Ngày thứ năm (15-10-2020) – Trang suy niệm

14/10/2020

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Năm Tuần XXVIII Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I:    Ep 1, 1-10

“Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian”.

Khởi đầu bức thư của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Phaolô, Tông đồ của Đức Giêsu Kitô bởi ý định của Thiên Chúa, kính gửi các thánh ở Êphêxô và (là) các tín hữu trong Đức Giêsu Kitô. (Nguyện chúc) ân sủng và bình an cho anh em do tự Thiên Chúa, Cha chúng ta, và Chúa Giêsu Kitô.

Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã chúc lành cho chúng ta bằng mọi phúc lành thiêng liêng trên trời, trong Đức Kitô. Như Ngài đã chọn chúng ta trong Người trước khi tạo dựng thế gian, để chúng ta được nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài trong tình yêu thương. Chiếu theo thánh ý của Ngài, Ngài đã tiền định cho chúng ta được phúc làm con nhờ Đức Giêsu Kitô, để chúng ta ca tụng vinh quang ân sủng của Ngài mà Ngài đã ban cho chúng ta trong Con yêu dấu của Ngài.

Trong Người, chúng ta được ơn cứu chuộc nhờ máu Người, được ơn tha tội theo sự phong phú của ân sủng Ngài. Ân sủng này Ngài đã đổ tràn đầy trên chúng ta với tất cả sự khôn ngoan thượng trí, khiến chúng ta được biết mầu nhiệm ý định của Ngài theo ý Ngài đã định về Người, để kiện toàn trong thời gian viên mãn, là thâu hồi vạn vật trên trời dưới đất trong Đức Kitô. Đó là lời Chúa. 

ĐÁP CA:  Tv  97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6

A+B=Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người (c. 2a).

A=Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.     

B=Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel.    

A=Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca!    

B=Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với đàn cầm, với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua.    

A+B=Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người (c. 2a).

ALLELUIA:   Ga 14, 5

-Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia. 

PHÚC ÂM:   Lc 11, 47-54

“Sẽ bị đòi nợ máu của các tiên tri đã đổ ra, kể từ máu của Abel cho đến máu của Giacaria”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa phán: “Khốn cho các ngươi! Hỡi những người xây cất mồ mả các tiên tri, mà tổ phụ các ngươi đã giết chết. Thật, các ngươi làm chứng và tán thành những hành động của tổ phụ các ngươi: vì thực ra họ đã giết các vị tiên tri, còn các ngươi thì xây mồ mả cho họ. Bởi đó mà sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã nói: Ta sẽ sai đến với chúng các tiên tri và các tông đồ, trong số các vị đó, người thì chúng giết đi, người thì chúng bách hại, khiến cho dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu của tất cả các tiên tri đã đổ ra từ lúc tạo thành vũ trụ, kể từ máu của Abel cho đến máu của Dacaria, người đã bị sát hại giữa bàn thờ và thánh điện. Phải, Ta bảo các ngươi, dòng giống này sẽ bị đòi nợ máu. Khốn cho các ngươi! Hỡi những tiến sĩ luật, vì các ngươi cất giữ chìa khoá sự hiểu biết. Chính các ngươi đã không được vào, mà những người muốn vào, các ngươi đã ngăn cản họ lại”.

Khi người phán bảo cùng các biệt phái và tiến sĩ luật những lời đó, thì họ bắt đầu oán ghét Người một cách ghê gớm, và chất vấn Người về nhiều vấn đề, cố gài bẫy Người để may ra bắt bẻ được lời gì do miệng Người thốt ra chăng. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

15/10/2020 – THỨ NĂM TUẦN 28 TN

Th. Tê-rê-xa Giê-su, trinh nữ, tiến sĩ HT

Lc 11,47-54

CHÌA KHOÁ CỦA ĐỨC TIN

“Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết.” (Lc 11,52)

Suy niệm: Khi khiển trách những người Pha-ri-sêu giả hình, Chúa Giê-su cũng bao gồm những thầy thông luật trong đó. Họ là những người hiểu biết Lề Luật Mô-sê; thế nhưng, họ đặt ra những qui định nặng nề mà chính họ cũng không thi hành được, họ chú trọng hình thức bên ngoài mà bỏ qua chính tinh thần của Lề Luật, coi những điều phụ tuỳ quan trọng hơn những điều chính yếu (x. Lc 11,37-42). Chúa đúc kết “bản cáo trạng” dành cho những người Pha-ri-sêu và các nhà thông luật bằng một câu: “Họ cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết”; đó chính là điều khiến cho sự giả hình của họ không có thuốc chữa.

Mời Bạn: Sách Châm ngôn viết: “Kính sợ Chúa là bước đầu của sự hiểu biết” (Cn 1,7). Thế nhưng khi “chìa khoá của sự hiểu biết” bị cất giấu đi thì chính sự hiểu biết đó trở thành rào cản không cho người ta đến với Chúa. Vì thế, đức tin chỉ dừng lại ở tri thức mà không dẫn đến cuộc gặp gỡ cá vị và mật thiết với Chúa Ki-tô, thì đức tin ấy thực chất chỉ là giả hình. Đức Bê-nê-đi-tô XVI nói: “Đức tin Ki-tô giáo không phải là một ý tưởng, mà là một sự sống”. Nếu đức tin không được nuôi dưỡng bằng việc cầu nguyện, tương quan giữa người Ki-tô hữu với Đức Ki-tô cũng bị cắt đứt và có thể nói họ đã đánh mất “chìa khóa của sự hiểu biết” dẫn họ vào đức tin chân thực.

Sống Lời Chúa: Cầu nguyện với Chúa bất cứ lúc nào bằng cách thường xuyên dâng lên Chúa những lời nguyện tắt.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, đức tin của chúng con nếu chỉ là kiến thức mà không được nuôi dưỡng bằng đời sống cầu nguyện thì rất mong manh. Xin cho chúng con luôn kết hiệp với Chúa bằng việc cầu nguyện liên lỉ trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Ơn gọi ngôn sứ chưa bao giờ là một ơn gọi dễ dàng.
Ngôn sứ là người bất ngờ được Thiên Chúa kêu gọi,
để trở nên phát ngôn viên chính thức cho Ngài trước toàn dân.
Thiên Chúa nói qua trung gian con người,
nói bằng thứ ngôn ngữ con người để họ hiểu được.
Ngôn sứ đã là người nghe trước khi là người nói,
là cầu nối chuyển đạt cho dân sứ điệp mình đã lãnh nhận.

Sứ điệp của Thiên Chúa lắm khi là những lời cảnh báo, răn đe,
nên công việc của ngôn sứ không dễ được mọi người đón nhận.
Ngôn sứ có thể tố cáo tính vụ hình thức nơi phụng vụ trong Đền thờ,
những người dâng lễ vật cho Chúa, nhưng lại bóc lột anh em (Is 1, 11).
Ngôn sứ cũng dám nói lên những điều chưa tốt nơi hàng tư tế,
những hư hỏng, bất công của vua quan (2 Sm 12, 7),
và những bất trung của dân chạy theo ngẫu tượng dân ngoại.
Phải có đảm lược mới dám nói điều Chúa bắt mình nói.
Số phận của một ngôn sứ thường gắn liền với đau khổ và bách hại.
Môsê và Êlia đều đã có lúc xin được chết cho xong (Ds 11, 15; 1 V 19, 4).
Giêrêmia cũng chỉ muốn từ nhiệm, nhưng không được (Gr 20, 7-18).
Giacaria bị ném đá và giết trong sân Đền thờ (2 Sb 24, 20-22).

Vào thời Tân Ước các ngôn sứ cũng chịu chung số phận.
Gioan Tẩy giả, Đức Giêsu và các tông đồ đều nếm khổ đau và cái chết.
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến máu mà bao ngôn sứ đã đổ ra.
Từ thời Hêrôđê đại đế, người ta bắt đầu xây lăng mộ cho các ngôn sứ,
nhưng chuyện bắt bớ và sát hại các ngôn sứ thì vẫn kéo dài.
“Thế hệ này sẽ phải trả lời về máu của mọi ngôn sứ đã đổ ra…” (c.50).
Như vậy thế hệ hiện tại cũng phải chịu trách nhiệm về tội ác quá khứ,
vì chính họ đang nhúng tay
vào việc bách hại các người được Thiên Chúa sai (c. 49).
Các nhà thông luật hay các kinh sư mà Đức Giêsu đang gặp gỡ
sẽ có mặt trong Thượng Hội Đồng để luận tội Đức Giêsu (Lc 22, 66).
Máu vô tội của Đức Giêsu sẽ đổ ra trên đồi Sọ (Lc 22, 20; Ga 19, 34).
Máu châu báu ấy thực ra không đòi nợ máu, không đòi trả thù.
Máu ấy đổ ra để xóa tội cho muôn người (Mt 26, 28),
để giao hòa con người với Thiên Chúa.
Một số người sẽ phải chịu trách nhiệm về việc đổ máu Đức Giêsu,
nhưng ngay cả những người ấy cũng có thể thoát khỏi án phạt
nhờ chính dòng máu từ trái tim yêu thương của Đấng bị đóng đinh.

Đức Giêsu trên thập giá đã tha thứ cho những kẻ giết mình.
“Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).
Đức Giêsu phục sinh đã sống sự tha thứ ấy
khi Ngài chẳng hề báo thù những kẻ can dự vào cái chết của Ngài.
Các tông đồ cũng lần lượt chia sẻ chén đắng của Thầy mình.
Kitô hữu tự bản chất là ngôn sứ cho thế giới mình đang sống.
Chỉ mong chúng ta cũng can đảm sống như Giêsu và chết như Giêsu.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa,
Chúa đã làm người như chúng con,
nên Chúa hiểu gánh nặng của phận người.
Cuộc đời đầy cạm bẫy mời mọc
mà con người lại yếu đuối mong manh.
Hạnh phúc thường được trộn bằng nước mắt,
và giữa ánh sáng, cũng có những bóng mờ đe dọa.

Lạy Chúa Giêsu,
nếu có lúc con mệt mỏi và xao xuyến,
xin nhắc con nhớ rằng trong Vườn Dầu
Chúa đã buồn muốn chết được.
Nếu có lúc con thấy bóng tối bủa vây,
xin nhắc con nhớ rằng trên thập giá
Chúa đã thốt lên: Sao Cha bỏ con?

Xin nâng đỡ con, để con đừng bỏ cuộc.
Xin đồng hành với con, để con không cô đơn.
Xin cho con yêu đời luôn
dù đời chẳng luôn đáng yêu.
Xin cho con can đảm
đối diện với những thách đố
vì biết rằng cuối cùng
chiến thắng thuộc về người
có niềm hy vọng lớn hơn.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

15 THÁNG MƯỜI

Tình Yêu Chúa Kitô Thúc Bách Các Nhà Thừa Sai Bác Ái

Sứ mệnh cứu thế của Đức Giêsu Na-da-rét đã được triển khai ở Ấn Độ, đặc biệt ở Calcutta, bằng một cách thế hết sức hùng hồn, thể hiện một lời chứng đích thực về Thiên Chúa. Đó là một lời chứng làm cho cả thế giới phải thán phục, một chứng tá làm rung động lương tâm nhân loại. Tôi đang muốn nói đến cuộc sống và hoạt động của một người phụ nữ: dù bà không sinh ra ở Ấn Độ, mọi người vẫn gọi bà là Mẹ Têrêsa Calcutta.

Cách đây ít năm, người phụ nữ này đã được tình yêu Chúa Kitô thúc bách để phục vụ Ngài nơi những người khốn khổ và bất hạnh nhất. Mẹ đã bỏ công việc dạy học để thành lập Hội Dòng Thừa Sai Bác Aùi. Qua những công việc phục vụ đầy ấn tượng cho những người nghèo khổ nhất, Mẹ Tê-rê-sa thi hành một cách cụ thể sứ vụ cứu thế của Chúa Giêsu: “mang niềm vui đến cho người nghèo” (Lc 4,18). Mẹ đã trao cho thế giới một bài học đầy khích lệ về lòng trắc ẩn và tình yêu chân thành đối với những ai cần được giúp đỡ. Tấm gương của mẹ đã biểu lộ sức mạnh cứu độ. Tấm gương ấy đang thôi thúc nhiều người nam cũng như nữ thể hiện những chứng tá phục vụ rất anh hùng. Quả thật, tấm gương của Mẹ Tê-rê-sa vẫn còn tiếp tục động viên họ kiên trì phục vụ không mệt mỏi.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 15/10

Thánh Têrêxa Giêsu, trinh nữ

tiến sĩ Hội Thánh

Ep 1, 1-10; Lc 11, 47-54.

LỜI SUY NIỆM: “Khốn cho cả các ngươi nữa, hỡi những nhà thông luật! Các ngươi chất trên vai kẻ khác những gánh nặng, không thể gánh nổi, còn chính các ngươi, thì dù một ngón tay cũng không đụng vào.”

       Đây là những lời Chúa Giêsu đã nói sau khi Người chứng kiến những người Pharisêu sống chuộng hình thức bên ngoài (sống giả hình). Từ việc rảy nước trên các thực phẩm mua từ chợ về, rửa chén bát và tay cho sạch trước khi ăn, trong khi đó trong lòng đầy những việc xấu xa, cướp bốc, gian tà; không chịu làm cho thanh sạch; lại tính toán hơn thiệt trong việc nộp thuế cho Đền Thờ theo nghĩa vụ cũng như trong việc hiếu nghĩa với cha mẹ. trong lúc đó, lại luôn muốn nâng mình lên, trỗi vượt hơn người khác, bằng cách chiếm chỗ nhất trong các hội đường và các bàn tiệc.

       Lạy Chúa Giêsu. Chúa đã chứng kiến những điều trái ý của Chúa. Giờ đây, xin Chúa đừng để chúng con sa vào những hình thức mà đã bị Chúa kết án: “Khốn cho các ngươi!”

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 15-10

Thánh TÊRÊXA AVILA
Đồng Trinh, Tiến Sĩ Hội Thánh (1515 – 1585)

Sinh ngày 28 tháng 3 năm 1515, Têrêxa là một trong 12 người con của ông Anphong Cpêda, lớn lên tại Avila, vương quốc Castille, miền đất của mộng mơ và của các thánh “. Ngài ham thích đọc các sách dạy sống khổ hạnh và suy gẫm cuộc đời các thánh. Với lòng nhiệt thành, Ngài ngây ngất vì hạnh phúc vĩnh cửu ân thưởng cho những đau khổ của các thánh, cũng như kính sợ những khốn khổ của hoả ngục tồn tại mãi mãi. Ngài đã nói trong run sợ: – Ai có thể chịu nổi cái ý nghĩ như vậy được ?

Mong mỏi được tử đạo, một ngày kia, Ngài lén dẫn cậu em Rodrigue đi về miền dân dữ tợn đang hành hạ các Kitô hữu này. Nhưng mới đi được nửa dặm đường thì ông cậu bắt được và dẫn đưa về nhà. Không tử đạo được, các em sẽ trở thành những nhà ẩn tu. Các em làm những cái hầm và cầu nguyện lâu giờ tại đó. Nhưng rồi một ngày kia, những bức tường nhỏ bằng đá bị sập. Các em nhỏ thánh thiện này thường nhịn ăn để làm việc bác ái.

Năm 13 tuổi, tức năm 1528, Têrêxa mất mẹ, Ngài khấn nài Mẹ Maria là Mẹ. Chuỗi Mân Côi trở thành vịệc sùng kính đặc biệt của Ngài.

Têrêxa có một bản chất ngay thẳng, nhiệt hành và tha thiết mến Chúa. Khoảng 15 tuổi, Ngài lén đọc các truyện kiếm hiệp làm cho Ngài ra mơ mộng, lúc này, Ngài muốn mặc đẹp, xức dầu thơm, lo trang sức và thích được ve vãn. Chị em cho Ngài xinh đẹp. Một cô em họ ngây ngất không muốn rời xa Ngài. Họ nói truyện phiếm với nhau hàng giờ. Têrêxa nói: – Tôi được cứu thoát, chính là vì kính sợ Chúa, điều mà tôi không bao giờ bỏ mất, và vì sợ mất danh dự.

Ngài còn nói: – Tôi đã rất ghê tởm những điều bất lương.

Dầu vậy cha Ngài cũng lo âu và quyết định gởi Ngài học nội trú ở nơi các nữ tu dòng thánh Augustinô. Têrêxa không thích thú gì, nhất là đã không hề muốn rằng sau này mình sẽ là nữ tu. Nhưng Ngài phải vâng lời. Và Ngài sắp tìm lại được lòng đạo đức nhiệt thành của tuổi thơ khi sống gần các bậc thầy này. Hơn khi nào, Ngài khao khát những của cải đời đời. Nhưng đời sống khắc khổ trong tu viện làm Ngài run sợ.

Têrêxa ngã bệnh. Ngài trở về nhà cha và nghe ông cậu nhắc lại rằng mọi sự đời này chỉ là phù vân và sẽ qua mau như chớp. Sau cùng Ngài hiểu rằng: ơn gọi của mình là sống đời tu sĩ. Nhưng những chống đối dữ dội nổi lên trong lòng. Hơn nữa, Ngài phải coi thường những chối từ của cha Ngài. Năm 1536, Ngài vào dòng kín Camelô, sau khi phải chịu đựng cuộc chiến đấu kinh khủng với chính mình: để giã từ nhà cha, Ngài khổ sở đến dộ xương cốt như rã rời và tan nát con tim. Nhưng rồi Ngài đã mạnh mẽ thắng vượt mọi cám dỗ đau khổ.

Têrêxa đã trải qua 27 năm tại tu viện Nhập Thể, là nơi luật lệ được châm chước cho phép giải trí và tiếp khách, Ngài còn phải qua một bước dài trước khi dấn mình vào con đường cực nhọc để xây dựng và cải sửa các dòng tu. Trước hết, sức khỏe của Ngài xem ra không chịu đựng nổi. Bệnh tật, Ngài trở về nhà, các bác sĩ tuyên bố là bất trị, Ngài tín thác vào thánh Giuse và khỏi bệnh sau một cơn ngất trí. Trở lại tu viện, Ngài được chị em yêu mến.

Cách nói chuyện hấp dẫn của Ngài lôi kéo nhiều cuộc viếng thăm. Ngài kể lại:
– Một đàng Chúa gọi tôi, đang khác thì thế gian lôi kéo. Cuộc chiến nội tâm xâu xé tôi.

Ngày kia trong một câu chuyện trần tục, Ngài đã được thị kiến thấy Chúa Giêsu đầy thương tích. Têrêxa thấy đau lòng, nhưng Ngài còn phải chiến đấu nhiều để đạt tới chỗ chỉ yêu các tạo vật trong Chúa và vì Chúa. Trong nhiều năm, Ngài đã trải qua sự khô khan, qua cơn sợ hãi hỏa ngục. Trong vòng 20 năm Ngài đã không tìn ra cha giải tội hiểu được Ngài và muốn bàn về việc thị kiến. Thánh Phanxicô Borgia đã trấn an Ngài.

Sau cùng, các cha giải tội buộc Ngài ghi lại điều đã xảy ra trong tâm hồn. Và thánh nữ, một con người ít học, đã viết nên được những tác phẩm có giá trị, đến nỗi Ngài đã đáng được danh hiệu là Tiến Sĩ Hội Thánh.

Nếu trước hết, sự sợ hãi các khổ cực đời đời đã dẫn Têrêxa vào đường hẹp đưa tới chỗ cứu rỗi thì bây giờ tình yêu Chúa xâm chiếm Ngài như cơn hỏa hào. Các cuộc xuất thần tăng thêm. Ba Ngôi, Đức Trinh nữ, các thiên thần và các thánh hiện ra với Ngài. Ngài được nâng lên khỏi mặt đất và ở nguyên như vậy khi cầu nguyện. Vào tuổi 43, thánh nữ thường thấy Đấng cứu thế và nghe Người nói: – Cha không muốn con nói truyện với loài người, nhưng với các thiên thần.

Một thiên thần dùng giáo đâm thủng tim Ngài và Chúa Giêsu gọi Ngài là hiền thê. Cho tới cuối đời, Ngài đã hiệp nhất với đấng cứu chuộc bị đóng đinh và đã ước được chịu khổ vì Người đến nỗi người ta thường nghe Ngài kêu lên: – Lạy Chúa, hoặc là chết, hoặc là đau khổ.

Ngài tự ràng buộc bởi lời khân anh hùng này, là luôn làm điều thiện hảo hơn, nhưng lại chẳng tỏ ra nhiệm nhặt chút nào, trái lại còn nhanh nhẹn vui tươi duyên dáng tới độ gõ sênh mua vui cho các nữ tu dòng kín Camêlô. Vị nữ tu chiêm niệm này còn tỏ lộ một sự hiểu biết tích cực, một tinh thần thực tiễn sẽ đưa Ngài tới cuộc cải đổi dòng Camelô.

ịnh mệnh đặc biệt sắp đưa Ngài qua mọi chặng đường để thiết lập các tu viện. Trước hết năm 1562, khép mình ở Avila nhưng một nhà mang danh thánh Giuse, là nơi các nữ tu sống trong thinh lặng, nghèo khó, cầu nguyện, chay tịnh, đi chân không trong mọi mùa, Têrêxa ra khỏi nơi này và không ngừng thiết lập, tổ chức những tu viện mới. Hầu như luôn luôn bệnh hoạn, Ngài theo đuổi những cuộc hành trình mệt lả trước sự nóng nung, làm mồi cho các côn trùng tấn công hay những đêm lạnh lẽo mùa đông đã giữ Ngài lại trong những đoạn đường không tên không có nơi trú ẩn. Những cuộc bắt bớ tấn công Ngài. Ngài viết cho một ân nhân: – Cho tiền bạc chẳng là gì, nhưng khi chúng tôi như đến lúc bị ném đá, thì công việc lại trôi chảy.

Và khi mẹ đã vượt thắng mọi ngăn trở và thiết lập các tu viện mới, cơn đau đớn nhức nhối lại đợi chờ Ngài vì phải giã từ con cái yêu dấu để ra đi xây dựng tu viện ở nơi khác. Đây là: – Nỗi thống khổ đớn đau nhất. Tim tôi tan nát đau khổ nghĩ rằng: sẽ không còn gặp lại họ nữa.

Thánh Gioan thánh giá trợ lực, Ngài trải rộng việc canh tân tới các cha dòng Carmes mà Ngài muốn tái lập sự nghiêm ngặt ban đầu, điều gây nên cho Ngài nhiều xôn xao và dường như làm cho Ngài bị cầm tù. Nhà vua và đức giáo hoàng bảo vệ Ngài. Ngài đã thiết lập hơn 30 tu viện. Hoạt động chưa từng nghe thấy của Ngài, những việc thiết lập, những cuộc du hành, những khó khăn vô số… đã không ngăn cản Ngài vui hưởng sự hiện diện của Chúa, kiên trì cầu nguyện, và thường xuất thần, Ngài nói: – Tôi không hiểu tại sao người ta bảo tôi là nhà sáng lập, chính Chúa sáng lập chứ không phải tôi.

Người ta còn nói lại những phép lạ của Ngài, như tăng thêm đống bột để nuôi cả cộng đoàn. Khi đi qua đồng quê, nhiều gia đình lũ lượt xin Ngài ban phép lành.

Giữa các hoạt động lạ lùng, Têrêxa vẫn viết về đời mình mà Ngài gọi là sách các kỳ công của Chúa, và “Lâu Đài Nội Tâm” là nơi tâm hồn Ngài, từng phòng một vươn tới uy linh Chúa. Với sự linh hoạt, Ngài biết dùng vài lời tóm gọn tất cả sự thánh thiện:

– Phải can đảm để trở thành phụ nữ của vua trên trời.

– Đừng lo suy nghĩ nhiều, nhưng là yêu nhiều.

– Ta nhân đức hơn khi liên kết với nhân đức của Chúa, hơn là dính chặt với phận bụi đất của ta.

– Nỗ lực của ta là bắt chước con tằm, xây tổ của ta bằng cách tẩy trừ ích kỷ và thực hiện những việc xám hối cầu nguyện, hy sinh, vâng lời. Thiên Chúa sẽ biến ta thành bướm trắng khi Ngài muốn.

– Quan trọng là biết yêu mến và kính sợ, hai nhân đức vĩ đại.

– Khi bị đau khổ bên ngoài cần chăm lo làm việc bác ái và biết hy vọng vào lòng thương xót của Chúa.

Ngài có chút hài hước trong sự thánh thiện, như lời hóm hỉnh được biết đến nhiều, khi Ngài bị thương ở chân: – Lạy Chúa, sau bao nhiêu phiền muộn lại đến chuyện đó nữa, Cha đối xử với bạn hữu của cha như thế đó…. Vâng lạy Chúa của con, không lạ gì mà Chúa ít bạn.

Lòng Ngài rảo khắp thế giới: – Những người An độ nghèo khổ này làm tôi đổ bao nhiêu là nước mắt.

Têrêxa qua đời tại miền quê ở Albe de Tormès ngày 04 tháng 10 năm 1583. Chính tình yêu quá mức hơn là con bệnh đã đưa tới cái chết của Ngài. Khi đưa Thánh thể vào phòng, Ngài đã ngăn cho Ngài khỏi tung ra khỏi giường. Ngài đã la to: “Lạy Chúa, đến lúc chúng ta gặp nhau rồi”. Và đời đời, Têrêxa đã hiệp nhất với tình yêu.

Ngài được tuyên thánh năm 1628 và ngày 27 tháng 9 năm 1970, Đức giáo hoàng Phaolô VI đã đặt Ngài làm tiến sĩ Hội Thánh .

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

15 Tháng Mười

Người Ðàn Bà “Rất Ðàn Bà”

Hôm nay là ngày kính nhớ thánh nữ Têrêxa Avila.

Vị nữ tiến sĩ hội thánh này đã sống trong một giai đoạn có nhiều xáo trộn nhất đối với Giáo Hội. Thánh nữ chào đời khi cuộc cải cách của người Tin Lành bắt đầu và qua đời khi Công Ðông Trento vừa chấm dứt. Ngài đã được Thiên Chúa ban cho Giáo Hội như một đóa hoa đẹp đẽ nhất giữa những gái góc đang ụp phủ trên Giáo Hội. Nhưng Têrêxa Avila cũng chỉ là một người đàn bà giống như rất nhiều người đàn bà khác. Ðẹp, có nhiều năng khiếu, đảm đang, đa tình… Têrêxa lại là một người đàn bà “rất đàn bà”. Thế nhưng nơi người đàn bà này, người ta thấy có nhiều tương phản: thông minh nhưng lại thực tế; biết nhiều nhưng không xa vời với kinh nghiệm sống; thần bí nhưng lại đầy nghị lực để trở thành một nhà cải cách.

Têrêxa là một người đàn bà hoàn toàn sống cho Chúa, nghĩa là một người đàn bà cầu nguyện, kỷ luật và biết cảm thông. Trái tim của Têrêxa hoàn toàn thuộc về Chúa. Ðã thách thức tất cả mọi chống đối của người cha để gia nhập dòng kín, Têrêxa cũng tiếp tục đương đầu với không biết bao nhiêu chống đối khác khi muốn cải tổ dòng kín. Người đàn bà yếu đuối này chỉ còn một nơi nương tựa duy nhất: đó là Thiên Chúa.

Là một người sống cho Chúa hoàn toàn, Têrêxa cũng hoàn toàn sống cho người khác. Canh tân cuộc sống của mình, Têrêxa cũng không ngừng đi khắp đó đây để giúp người khác canh tân cuộc sống.

Suốt cuộc đời trải qua trong gian lao và thử thách, về cuối đời, Thánh nữ đã thốt lên: “Ôi lạy Chúa, tất cả những ai làm việc cho Chúa đều được đpá trả bằng gian lao, khốn khó. Nhưng cao quý thay phần thưởng dành cho những ai yêu mến Chúa, nếu họ hiểu được giá trị của nó”.

Hiện nay, người ta nói đến rất nhiều thứ giải phóng, trong đó có giải phóng người phụ nữ.

Có lẽ tất cả những ai đang tranh đấu cho nữ quyền nên nhìn vào mẫu gương của thánh nữ Têrêxa Avila. Một người đàn bà đã có thể thực hiện được nhiều việc vĩ đại, nhưng bản chất đàn bà vẫn không hề thay đổi trong con người ấy. Phải chăng người đàn bà có thể đóng trọn vai trò của họ trong Giáo Hội và trong xã hội khi họ biết trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa đã trao ban qua nữ tính của họ!

Người nữ có phúc nhất trong những người nữ, người nữ cũng đã sống trọn vẹn ơn gọi làm người: đó là Ðức Maria. Bí quyết để người nữ ấy thể hiện trọn vẹn ơn gọi làm người nữ và làm người của mình chính là hai tiếng “Xin vâng”. Thiên Chúa đã tạo dựng con người và đã quy định cho con người một định mệnh: định mệnh đó chính là sống cho Chúa. Ðức Maria, thánh nữ Têrêxa và bao nhiêu vị thánh nam nữ khác, đã thực hiện được định mệnh đó qua một cuộc sống hoàn toàn vâng phục ý Chúa. Chỉ có một sự bình đẳng duy nhất: đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Ðức Maria đã minh chứng được sự bình đẳng đó qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu rỗi của Ðức Kitô.

Trước mặt Chúa, mỗi người chúng ta đều có một chỗ đứng. Không có chỗ đứng nào cao trọng hơn chỗ đứng khác. Hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc ở sự đáp trả của chúng ta đối với tiếng gọi của Chúa.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Năm Tuần 28 TN2, Năm Chẵn

Bài đọc: Eph 1:1, 3-10; Lk 11:47-54.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Con người tham dự vào Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa.

Bài đọc I, Eph 1:1-10, là một Bài Thánh Ca, được dùng nhiều trong các buổi thờ phượng của các tín hữu thời sơ khai. Chỉ trong 10 câu ngắn ngủi và liên tục (không một chấm câu trong nguyên bản Hy-Lạp), đọan văn này tóm tắt tất cả những gì chính yếu trong Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa. Kế họach này tuy có từ nguyên thủy, nhưng chỉ được mặc khải cho con người qua Đức Kitô, khi Ngài xuống trần để hòan tất Kế Họach Cứu Độ của Chúa Cha. Mục đích của Kế Họach là để cứu độ con người để con người trở nên các nghĩa tử của Thiên Chúa và xứng đáng thừa hưởng gia tài là cuộc sống vĩnh cửu với Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trách các Luật-sĩ và Biệt-phái vì cách hành xử của họ với các ngôn sứ và với dân chúng.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Kế họach Cứu Độ của Thiên Chúa cho con người qua Chúa Giêsu Kitô.

1.1/ Mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa được mặc khải ngay trong câu đầu tiên: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Ki-tô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.” Trong kế họach này, Thiên Chúa giữ vai trò chủ động trong việc chọn con người và phác họa Kế Họach Cứu Độ: Thiên Chúa chọn con người trước chứ con người không chọn Thiên Chúa trước, nhưng con người vẫn có tự do để đáp trả. Thiên Chúa chọn con người qua Đức Kitô và trước cả khi tạo thành vũ trụ. Mục đích của việc lựa chọn là để con người trở nên tinh tuyền thánh thiện. Lý do độc nhất tại sao Thiên Chúa chọn con người là vì Ngài yêu thương con người.

1.2/ Thiên Chúa đã tiền định cho con người được trở nên nghĩa tử của Ngài qua Đức Kitô: Ngài chọn con người làm con bằng cách nhận con nuôi (adoption). Một khi đã trở thành con Thiên Chúa, con người có quyền thừa hưởng các gia tài của Thiên Chúa như ân sủng và cuộc sống đời đời; đồng thời, con người cũng có quyền xóa bỏ quá khứ tội lỗi và hậu quả của nó là sự chết.

1.3/ Máu của Thánh Tử là giá phải trả để hòan thành kế họach Cứu Độ: Con người không thể làm bất cứ gì để tự cứu mình; vì thế, con người phải hòan tòan trông cậy nơi Thiên Chúa. Ngài đã ban cho con người một Người Con, và Người con này phải đổ máu ra để chuộc tội và chết thay cho con người. Không những thế, Thiên Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan (sophia = wisdom) thông hiểu (phronesis = prudent, practical wisdom). Cả hai nhân đức đều cần thiết và đựợc Thiên Chúa trao ban cho con người để biết sống làm sao cho đạt đích.

1.4/ Thiên Chúa muốn con người biết Kế Họach Cứu Độ qua sự mặc khải của Đức Kitô: Mặc dù Kế Họach Cứu Độ đã có từ muôn thuở, nhưng không ai trong con người biết được Kế Họach này cho tới khi Đức Kitô đến. Chính Đức Kitô đã mặc khải cho con người Kế Họach yêu thương của Thiên Chúa và chính Ngài làm hòan hảo Kế Họach của Chúa Cha qua cuộc Thương Khó và cái chết của Ngài.

Con người có thể thấy trước tương lai của mình và muôn lòai trong vũ trụ, vì sẽ có ngày Đức Kitô sẽ hiệp nhất tất cả mọi sự trong tương lai như lời Phaolô: “Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Ki-tô.”

2/ Phúc Âm: Chúa mắng chửi các Luật-sĩ vì 2 tội:

2.1/ Cách đối xử của các Luật-sĩ đối với ngôn sứ rất mâu thuẫn: Họ tôn kính các ngôn sứ bằng việc xây lăng tẩm; nhưng họ chỉ tôn kính những ngôn sứ nào đã chết. Còn khi đối diện với các ngôn sứ đang sống, họ lại tìm đủ mọi cách để làm khó, bắt bớ và giết chết. Vì thế, Chúa Giêsu thẳng thắn tố cáo họ: “Các ngươi vừa chứng thực vừa tán thành việc làm của cha ông các ngươi.” Tại sao họ ghét các ngôn sứ sống đến với họ? Câu trả lời đơn giản là vì các ngôn sứ vạch trần những tật xấu và sự giả hình của họ.

Họ xây lăng cho các ngôn sứ để chứng minh cho dân chúng thấy rằng: “Nếu như chúng tôi sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng tôi đã không thông đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn sứ” (Mt 23:30). Nhưng các hành động trong hiện tại của họ đối với các ngôn sứ sống chứng minh họ đang theo vết chân của cha ông họ. Vì thế, Chúa Giêsu tuyên án họ: “Vì vậy, thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu tất cả các ngôn sứ đã đổ ra từ tạo thiên lập địa, từ máu ông Aben đến máu ông Dacaria, người đã bị giết giữa bàn thờ và Thánh Điện. Phải, tôi nói cho các người biết: thế hệ này sẽ bị đòi nợ máu.”

2.2/ Cách đối xử của họ với dân chúng: Chúa Giêsu tố cáo họ: “Các người đã cất giấu chìa khoá của sự hiểu biết: các người đã không vào, mà những kẻ muốn vào, các người lại ngăn cản.” Hiểu biết Kinh Thánh là điều mà mọi người dân đều mong muốn, nhưng không phải ai cũng có thể sở hữu Sách Thánh và được huấn luyện để hiểu. Vì thế, người dân phải trông chờ vào các Luật-sĩ để đọc và giải thích ý nghĩa của Kinh Thánh cho họ. Nhưng các Luật-sĩ nhiều khi vì tư lợi, họ cũng chẳng muốn cho dân hiểu. Họ muốn trở thành những người duy nhất sở hữu và giải thích Kinh Thánh theo cách họ mong muốn. Cai trị những ngu dân dễ dàng hơn cai trị những người hiểu biết. Họ sợ một khi dân chúng hiểu biết, họ sẽ mất hết các đặc quyền.

Được chỉ cho thấy sự thật, họ vẫn ngoan cố không nhận ra để sửa sai. Trái lại, các Kinh-sư và Luật-sĩ bắt đầu căm giận Chúa Giêsu ra mặt, và vặn hỏi Ngài về nhiều chuyện. Họ cố tình gài bẫy để xem có bắt được Ngài nói điều gì sai chăng. Một lần nữa, họ đang toan tính để giết chết một ngôn sứ cao trọng hơn hết mọi ngôn sứ; và nợ máu họ phải trả sẽ nặng hơn gấp triệu lần các ngôn sứ khác.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Vì yêu thương Thiên Chúa đã có Kế Họach Cứu Độ con người bằng việc hy sinh Người Con là Đức Kitô. Nhờ Máu Thánh Tử đổ ra mà chúng ta được tha thứ tội lỗi và được cứu độ.

– Đối với Thiên Chúa, những giả hình bên ngòai không thể che giấu những ý đồ bên trong; vì thế, chúng ta cần biết sống thành thực cả trong lẫn ngòai.

– Kinh Thánh là kho tàng chung của mọi tín hữu; vì thế, không ai có thể giữ riêng cho mình. Trái lại, người hiểu biết Kinh Thánh có bổn phận phải làm cho người khác hiểu bằng cách cắt nghĩa đúng sự thật và thích hợp với trình độ của người nghe.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************