Ngày thứ năm (22-10-2020) – Trang suy niệm

21/10/2020

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Năm Tuần XXIX Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: Ep 3, 14-21

“Anh em đâm rễ sâu và lập nền kiên cố trong đức mến, để anh em được sung mãn trong mọi sự viên mãn của Thiên Chúa”.

Trích thư Thánh Phalô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, tôi quỳ gối trước mặt Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người là nguồn gốc mọi danh phận làm cha trên trời dưới đất. Xin Người chiếu theo sự giàu có vinh quang của Người và nhờ Thánh Thần của Người, thêm sức mạnh cho anh em được nên người thiêng liêng, và nhờ đức tin, anh em được Đức Kitô ngự trong lòng anh em, làm cho anh em đâm rễ sâu và lập nền kiên cố trong đức mến, để anh em được hiệp cùng các thánh mà hiểu biết chiều rộng, dài, cao, sâu, và cũng được biết lòng mến của Đức Kitô vượt quá trí hiểu loài người, để anh em được sung mãn trong mọi sự viên mãn của Thiên Chúa.

Nguyện cho Đấng toàn năng ban cho chúng ta mọi sự, dư đầy quá sự chúng ta cầu xin hay hoài bão, theo như quyền lực Người thi thố trong chúng ta: nguyện cho Người được vinh quang trong Hội Thánh và trong Đức Giêsu Kitô, qua mọi thế hệ muôn đời. Amen. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 32, 1-2. 4-5. 11-12. 18-19

Đáp:  Địa cầu đầy ân sủng Chúa (c. 5b).

Xướng:

1) Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa. Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. – Đáp. 

2) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng Chúa. – Đáp. 

3) Ý định của Chúa tồn tại muôn đời, tư tưởng lòng Người còn mãi đời nọ sang đời kia. Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. – Đáp.  

4) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. – Đáp.  

ALLELUIA: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến; bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 12, 49-53

“Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian, và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

22/10/2020 – THỨ NĂM TUẦN 29 TN

Th. Gio-an Phao-lô II, giáo hoàng

Lc 12,49-53

THẦY ĐẾN ĐỂ GÂY CHIA RẼ?

“Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ.” (Lc 12,51)

Suy niệm: Sống trên đời, ai cũng mong muốn hòa bình, bình an, hạnh phúc. Thế mà khi đến trần gian, Thầy Giê-su lại nói Ngài đến đem sự chia rẽ. Thầy định gây sốc hay muốn bị “ném đá” hay sao? Thật ra, đôi khi chúng ta sai lầm khi nghĩ rằng hòa bình có nghĩa là không có biến động nào xảy ra. Ta vẫn hay nói “bình an vô sự” đó sao! Đâu phải thế! Hòa bình, nói theo kiểu của nhà văn Vegetius: Nếu muốn hòa bình, hãy chuẩn bị cho chiến tranh. Như thế, hòa bình là một tiến trình rèn luyện, đấu tranh. Hòa bình Chúa Giê-su mang đến là ánh sáng, tự bản chất, nó phân rẽ với bóng tối; hòa bình ấy đòi hỏi người tin theo Ngài phải nỗ lực chiến đấu chống lại với khuynh hướng xác thịt nơi bản thân, ảnh hưởng xấu của môi trường xã hội, và lực cản sống theo Tin Mừng ngay chính nơi người thân của gia đình mình.

Mời Bạn: “Vì từ nay, năm người trong cùng một nhà sẽ chia rẽ nhau.” Lời Chúa Giê-su nói nghe sao chướng tai quá! Nhưng thật ra, khi bạn đón nhận Ánh sáng Chân lý Giê-su thì, ngay chính trong bản thân bạn cũng đã chia rẽ: giữa lựa chọn thiện và ác, theo Chúa hay theo Danh-lợi-thú. Chia rẽ mà Chúa Giêsu mang đến là vậy đó!

Sống Lời Chúa: Đọc Lời Chúa mỗi ngày, để Ánh sáng Lời Chúa phân rẽ những bóng tối trong tâm hồn ta.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Hoàng tử Bình an của nhân loại. Xin ban hòa bình cho thế giới, an bình cho tâm hồn, cộng đoàn con. Xin thêm sức mạnh để con cố gắng xây dựng hòa bình theo cung cách Chúa dạy. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Nhiệt độ của trái đất có chiều hướng nóng dần lên.
Ðó là một điều đáng sợ.
Nhưng điều đáng sợ hơn
lại là sự lạnh lùng giữa người với người.
Con người cần cơm bánh và giải trí,
nhưng con người còn cần sự nâng đỡ cảm thông.
Nhân loại sống được là nhờ tình thương ấm áp.
Vậy mà băng giá của lạnh đạm dửng dưng
vẫn tồn tại khắp nơi trên mặt đất.
Băng giá nằm ngay nơi lòng con người.

Ðức Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Ngài:
Ngài đến để ném lửa trên mặt đất,
và Ngài ước mong, phải chi lửa ấy đã bùng lên.
Ngọn lửa Ðức Giêsu muốn nhóm lên
không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt,
không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê
định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari.
Ðây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài,
lửa của Thánh Thần, lửa của yêu thương,
lửa hâm nóng hai môn đệ Emmau đang tuyệt vọng.

Chúng ta cần được ngọn lửa của Ðức Giêsu chạm đến,
cần được Ngài làm bừng sáng lên
những sức mạnh tiềm ẩn nơi ta,
để chúng ta trở thành ánh lửa cho thế giới.
“Phải chi lửa ấy đã bùng lên!”
Chúng ta được mời gọi để thực hiện niềm ước mong
mà Ðức Giêsu đã suốt đời ôm ấp,
đó là làm cho thế giới nên ấm áp hơn
vì con người biết sống cho Thiên Chúa và cho nhau.

Gieo rắc ngọn lửa và ánh sáng
là chấp nhận bị từ khước và đe dọa.
Ðức Giêsu linh cảm những gì sẽ xảy ra cho đời mình.
Ngài sẽ phải chịu một phép rửa kinh khủng,
sẽ phải dìm mình thật sâu trong nỗi khổ đau.
Hôm nay, Ngài mời chúng ta ném lửa trên mặt đất
và chấp nhận đối đầu với sức mạnh của bóng tối.
Khi Ðức Giêsu bị treo trên thập tự,
khi Ngài bị giam trong mồ tối,
bóng tối tưởng như đã nuốt chửng được Ngài.
Nhưng ngọn lửa phục sinh đã bừng lên giữa đêm đen.
Ðó là niềm hy vọng của chúng ta,
những người vẫn còn phải hăng say chiến đấu
để đẩy lui bóng tối ra khỏi mọi nơi, mọi chỗ,
bóng tối của bất công, sa đọa và tuyệt vọng,
bóng tối của hận thù, của nạn mù chữ,
bóng tối của nghèo nàn lạc hậu…
Bóng tối do khép lại cánh cửa của lòng mình,
Bóng tối ở ngay trong lòng tôi.

Có lúc chúng ta sợ hãi bóng tối dầy đặc,
mà ngọn lửa của mình lại yếu ớt.
Nếu một tỷ Kitô hữu đều là những ngọn lửa
thì bóng tối sẽ bị đẩy lùi khỏi mặt đất.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu thương mến,
xin ban cho chúng con
tỏa lan hương thơm của Chúa
đến mọi nơi chúng con đi.

Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa,
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con,
để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được
Chúa đang hiện diện nơi chúng con.

Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa,
không phải bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá,
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.

(Mẹ Têrêxa Calcutta)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

22 THÁNG MƯỜI

Bảo Vệ Phẩm Giá Của Mọi Con Người

Có lần tôi đã nói trong sứ điệp nhân Ngày Quốc Tế Hòa Bình: “Con đường đúng đắn để xây dựng một thế giới hiệp thông huynh đệ, một thế giới mà công lý và hòa bình sẽ ngự trị khắp mọi nơi, cho mọi dân tộc … đó là con đường liên đới, con đường của đối thoại và của tình huynh đệ đại đồng. Chỉ có con đường đó mà thôi.”

Ý thức liên đới phải vượt thắng mọi cám dỗ khép kín lòng mình. Ý thức ấy thúc đẩy người ta biết kính trọng những truyền thống văn hóa và luân lý của mọi dân tộc. Nó giúp các truyền thống gặp gỡ nhau, cảm thông và trân trọng nhau. Sự liên đới mà xã hội hiện đại cần có chắc chắn không phải là những câu khẩu hiệu mơ hồ sáo rỗng, nhưng phải là sự liên đới cụ thể trong tinh thần tôn trọng giá trị của sự sống, của mọi sự sống. Bởi vì nơi mỗi hiện hữu con người đều có phản ảnh sự hiện hữu của chính Thiên Chúa. Vì thế, chỉ có lòng bao dung mà thôi thì không đủ, thái độ thuần túy cam chịu càng không đủ. Sự chấp nhận mọi sự như hiện trạng của nó cũng không đủ. Điều cần thiết là phải có một thái độ dấn thân tích cực để tôn trọng và bảo vệ phẩm giá và quyền của mọi con người, trong bối cảnh là chính căn tính văn hóa của họ.

Thái độ dấn thân tích cực ấy sẽ thúc đẩy chúng ta tìm kiếm những điều ích lợi cho người khác, xây dựng những mối liên hệ mới, đem lại niềm hy vọng mới, hăng say phụng sự cho hòa bình. Chỉ khi hiểu biết và thông cảm nhau, chúng ta mới có thể giải quyết các xung đột và điều chỉnh những bất công. Và chỉ khi đó chúng ta mới có thể mở ra triển vọng thật sự về mối liên đới trong tự do và hy vọng. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể mở ra con đường hòa điệu giữa các dân tộc – sự hòa điệu này là điều kiện không thể thiếu cho một nền hòa bình đích thực.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 22/10

Thánh Gioan Phaolô II, giáo hoàng

Ep 3, 14-21; Lc 12, 49-53.

LỜI SUY NIỆM: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bừng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất.”

          Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy được: “Thái độ của Chúa Giêsu trước cuộc Thương Khó” của Người. Người đang tâm sự với mỗi người trong chúng ta về “Lửa”. Một thứ lửa mà Người ném vào trong thế gian này đang cần; đó là Lửa:  “Lửa Tình Yêu; Lửa Cứu Độ và Lửa Chúa Thánh Thần”; Để tất cả được bừng cháy lên trong một tình huynh đệ có cùng một Cha trên trời, và nhận lấy lửa Cứu Độ của Người để thanh tẩy.

          Lạy Chúa Giêsu. Chúa muốn tất cả chúng con nhận lãnh ơn cứu độ của Chúa. Xin Chúa mở rộng tâm trí của chúng con, giúp cho mỗi người chúng con nhận ra và vui sống với nhau trong tình thương ơn cứu độ của Chúa.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 22-10: THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

Ðức Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng thứ 264 (1978-2005) của Giáo hội Công Giáo. Ngài là giáo hoàng người Ba Lan duy nhất cho đến nay và là giáo hoàng đầu tiên không người dân Ý kể từ thế kỷ 16 (giáo hoàng Adrian VI 1522-1523 người Hòa Lan). Triều đại 26 năm của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dài thứ nhì, chỉ sau Đức Giáo hoàng Piô IX giữa thế kỷ 19 (32 năm, 1846-1878).

  Đức Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng có rất nhiều cái “đầu tiên” và “duy nhất”:

  – Ðến thăm 104 quốc gia, nhiều hơn bất cứ nhà lãnh đạo nào khác trên thế giới: đi qua 700,000 dặm, nghĩa là 28 lần đường vòng quanh Trái Ðất, hay 3 lần đến Mặt Trăng.

  – Là vị giáo hoàng đầu tiên: đến Anh Quốc, thăm ngôi đền Hồi Giáo ở Syria, thuyết giảng trong buổi lễ tại một nhà thờ Tin Lành ở Áo năm 1983, bước vào đại hội đường Do Thái tại Roma năm 1986, thăm Rumania năm 1999 (cuộc viếng thăm đầu tiên của một giáo hoàng Vatican tại một nước Chính Thống Giáo Ðông Phương kể từ thời kỳ ly giáo 1,000 năm trước), thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa Vatican và Israel.

– Ðức Ðạt Lai Lạt Ma 8 lần gặp ngài, nhiều hơn với bất cứ nhà lãnh đạo nào khác.

– Sáng lập Ngày Giới Trẻ Thế Giới.

– Thoát chết trong vụ mưu sát năm 1981 như một phép lạ của Đức Mẹ Fatima; đến thăm và nói lời tha thứ với kẻ ám sát mình.

– Chính thức lên tiếng xin lỗi về những sai lầm của Giáo Hội trong quá khứ.

– Hơn 3 triệu người xếp hàng để được đi ngang viếng chào linh cữu của Ngài, quàn tại Thánh Ðường St. Peter cho đến ngày tang lễ 8 Tháng Tư, 2005.

– Và còn nhiều cái “đầu tiên” & “duy nhất” khác nữa… 

Vì thế, Đức Gioan-Phaolô II được coi là “Giáo Hoàng của những kỷ lục”: kỷ lục đi xa, kỷ lục phong thánh, kỷ lục gặp gỡ, kỷ lục diễn văn… Ngài nổi tiếng ngay từ đầu triều giáo hoàng với lời kêu gọi mang lại nhiều niềm vui và bình an cho mọi người; đó là hai chữ ngắn gọn: “Đừng sợ!”

Những kỷ lục trên trước hết là kết quả của lòng đạo đức, lòng yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và bí tích Giải tội. Trước mỗi chuyến công du, ngài cầu nguyện rất nhiều, xưng tội trước khi đi công du. Ngài vẫn giữ thói quen rất lành thánh là xưng tội hằng tuần. Ngài cổ võ mạnh mẽ cho việc tôn sùng Thánh Thể. Khi viết về những giáo huấn liên quan đến đức tin, ngài thường quỳ gối viết trước Thánh Thể, gần giống như Thánh Thomas Aquino dựa đầu vào Nhà Tạm trước khi nói về Thánh Thể. 

Đặc biệt Ngài là “Giáo hoàng của Đức Mẹ” với khẩu hiệu “Totus Tuus” (Tất cả của con là của Mẹ, con hoàn toàn thuộc về Mẹ). Đức Gioan-Phaolô II rất trung thành với Chuỗi Mân Côi, ngài lần hạt từng ngày. Vào mỗi thứ Bảy đầu tháng, ngài lần hạt chung với giáo dân tại Hội trường Phaolô VI. Dịp các Đức Giám Mục hành hương năm 2000, ngài mời chị Lucia đến đọc Kinh Mân Côi, chị đọc một bè bằng tiếng Bồ Đào Nha, ngài và các Giám mục đọc một bè bằng tiếng La Tinh. Ngài đã viết hai văn kiện lớn về Đức Mẹ: Thông điệp Redemptoris Mater (Mẹ Đấng Cứu Độ) và Tông thư Rosarium Vigilis Mariae (Kinh Rất Thánh Mân Côi). Chính ngài đã thêm vào Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng và công bố Năm Mân Côi (từ tháng 10.2002 đến tháng 10.2003). 

Sinh ngày 18.05.1920 tại Wadowice – một thành phố cách Kraków (Ba Lan) chừng 50 km – ngài là người con út trong 3 người con của ông Karol Wojtyła và bà Emilia Kaczorowska, qua đời vào năm 1929. Người anh cả của ngài là Edmund, bác sĩ, qua đời năm 1932 và thân sinh của Ngài, một sĩ qua quân đội qua đời vào năm 1941. Trong khi chị của Ngài, Olga, qua đời trước khi Ngài được sinh ra.

Được rửa tội vào ngày 20.06.1920 tại nhà thờ giáo xứ Wadowice do cha Franciszek Zak; rước lễ lần đầu lúc 9 tuổi và lãnh nhận bí tích Thêm sức lúc 18 tuổi. Sau khi học hết chương trình trung học tại Marcin Wadowita, Wadowice, năm 1938, cậu ghi danh vào Đại học Jagellónica, Cracovia.

Khi quân xâm lược Naziste đóng cửa trường đại học vào năm 1939, cậu Karol làm việc (1940-1944) trong một hầm mỏ, và sau đó, trong một nhà máy hóa chất Solvay để kiếm sống và tránh bị đưa vào các trại tập trung bên nước Đức.

Từ năm 1942, cảm thấy mình có ơn gọi làm linh mục, cậu bắt đầu theo học tại Đại Chủng viện chui tại Cracovia dưới sự hướng dẫn của chính Tổng Giám mục Cracovia, ĐHY Adam Stefan Sapieha. Trong thời gian đó, thầy cũng là một trong những người tổ chức “Kịch nghệ Rapsodico”, cũng dưới hình thức chui.

Sau khi chiến tranh kết thúc, thầy tiếp tục theo học trong Đại Chủng viện Cracovia mới được mở cửa lại, và tại Phân khoa Thần học của Viện Đại học Jagellónica, cho đến khi chịu chức linh mục tại Cracovia vào ngày 11.11.1946, do sự đặt tay của Đức Tổng Giám mục Sapieha.

Sau đó, ngài được gởi qua Roma để theo học dưới sự hướng dẫn của cha Dòng Đa Minh người Pháp, cha Garrigou-Lagrange, và vào năm 1948, ngài đậu tiến sĩ thần học với luận án: “Đức tin trong các tác phẩm của Thánh Gioan Thánh giá” (Doctrina de fide apud Sanctum Ioannem a Cruce). Trong thời gian này, vào các kỳ nghỉ hè, ngài thường làm việc mục vụ cho người Ba Lan tại Pháp, Bỉ và Hòa Lan.

Vào năm 1948, ngài trở về Ba Lan, lúc đầu làm phó xứ Niegowić, gần Cracovia, và sau đó, làm phó xứ Thánh Floriano, trong thành phố. Đồng thời, ngài cũng làm tuyên úy sinh viên cho đến năm 1951, vừa theo học triết học và thần học. Vào năm 1953, ngài trình luận án tại Đại học Công giáo Lublino với đề tài: “Thẩm định khả năng thiết lập một nền luân lý Kitô từ hệ thống luân lý của Max Scheler”. Sau đó, ngài trở thành giáo sư Thần học Luân lý trong Đại Chủng viện Cracovia và tại Phân khoa Thần học Lublino.

Ngày 04.07.1958, Đức Giáo hoàng Piô XII đặt ngài làm giám mục hiệu tòa Ombi và giám mục phụ tá Cracovia. Ngài được thụ phong giám mục vào ngày 28.09.1958 tại nhà thờ chánh tòa Wawel (Cracovia), do sự đặt tay của Đức Tổng Giám mục Eugeniusz Baziak.

Ngày 13.01.1964, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đặt ngài làm Tổng Giám mục Cracovia và rồi đề cử ngài lên tước vị Hồng y vào ngày 26..06.1967.

Ngài tham dự Công đồng Vaticano II (1962-1965) với sự đóng góp quan trọng trong việc soạn thảo Hiến chế Gaudium et Spes. Với tư cách Hồng y, ngài cũng là thành viên trong 5 Thượng Hội đồng Giám mục trước khi trở thành Giáo hoàng vào ngày 16.10.1978  và long trọng khởi đầu tác vụ Thánh Phêrô vào ngày 22.10.1978.

Đức Gioan Phaolô II đã thi hành sứ vụ của mình với tinh thần truyền giáo không mệt mỏi, dồn mọi nỗ lực lo lắng việc mục vụ đối với mọi Giáo hội và đức ái mục tử mở ra cho toàn thể nhân loại. Ngài đã thực hiện 104 chuyến đi trên toàn thế giới và 146 cuộc viếng thăm mục vụ tại nước Ý. Với tư cách là giám mục Roma, ngài đã thăm 317 giáo xứ (trên 333 giáo xứ).

Lòng yêu mến đối với các bạn trẻ đã hối thúc ngài thành lập những Ngày Giới trẻ Thế giới kể từ năm 1985. 19 cuộc họp mặt Giới trẻ Thế giới – diễn ra trong triều đại của ngài – đã quy tụ hàng triệu bạn trẻ trên khắp thế giới. Ngài rất quan tâm đến gia đình và đã tổ chức những Đại hội Gia đình Thế giới từ năm 1994.

Đức Gioan Phaolô II phát huy thành công trong việc đối thoại với người Do Thái và đại diện của các tôn giáo, bằng việc mời gọi họ đến những cuộc gặp gỡ cầu nguyện cho hòa bình, cách đặc biệt tại Assisi.

Dưới sự hướng dẫn của ngài, Giáo hội tiến về ngàn năm thứ ba và đã cử hành Đại Năm Thánh 2000, theo những đường nét đã được trình bày trong Tông thư Tertio millennio adveniente. Và rồi Giáo hội đối đầu với thời đại mới, lại được lãnh nhận những chỉ dẫn trong Tông thư Novo millennio ineunte, trong đó, ngài cho các tín hữu thấy hành trình của thời tương lai.

Với các Năm Thánh Cứu độ, Năm Thánh mẫu, Năm Thánh Thể, Đức Gioan Phaolô II đã phát huy việc canh tân đời sống thiêng liêng của Giáo hội. Ngài cũng đã tiến hành nhiều cuộc phong thánh và chân phước để đưa ra nhiều tấm gương thánh thiện cho con người thời đại hôm nay: Ngài đã cử hành 147 buổi lễ phong chân phước, gồm 1338 vị và 51 cuộc lễ phong thánh, gồm 482 vị thánh. Ngài cũng đã tuyên phong Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu làm Tiến sĩ Giáo hội.

Ngài đã mở rộng con số của Hồng y đoàn, tấn phong đến 231 vị trong 9 mật nghị (1 vị ẩn danh và cũng không được nêu lên trước khi ngài qua đời). Ngài cũng triệu tập 6 Công nghị của Hồng y đoàn.

Ngài đã chủ tọa 15 Thượng Hội đồng Giám mục: 6 thông thường (1980, 1983, 1987, 1990, 1994 và 2001), 1 Thượng Hội đồng bất thường (1985) và 8 Thượng Hội đồng đặc biệt (1980, 1991, 1994, 1995, 1997, 1998 [2] và 1999).

Ngài ban hành 14 Thông điệp, 15 Tông huấn, 11 Tông hiến và 45 Tông thư. Ngài cũng đã ban hành cuốn Giáo lý của Giáo hội Công giáo, dưới ánh sáng của truyền thống, đã được Công đồng Vaticano II giải thích cách có thẩm quyền. Ngài đã sửa đổi Bộ Giáo luật Tây phương và Đông phương, cũng như đã thiết lập thêm các cơ chế mới và cải tổ Giáo triều Roma.

Đức Gioan Phaolô II, như một Tiến sĩ, đã xuất bản 5 cuốn sách: “Bước qua ngưỡng cửa Hy vọng” (tháng 10.1994); “Hồng ân và Mầu nhiệm: kỷ niệm 50 linh mục” (tháng 11.1996); “Trittico romano” – những bài suy niệm dưới hình thức thơ văn (tháng 3.2003); “Hãy đứng dậy, chúng ta cùng đi!” (tháng 5.2004); “Ký ức và Căn tính” (tháng 2.2005).

Ngài qua đời tại Vatican ngày 02.04.2005, lúc 21:37 (gần hết ngày thứ Bảy, bước vào Ngày  Chúa nhật Lòng Chúa Thương Xót).

Từ chiều hôm ấy cho đến lễ an táng của ngài vào ngày 08.04, đã có hơn ba triệu khách hành hương đến Roma để kính viếng ngài, dù phải xếp hàng chờ đợi cả 24 giờ mới có thể vào được bên trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô.

Ngày 28.04 sau đó, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã miễn chuẩn thời gian chờ đợi 5 năm sau ngày qua đời để khởi sự thủ tục phong chân phước và phong thánh cho Đức Gioan Phaolô II. Thủ tục này đã được chính thức khai mở vào ngày 28.06.2005 do Đức Hồng y Camillo Ruini, Tổng Đại diện coi sóc giáo phận Roma. Và Thánh lễ phong Thánh cho ngài được cử hành vào lúc 10g hôm nay (3g chiều Việt Nam), ngày lễ Lòng Chúa Thương Xót 27.4.2014.

(hdgmvietnam.com)

+++++++++++++++++

22 Tháng Mười

Hòn Vọng Phu 

Giữa Nha Trang và Tuy Hòa, khoảng xa lộ 21 và sông Hinh, gần quận Khánh Dương có một ngọn núi tên là Vọng Phu, có nghĩa là trông đợi chồng.

Theo tục truyền trong dân gian thì thuở xưa có một gia đình sống hạnh phúc ở gần chân núi. Khi giặc giã nổi lên ở biên thùy, người chồng theo lệnh vua, tòng quân ra ngoài biên ải để chống quân thù, để lại người vợ trẻ và đứa con đang còn bú mớm. Người vợ trẻ ở nhà chờ chồng, mỗi ngày bế con trèo lên ngọn núi ngóng về phía biên cương xem có dáng chồng trở về hay không. Thời gian trôi qua nhưng đoàn quân chưa thấy về, người vợ và đứa con chờ đợi mãi hóa thành đá. Người đời biết chuyện nên gọi đó là Hòn Vọng Phu.

Có lẽ đây chỉ là một ngọn núi được cấu tạo bởi nhiều loại đá khác nhau. Theo thời gian, mưa gió sói mòn loại đá mềm, để lại hình dạng mường tượng như một người bồng con ngồi trông ra phía biển. Người dân ta đa sầu đa cảm, lại thêm cảnh nước luôn loạn ly, đã mượn hình dạng của núi để diễn tả tâm sự trông đợi chồng của người thiếu phụ Việt Nam.

Ðiều làm cho xao xuyến cảm động ở đây là lòng chung thủy của một thiếu phụ, dù đói no, đau yếu hay mạnh khỏe, vẫn trước sau một lòng thương yêu chồng, xem chồng như là lẽ sống của cuộc đời.

Rung động trước dạ trung kiên của người thiếu phụ Việt Nam qua hình ảnh Hòn Vọng Phu, chúng ta không khỏi không cảm động trước Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Dù núi dời, dù đồi chuyển, dù con người có bội bạc phôi pha, Thiên Chúa vẫn luôn chung thủy trong Tình Yêu của Người. Càng thấm thía tình thương của Chúa, chúng ta càng cảm thấy Người là lẽ sống và là tất cả của cuộc sống.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Năm Tuần 29 TN2

Bài đọc: Eph 3:14-21; Lk 12:49-53.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Hiểu biết tình yêu của Đức Kitô

Chia rẽ xảy ra ở khắp nơi trên địa cầu: trong gia đình, ngòai xã hội, giữa các quốc gia, và giữa con người với Thiên Chúa. Nguyên nhân của chia rẽ là thiếu hiểu hay hiểu biết sai. Hậu quả của chia rẽ là ngăn cách và hận thù.

Làm sao để hàn gắn chia rẽ? Phúc Âm dạy con người phải hiểu biết và sống theo sự thật. Bài đọc I dạy: Con người phải cảm ngiệm được tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình qua Đức Kitô trong Mầu Nhiệm Cứu Độ của Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Tình thương của Thiên Chúa vượt quá sự hiểu biết của con người.

1.1/ Tình yêu Thiên Chúa: Để hiểu lý do tại sao Thánh Phaolô tạ ơn Chúa và xin ơn cho các tín hữu của Ngài, chúng ta cần đi trở lại để xem những gì Dân Ngọai không có trước khi Chúa Giêsu đến và những gì Dân Ngọai được hưởng sau khi họ thú nhận niềm tin vào Chúa Giêsu:

(1) Tình yêu của Chúa Cha được biểu lộ cách chung qua việc tạo dựng và quan phòng mọi sự trong trời đất, cách riêng trong Mầu Nhiệm Cứu Độ. Nhờ Đức Kitô, mọi người đều được đặc quyền gọi Thiên Chúa là Cha, và xứng đáng lãnh nhận mọi ơn lành cần thiết.

(2) Tình yêu của Chúa Thánh Thần: Không chỉ ban Đức Kitô cho con người, Thiên Chúa còn ban Thánh Thần để giúp con người tin vào Đức Kitô và hiểu được những gì Người dạy dỗ. Thánh Phaolô cầu xin: “Tôi nguyện xin Chúa Cha, thể theo sự phong phú của Người là Đấng vinh hiển, ban cho anh em được củng cố mạnh mẽ nhờ Thánh Thần của Người, để con người nội tâm nơi anh em được vững vàng.”

(3) Tình yêu của Chúa Kitô: Thánh Phaolô xin 2 điều cho các tín hữu của Ngài: (1) Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; và (2): Xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái. Với sự hiện diện của Đức Kitô trong tâm hồn, các tín hữu đủ sức thấu hiểu mọi chiều kích dài rộng cao sâu của Mầu Nhiệm Cứu Độ. Với sự xây dựng vững chắc trong đức ái, các tín hữu nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Nhờ hai ơn này, các tín hữu sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.

1.2/ Tình yêu của Thánh Phaolô: Sau khi đã thấu hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ và thấm nhuần bởi tình yêu Thiên Chúa, Thánh Phaolô cầu nguyện và làm mọi cách để các tín hữu của ngài cũng hiểu được Mầu Nhiệm Cứu Độ và thấm nhuần tình yêu Thiên Chúa. Mầu Nhiệm Cứu Độ chỉ hòan tất khi tất cả mọi người đều hiểu Mầu Nhiệm Cứu Độ và đều thấm nhuần tình yêu Thiên Chúa. Khi đó, sẽ không còn chia rẽ, ngăn cách, và hận thù. Giáo Hội được Đức Kitô trao ban sứ vụ này: “Xin tôn vinh Người trong Hội Thánh và nơi Đức Kitô Giêsu đến muôn thuở muôn đời. Amen.”

2/ Phúc Âm: Sự Thật và Tình Yêu của Đức Kitô được ví như lửa ném vào mặt đất.

2.1/ “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” Lửa có ít nhất 3 công dụng: soi sáng, thanh tẩy (luyện kim), và sưởi ấm.

– Chúa Giêsu soi sáng con người bằng Lời Chúa;

– Sống Lời Chúa sẽ giúp con người thanh tẩy tất cả sai trái và tật xấu trong tâm hồn;

– Cảm nghiệm được tình thương Thiên Chúa sẽ giúp con người có sức mạnh xóa tan đi những hố sâu chia rẽ và sưởi ấm lại tình người.

Lửa mà Chúa Giêsu đã ném vào mặt đất mà muốn cho bùng lên là Sự Thật và Tình Yêu của Thiên Chúa. “Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” Phép Rửa Chúa Giêsu đề cập đến ở đây chính là Phép Rửa bằng Máu, là Cuộc Thương Khó của Ngài. Phép Rửa này chỉ hòan tất khi Ngài giang tay chết trên Thập Giá để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.

2.2/ Thầy đến để đem sự chia rẽ? Lời tuyên bố của Chúa Giêsu sẽ làm không ít người ngạc nhiên: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban bình an cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ.” Nhiều người sẽ hỏi: “Tại sao Thiên Chúa của bình an lại đem chia rẽ?”

Bình an của Thiên Chúa khác với bình an của con người và cách để có bình an của Thiên Chúa cũng khác với cách của con người. Bình an của trái đất là bình an giả tạo vì đặt trên những hiểu biết của con người; và chiến tranh có thể tái phát bất cứ lúc nào nếu có sự xung đột giữa những hiểu biết của con người. Thiên Chúa ban bình an cho con người không theo kiểu của thế gian: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Jn 14:27). Bình an của Thiên Chúa chỉ thực sự có được khi mọi người nhận ra sự thật trong Mầu Nhiệm Cứu Độ và tình thương của Thiên Chúa dành cho con người.

Vì sự thật của Thiên Chúa khác với sự thật của con người nên những lời dạy của Chúa Giêsu sẽ tạo nên sự chia rẽ: có những người tin vào Lời Chúa giảng dạy như các Tông Đồ và môn đệ; có những người sẽ phản đối và không tin như một số Kinh-sư, Biệt-phái, và Luật-sĩ. Hậu quả là họ tìm cách để tiêu diệt Chúa và các Tông Đồ. Cũng vậy, khi Lời Chúa được gieo trong cùng một mái nhà: sẽ có những người trong gia đình tin; sẽ có những người không tin. Hậu quả là gia đình sẽ chia rẽ. Nhưng nếu mọi người trong gia đình đều nhận ra sự thật và tin vào Lời Chúa, lúc ấy gia đình mới thực sự có bình an, và không một quyền lực nào có thể phá tan sự bình an đích thực này.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Đức Kitô là nguồn mạch bình an. Ngài đến để hòa giải con người với nhau và với Thiên Chúa. Sự hiểu biết và tình yêu con người dành cho Đức Kitô sẽ giúp xóa tan mọi khác biệt và giúp con người hòa giải với nhau và trở nên một trong thân thể của Đức Kitô.

– Bình an của Thiên Chúa khác với bình an của con người. Bình an đích thực chỉ có được khi con người nỗ lực tìm kiếm sự thật nơi Thiên Chúa: Kế Họach Cứu Độ và tình thương của Thiên Chúa dành cho con người.

– Đức Kitô đã ném lửa của sự thật và của tình yêu vào trong trái đất và Ngài muốn làm cho lửa này cháy bùng lên. Để có bình an thực sự trên trong gia đình cũng như trên địa cầu, mọi người chúng ta cần cộng tác với Thiên Chúa bằng việc rao giảng Lời Sự Thật và mang tình yêu Thiên Chúa đến cho mọi người. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************