Ngày thứ năm (21-12-2023) – Trang suy niệm

20/12/2023

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Năm tuần 3 Mùa Vọng – Năm B

BÀI ÐỌC I: Dc 2, 8-14

“Ðây người tôi yêu đến, nhảy qua núi”.

Bài trích sách Diễm Ca.

Tiếng người tôi yêu, đây người đến, nhảy qua núi, băng qua đồi. Người tôi yêu giống như nai rừng, ví tựa hươu con. Ðó, người đứng sau vách nhà chúng tôi, ngó qua cửa sổ, nhìn vào chấn song. Này người tôi yêu nói với tôi: “Hãy chỗi dậy, mau lên, bạn tình ta! Bồ câu ta, kiều nữ ta, hãy đến! Vì tiết đông đã qua, mưa phùn đã dứt. Trăm hoa đua nở trên đất chúng ta. Thời cắt tỉa đã đến, tiếng chim gáy véo von trên đất chúng ta. Cây vả sinh trái đầu mùa, vườn nho trổ hoa thơm ngát. Hãy chỗi dậy, bạn tình ta, người đẹp ta, hãy đến! “Bồ câu ta trong hốc đá, trong kẹt ghềnh, hãy cho ta thấy mặt mình, tiếng mình hãy thánh thót ở tai ta, vì tiếng mình êm ái, nét mặt mình xinh tươi”.

Ðó là lời Chúa.

ÐÁP CA: Tv 32, 2-3. 11-12. 20-21

Ðáp: Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa, hãy ca mừng Người bài ca mới! (c. 1a và 3a).

1) Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, và đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. Hãy ca mừng Người bài ca mới, hát mừng Người với tiếng râm ran.

2) Ý định của Chúa tồn tại muôn đời; tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình.

3) Linh hồn chúng ta mong đợi Chúa, chính Người là Ðấng phù trợ và che chở chúng ta. Bởi vậy lòng chúng ta hân hoan trong Chúa, chúng ta tin cậy ở thánh danh Người.

ALLELUIA:

All. All. – Lạy Vầng Ðông, là ánh sáng muôn dân và là mặt trời công chính, xin hãy đến chiếu soi những kẻ ngồi trong tối tăm và trong bóng sự chết! – All.

PHÚC ÂM: Lc 1, 39-45

“Bởi đâu mà tôi được ơn này, là Mẹ Thiên Chúa tôi đến viếng thăm tôi”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Ngày ấy, Maria chỗi dậy, vội vã ra đi tiến lên miền núi, đến một thành xứ Giuđêa. Bà vào nhà ông Giacaria và chào bà Isave, và khi bà Isave nghe lời chào của Maria, thì hài nhi nhảy mừng trong lòng bà; và bà Isave được đầy Chúa Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng rằng: “Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ, và Con lòng Bà được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Mẹ Chúa tôi đến viếng thăm? Vì này, tai tôi vừa nghe lời Bà chào, hài nhi liền nhảy mừng trong lòng tôi. Phúc cho Bà là kẻ đã tin rằng lời Chúa phán cùng Bà sẽ được thực hiện”.

Ðó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

21/12/2023 – THỨ NĂM TUẦN 3 MV

Th. Phê-rô Ca-ni-xi-ô, linh mục, tiến sĩ HT

Lc 1,39-45

ĐỨC MA-RI-A ĐI THĂM BÀ Ê-LI-SA-BÉT

“Bởi đâu tôi được Thân mẫu Chúa đến với tôi thế này?” (Lc 1,43)

Suy niệm: Thánh Kinh cho biết mỗi cuộc thăm viếng của Thiên Chúa đều mang một sứ điệp Ngài muốn trao gởi cho con người. Nhìn bề ngoài, việc Đức Ma-ri-a đi thăm viếng Bà Ê-li-sa-bét chỉ là cuộc gặp gỡ giữa hai bà mẹ đang mang thai, nhưng bên trong, lại là việc thai nhi Giê-su, Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người, thăm viếng và mang ơn cứu độ cho thai nhi Gio-an; nhờ đó, Gio-an được khỏi tội nguyên tổ ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Không lạ gì Gio-an diễn tả niềm vui cứu độ ấy bằng cách nhảy lên trong lòng dạ mẹ mình. Tựa như bất cứ người mẹ nào, Bà Ê-li-sa-bét cũng cảm nhận được đứa con trong bụng vui sướng nhảy lên, để rồi cùng với ơn soi sáng của Thánh Thần, bà kêu lớn tiếng diễn tả hạnh phúc được người em họ mình, Thân mẫu Chúa, đến viếng thăm, ca ngợi Đức Ma-ri-a và Thai nhi Giê-su. 

Mời Bạn: Chỉ còn ít ngày nữa thôi, mầu nhiệm Giáng sinh được tỏ hiện. Những cảm nhận, tán tụng công trình của Chúa nơi hai người phụ nữ trên đây sẽ được sáng tỏ. Mời bạn cùng với Đức Ma-ri-a và bà Ê-li-sa-bét chuẩn bị tâm hồn đón nhận hồng ân ban cho nhân loại.

Sống Lời Chúa: Phải chăng bầu khí Giáng sinh rộn rịp, việc trang hoàng năm nay như mọi năm khiến ta mất cảm giác vui mừng đích thực. Hãy tìm khoảng lặng để suy ngắm thêm tại sao Mẹ Ma-ri-a lại vất vả đi thăm người chị họ, đem lại niềm vui cho cả gia đình?

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy Niệm

Trong những ngày cuối cùng của mùa Vọng,

Hội Thánh mời gọi chúng ta suy niệm về cuộc gặp gỡ

giữa hai người mẹ: Chị Maria và bà Êlisabét,

giữa hai thai nhi: Ðức Giêsu và Gioan Tẩy Giả.

Một cuộc gặp gỡ chan chứa niềm vui.

Niềm vui của chị Maria với bước chân vội vã

băng qua những vùng đồi núi trập trùng xứ Giuđê.

Chị không đi một mình trên đường xa,

vì chị tin có một mầm sống đang lớn lên trong chị.

Chị chỉ mong cho mau đến nhà bà Êlisabét

để phục vụ bà trong những ngày gần sinh nở.

Niềm vui bất ngờ của bà chị họ sau lời chào của Maria.

Bà ngây ngất trước hồng ân mà cô em mình đã nhận được.

Bà tràn ngập hạnh phúc vì được Thân Mẫu Chúa đến thăm.

Êlisabét cảm thấy đứa con trong dạ cũng nhảy mừng.

Dường như bà quên cả niềm vui riêng tư,

để chỉ còn nhớ đến niềm vui cứu độ cho cả dân tộc.

Cuộc gặp gỡ diễn ra trong bầu khí của Thánh Thần.

Thánh Thần vẫn tác động trên chị Maria.

Thánh Thần tràn đầy bà Êlisabét.

Thánh Thần đã hoạt động nơi thai nhi Gioan (Lc 1,15).

 

Chị Maria đem đến niềm vui cho nhà ông Dacaria

vì chị mang lại Ðấng ban Tin Mừng cứu độ.

Chị đem đến sự phục vụ khiêm hạ

vì chị cưu mang Ðấng đến để phục vụ.

Khi được trở nên nữ tỳ của Thiên Chúa,

chị Maria đã sống như nữ tỳ của con người.

Chị có phúc vì chị được chọn làm Mẹ Ðấng Cứu Thế,

chị còn có phúc vì chị đã tin rằng

Chúa sẽ thực hiện những gì Người nói với chị.

 

Chúng ta chiêm ngắm Ðức Giêsu đang lớn dần trong lòng mẹ.

Ngài tăng trưởng như mọi người.

Những nhịp đập đầu tiên của trái tim nhỏ bé,

những nét riêng tư đầu tiên của khuôn mặt.

Con Thiên Chúa đã mang quả tim và khuôn mặt người phàm.

Từ khi Ngôi Lời được cưu mang trong dạ mẹ,

không ai có quyền khinh rẻ một thai nhi,

vì mỗi thai nhi đều mang khuôn mặt của Con Thiên Chúa;

không ai được coi thường người phụ nữ,

vì Thiên Chúa đã muốn Con mình được một trinh nữ sinh ra.

Cầu nguyện:

Lạy Ðức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa,

xin gìn giữ nơi con quả tim của trẻ thơ

tinh tuyền và trong ngần như dòng suối.

 

Xin ban cho con quả tim đơn sơ,

mau quên những nỗi buồn phiền.

Một quả tim hào hiệp dám hiến thân,

dịu dàng để cảm thông.

Một quả tim trung thành và quảng đại.

không quên ơn, không báo oán.

 

Xin tạo cho con quả tim hiền từ và khiêm tốn.

yêu mà không mong được yêu lại,

hân hoan xóa mình đi

để Con của Mẹ có chỗ trong lòng người khác.

 

Một quả tim vĩ đại và bất khuất,

không khép lại trước những vô ơn,

không chán nản trước người lạnh nhạt.

Một quả tim khắc khoải

lo tìm vinh danh Chúa Giêsu Kitô,

quả tim mang vết thương vì yêu Ngài,

vết thương chỉ lành

khi được sống với Ngài trên trời. Amen. 

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

21 THÁNG MƯỜI HAI

Dọn Chỗ Cho Chúa Trong Lòng Ta

Trong Mùa Vọng, chúng ta được ân sủng thúc giục để có tâm tình đức tin trong lòng và có niềm mong đợi của tất cả những ai đợi trông Chúa, tất cả những ai tin và yêu mến Đức Giêsu. Con đường Mùa Vọng như thế giúp làm cho đức tin của chúng ta nên sinh động trong khi chúng ta không ngừng suy niệm và được bồi dưỡng bằng Lời Chúa. Đối với người Kitô hữu, đây sẽ là điểm qui chiếu đầu tiên và nền tảng cho đời sống tâm linh của mình, một đời sống phải được bồi dưỡng bằng kinh nguyện tôn thờ và ca tụng Thiên Chúa. Trong số những kinh nguyện này, Benedictus của Dacaria, Nunc dimittis của Simêon, và nhất là Magnificat của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a là những kinh nguyện kiểu mẫu vô song.

Tâm tình đức tin bên trong của Mùa Vọng được củng cố nhờ việc chúng ta lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Hòa Giải và Thánh Thể, tinh luyện và ban dồi dào ân sủng Đức Kitô cho chúng ta. Các bí tích ấy làm cho chúng ta trở thành con người mới, theo như lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy sám hối!” (Mt 3,2).

Từ viễn tượng này, chúng ta thấy rằng trong tư cách là Kitôhữu, mọi ngày đều có thể là một Mùa Vọng cho mình. Bởi vì chúng ta càng thanh tẩy linh hồn mình, chúng ta sẽ càng dọn nhiều chỗ hơn cho tình yêu của Thiên Chúa chiếm ngự tâm hồn ta. Rồi Đức Kitô sẽ có thể đến và sinh hạ trong ta.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 21/12

Thánh Phêrô Canisiô, linh mục

Tiến sĩ Hội Thánh

Dc 2, 8-14; Lc 1, 39-45.

Lời Suy Niệm:  Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”, (Lc 1,45).

          Sau khi Đức Mẹ nhận được sự truyền tin của sứ thần Gáp-ri-en và Đức Mẹ đã xin vâng để cọng tác trong công trình cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa, Đức Mẹ đã lên đường thăm viếng và phục vụ người chị họ của mình. Điều này giúp cho người tín hữu hôm nay cần phải ý thức về tính hiệp hành trong đời sống của mình. Trong Hiệp hành cần phải có đồng hành, tham gia và sứ vụ.

          Lạy Chúa Giêsu. Giáo Hội đang mời gọi mọi thành phần dân Chúa phải tham gia vào công việc đồng hành với Giáo Hội. Đặc biệt trong từng cộng đoàn giáo xứ. Xin Chúa cho mọi tín hứu cần phải tich cực tham gia, để xây dựng giáo xứ ngày càng làm sáng danh Chúa. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 21-12: Thánh PHÊRÔ CANISIÔ

Linh Mục Tiến Sĩ Hội Thánh

(1521 – 1579)

Thánh tiến sĩ Phêrô Canisiô thường được gọi là vị tông đồ thứ hai của nước Đức. Ngài chào đời 8 ngày tháng 5 năm 1521 tại Nijmegen. Cha Ngài là người công giáo, 9 lần làm thị trưởng Nijmegen. Ông gửi Ngài tới phại học Cologne lúc Ngài 15 tuổi. Nơi ấy Ngài gặp được một vị linh mục trẻ thánh thiện Nicolaus van Esch. Chính vị linh mục này đã đưa Canisiô vào nhóm người trung thành với công giáo được hình thành để chống lại Hermann van Wied, vị tổng giám mục đã sang hàng ngũ Luthêrô.

Canisiô được nhóm chọn để tiếp xúc với hoàg đế và tổng giám mục, và việc thoái vị của tổng giám mục đã tránh cho người công giáo Phineland một thảm họa. Ít lâu sau đó, Canisiô gặp được chân phước Phêrô Faber, một trong các bạn tiên khởi của thánh Inhaxiô và được hướng dẫn linh thao. Trong cuộc tĩnh tâm này, Ngài đã tìm được giải đàp cho vấn nạn Ngài tự đặt cho mình làm sao phụng sự Chúa tốt đẹp nhất và nâng đỡ Giáo hội công giáo đang bị tấn công ?

Ngài gia nhập dòng Tên, thụ phong linh mục năm 1546 và sớm lừng danh do việc ấn hành các tác phẩm của thánh Cyrillô thành Giêruslem và của thánh Leo cả. Năm 1547 Ngài tham dự công đồng Tridentinô như là đại diện của giám mục Augsburg.

Năm 1549, Ngài được gọi về Roma và lãnh nhận trách nhiệm truyền giáo cho nước Đức, điều sẽ trở thành công trình của đời Ngài. Trong cuộc chinh phục của bá tước Bavaria, Canisiô và hai cha dòng Tên khác được chọn để dạy thần học tại đại học Ingolstadt. Chẳng bao lâu, Ngài được đặt làm viện trưởng đại học, rồi sau đó, do sự can thiệp của vua Ferdinand, Ngài được gởi đi thi hành cũng một nhiệm vụ tại đại học Vienna, Ngài thành công mỹ mãn đến nỗi nhà vua đã cố đưa Ngài lên chức tổng giám mục. Dầu đã từ chối vinh dự này, Ngài cũng được gọi để quản nhiệm địa phận trong khoảng một năm.

Vào thời kỳ này, tức năm 1555, Ngài đã cho ra cuốn “giáo lý” thời danh, một trong những phụng vụ lớn lao nhất của Ngài cho Giáo hội. Với lối trình bày trong sáng và bình dị giáo thuyết công giáo, cuốn sách này đáp ứng nhu cầu và chống lại sức tàn phá do cuốn “giáo lý” của Luthênô. Tính cho đến cuối thế kỷ XVII, cuốn sách được xuất bản hơn 400 lần và được chuyển dịch sang 15 ngôn ngữ.

Từ Vienna, Canisiô qua Bohemia là nơi Giáo hội ở trong điều kiện tuyệt vọng. Chống lại, Ngài đã thiết lập một học viện ở Praha, sau trở thành đạihọc. Năm 1556, được đặt làm giám tỉnh miền nam nước Đức, Ngài lập trường học cho trẻ em tại 6 thành phố và tự nhận trách vụ cung ứng cho nước Đức các linh mục được đào luyện tốt. Thực hiện điều này Ngài thiết lập các chủng viện và gửi người trẻ đi tu nghiệp thường xuyên ở Roma.

Du hành trong nước Đức, thánh Canisiô không ngừng rao giảng lời Chúa. Trước hết, Ngài tiếp xúc với những người lãnh đạm hay thù nghịch. Nhưng lòng nhiệt thành và sự thông hiểu của Ngài quá rõ đến nỗi đám đông kéo đến chật ních các nhà thờ để nghe giảng. Trong 7 năm liền, Ngài là người giảng thuyết chính thức của nhà thờ chính toà Augsburg và được coi như vị tông đồ của thành phố này. Mỗi khi qua một nhà thờ miền quê vắng bóng chủ chăn, Ngài thường dừng lại để giảng dạy và ban các phép bí tích.

Dường như Ngài không thể nào kiệt sức được. Ngài nói với vài người đã tố cáo Ngài làm việc quá độ rằng: – “Nếu bạn phải làm việc quá nhiều, với sự trợ lực của Chúa, bạn sẽ tìm giờ để làm cho hết”.

Một hình thức tông đồ khác là viết thơ. Các pho sách in thư từ của Ngài dày hơn cả ngàn trang giấy. Như thánh Bernardô Clairvaux, Ngài dùng phương tiện này để khích lệ, quở trách và hướng dẫn mọi hạng người. Theo nhu cầu của cả Giáo hội hay của từng cá nhân đòi hỏi. Ngài đã viết thư cho Đức Thánh cha, cho nhà vua, cho các giám mục, cho các hoàng tử, cho linh mục và giáo dân. Nơi nào thư từ không đủ, Ngài đưa ra một sức mạnh do ảnh hưởng cá nhân. Chẳng hạn trong một cuộc họp giữa công giáo và Thệ phản ở Worms năm 1556, đã phải nhờ đến ảnnh hưởng của Ngài; mà người công giáo mới có thể hiệp nhất chống lại những mời mọc của Thệ phản để thỏa hiệp với những điều thuộc về nguyên tắc.

Ở Balan năm 1558, Ngài đã kiểm soát được một đe dọa mới chớm nở đối với niềm tin cổ truyền của xứ sở. Và trong cùng một năm ấy, Ngài đã nhận được lời cám ơn của Đức Piô IV về tài ngoại giao của Ngài trong việc hàn gắn sự bất hoà giữa Đức Thánh Cha và hoàng đế. Năm 1561, Ngài được trao phó để công bố các sắc lệnh của công đồng Tridentinô tại nước Đức.

Ít lâu sau, Ngài được kêu gọi để trả lời cho cuốn Kenturies của Magdeburg. Tác phẩm đầu tiên và tồi tệ nhất của lịch sử “Thệ phản giáo” tấn công Giáo hội công giáo trong mức độ rông rãi và những bóp méo lịch sử đòi nhiều người mới có thể trả lời đầy đủ được. Dầu vậy, thánh Canisiô đã vạch ra đường lối với hai tác phẩm của Ngài là: – “Lịch sử thánh Gioan Tẩy giả” và “Đức trinh nữ Maria khôn sánh”

Từ năm1580 tới khi qua đời năm 1597, Ngài đã cực nhọc và đau khổ nhiều ở Thụy Sĩ. Sáu năm cuối, Ngài nhẫn nại chịu dựng và cầu nguyện lâu giờ tại học viện Fribourg, vì bây giờ, sức khỏe tàn tạ không cho phép Ngài có thể hoạt động tích cực nữa.

Chẳng bao lâu sau khi Ngài qua đời, ngày 21 tháng 12 năm 1597 mộ Ngài đã được tôn kính. Nhiều phép lạ đã diễn ra nhờ lời chuyển cầu của Ngài. Ngài là duy nhất đã được tuyên thánh và tuyên dương làm tiến sĩ Hội Thánh vào cùng một ngày, ngày 21 tháng 6 năm 1925.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

21 Tháng Mười Hai

Rạn Nứt Trong Tâm Hồn

Một ông vua giàu có nọ rất keo kiệt và hà khắc đối với thần dân. Thành ra, tất cả mọi người đều oán ghét ông.

Một hôm ông ra lệnh cho quan tể tướng tiến hành việc thu thuế hằng năm. Nhưng quan tể tướng cho biết: “Năm nay mùa màng hư hại, dân chúng đang chết đói, họ không thể nào nộp thuế được”.

Nhưng nhà vua vẫn một mực cho tiến hành việc thu thuế và yêu cầu quan tể tướng dùng tất cả tiền thuế để sửa sang cung điện và nội thành. Quan tể tướng đi một vòng xung quanh cung điện, nơi nào cũng có sự rạn nứt, nhưng sự rạn nứt sâu xa hơn vẫn là sự bất mãn và ta thán của người dân.

Thế là, năm đó, thay vì tiến hành lệnh của vua, quan tể tướng đã cho người đi khắp nơi và loan báo như sau: “Năm nay, nhà vua miễn thuế cho tất cả mọi người”. Nghe thế, ai cũng vui mừng vỡ lở. Khắp nơi, tuy đói kém, ai ai cũng làm tiệc ăn mừng.

Trở lại triều đình, quan tể tướng thông cáo với nhà vua rằng với số tiền thu thuế được, ông đã cho làm những tu sửa cần thiết nhất.

Ngày hôm sau, quan tể tướng mời nhà vua và đoàn tùy tùng đi tham quan một vòng xung quanh những nơi mà ông báo cáo đã được tu sửa. Vừa ra khỏi cung điện, nhà vua đã được dân chúng tung hô vạn tuế không dứt lời. Nhìn đám đông vui mừng phở lở, nhà vua mới quay sang quan tể tướng để hỏi lý do của ngày hội này. Quan tể tướng mới giải thích như sau: “Tâu bệ hạ, ngày lễ hôm nay được tổ chức là để đánh dấu những tu sửa quan trọng trong cung điện. Trước khi tiến hành việc thu thuế, hạ thần đã đi tham quan một vòng, hạ thần nhận thấy rằng những rạn nứt đáng kể nhất không phải là những rạn nứt trên tường thành của cung điện mà chính là trong lòng người dân. Người dân không thể vui mừng được vì từ bao lâu nay, họ không còn thấy được lòng tốt nữa. Ðó là lý do đã khiến hạ thần tuyên bố miễn thuế cho họ trong năm nay”.

Nghe thế, nhà vua mới sực tỉnh lại và nhận ra thái độ keo kiệt hà khắc của ông. Ông nhìn xuống đám đông dân chúng đang hân hoan vẫy chào, lòng ông cảm thấy xúc động. Lần đầu tiên, người ta thấy nụ cười của vui tươi và yêu thương nở trên môi ông.

Người Việt Nam chúng ta có lẽ đã quá quen thuộc với hai chữ đổi mới. Năm kia qua tháng nọ, lúc nào người ta cũng hô hào “đổi mới”, nhưng đâu vẫn vào đó: đói khổ vẫn còn đó, dốt nát vẫn còn đó, lạc hậu vẫn còn đó, tù đày khốn khổ vẫn còn đó… Ðiều đó xem ra cũng dễ hiểu, người ta chỉ vá víu để hàn gắn những rạn nứt bên ngoài, còn rạn nứt thâm sâu nhất là rạn nứt trong tâm hồn mình, thì người ta không bao giờ nghĩ tới.

“Ðổi mới” là trọng tâm của sứ điệp Kitô Giáo chúng ta. Khai mở sứ vị công khai của Ngài, Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng”. Sự hoán cải mà Chúa Giêsu đề ra là hoán cải tâm hồn, hoán cải con tim, hoán cải tư duy, hoán cải cái nhìn.

Sự hoán cải ấy không phải là công việc của một ngày, một tháng, một năm, mà là công trình của cả một cuộc đời. Bao lâu còn mang lấy danh hiệu Kitô, thì bấy lâu người tín hữu vẫn còn được mời gọi để hoán cải.

Sự hoán cải ấy cũng không chỉ là cố gắng riêng tư của người tín hữu mà là tác động của chính Chúa. Chính Ngài mới có thể tác tạo cho con người một trái tim mới, một quả tim biết yêu thương. Sự đổi mới mà người tín hữu Kitô không ngừng đeo đuổi trong cả cuộc sống của mình chính là cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa những cố gắng riêng tư của mình và sự tác tạo của Chúa.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Ngày 22 tháng 12 – MV

Bài đọc: I Sam 1:24-28; Lk 1:46-56.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nhận biết và cám ơn quà tặng của Thiên Chúa.

Nhận ra hồng ân Thiên Chúa ban cho đã khó, biết cám ơn Thiên Chúa còn khó hơn. Trong Phúc Âm, Chúa chữa lành 10 người phong cùi; nhưng chỉ có một người ngọai biết quay trở lại để cám ơn Thiên Chúa. Cám ơn Thiên Chúa đã khó, biết dâng lại những gì Thiên Chúa ban còn khó hơn gấp bội. Thế mà có những người mẹ không con, sau khi được Thiên Chúa ban cho một người con, lại dám can đảm hy sinh dâng lại người con duy nhất để làm việc cho Thiên Chúa. Các Bà tuy rất thương và muốn con ở với mình, nhưng lòng biết ơn Thiên Chúa mạnh hơn tính ích kỷ cá nhân. Các bà biết rõ: nếu Thiên Chúa không can thiệp, chẳng bao giờ các bà có được người con đó.

Các Bài đọc hôm nay tường thuật tâm tình biết ơn của hai người mẹ anh hùng này. Trong Bài đọc I, Bà Anna hiểu thấu nỗi ô nhục của người không có con: đối phương của Bà chọc tức Bà. Quá đau khổ, Bà cầu xin Thiên Chúa thương ban cho mình một mụn con, và sẽ dâng nó lại cho Thiên Chúa để phục vụ trong Đền Thờ. Khi được Thiên Chúa ban cho một con trai, Samuel, Bà đã giữ lời hứa, dâng con mình lại cho Thiên Chúa. Trong Phúc Âm, Đức Trinh Nữ Maria biết rõ mình chỉ là một nữ tỳ tầm thường trước mặt Thiên Chúa; nhưng được Thiên Chúa cất nhắc lên thiên chức “Mẹ Đấng Cứu Thế” là do hòan tòan quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa. Mẹ Maria cũng sẵn sàng dâng Chúa Giêsu lại cho Thiên Chúa, để Ngài hòan tất sứ vụ đã được Chúa Cha trao phó.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Bà Anna dâng lại đứa trẻ Thiên Chúa ban để nó phục vụ Thiên Chúa.

1.1/ Nỗi ô nhục của người vợ không con: Ông Elkanah có hai vợ: một bà tên là Anna, một bà tên là Peninnah. Bà Peninnah có con, còn bà Anna không có con. Đến ngày ông Elkanah dâng hy lễ, ông thường chia các phần cho bà Peninnah, vợ ông, và cho các con trai con gái bà ấy. Còn bà Anna, ông chia cho một phần ngon vì ông yêu bà, mặc dù Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Bà kia, đối thủ của bà, cứ chọc tức để hạ nhục bà, vì Đức Chúa đã làm cho bà không sinh sản được. Ông Elkanah vẫn làm như thế năm này qua năm khác, mỗi lần ông lên Nhà của Đức Chúa tại Shiloh; còn bà kia cứ chọc tức bà Anna như thế. Mỗi lần xảy ra, Bà chỉ biết khóc và không chịu ăn.

1.2/ Bà Anna cầu nguyện và xin Thiên Chúa ban cho một đứa con: Tâm hồn cay đắng, bà cầu nguyện với Đức Chúa và khóc nức nở. Bà khấn hứa rằng: “Lạy Đức Chúa các đạo binh, nếu Ngài đoái nhìn nỗi khổ cực của nữ tỳ Ngài đây, nếu Ngài nhớ đến con và không quên nữ tỳ Ngài, nếu Ngài cho nữ tỳ Ngài một mụn con trai, thì con sẽ dâng nó cho Đức Chúa mọi ngày đời nó, và dao cạo sẽ không đụng tới đầu nó.” Tư-tế Eli khuyên: “Bà hãy về bình an. Xin Thiên Chúa của Israel ban cho bà điều bà đã xin Người!” Bà thưa: “Ước chi nữ tỳ của ngài đây được đẹp lòng ngài!” Rồi bà Anna ra về; bà dùng bữa và nét mặt bà không còn sầu khổ như trước nữa.

1.3/ Lời cầu xin của Bà Anna được Thiên Chúa nhận lời: Sau đó, ông Elkanah ăn ở với bà Anna, vợ mình, và Đức Chúa đã nhớ đến bà. Ngày qua tháng lại, bà Anna thụ thai, sinh con trai và đặt tên cho nó là Samuel, vì bà nói: “Tôi đã xin Đức Chúa được nó.” Năm sau, Elcanah lên Shiloh với cả gia đình, để dâng hy lễ thường niên cho Đức Chúa, và để giữ trọn lời khấn hứa của mình. Bà Anna không lên, và bà nói với chồng: “Đợi cho đến khi đứa trẻ cai sữa đã. Khi đó em sẽ đưa nó đi, nó sẽ ra mắt Đức Chúa và sẽ ở lại đó mãi mãi.” Ông Elkanah bảo bà: “Em nghĩ thế nào là phải thì cứ làm; cứ ở lại cho đến khi cai sữa cho nó. Chỉ xin Đức Chúa thực hiện lời Người.”

1.4/ Bà Anna dâng lại cho Thiên Chúa người con Ngài ban tặng: Sau khi cai sữa cho con, bà đưa nó lên với mình, mang theo một con bò mộng ba tuổi, hai thùng bột và một bầu da đầy rượu. Bà đưa con vào Nhà Đức Chúa tại Shiloh; đứa trẻ còn nhỏ lắm. Họ sát tế con bò và đưa đứa trẻ đến với ông Eli. Bà nói: “Thưa ngài, xin thứ lỗi, tôi xin lấy mạng sống ngài mà thề: tôi là người đàn bà đã đứng bên ngài, tại đây, để cầu nguyện với Đức Chúa. Tôi đã cầu nguyện để được đứa trẻ này, và Đức Chúa đã ban cho tôi điều tôi đã xin Người. Đến lượt tôi, tôi xin nhượng nó lại cho Đức Chúa. Mọi ngày đời nó, nó sẽ được nhượng cho Đức Chúa.” Và ở đó, họ thờ lạy Đức Chúa.

2/ Phúc Âm: Đức Mẹ Maria ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa.

2.1/ Thiên Chúa là nguồn mạch mọi ơn lành: Mẹ Maria biết rõ mình chỉ là một nữ tỳ hèn hạ trước mặt Thiên Chúa; hơn nữa, Mẹ cũng chỉ là một tạo vật thấp hèn được Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng chỉ vì Thiên Chúa đã đóai thương nhìn đến, mà Mẹ được cất nhắc lên để làm Mẹ Đấng Cứu Thế. Hồng ân này không những làm cho mẹ được ơn cứu độ, mà còn ban rộng ra đến tất cả mọi người. Với tâm tình biết ơn Thiên Chúa, Mẹ vui mừng ca tụng Ngài: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn!”

2.2/ Thiên Chúa xót thương những ai kính sợ Ngài: Biết kính sợ Thiên Chúa không những là nguồn gốc mọi khôn ngoan, mà còn là điều kiện để được hưởng muôn ơn lành. Chỉ trong 3 câu ngắn ngủi, tác giả của Bài Magnificat đã nêu lên 3 điều cách mạng chính của Thiên Chúa:

(1) Cách mạng luân lý: Thiên Chúa chống kẻ kiêu căng và đề cao người khiêm nhường; trong khi người thế gian thường thích kiêu căng, cậy sức mình, và khinh thường Thiên Chúa.

(2) Cách mạng xã hội: Thiên Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng và nâng cao những kẻ thấp hèn; trong khi người thế gian thường cậy quyền thế và đàn áp kẻ khó nghèo.

(3) Cách mạng kinh tế: Thiên Chúa cho kẻ đói nghèo được dư dật và đuổi người giầu về tay trắng; trong khi ở thế gian: người giầu lại giầu thêm, còn kẻ nghèo càng nghèo hơn.

2.3/ Thiên Chúa trung thành thực thi Lời Hứa: Tất cả những gì Thiên Chúa hứa, Ngài sẽ thực thi; không phải vì con người xứng đáng được hưởng, nhưng chỉ vì lòng thương xót của Ngài: “Chúa độ trì Israel, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Abraham và cho con cháu đến muôn đời.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương: nếu chúng ta kiên trì biểu lộ niềm tin của chúng ta, Ngài sẽ ban cho chúng ta điều chúng ta xin.

– Chúng ta phải có lòng khiêm nhường và biết kính sợ Thiên Chúa. Chúng ta phải có lòng biết ơn về những quà tặng Thiên Chúa ban.

– Quà tặng Chúa ban là để phục vụ, chứ không ích kỷ giữ cho mình. Chúng ta phải biết dùng những quà tặng Thiên Chúa ban để phục vụ Ngài.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************