấy được, nhưng những biểu lộ của đức tin là những hành động bên ngoài, và ai cũng có thể nhìn thấy. Sở dĩ thánh Phaolô biết được đức tin của các tín hữu Thessalonica, là vì những lời khen ngợi từ những người ngài có dịp giao tiếp với: “Quả thế, từ nơi anh em, Lời Chúa đã vang ra, không những ở Macedonia và Achaia, mà đâu đâu người ta cũng nghe biết lòng tin anh em đặt vào Thiên Chúa, khiến chúng tôi không cần phải nói gì thêm nữa.”

2/ Phúc Âm: Lối sống giả hình của các Kinh-sư và Biệt-phái.

Giả hình (hupokrites) trong tiếng Hy-lạp có nghĩa “người trả lời.” Vì thế, theo truyền thống Hy-lạp, chữ này có liên quan đặc biệt đến những người trả lời trong cuộc đối thoại của các vở kịch trên sân khấu, các diễn viên. Họ là những người đóng kịch, trong lòng đang vui mà phải giả bộ khóc hay đang buồn mà phải cố cười để mua vui cho thiên hạ. Nói tóm, người giả hình là người sống không thật với lòng mình.

Đứng trước thử thách và đau khổ, những người theo lối sống giả hình sẽ tìm cách không phải chịu gian khổ bằng cách nêu lên mọi lý do để biện minh cho hành động nhát đảm sợ sệt của mình. Họ sẽ cố gắng che đậy sự ích kỷ trong lòng bằng những hành động giả ân nghĩa bên ngoài.

Chúa Giêsu gọi các Kinh-sư và Biệt-phái là những hạng người này: “Khốn cho các ngươi, hỡi các Kinh-sư và Biệt-phái giả hình! Các ngươi khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào. Các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng không để họ vào. Khốn cho các ngươi, hỡi các Kinh-sư và Biệt-phái giả hình! Các người nuốt hết tài sản của các bà goá, lại còn làm bộ đọc kinh cầu nguyện lâu giờ, cho nên các người sẽ bị kết án nghiêm khắc hơn.”

Kinh-sư và Biệt-phái khóa cửa Nước Trời bằng lối sống giả hình. Làm sao họ có thể vào Nước Trời bằng giữ chi li bao lề luật không cần thiết mà bỏ quên biết bao điều quan trọng của Luật như công bằng, nhân từ và trung tín? Và nếu dân chúng cũng tin họ và làm như thế thì cũng chẳng được vào Nước Trời.

Chúa cũng lên án họ về việc không chịu làm gương sáng cho những người mới theo đạo: “Khốn cho các người, hỡi các Kinh-sư và Biệt-phái giả hình! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người.” Thay vì làm gương sáng, họ làm gương mù và dạy cho những người mới trở lại đạo giả hình của mình. Những người mới vào đạo thường hăng hái và nhiệt thành hơn những người đã theo đạo lâu năm; nếu không nhiệt thành về điều tốt, họ sẽ nhiệt thành về những gì xấu đã được chỉ dạy.

Các Kinh-sư và Biệt-phái là những người làm luật và thông luật. Họ biết cách phiên dịch luật sao cho trắng hóa đen, đúng hóa sai, bằng cách thêm bớt hay tìm chỗ sơ hở của lề luật. Một ví dụ Chúa Giêsu đưa ra hôm nay về việc chỉ Đền Thờ mà thề. Luật dạy khi đã chỉ Đền Thờ, nơi Thiên Chúa hiện diện, thì phải giữ lời thề đó bằng bất cứ giá nào. Nhưng các Kinh-sư và Biệt-phái tìm cách làm cho lời thề đó không phải giữ bằng cách lý luận loanh quanh. Họ bảo: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc.”

Chúa vạch trần những lý luận khôi hài của họ: “Đồ ngu si mù quáng! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn? Các ngươi còn nói: “Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc.” Đồ mù quáng! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn? Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề.”

Và Chúa kết luận: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Cùng một niềm tin có thể dẫn tới hai lối sống hoàn toàn trái ngược nhau: một lối sống dựa trên tin yêu và một lối sống giả hình hoàn toàn bên ngoài.

– Con người có thể bị đánh lừa bằng lối sống giả hình bên ngoài, nhưng Thiên Chúa không bao giờ bị đánh lừa vì Ngài thấu suốt mọi sự trong tâm hồn.

– Chúng ta cần biết sống đơn sơ và thành thật trước mặt Thiên Chúa và con người. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************