Ngày thứ năm (20-01-2022) – Trang suy niệm

19/01/2022

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Năm Tuần II Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: 1 Sm 18, 6-9; 19, 1-7

“Thân phụ tôi là Saolê định giết anh”.

Trích sách Samuel quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, sau khi hạ sát tên Philitinh, Đavít trở về, các phụ nữ từ mọi thành phố Israel đều tuôn ra ca hát nhảy múa với đàn địch trống phách, vui vẻ đón vua Saolê. Các phụ nữ nhảy múa xướng hoạ rằng: “Saolê giết một ngàn, và Đavít giết mười ngàn”. Saolê bực tức lắm, vì lời ca ấy làm phật lòng ông, ông nói: “Họ tặng Đavít mười ngàn, còn Ta chỉ có một ngàn, như vậy y chỉ còn thiếu có ngai vàng”. Từ ngày đó trở đi, Saolê nhìn Đavít với vẻ mặt căm tức.

Saolê bàn với con ông là Gionathan và tất cả những cận thần của ông để sát hại Đavít. Nhưng Gionathan con của Saolê rất thương mến Đavít, nên tiết lộ cho Đavít rằng: “Thân phụ tôi là Saolê tìm kế giết anh đấy”. Vì thế, tôi xin anh sáng mai nên thận trọng và tìm nơi kín đáo mà ẩn mình. Tôi sẽ ra đứng gần cha tôi ngoài đồng nơi anh ẩn trốn, tôi sẽ nói chuyện anh với cha tôi, tôi thấy thế nào, rồi sẽ báo cho anh biết”.

Vậy Gionathan khen Đavít với cha ông là Saolê, ông nói: “Tâu phụ vương, xin chớ hãm hại tôi tớ của phụ vương là Đavít, vì anh không có lỗi gì đến phụ vương, và anh đã lập nhiều công trạng cho phụ vương: Anh đã liều mạng sống và hạ sát nhiều tên Philitinh; Chúa đã dùng anh mà giải thoát toàn dân Israel. Phụ vương đã mục kích và đã hân hoan, vậy tại sao phụ vương toan đổ máu người vô tội, khi định giết Đavít là kẻ không có lỗi gì?” Saolê nghe Gionathan nói như vậy thì nguôi giận mà thề rằng: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, nó sẽ không bị giết”. Gionathan gọi Đavít và thuật lại cho anh nghe tất cả các lời ấy, rồi dẫn Đavít đến trước Saolê, và anh hầu cận Saolê như trước. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 55, 2-3. 9-10ab. 10c-11. 12-13

A+B: Con tin cậy vào Thiên Chúa, con không kinh hãi (c. 5b).

A) Ôi Thiên Chúa, xin thương con, vì người ta chà đạp con, người ta luôn luôn đấu tranh và áp bức con. Những kẻ thù ghét con chà đạp con luôn mọi lúc, vì có nhiều người chiến đấu phản hại con.

B) Con đường lưu vong của con, Ngài đã biết, lệ sầu của con đã được chứa trong bầu da của Ngài, chúng há chẳng được ghi trong sổ sách của Ngài ư? Hễ bao giờ con kêu cầu Chúa, lúc đó quân thù con sẽ tháo lui.

A) Con biết chắc điều này là Thiên Chúa phù trợ con. Nhờ ơn Thiên Chúa là Đấng mà con ca tụng lời hứa, con tin cậy vào Thiên Chúa, con không kinh hãi, con người phàm kia làm chi hại được con.

B) Ôi Thiên Chúa, con mắc nợ những điều con khấn cùng Ngài, con sẽ tiến Ngài lễ vật bằng lời ca tụng. Vì Ngài đã cứu mạng con thoát khỏi tử thần, và cứu chân con khỏi quỵ ngã, để con được tiến thân trước nhan Thiên Chúa, trong ánh thiều quang của cõi nhân sinh.

A+B: Con tin cậy vào Thiên Chúa, con không kinh hãi (c. 5b).

ALLELUIA: Mt 4, 4b -Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mc 3, 7-12

“Các thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: ‘Ngài là Con Thiên Chúa’, nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ lui về bờ biển, đám đông từ Galilêa theo Người, và từ Giuđêa, Giêrusalem, Iđumê, bên kia sông Giođan, miền Tyrô và Siđon, nhiều kẻ đến cùng Người, khi nghe biết tất cả những việc Người đã làm. Vì đông dân chúng, nên Người bảo các môn đệ liệu cho Người một chiếc thuyền, kẻo họ chen lấn Người. Vì chưng, Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên bất cứ ai mắc bệnh tật gì đều đến gần để động đến Người. Và những thần ô uế vừa thấy Người, liền sụp lạy và kêu lên rằng: “Ngài là Con Thiên Chúa”, nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

20/01/2022 – THỨ NĂM TUẦN 2 TN

Th. Pha-bi-a-nô, giáo hoàng, tử đạo

Mc 3,7-12

LIỆU CÓ SỰ THẬT TỪ MA QUỶ?

Các thần ô uế vừa thấy Người liền sụp lạy và hô lên rằng: “Ngài là Con Thiên Chúa!” Nhưng Người nghiêm cấm chúng không được tiết lộ gì về Người. (Mc 3,11-12)

Suy niệm: Theo lẽ thường, ma quỷ chẳng muốn ai tin nhận Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa. Thế nhưng lạ thay hôm nay chúng lại “rao” điều đó công khai trước mặt mọi người. Điều kỳ lạ hơn, chính Chúa Giê-su cấm không cho chúng tiết lộ về Ngài. Phải chăng có gì bí ẩn trong câu chuyện này? Đúng là ma quỷ đang muốn phá đám bằng cách tiết lộ thân thế và sứ mạng cứu thế của Chúa Giê-su, điều mà đúng ra mỗi người phải nói lên bằng sự xác tín của mình. Vả lại, Chúa Giê-su còn lạ gì chiến thuật của ma quỉ! Chúng đã từng đưa chiêu bài “nếu ông là Con Thiên Chúa” để cám dỗ Ngài đi lệch khỏi chương trình cứu độ của Chúa Cha. Nay chúng lại muốn “phá bĩnh” bằng chính những lời có vẻ đúng nhất, thật nhất nhưng lại khiến người ta hiểu sai vai trò cứu thế của Ngài theo kiểu một vị vua trần tục. Và vì vậy Ngài đã cấm chúng nói thêm.

Mời Bạn: Chúng ta dễ bị cám dỗ coi Hội Thánh như một phương thế để đạt được lợi lộc hay quyền lực thế tục. Noi gương Chúa Giê-su, chúng ta khước từ thứ sự thật từ ma quỉ để bước theo con đường tự hiến phục vụ trong khiêm tốn và yêu thương. Mặt khác Ngài dạy chúng ta “có thì nói có,” dùng lời nói để xây dựng Hội Thánh thành một “Nước sự thật và sự sống, yêu thương và an bình” (Kinh Năm Thánh 2010).

Sống Lời Chúa: Châm ngôn sống: Khiêm tốn phục vụ (x. Mc 10,43-44) và nói sự thật trong lòng mến (x. Ep 4,15).

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tin nhận sự thật Chúa dạy để được quy tụ trong Nước Cha, là Nước sự thật và sự sống, yêu thương và an bình.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Bài Tin Mừng hôm nay được coi là một bản tóm lược
những hoạt động của Đức Giêsu tại vùng phía biển hồ.
Có vẻ Ngài rút lui về vùng này không phải vì sợ bị hãm hại (Mc 3, 6),
nhưng để mở rộng phạm vi hoạt động hơn.
Như trước đây không lâu, mọi người từ vùng Giuđê và Giêrusalem
kéo tới xin chịu thanh tẩy bởi ông Gioan (Mc 1, 5),
giờ đây một đám đông lớn hơn từ khắp mọi vùng đổ xô đến với Đức Giêsu.
Có thể nói cả dân Ítraen hào hứng tụ họp bên ngài (Mc 3, 7-8).
Chưa bao giờ Đức Giêsu thành công đến thế !

Nhưng nhiều người trong đám đông khổng lồ này lại là những bệnh nhân.
Họ theo Đức Giêsu vì họ đã nghe biết những phép lạ chữa bệnh ngài làm.
Đức Giêsu xin các môn đệ chuẩn bị một chiếc thuyền
để nếu bị chen lấn quá trên bờ, ngài còn có thể xuống thuyền mà tránh đám đông.
Những bệnh nhân tin rằng mình có thể được chữa lành nhờ chạm đến Ngài.
Có những người chỉ xin chạm vào tua áo choàng của Ngài (Mc 6, 56).
Họ không chờ Đức Giêsu đến với họ.
Chính họ chủ động chen lấn để chạm đến Đức Giêsu.
Họ không cần Ngài phải làm gì hay nói gì,
họ chỉ cần chạm đến trong lòng tin là mọi bệnh tật được chữa khỏi.

Dù y khoa đã đạt được những bước tiến đáng kể,
nhưng ai có thể thống kê hết số bệnh nhân trên thế giới.
Con người hôm xưa chạy đến với Đức Giêsu để xin được chữa lành
khỏi ách nặng nề của bệnh tật thân xác và tinh thần.
Con người hôm nay cũng chạy đến với Giáo Hội để xin được chữa lành.
Mọi nhà thương, phòng khám bệnh hay phát thuốc của người Công giáo,
đều là nơi các bệnh nhân gặp được Đức Giêsu.
Nơi đây họ chạm được vào con người nhân hậu của Ngài,
và nơi đây Đức Giêsu chạm đến họ qua bàn tay của những y bác sĩ Công giáo.
Con người hôm nay nhận ra Chúa Giêsu
không nhờ sự giới thiệu của quỷ: “Ông là Con Thiên Chúa.”
nhưng nhờ sự phục vụ khiêm hạ của những lương y sống như Giêsu.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa,
xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin
để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày,
nơi khuôn mặt khốn khổ
của tất cả những người bị thử thách:
những kẻ đói, không chỉ vì thiếu của ăn,
nhưng vì thiếu Lời Chúa;
những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước,
nhưng còn vì thiếu bình an, sự thật,
công bằng và tình thương;
những kẻ vô gia cư,
không chỉ tìm kiếm một mái nhà,
nhưng còn tìm một con tim hiểu biết, yêu thương;
những kẻ bệnh hoạn và hấp hối,
không chỉ trong thân xác,
nhưng còn trong tinh thần nữa,
bằng cách thực thi lời hy vọng này:
“Ðiều mà ngươi làm
cho người bé mọn nhất trong anh em
là làm cho chính Ta”

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

20 THÁNG GIÊNG

Chia Sẻ Trong Công Trình Cứu Chuộc

Chúng ta không được phép quên lý do tại sao Đức Giêsu đã đến làm người trên cõi đời này. Người đã đến để hoàn thành công trình cứu độ. Người đã hoàn thành bằng cách nào? Bằng đau khổ và cái chết của Người trên Thập Giá và bằng chiến thắng của Người nơi cuộc Phục Sinh vinh quang. Mọi lao động của con người, dù có vẻ tầm thường đến mấy đi nữa, cũng đều tham dự vào công trình cứu độ này của Đức Giêsu. Như tôi đã nói trong thông điệp về Lao Động: “Bằng thái độ chấp nhận những nỗi vất vả trong công việc của mình, trong niềm kết hiệp với Đức Kitô Khổ Nạn vì chúng ta, chúng ta đang cộng tác – một cách nào đó – với Con Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc nhân loại; chúng ta đang chứng tỏ mình là môn đệ đích thực của Đức Giêsu; chúng ta đang vác thập giá hằng ngày của mình qua công việc mà mình được mời gọi đảm nhận.” (Laborem exercens 27).

Giáo Hội cố gắng trung thành với mẫu gương và chứng tá của Đức Kitô bằng cách kiên thủ với nỗi quan tâm đến thiện ích của người lao động. Những thông điệp nổi tiếng của các giáo hoàng, bắt đầu với Thông Điệp Rerum novarum của Đức Lê-ô XIII, luôn luôn bênh vực quyền lợi về lương bổng và về điều kiện làm việc của người lao động.

Giáo huấn của Giáo Hội dựa trên nguyên tắc rằng mọi con người đều được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa và đều được Thiên Chúa ban cho một phẩm giá độc đáo. Vì thế, cần phải bảo đảm rằng không ai bị sử dụng thuần túy như một phương tiện sản xuất, như kiểu một cỗ máy hay một con trâu, con bò… Giáo Hội bác bỏ mọi hệ thống xã hội và kinh tế dẫn đến tình trạng tước đoạt nhân tính của người lao động.

Bên cạnh mối quan tâm về điều kiện làm việc, Giáo Hội kiên quyết đòi hỏi rằng người lao động phải nhận được món tiền lương xứng đáng – một món tiền lương có tính đến các nhu cầu của gia đình họ nữa. “Đối với một người lao động trưởng thành có những trách nhiệm gia đình, thì một món tiền lương công bằng nghĩa là phải đủ để tạo lập và duy trì một gia đình đúng phẩm giá và bảo đảm tương lai của gia đình ấy nữa” (Laborem exercens 19).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 20/01

1Sm 18, 6-9; Mc 3,7-12.

Lời Suy Niệm: “Còn các thần ô-uế, hễ thấy Đức Giêsu, thì sấp mình dưới chân Người và kêu lên: ‘Ông là Con Thiên Chúa!’ Nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai.”

          Trước cảnh dân chúng đi theo Chúa Giêsu một cách đông đảo từ miền Galilê, Giuđê, Giêrusalem, xứ I-đu-mê, bên kia sống Gio-đan, và vùng phụ cận hai thành Tia và Xi-đôn, để nghe Lời Chúa Giêsu và nhận được sự chữa lành của Người; Các thần ô uế không bỏ qua cơ hội thuận tiện này, đã len lõi vào trong đám đông này, để gieo rắc hình ảnh “Con Thiên Chúa” theo ý muốn của chúng; để làm đám đông nghĩ sai lạc về Đấng KiTô.  Nên Chúa Giêsu đã cấm ngặt chúng không được nói về Người cho đám đông.

          Lạy Chúa Giêsu, Chúng con cảm tạ Chúa đã ban Thần Khí của Chúa trên chúng con, để chúng con được nhận sự khôn ngoan và thông hiểu, mà nhận biết Chúa Xin Chúa ban cho mỗi thành viên trong gia đình chúng con luôn được sống trong sự hướng dẫn của Thần Khí.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 20-01: Thánh FABIANO

Giáo Hoàng Tử Đạo (+ 250)

Thánh Fabianô lên ngôi thánh Phêrô không phải do người ta bầu ra, cho bằng chính sự chọn lựa của Thiên Chúa. Vào lúc dân chúng và hàng giáo sĩ Roma họp nhau để chọn vị mục tử, thì một cánh chim câu từ trên trời xuống đậu trên đầu Fabiano. Ngài kế vị thánh Anthêrô làm giáo hoàng năm 236.

Do đó, dầu trước kia không ai ngó tới Ngài vì Ngài còn là một giáo dân ngoại quốc, bây giờ mọi người đều lớn tiếng gọi Ngài là người được Chúa chọn. Một cuộc tuyển lựa đặc biệt như vậy vào Giáo hội hàng đầu trong các Giáo hội, chắc chắn phải có những biến cố đáng kể tiếp theo. Nhưng lịch sử lại không lưu giữ kỷ niện nào.

Ngài được cai quản Giáo hội trong 14 năm, với lòng nhiệt thành lẫn sự khôn ngoan. Ngài đã gửi nhiều nhà truyền giáo sang xứ Gôn (Gaute) và đã kết án nhiều lầm lạc bị gán ghép cách sai trái cho Origenê. Thánh Cyprianô đã tặng cho Ngài danh hiệu “một con người khôn sánh”.

Ngài đã chịu chết vì đạo trong thời bách hại của Đeciô khoảng năm 250.

************************
Ngày 20-01: Thánh SÊBASTIANÔ

Tử Đạo (Thế kỷ III)

Thánh Sêbastianô là công dân của hai thành phố vì cha Ngài quê quán tại Nac-bon (Narbonne) và mẹ Ngài quê quán tại Milanô. Năm 283 Ngài gia nhập quân đội. Thánh Sêbastianô nói rằng: sự hiền lành, khôn ngoan, tài khéo, quảng đại, ngay thẳng và cả trăm đức tính khác khiến triều đình sớm biết tới thánh nhân. Hoàng đế Điôclêtiano quí mến và đặt Ngài làm đại úy phòng vệ của ông. Vai trò này giúp cho thánh nhân dễ dàng đến với các nhà tu để an ủi khích lệ đức tin của các Kitô hữu bị bách hại.

Dịp may đã đến cho Ngài thi thố lòng nhiêt hành của mình khi Marcô và Marcelinô, hai hiệp sị bị kết án tử hình vì danh Chúa. Lúc ấy họ suýt bị lung lay đức tin vì những dòng nước mắt của cha mẹ già yếu lẫn vợ con. Thánh nhân đã có mặt kịp thời để khuyến khích họ,

Ngài nói: – Hỡi các chiến sĩ Chúa Kitô, các bạn hy sinh linh hồn bất tử cho thân xác bùn đất sao ? Các bạn chối bỏ đức tin, phản bội Thiên Chúa, hiến thân cho ma quỉ và từ khước triều thiên sắp sáng chói trên đầu các bạn sao ?

Đang khi nói những lời này, một ánh sáng chói lòa tràn ngập ngôi nhà của người giữ ngục. Vợ của người giữ ngục tên là Zoê được khỏi bệnh câm. Lời nói của thánh Sêbastianô với vài phép lạ kèm theo đã khơi dậy lòng can đảm nơi các vị tử đạo, cải hóa cha mẹ họ và khoảng sáu mươi lương dân khác.

Nhưng cuộc trở lại cảm kích nhất là cuộc trở lại của Crô-mat (Cromace), viên tổng trấn Roma. Ong ta bị bệnh lậu và nghe biết rằng thánh Sêbastianô, nhờ sức mạnh thầm kín nào đó, có thể chữa lành nhiều bệnh tật. Ông đến xin thánh nhân cầu khẩn trời cao cho mình được lành bệnh, thánh nhân nhận lời: – Tôi rất muốn, nhưng với điều kiện là ông phải thiêu hủy các ngẫu tượng và theo đạo đã.

Đầu tiên ông không chịu nhưng rồi cũng ưng theo. Ông phá hủy một số lớn các ngẫu tượng. Nhưng bệnh lại trầm trọng hơn. Ông than thở với thánh nhân: – Nghe lời ông tôi đã pahá hủy các tựơng thần. Ông đã hứa cho tôi hết bệnh. Bây giờ tôi lại khổ cực hơn bao giờ hết .

Thánh Sêbastianô trả lời: – Thưa hoàng công, việc Ngài phá hủy các tượng chẳng nhằm gì nếu Ngài còn cố giữ lại một tượng thôi. Hãy tiêu hủy nó đi hết và Ngài sẽ được toại nguyện.

Crô-mat tuân theo và ông đã hết bịnh. Ong và cả gia đình đã theo đạo. Từ chức, ông về miền quê và nhà ông đã trở thành nơi nương náu cho các Kitô hữu bị đánh hại.

Năm 286, ngọn lửa bách hại bùng lên dữ dội. Phần đông các Kitô hữu trốn về miền quê. Thánh Sêbastianô xin đức giáo hoàng cho phép ở lại Rôma để hướng dẫn và nâng đỡ những người còn lại. Đức giáo hoàng đã trả lời ngay: – Hỡi con hãy ở lại chiến trường để giúp đỡ các chiến sĩ và hãy tỏ ra là một chiến sĩ gan dạ bảo vệ đức tin.

Một kẻ bội giáo đã tố giác Ngài với hoàng đế, giận dữ, Điôcletianô triệu vời Ngài tới ngay. Thánh nhân vừa tới, hoàng đế nói liền: – Sêbastianô, ta đã quí mến ngươi, ta cho ngươi ở trong hoàng cung và coi ngươi như người nhà mà bây giờ ngươi thù nghịch với hoàng đế và các thần linh sao ?

Sêbastianô khiêm tốn trả lời rằng: mình chỉ có thể phục vụ hoàng đế và tổ quốc khi thờ phượng một Thiên Chúa chân thật và khinh bỏ các ngẫu tượng bằng gỗ đá. Tức giận, hoàng đế truyền lập tức trói thánh nhân lại và bắn tên cho đến chết. Khi thân thể Ngài đầy ngập thương tích, người ta tưởng Ngài đã chết và bỏ mặc tại chỗ. Ban đêm, một góa phụ tên là Irênê đến lấy xác Ngài để mai táng. Nhưng thật lạ lùng khi thấy Ngài còn sống. Bà liền đưa về nhà săn sóc cho đến khi thánh nhân bình phục hoàn toàn.

Lúc ấy các Kitô hữu khuyên Ngài nên tìm đường lẩn trốn. Nhưng sau khi cầu nguyện, Ngài quyết định đến trước Điôcletianô tuyên xưng đức tin một lần nữa. Trước mặt hoàng đế, Ngài nói: – Các thày cả thờ ngẫu thần làm cho nhà vua coi các Kitô hữu như là kẻ thù của tổ quốc. Nhưng đó chỉ là vu khống. Trái lại phải coi như là người xây dựng tổ quốc mới đúng, bởi vì họ không ngừng cầu nguyện cho tổ quốc được cứu rỗi và nên phồn thịnh.

Ngạc nhiên không biết có phải là Sêbastianô ông đã ra lệnh giết không, ông hỏi lại cho chắc. Khi đã biết chắc, ông truyền đem thánh nhân ra pháp trường đánh đòn cho chết rồi vất xác xuống rãnh. Một mệnh phụ tên là Lucina đã chôn cất Ngài vào một nghĩa địa ở dưới hầm.

Từ đó nơi này được mệnh danh là hang toại đạo thánh Sêbastianô và ngày nay cũng tại nơi này có xây một đại thánh đường lấy tên là vương cung thánh đường thánh Sêbastianô .

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

20 Tháng Giêng

 Chuyện Một Khu Rừng  

Một câu chuyện có thật đã được kể về nguồn gốc của một khu rừng như sau: Một ông lão người Pháp nọ, sau khi vợ qua đời, đã mang đứa con trai duy nhất của ông đến một vùng đất khô cằn nhất của Miền Trung nước Pháp để lập nghiệp. Thật ra, người đàn ông chỉ muốn quên đi cái quá khứ khó khăn vất vả. 

Vùng đất khô cằn nơi ông đặt chân đến chỉ còn vỏn vẹn năm ngôi làng nhỏ với rất ít dân cư sống trong những căn nhà siêu vẹo đổ nát, đa số đã bỏ lên những thành phố lớn để tìm công ăn việc làm. Oâng lão trên 60 tuổi đưa mắt nhìn khung cảnh xung quanh và đi đến kết luận: nếu không có cây cối, chỉ trong vòng một thời gian ngắn, cả vùng này sẽ trở thành sa mạc hoang tàn. Sau khi đã dọn chỗ cho đàn cừu và một số gia súc khác, ông lão bắt đầu đi bộ dọc theo các lối đi và nhặt từng hạt dẻ. Oâng chọn những hạt dẻ tốt để riêng và ngâm vào nước. Khi mặt trời vừa lên, ông dùng một thanh sắt nhọn moi những lỗ nhỏ và đặt cứ mỗi lỗ một hạt dẻ.

 Ngày ngày như thế, trong liên tiếp 3 năm, ông lão đã trồng được 100 ngàn cây dẻ con. Oâng hy vọng rằng ít nhất 10 ngàn cây còn sống sót. Oâng cũng hy vọng rằng Chúa sẽ cho ông sống được thêm vài năm nữa để làm cho xong công tác trồng cây này. 

Ông qua đời năm 1947, hưởng thọ 89 tuổi. Từ những hạt dẻ ông đã cặm cụi moi từng lỗ bỏ vào, nay nước Pháp đã có được một trong những khu rừng đẹp nhất thế giới. Trong ba khóm rừng mỗi khóm dài 11 cây số, những cây dẻ xanh tươi cao lớn đã có mặt để giữ nước mưa, làm cho cây cối xung quanh được xanh tươi và biến khu đồi khô cằn ngày xưa thành những dòng suối róc rách. Chim chóc đã trở lại. Sự sống cũng chớm nở. Dân chúng từ từ trở lại các ngôi làng cũ để xây nhà và làm lại cuộc đời.

 Sự sống của thiên nhiên thường giúp con người bớt cô đơn. Ðồng ruộng, cây cỏ xanh tươi, tiếng chim ca hót thường khơi dậy niềm vui sướng trong lòng người. Ðó là lý do khiến cho những người sống ở thôn dã dễ có tâm hồn thanh thản và lạc quan vui sống hơn người thành thị. 

Lớn lên ở thôn dã, chứng kiến cảnh gieo trồng của người nông dân, Chúa Giêsu đã mượn những hình ảnh của những sinh hoạt thôn dã ấy để nói về Nước Trời. Người gieo trồng nào cũng có niềm tin và sự lạc quan. Gieo hạt giống vào lòng đất là đặt tất cả niềm tin tưởng phó thác của mình vào thiên nhiên. Có hạt rơi xuống đất tốt, có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trong bụi gai. Nhưng kết quả cuối cùng vẫn là vụ mùa tươi tốt. Có những hạt rơi vào đất tốt, có những hạt rơi bên vệ đường, có những hạt rơi vào bụi gai. Có những kết quả trông thấy, có những âm thầm đau khổ, có những bách hại dữ dội, nhưng cuối cùng Giáo Hội của Ðức Kitô vẫn tồn tại và sinh ra được nhiều hoa trái của niềm Hy Vọng.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Năm – Tuần 2 – TN2

Bài đọc: Heb 7:25-8:6; I Sam 18:6-9, 19:1-7; Mk 3:7-12.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Chúa Giêsu là sự toàn hảo của Thiên Chúa.

Trong cuộc sống, con người phải trải qua nhiều giai đọan thử thách và vấp ngã, trước khi đạt tới chỗ toàn hảo. Tục ngữ Việt Nam cũng nói lên điều này trong câu: “Thất bại là mẹ thành công.” Tác giả Thư Do-Thái đề cập đến quan niệm này ngay từ đầu Thư: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài.” Khi cái hoàn hảo tới thì cái tạm thời qua đi. Điều quan trọng là con người cần nhận ra cái hoàn thiện và tin theo, chứ không ngoan cố giữ lại cái cũ.

Các Bài Đọc hôm nay nói lên vai trò quan trọng của Chúa Giêsu trong Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái nhấn mạnh đến 3 yếu tố quan trọng trong việc Chúa Giêsu hiến mình làm của lễ đền tội cho con người: Ngài vừa là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek, vừa là của lễ toàn hảo, và nơi Ngài dâng của lễ lên Thiên Chúa là ngai vàng nơi Thiên Chúa ngự trên trời. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, vua Saul ghen tị và muốn giết David, vì David được dân chúng ca ngợi nhiều hơn ông; nhưng Jonathan con ông ngăn cản ông đừng làm chuyện đó. Trong Phúc Âm, khi nghe những gì Chúa Giêsu đã làm, dân chúng từ khắp nơi kéo đến để được nghe giảng và chữa lành bởi Chúa Giêsu; ngay cả các thần ô uế cũng khiếp sợ Ngài.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I (năm lẻ): Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế thập toàn, vừa là của lễ hy sinh toàn hảo.

1.1/ Của lễ của Thượng Tế Giêsu dâng thánh thiện và vẹn toàn hơn của lễ của Cựu Ước: Để chứng minh điều này, tác giả Thư Do-thái đề cao những đặc tính của Chúa Giêsu: “Phải, đó chính là vị Thượng Tế mà chúng ta cần đến: một vị Thượng Tế thánh thiện, vẹn toàn, vô tội, tách biệt khỏi đám tội nhân và được nâng cao vượt các tầng trời.”

(1) Chỉ dâng hy lễ một lần là đủ: “Đức Giêsu không như các vị thượng tế khác: mỗi ngày họ phải dâng lễ tế hy sinh, trước là để đền tội của mình, sau là để đền thay cho dân; phần Người, Người đã dâng chính mình và chỉ dâng một lần là đủ.” Để hiểu ý tác giả, chúng ta cần so sánh vai trò của Chúa Giêsu là Thượng Tế theo phẩm trật Melkizedek với vai trò của thượng tế theo phẩm trật Aaron:

– Các thượng-tế: có vai trò nổi bật trong Ngày Xá Tội, mỗi năm một lần. Trong ngày này, ông được quyền vào trong nơi Cực Thánh để dâng lễ đền tội cho dân. Trước khi có thể dâng lễ đền tội cho dân chúng, ông phải dâng lễ đền tội cho ông trước bằng lễ vật của chính ông. Sau đó, ông dâng lễ vật của dân để đền tội cho họ. Ngày Xá Tội cứ tiếp diễn mỗi năm như thế.

– Thượng Tế Giêsu: Vì Ngài thánh thiện vẹn toàn, nên Ngài không cần dâng của lễ đền tội cho mình. Để đền tội cho dân, Ngài dâng chính thân mình làm của lễ đền tội. Đây là lễ vật hy sinh thánh thiện và tinh tuyền nhất, không một của lễ nào có thể so sánh được. Chính vì vậy, Ngài chỉ cần dâng một lần là đủ. Vì thế, Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế, vừa là lễ vật hy sinh; và vì Ngài sống mãi, nên biến cố hy sinh của Ngài trên đồi Golgotha thay thế của lễ đền tội trong Ngày Xá Tội. Con người không cần lễ vật hy sinh của theo Luật Cựu Ước nữa.

(2) Chúa Giêsu là Thượng Tế của Thiên Chúa và của con người: Tác giả kết luận: “Vì Luật Moses thì đặt làm thượng tế những con người vốn mỏng giòn yếu đuối, còn lời thề có sau Lề Luật, lại đặt Người Con đã nên thập toàn cho đến muôn đời.” Nói cách khác, Chúa Giêsu vừa là Thượng Tế toàn hảo, và của lễ Ngài dâng để đền tội cho dân cũng toàn hảo vì là chính bản thân của Ngài.

1.2/ Thánh Điện để dâng của lễ là ngai vàng Thiên Chúa trên trời: Sau khi đã đề cập tới chức vụ Thượng Tế, và của lễ hy sinh đề tội, tác giả tiến đến chỗ dâng của lễ. Trong Cựu Ước, chỗ dâng của lễ là nơi Cực Thánh trong Đền Thờ. Trong Tân Ước, chỗ dâng của lễ là chính ngai vàng Thiên Chúa ngự: “Điểm chủ yếu trong những điều đang nói ở đây là điểm này: chúng ta có một vị Thượng Tế cao cả như thế ngự bên hữu ngai Đấng uy linh ở trên trời.”

(1) Nơi Cực Thánh trong Đền Thờ dưới đất: là nơi Thiên Chúa hiện diện với con người. Nơi này được xây cất bởi con người theo một kiểu mẫu mà Thiên Chúa đã chỉ dạy cho Moses trên núi, nhưng nơi này “chỉ là hình ảnh lu mờ mô phỏng thánh điện trên trời.”

(2) Ngai Thiên Chúa trong Thánh Điện trên trời: Khi Chúa Giêsu dâng lễ vật hy sinh, Ngài dâng “trong lều trại thật, do Thiên Chúa chứ không phải do người phàm dựng lên.”

Nói tóm, “Đức Giêsu được một tác vụ cao trọng hơn, bởi vì Người là trung gian của một giao ước tốt đẹp hơn; giao ước này căn cứ vào những lời hứa tốt đẹp hơn.”

2/ Bài đọc I (năm chẵn): Sao ngài lại muốn phạm tội đổ máu người vô tội, mà vô cớ giết David?

2.1/ Vua Saul ghen tị với David: Trình thuật hôm nay tiếp theo biến cố David chiến đấu với tên khổng lồ người Philistine và đã chặt đầu hắn mang về. Khi nghe tin David chiến thắng trở về, các phụ nữ của Israel vui đùa ca hát rằng: “Vua Saul hạ được hàng ngàn, ông David hàng vạn.” Khi vua Saul nghe những lời ca tụng ấy, vua giận lắm và nói: “Người ta cho David hàng vạn, còn ta thì họ cho hàng ngàn. Nó chỉ còn thiếu ngôi vua nữa thôi!” Từ ngày đó, vua Saul nhìn David với con mắt ghen tị.

Con người khi quen sống trong cảnh giàu sang, danh vọng, và uy quyền, thường dễ quên đi quá khứ và lý do mình được hưởng những điều kiện đó. Trường hợp của Saul cũng thế, ông thuộc chi tộc Benjamin, một trong chi tộc nhỏ bé nhất của 12 chi tộc Israel; nhưng chỉ vì Đức Chúa đoái thương nhìn tới, mà ông được xức dầu phong vương. Một sự thật nữa ông cần khiêm nhường nhìn nhận là Đức Chúa đã cho ông cơ hội và ban ơn để ông thi hành sứ vụ; nhưng ông đã không vâng lời Đức Chúa, nên bị thất sủng trước mặt Đức Chúa.

2.2/ Jonathan lập mưu cứu David khỏi kế hoạch của cha mình: Từ chỗ ghen tị với David, vua Saul đi tới ý định muốn giết David. Vua Saul nói với ông Jonathan, con vua, và với toàn thể triều thần về ý định giết ông David. Nhưng ông Jonathan, con vua Saul, lại rất có cảm tình với ông David. Ông Jonathan báo cho ông David rằng: “Vua Saul, cha tôi, đang tìm cách giết anh. Vậy sáng mai anh hãy coi chừng, hãy ở nơi kín đáo và ẩn mình đi. Phần tôi, tôi sẽ đi ra, sẽ đứng cạnh cha tôi trong cánh đồng, nơi anh đang trốn, tôi sẽ nói với cha tôi về anh. Thấy thế nào, tôi sẽ báo cho anh.”

Jonathan nhìn ra sự thật mà vua Saul, cha mình không nhìn thấy; ông nói với vua: “Xin đức vua đừng phạm tội hại tôi tớ ngài là David, vì anh ấy đã không phạm tội hại ngài, và các hành động của anh là điều rất lợi cho ngài. Anh đã liều mạng và hạ được tên Philistine, và Đức Chúa đã thắng lớn để bảo vệ toàn thể Israel. Ngài đã thấy và đã vui mừng. Vậy sao ngài lại phạm tội đổ máu vô tội, mà vô cớ giết David?” Con người cần biết dẹp bỏ tính tự ái và ích kỷ để hy sinh cho lợi ích chung. David đã can đảm chiến đấu để giết được tên Philistine, là mối đe dọa cho nền an ninh của quốc gia, mà vua Saul không làm được. Ngoài ra, vua Saul phải sáng suốt nhìn nhận, nhà vua không thể làm mọi sự; mỗi thời Đức Chúa gởi tới một người để lo cho lợi ích chung. Khi mình đã chu toàn sứ vụ, hãy can đảm để thế hệ trẻ tiếp nối sứ vụ của mình. Người đau khổ, bất an, là người không biết thời mình đã hết; nhưng cứ ngoan cố bảo vệ và hãnh diện về những gì mình đã bỏ công xây dựng.

Vua Saul nghe theo lời ông Jonathan, và vua Saul thề rằng: “Có Đức Chúa hằng sống, ta thề: nó sẽ không bị giết.” Ông Jonathan gọi ông David đến và ông Jonathan thuật lại tất cả những điều ấy; rồi ông Jonathan dẫn ông David đến với vua Saul, và ông David lại phục vụ vua như trước.

3/ Phúc Âm: Mọi người từ khắp nơi kéo đến với Chúa Giêsu.

Bước đầu trong hành trình rao giảng của Chúa Giêsu thành công tốt đẹp: phần vì những lời giảng dạy của Ngài, phần vì những phép lạ Ngài làm cho dân chúng. Tiếng lành đồn xa, nên như trình thuật hôm nay kể, mọi người trong khắp vùng Cận Đông tuôn đến với Chúa Giêsu: “Đức Giêsu cùng với các môn đệ của Người lánh về phía Biển Hồ. Từ miền Galilee, người ta lũ lượt đi theo Người. Và từ miền Judah, từ Jerusalem, từ xứ Idumea, từ vùng bên kia sông Jordan và vùng phụ cận hai thành Tyre và Sidon, người ta lũ lượt đến với Người, vì nghe biết những gì Người đã làm.”

(1) Chúa Giêsu chữa con người khỏi mọi bệnh họan tật nguyền: Điều có sức hấp dẫn con người nhất là được chữa lành khỏi mọi bệnh họan tật nguyền. Dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu để được chữa bệnh. Ngài có năng lực của Thiên Chúa đến nỗi “ai có bệnh cũng đổ xô đến để sờ vào Người.” Nếu cứ để họ chen lấn xô đẩy nhau để được đến gần và sờ vào Chúa, không khéo sẽ có nhiều tai nạn không may xảy ra. Hơn nữa, Chúa đến không phải chỉ để chữa bệnh, mà còn giảng dạy và mặc khải về Thiên Chúa, nên Chúa Giêsu đã khôn ngoan “bảo các môn đệ dành sẵn cho Người một chiếc thuyền nhỏ.”

(2) Các thần ô uế biết Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa: Danh xưng “con Thiên Chúa” không nhất thiết chỉ bản tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu, vì danh xưng này được dùng để chỉ nhiều người như: các thiên thần (Gen 6:2), dân Do-thái là con Thiên Chúa (Hos 11:1), vua của Do-thái là con Thiên Chúa (II Sam 7:14), người công chính là con Thiên Chúa (Sir 4:10)… Các thần ô uế có thể nhận thấy một thứ quyền lực thánh thiện từ Chúa Giêsu đối chọi với sự ô uế của chúng, làm cho chúng không thể tồn tại, nên hỏang sợ kêu lên: “Ông là Con Thiên Chúa!” Nhưng Người cấm ngặt chúng không được tiết lộ Người là ai.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúa Giêsu là sự toàn hảo của Thiên Chúa. Chúng ta hãy tin tưởng và học hỏi nơi Ngài để biết về Thiên Chúa.

– Vì chúng ta không có thời gian nhiều để học hỏi mọi điều hay trong vũ trụ; điều quan trọng và cần thiết nhất chúng ta phải học là kiến thức về Thiên Chúa.

– Chỉ một người duy nhất có thể mang đến cho chúng ta Ơn Cứu Độ là Chúa Giêsu qua hiến lễ hy sinh của Ngài trên Thập Giá.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************