Ngày thứ năm (13-01-2022) – Trang suy niệm

12/01/2022

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Năm Tuần I Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: 1 Sm 4, 1-11

“Israel thất trận và hòm bia Thiên Chúa bị chiếm đoạt”.

Trích sách Samuel quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, những người Philitinh kéo đến gây chiến, và Israel phải xuất quân chống lại và đóng binh tại gần nơi gọi là Tảng Đá Phù Hộ, còn người Philitinh đóng quân tại Aphê và giàn trận đánh dân Israel. Vừa giáp trận, dân Israel đã phải rút lui trốn khỏi quân Philitinh; và trong trận đó có khoảng bốn ngàn binh sĩ bị giết rải rác khắp đồng ruộng. Khi tàn quân trở về trại, các kỳ lão Israel nói rằng: “Tại sao hôm nay Thiên Chúa sát hại chúng ta trước mặt quân Philitinh? Chúng ta hãy đem hòm bia Thiên Chúa từ Silô đến giữa chúng ta, để cứu chúng ta khỏi tay quân thù”.

Rồi dân chúng phái người đến Silô đem hòm bia Thiên Chúa các đạo binh ngự trên các vệ binh thần (tới). Hai con Hêli là Ophni và Phinê cùng đi theo hòm bia Thiên Chúa. Và khi hòm bia Thiên Chúa đến trại, toàn dân Israel lớn tiếng hoan hô vang trời dậy đất. Quân Philitinh nghe tiếng hoan hô, liền hỏi nhau rằng: “Tại sao trong trại quân Do-thái có tiếng hò la vang dậy?” Khi biết là hòm bia Thiên Chúa đã đến giữa trại, quân Philitinh sợ hãi và nói: “Thiên Chúa đã ngự đến trại quân địch”. Rồi chúng kêu than rằng: “Vô phúc cho chúng ta, mấy bữa nay đâu có tiếng hò la như vậy. Thật vô phúc cho chúng ta. Ai sẽ cứu chúng ta thoát khởi tay những vị thần minh cao siêu đó? Đây là những thần minh đã giáng biết bao tai hoạ trên những người Ai-cập nơi hoang địa. Hỡi người Philitinh, hãy can đảm và hiên ngang, đừng chịu làm nô lệ dân Do-thái như chúng đã làm nô lệ chúng ta. Hãy can đảm mà chiến đấu”. Vậy người Philitinh giao chiến, và dân Israel bị bại trận, và mạnh ai nấy chạy về trại mình. Và thật là một đại hoạ, bên Israel có đến ba mươi ngàn bộ binh tử trận. Hòm bia Thiên Chúa cũng bị chiếm đoạt. Cả hai con Hêli là Ophni và Phinê cũng tử trận. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 43, 10-11. 14-15. 24-25

A+B: Lạy Chúa, xin cứu chúng con theo lòng từ bi của Chúa (c. 27b).

A) Nay Chúa đã xua đuổi và để chúng con đầy nhuốc hổ, Chúa không xuất trận với quân đội chúng con. Chúa đã bắt chúng con phải tháo lui trước quân thù, và những kẻ thù ghét chúng con tha hồ cướp của. – Đáp.

B) Chúa đã để chúng con bị lân bang chế diễu, bị những kẻ chung quanh phỉ báng chê cười. Bị các quốc gia tha hồ chế nhạo, và bị các dân tộc trông thấy lắc đầu. – Đáp.

A) Ôi lạy Chúa, xin hãy tỉnh dậy, sao Chúa vẫn ngủ? Xin hãy bừng tỉnh và đừng xua đuổi chúng con muôn đời. Sao Chúa lại ẩn giấu thiên nhan, Chúa quên lãng cảnh chúng con chịu thống khổ và áp bức? – Đáp.

A+B: Lạy Chúa, xin cứu chúng con theo lòng từ bi của Chúa (c. 27b).

ALLELUIA: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mc 1, 40-45

“Bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch”. Động lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: “Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh”. Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch. Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: “Anh hãy ý tứ đừng nói gì cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê, để minh chứng mình đã được khỏi bệnh”. Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

13/01/2022 – THỨ NĂM TUẦN 1 TN

Th. Hi-la-ri-ô, giám mục, tiến sĩ HT

Mc 1,40-45

CHÚA MUỐN TÔI ĐƯỢC SẠCH

Khi ấy có người mắc bệnh phong đến gặp Đức Giê-su, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh hãy được sạch!” Lập tức bệnh phong biến khỏi anh ta và anh ta được sạch. (Mc 1,40-42)

Suy niệm: Luật Môsê qui định người bị bệnh phong cùi phải mặc áo rách, để đầu trần, che râu, và gặp ai cũng phải la lớn: “Ô nhiễm, ô nhiễm!” để cho kẻ qua người lại đừng tới gần, kẻo bị dơ bẩn theo (x. Lv 13,45). Tuy nhiên, người phong cùi trong Tin Mừng hôm nay lại không tuân thủ như thế. Anh ta đã đến gần Chúa Giê-su, quì xuống và van xin Người chữa lành cho. Chúa Giê-su cũng không làm theo thói thường, tránh xa anh vì sợ dơ bẩn. Trái lại, Ngài đã “giơ tay đụng vào anh ta” và anh nên sạch.

Mời Bạn: Người ta sợ đụng vào người phong cùi vì sợ lây nhiễm bệnh tật và nên ô uế. Tuy nhiên, Chúa Giê-su đã hành động ngược lại. Ngài đụng vào để cho người cùi nên sạch. Một tâm hồn tội lỗi cũng giống như người bị cùi. Cho dầu có đen tối hoặc xấu xa thế nào đi chăng nữa, nếu để cho Chúa Giê-su chạm vào, nó cũng sẽ được nên sạch giống như trường hợp của người phong cùi trong Tin Mừng hôm nay.

Chia sẻ: Bạn nghĩ, Chúa Giê-su có thể chạm vào tâm hồn bạn bằng cách nào?

Sống Lời Chúa: Để được chữa lành, trước hết phải chạy đến với Chúa gặp gỡ Ngài. Hằng ngày bạn dành thời gian cầu nguyện để gặp gỡ Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, mỗi khi phạm tội tâm hồn con trở nên ô uế. Xin giúp con đủ can đảm chạy đến với Ngài để được thanh tẩy và để tâm hồn con được xứng đáng là đền thờ cho Ngài ngự.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Đây là quy chế người mắc bệnh phong theo sách Lêvi (13, 45-46).
Người ấy phải mặc quần áo rách, để tóc bù xù, che môi trên,
phải vừa đi vừa kêu lên: “Ô uế ! ô uế !” để người ta biết mà tránh xa.
Người phong phải ở một mình, phải ở một chỗ bên ngoài trại…
Như thế từ xa xưa, người ta đã biết đến sự dễ lây lan của bệnh phong
và ảnh hưởng nguy hiểm trên thân xác do chứng bệnh này.
Để được chứng nhận là đã khỏi bệnh, người phong phải trình tư tế,
phải qua một quá trình phức tạp để thanh tẩy trong tám ngày,
và phải dâng những con vật bị sát tế để làm lễ xá tội (Lêvi 14).

Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay đã không giữ Luật Môsê.
Anh dám lại gần Đức Giêsu, dám tin ngài có khả năng làm anh được sạch,
mặc dù theo truyền thống Kinh Thánh,
chỉ Thiên Chúa mới làm được chuyện đó.
Đức Giêsu vì thương anh, nên cũng đã làm điều không được phép.
Ngài dám đưa bàn tay ra và đụng đến anh,
đụng đến da thịt nhơ uế của anh, đến chính phận người hẩm hiu của anh,
dù chỉ một lời của ngài thôi cũng đủ làm anh khỏi bệnh.
Cái đụng của bàn tay Đức Giêsu đã không làm ngài bị ô uế.
Trái lại, nó đã đem lại sự thanh sạch cho anh bị phong.
Để làm phép lạ chữa bệnh rất lừng lẫy này, Đức Giêsu đã phải trả giá.
Người phong khi được khỏi, đã không tránh được chuyện rêu rao.
Vì thế người ta đổ xô nhau tới khiến ngài phải ở ngoài thành.
Khi người khỏi bệnh vào được thành thì Đức Giêsu lại phải ở hoang địa !

Thái độ chạnh lòng thương và đụng đến người phong của Đức Giêsu
đã gợi hứng cho nhiều tâm hồn noi gương bắt chước.
Tại nhiều trại phong ở Việt Nam, ta thấy bóng dáng của các nữ tu.
Họ ở trại phong Bến Sắn, Di Linh, Quy Hòa, Văn Môn…
Nhiều nữ tu đã hiến dâng tuổi trẻ của mình để phục vụ người phong,
đụng đến những vết thương tàn phế nơi thân xác họ.
Các chủng sinh Miền Bắc cũng đã quen tiếp xúc với người phong,
ở lại với họ, săn sóc và chia sẻ thân phận của họ.
Giáo hội Công Giáo sung sướng được phục vụ người phong ở khắp nơi,
và coi đây như một nét đặc trưng của khuôn mặt Giáo Hội.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.

Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.

Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

13 THÁNG GIÊNG

Những Sứ Giả Đầu Tiên Của Đức Tin

Gia đình Kitôhữu không duy chỉ là một cộng đồng nhân loại. Món quà vô giá là sự sống con người cần phải được tháp nhập vào chính sự sống của Đức Kitô và nhờ đó trở nên phong phú. Sứ mạng chân chính của gia đình là bảo vệ các giá trị nhân bản, nhưng đồng thời gia đình cũng phải dồn tâm lực đào sâu các giá trị Kitô giáo.

Nhiều người có thể bị cám dỗ để nghĩ rằng chỉ các linh mục và tu sĩ mới được ủy trao trách nhiệm đối với Giáo Hội. Thật là một quan niệm sai lầm. Rõ ràng chính gia đình là môi trường đầu tiên để các trẻ em học biết thế nào là “thông dự vào lời hứa của Đức Giêsu Kitô qua Tin Mừng” (Ep 3, 6). Như Công Đồng Vatican II nêu rõ: “Các đôi vợ chồng Kitô giáo là những người cộng tác với ơn thánh và là nhân chứng đức tin đối với nhau, cũng như đối với con cái và những phần tử khác trong gia đình của họ. Chính họ là những người đầu tiên phải rao truyền và giáo dục đức tin cho con cái mình. Bằng lời nói và gương sáng họ huấn luyện con cái sống đời Kitô giáo và làm việc tông đồ. Họ thận trọng giúp đỡ con cái trong việc lựa chon ơn kêu gọi, và nếu thấy chúng có ơn kêu gọi sống đời linh mục hay đời sống thánh hiến, họ tận tình nuôi dưỡng ơn gọi ấy.” (SL Tông Đồ Giáo Dân 11)

Gia đình Kitôhữu là mảnh đất đầu tiên để các ơn gọi nẩy mầm và phát triển. Đó là một chủng viện hay một tập viện cho trẻ em. Chúng ta hãy dứt bỏ quan niệm sai lầm rằng Kitô giáo chỉ là một cái gì đóng khung bên trong cánh cổng nhà thờ. Bất cứ gì diễn ra trong phụng vụ cần phải được chuyển hóa vào đời sống hằng ngày. Gia đình phải là nơi sống phụng vụ. Để rồi, sự sống trong Đức Kitô sẽ lớn lên và trưởng thành dưới mái nhà của mỗi gia đình. Khi ấy, gia đình mới đích thực là một diễn tả chính Giáo Hội.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 13/01

1Sm 4, 1-11; Mc 1, 40-45.

Lời Suy Niệm: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch” Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh ta và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức, bệnh phong biến khỏi anh, và anh được sach.

          Với người bị bệnh phong vào thời Chúa Giêsu, là thành phần bị loại bỏ ra bên lề xã hội và cả bên ngoài tôn giáo. Bệnh phong không những làm cho thân xác của họ chết dần dần với những cơn đau nhứt nhối, mà tinh thần của họ luôn buồn khổ, cô đơn và thất vọng. Đối với người mang bệnh phong này, Chúa Giêsu là Tin Mừng, là niềm hy vọng tràn trề của anh. Anh ta đã bừng đứng dậy chạy đến với Chúa Giêsu đặt ý muốn của Chúa trước ý muốn của anh. Anh đã được Người chạnh lòng thương, và bệnh phong đã biến khỏi anh.

          Lạy Chúa Giêsu. Trong mỗi người chúng con cũng đang mang trên thân xác và trong tâm hồn của mình những bệnh nan y, đau khổ. Đặc biệt trong năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót này, cho tất cả chúng con luôn hướng về Chúa, để nhận lãnh Lòng Thương Xót của Chúa và thực hành những cử chỉ thương xót đối với nhau, trong cầu nguyện cũng như việc làm. 

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 13-01: Thánh HILARIÔ

Giám Mục Tiến Sĩ (khoảng 320-368)

Thánh Hilariô chào đời tại Poa-tu (Poitou) Ngài là con một nhà quí tộc làm nghị viên và được giáo dục đầy đủ. Các môn học mà thánh nhân ưa thích là văn chương, thi ca, nhất là triết lý. Việc học tập của Ngài luôn được đào sâu cho tới cùng là Thiên Chúa, Ngài nhận định rằng: hạnh phúc thật của con người không phải bị những thú vui đời này, dù chúng thanh cao đến mấy đi nữa. Trái lại hạnh phúc là được sống cho chân lý ở một cuộc sống khác với cuộc sống tạm trên trần gian này. Ngài nói: – “Tôi khóc lên vì vui sướng mỗi khi nghĩ đến thân xác này chỉ được tiền định để phải chết đi”.

Nhưng làm thế nào mà thánh nhân đã gặp được chân lý, gặp được Thiên Chúa mà các triết gia và các tôn giáo thường nói tới một cách mù mờ ? Chính thánh nhân kể lại cuộc khám phá của mình: – “Từ môi trường ngoại giáo, Chúa đã dẫn đưa tôi tới nguồn sáng chân thực. Giữa bao nhiêu hệ thống triết lý và tư tưởng khác nhau, tôi vẫn ưu tư tìm đến Chúa bằng con đường ngay thật, chắc chắn hữu thể thần linh vĩnh cửu phải là đơn thuần và độc nhất, không có gì là không bắt nguồn tự Ngài, vạn vật đều phải thờ phượng Ngài”.

Xác tín rằng phải có Chúa, Ngài còn suy nghĩ về các phẩm tính thần linh của Chúa.

– “Nếu một công rình vượt quá trí khôn chúng ta, thì nhà nghệ sĩ thần linh còn trổi vượt công trình đó thế nào ? Vậy phải nhận biết rằng, Thiên Chúa tuyệt mỹ và chúng ta chỉ cảm nhận mà chúng ta không thể thấu hiểu nổi”.

Trong khi còn miên man suy nghĩ như vậy. Thánh nhân bỗng gặp được một cuốn kinh thánh. Ngài đọc được đoạn văn trên Chúa hiện ra với Môsê và tự bày tỏ: “Ta là Đấng hiện hữu”.

Ngài sung sướng với khám phá này: – “Tôi vui thỏa với danh hiệu mà Thiên Chúa đã tỏ ra cho Môsê. Thánh danh ấy vừa biểu lộ một quan niệm sâu xa về Thiên Chúa, lại vừa tầm với trí óc con người.

Từ đó thánh nhân say mê nghiên cứu thánh kinh, nhất là các sách tiên tri với những đoạn loan báo về Đấng thiên sai. Trong các sách Tin Mừng, Ngài thích nhất tự ngôn của Tin Mừng theo thánh Gioan. – “Trí tôi học biết và Thiên Chúa vượt quá điều nó dám ước mong… lòng tôi run rẩy bồn chồn vì vui sướng trước giáo thuyết về Thiên Chúa Ba Ngôi và trước lời mời gọi tái sinh nhờ đức tin”.

Thế là thánh nhân đã lãnh nhận phép rửa tội và cảm thấy hạnh phúc lạ lùng. Ngài đã lập gia đình và có được một người con gái. Rồi đây Ngài sẽ đưa cả vợ con về với đức tin. Khi Ngài muốn trở thành linh mục, vợ Ngài chỉ còn gặp lại Ngài tại bàn thánh và coi Ngài như một người anh. Nhân đức và trí khôn ngoại hạng còn đưa Ngài tới chức giám mục cai quản địa phận Pcachie (Poutiers) năm 350.

Lúc ấy lạc giáo Ariô nổi lên như vũ bão trong Giáo hội. Vua Constantiô ủng hộ lạc giáo và tiếp tay cho cuộc bách hại. Thánh Athanasiô bị bắt đi lưu đày. Thánh Hilariô đứng lên lãnh đạo công cuộc bảo vệ đức tin chân chính. Ngài triệu tập một công đồng để lên án hai giám mục theo lạc giáo. Cộng đồng còn cử Ngài đi thương thuyết với nhà vua. Nhưng lòng can đảm của Ngài đã bị trừng phạt bằng cuộc lưu đày năm 356, chấp nhận gian khổ, Ngài tuyên bố:

– “Người ta có thể bắt các giám mục lưu đày, nhưng có thể trục xuất chân lý được không ?”

Cuộc hành trình tới Phrygia nằm ở cuối miền Tiểu Á thật dài và đầy gian khổ. Nhưng thánh nhân đã không hề phàn nàn mà vẫn bình thản sống mật thiết kết hợp với Chúa. Đầy dũng cảm, Ngài vẫn tiếp tục làm rung chuyển thế giới bằng công việc viết lách của mình.

Ngài nói: – “Dầu bị lưu đày, chúng tôi vẫn tiếp tục nói bằng sách vở, bởi vì người ta không thể giam hãm lời Chúa”.

Ngài đã viết 12 khảo luận bàn về Chúa Ba Ngôi, và đưa giáo thuyết chân chính của công giáo với những tư tưởng kinh tế của Hylạp vào thổ ngữ. Ngài tiếp tục điều khiển giáo phận bằng thư tín. Cũng vào thời này, thánh nhân diụ dàng hướng dẫn Ebra, người con gái của mình tới đời sống thánh thện. Một bức thư Ngài viết trong buổi lưu đày còn sót lại có khuyên nhủ nàng tận hiến cho Chúa như sau:

– “Con thân yêu, con là đứa con duy nhất của cha, cha muốn thấy con đẹp nhất và đẹp nhất trong các phụ nữ. Người ta nói với cha về một thanh niên có một viên ngọc quí và một bộ áo quí giá đến nỗi ai mà có được những thứ đó thì sẽ là người giàu có hơn hết mọi người”.

Và thánh nhân kể lại rằng: phải khó khăn lâu ngày, Ngài mới gặp được người thanh niên này để xin Người ban viên ngọc và chiếc áo ấy cho Ebra. Bên chiếc áo này, tuyết hết trắng, không có một vết niơ nào có thể bôi bẩn, không một tai nạn nào có thể xé rách. Còn viên ngọc, không vật nào chịu nổi vể rực rỡ huy hoàng, chẳng bao giờ tàn sắc, ai mang được sẽ hết khổ và không phải chết.

Và Ngài tiếp: – “Đấy là những món trang sức mà cha ước ao, những thứ ban ơn cứu rỗi và hạnh phúc vĩnh cửu”.

Ngài còn gửi cho cô những khúc thánh thi để cô ca nguyện sớm chiều. Ebra sớm theo ước nguyện của người cha nhưng cũng sớm lìa trần.

Bốn năm trôi qua, Hoàng đế cho triệu tập công đồng Sêlêucia. May mắn Ngài cũng được mời dự. Tại đây Ngài đã dùng hết tài hùng biện và trí thông minh để chống lạc giáo, bảo vệ đức tin chân chính. Không chịu nổi ảnh hưởng của Ngài. Bọn theo lạc giáo đã can thiệp để Ngài về quê hương cho rảnh rợ. Thế là năm 360, Đức Giám mục Hilariô được trở về Poa-chi-ê.

Cuộc hồi hương của thánh nhân là niềm vui cho toàn dân chứ không riêng gì cho giáo phận Poa-chi-ê. Thánh Hiêrônumô đã nói: “Toàn dân Gôn (Gaules) ôm hôn vị anh hùng tay mang ngành vạn tuế trở về”.

Trong đoàn người đông đảo đón mừng người cha già, phải kể đến một người lính trẻ tên là Martinô. Lúc ấy Martinô đang sống ẩn dật ở Ganlinaria và sau này sẽ làm thánh giám mục. Ngày về của vị giám mục già cả còn được ghi dấu bằng một phép lạ nhãn tiền. Một bà mẹ khóc lóc ôm một đứa con mới chết gặp Ngài. Bà tha thiết xin thánh nhân cứu sống con mình, ít ra để nó được rửa tội. Cảm tưởng nỗi niềm đau đớn của người thiếu phụ, Ngài quì gối cầu nguyện và da thịt đứa trẻ dần dần đỏ hồng rồi sống lại.

Tuổi già sức yếu nhưng thánh nhân vẫn nhiệt thành chỉnh đốn lại những tàn phá do bè rối gây nên. Lòng nhiệt thành đã đưa Ngài tới tận Milan khiến bọn lạc giáo kinh hoàng và làm áp lực bắt Ngài phải trở lại Poa-chi-ê. Ngày 13 tháng giêng năm 386 Ngài đã qua đời. Người ta kể lại rằng: lúc thánh nhân tử trần, một luồng chói chang khắp phòng.

Ngày 10 tháng giêng năm 1852, theo lời thỉnh cầu của nhiều vị giám mục. Đức giáo hoàng phong Ngài lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh. Ngài là vị thánh tiến sĩ đầu tiên ở Gôn.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

13 tháng Giêng

 Tiếng Chó Sủa

 Những người có chức vụ và quyền hành trong bất cứ xã hội nào cũng thường bị chỉ trích và chống đối.

 Có một nhà lãnh đạo quốc gia kia thường bị những người đối lập tấn công và thóa mạ một cách bất công, nhưng lúc nào ông ta cũng tỏ ra bình thản như không có gì xảy ra. Một hôm, có người bạn hỏi lý do tại sao ông có thể tỏ ra bình tĩnh được trước không biết bao nhiêu khiêu khích của người khác, ông đã giải thích như sau:

 “Tôi đã học được bí quyết giữ bình tĩnh ngay từ lúc nhỏ. Chúng tôi sống bên cạnh một nhà láng giềng có nuôi một con chó khó tính. Cứ mỗi lần trăng tròn, con chó lại sủa một cách giận dữ vô căn cứ, có khi cơn sủa của nó kéo dài đến cả tiếng đồng hồ. Tất cả những người xung quanh đều tỏ ra bực bội đối với con vật khó tính ấy, chỉ trừ có người chủ của nó. Oâng không bao giờ tỏ ra bực bội, bởi vì ông ta là một người điếc.

 Tất cả bí quyết của tôi nằm ở đó. Trăng sáng, con chó sủa. Một lúc sau, nó lại mỏi mệt và thôi sủa mặc dù trăng vẫn cứ sáng”.

 Kiên nhẫn chịu đựng thường bị xem như một thể hiện của tính thụ động, tiêu cực. Có người còn gọi đó là nhân đức của người nghèo. Thế nhưng, trong cuộc sống, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại, có lẽ chúng ta cần đến nhân đức này hơn bao giờ hết.

 Thiên Chúa là đấng kiên nhẫn. Kiên nhẫn vẫn là nét đặc thù trong công trình sáng tạo của Ngài. Chúng ta có biết rằng trái đất của chúng ta có bao nhiêu tuổi chưa? Các nhà địa chất nói với chúng ta rằng trái đất đã được cấu tạo qua từng thời kỳ kéo dài đến cả triệu triệu năm. Ðịa chất học quả thực là môn học của sự kiên nhẫn của Thượng Ðế. Thiên Chúa luôn tỏ ra kiên nhẫn đối với con người. Toàn bộ Cựu Ước là một quyển ký lục về những nhẫn nhục chịu đựng của Thiên Chúa đối với sự yếu đuối, khờ dại cũng như hung bạo của con người. Ngài phải chờ đợi đến cả trăm năm để cho lụt Hồng Thủy trút xuống trên con người. Ngài chờ đợi đến cả mười năm mới trừng phạt vua Saolô.

 Tân Ước lại càng cho chúng ta cảm nhận được bằng xương thịt. Tình yêu thương nhẫn nhục, chịu đựng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy chiêm ngắm sự nhẫn nhục của Chúa Giêsu đối với các môn đệ, đối với kẻ thù của Ngài và nhất là đối với đám đông nghèo khổ, lạc lõng. Nhưng nhất là những đau khổ, bách hại mà chính bản thân mình gánh chịu, Chúa Giêsu chỉ biết giữ thinh lặng, thinh lặng không phải của căm hờn, oán trách mà là của yêu mến, tha thứ cho đến cùng.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Năm – Tuần 1 – TN2

Bài đọc: I Sam 4:1-11; Mk 1:40-45.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Bất tuân lệnh Thiên Chúa sẽ phải lãnh nhận hậu quả xấu.

Trong cuộc sống, mọi người chúng ta đều nhận ra nguyên tắc: nếu muốn kết quả tốt đẹp, phải thi hành những điều kiện đòi hỏi; vì nếu làm ngược lại, chúng ta sẽ phải lãnh mọi hậu quả xấu. Ví dụ, để có thể lành bệnh, con người phải làm theo những gì bác sĩ căn dặn; nếu không, sẽ không khỏi bệnh. Để có thể thu thập kiến thức và đạt được điểm cao, học sinh phải lắng nghe giáo sư và viết lại những gì giáo sư nói; nếu nói ngược lại và không có lý do chứng minh, sẽ bị điểm xấu và có thể bị ở lại lớp.

Các Bài Đọc hôm nay xoay quanh việc con người phải vâng lời Thiên Chúa và thi hành những gì Ngài dạy, nếu muốn được Thiên Chúa săn sóc và ban ơn. Làm ngược lại những gì Thiên Chúa dạy là tự chuốc hậu quả xấu cho mình. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, con cái Israel nghĩ nếu họ cứ mang Hòm Bia Thiên Chúa ra chiến trường, mà không cần biết có lệnh Thiên Chúa hay không, là sẽ toàn thắng quân thù. Kết quả là họ đã thảm bại và Hòm Bia Thiên Chúa rơi vào tay quân Philistines. Trong Phúc Âm, mặc dù đã được ngăn cấm bởi Đức Kitô, người phong hủi vẫn không vâng lời. Sự bất tuân của anh làm cho Chúa Giêsu không thể vào thành và dạy dỗ dân chúng được.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I (năm chẵn): Sao hôm nay Đức Chúa để chúng ta bị người Philistines đánh bại?

1.1/ Đừng nghĩ Thiên Chúa luôn bảo vệ mà dân chúng không cần ăn năn: Trong lịch sử Cựu Ước, cứ khi nào dân chúng vâng lời làm theo những gì Thiên Chúa dạy, họ được Ngài bảo vệ khỏi tay quân thù, và làm việc gì cũng thành công; nhưng khi họ bất tuân lệnh Thiên Chúa, Ngài sẽ bỏ mặc họ cho quân thù tứ bề xâu xé, và họ sẽ phải chịu mọi thảm bại cách nhục nhã. Trình thuật hôm nay là một dẫn chứng: Các con cái của thầy cả Eli là Hophni và Phinehas và nhiều người trong con cái của Israel càng ngày càng bất tuân lệnh Thiên Chúa. Hậu quả khi họ giao chiến với quân đội của Philistines, họ bị thảm bại và bị thiệt hại khoảng 4,000 người.

(1) Phản ứng của các kỳ mục Israel: Khi dân trở về trại, các kỳ mục Israel nói: “Sao hôm nay Đức Chúa để chúng ta bị người Philistines đánh bại? Chúng ta hãy đi Shiloh lấy Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa về: Hòm Bia sẽ đến giữa chúng ta và sẽ cứu chúng ta khỏi bàn tay quân thù.” Họ chỉ nghĩ đơn giản là họ sẽ chiến thắng quân thù nếu có sự hiện diện của Hòm Bia Thiên Chúa. Thế là họ sai người đi Shiloh; từ đó họ mang về Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa các đạo binh, Đấng ngự trên các thần hộ giá; ở đó, bên cạnh Hòm Bia Giao Ước của Thiên Chúa, có hai con ông Eli là Hophni và Phinehas. Khi Hòm Bia Giao Ước của Đức Chúa xuống trại, toàn thể Israel hò reo vang dội khiến đất rung chuyển.

(2) Phản ứng của người Philistines: Khi người Philistines nghe thấy tiếng hò reo thì hỏi nhau: “Tiếng hò reo vang dội ấy trong trại bọn Do-thái là gì vậy?” Khi chúng biết là Hòm Bia Đức Chúa đã đến trại, chúng sợ hãi và nói với nhau: “Một vị thần đã đến trại!” Rồi chúng bảo nhau: “Khốn thân ta, vì trước đây không có như vậy! Khốn thân ta! Ai sẽ giải thoát ta khỏi tay những thần hùng mạnh ấy? Đó là những thần đã dùng mọi thứ đòn mà đánh phạt người Ai-cập trong sa mạc.” Nhưng vì bị dồn vào thế phải chiến đấu, nên người lãnh đạo quân đội Philistines phải lên tiếng động viên tinh thần các binh sĩ: “Hỡi người Philistines, can đảm lên, hãy tỏ ra là nam nhi, kẻo phải làm nô lệ cho bọn Do-thái như chúng đã làm nô lệ cho anh em. Hãy tỏ ra là nam nhi và chiến đấu!” Và họ tiến lên giao chiến với quân đội của Israel.

1.2/ Kết quả của cuộc chiến: Hôm đó là một cuộc thảm bại nhục nhã của Israel. Họ bị quân đội Philistines đánh bại tan tành. Phía Israel có ba mươi ngàn bộ binh tử trận. Hòm Bia Thiên Chúa bị chiếm đoạt, và hai con ông Eli là Hophni và Phinehas bị giết. Số còn lại chạy trốn về lều của mình.

Con cái Israel học được một bài học: Không phải cứ có Hòm Bia Thiên Chúa là tự động được Thiên Chúa bảo vệ. Họ không thể điều khiển Thiên Chúa; nhưng bổn phận của họ là phải vâng lời Ngài, nếu muốn được Ngài bảo vệ.

2/ Phúc Âm: Người phong cùi được chữa lành, nhưng không nghe lời Thiên Chúa.

2.1/ Chúa Giêsu chữa lành người phong cùi: Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: “Tôi muốn, anh sạch đi!” Lập tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch.

2.2/ Lệnh truyền của Chúa Giêsu: Người nghiêm giọng đuổi anh đi ngay, và bảo anh: “Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông Moses đã truyền, để làm chứng cho người ta biết.” Mục đích tại sao Chúa Giêsu làm phép lạ là vì thương bệnh nhân và muốn cho họ nhận ra Ngài là Thiên Chúa, chứ không phải để được tán dương ca tụng. Nếu sau khi lãnh nhận phép lạ, mà vẫn không tin vào Ngài, phép lạ đó coi như đã không đạt được mục đích.

2.3/ Anh được chữa lành phong hủi không nghe lời Chúa Giêsu: Trình thuật kể: “Nhưng vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin ấy khắp nơi, đến nỗi Người không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại những nơi hoang vắng ngoài thành.” Chúng ta cứ thử tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra cho anh phong cùi này, nếu Chúa Giêsu là một ông vua hay nhà lãnh đạo quân sự?

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Bổn phận của chúng ta là phải tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa và tuân giữ những gì Ngài truyền dạy.

– Vâng lời Thiên Chúa và các nhà lãnh đạo đại diện cho Ngài không phải là hèn kém hay nô lệ, nhưng chứng tỏ sự khôn ngoan của chúng ta; vì chúng ta biết họ khôn ngoan và yêu thương chúng ta.

– Chúng ta được Thiên Chúa bảo vệ và gìn giữ không phải vì danh xưng là những người Kitô hữu; nhưng vì chúng ta vâng lời và thực hành những gì Ngài truyền dạy chúng ta.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************