Ngày thứ sáu (11-10-2024) – Trang suy niệm

10/10/2024

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Sáu XXVII Thường Niên

BÀI ĐỌC I: Gl 3, 7-14

“Những ai cậy dựa vào đức tin, sẽ được chúc phúc với Abraham, con người tin tưởng”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, anh em hãy nhận biết rằng: những ai cậy dựa vào đức tin, thì họ là con cái của Abraham. Thực Kinh Thánh thấy trước rằng Thiên Chúa sẽ dùng đức tin làm cho các dân ngoại được công chính, nên đã tiên báo cho Abraham rằng: “Nơi ngươi tất cả dân ngoại sẽ được chúc phúc”. Vậy những ai cậy dựa vào đức tin sẽ được chúc phúc với Abraham, con người tin tưởng.

Thực ra, những người cậy dựa vào lề luật, họ mắc phải điều vô phúc, vì có lời chép rằng: “Vô phúc những ai không trung thành với những điều ghi trong Sách Luật, để thi hành những điều đó”. Đàng khác, không ai được công chính hoá trước mặt Chúa bởi lề luật, đó là điều hiển nhiên, vì lẽ rằng: “Người công chính sẽ sống bởi đức tin”. Lề luật không căn cứ ở đức tin, nhưng là “Ai thực hành những khoản ấy, sẽ nhờ đó mà được sống”.

Đức Kitô đã cứu chuộc chúng ta khỏi điều vô phúc của lề luật, bởi Người đã vì chúng ta, biến thành điều vô phúc, như lời chép rằng: “Hễ ai bị treo trên cây gỗ, đều là vô phúc”, để phúc lành của Abraham được chuyển tới các dân ngoại trong Đức Giêsu Kitô, hầu chúng ta nhờ đức tin mà lãnh nhận Thánh Thần Chúa đã hứa”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 110, 1-2. 3-4. 5-6

Đáp: Cho tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 5b).

1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi!

2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Người muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Đấng nhân hậu từ bi.

3) Chúa đã ban lương thực cho những ai tôn sợ Người, cho tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước. Chúa tỏ cho dân Người thấy công cuộc quyền năng của Người, hầu ban cho họ được phần sản nghiệp của chư dân.

ALLELUIA: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! – Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân danh Chúa mà đến! Bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời! – Alleluia.

PHÚC ÂM: Lc 11, 15-26

“Nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, (lúc Chúa Giêsu trừ quỷ), thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: “Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ”. Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống.

Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: “Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.

“Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tán hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.

“Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: ‘Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi’. Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước”. Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

11/10/2024 – THỨ SÁU TUẦN 27 TN

Th. Gio-an XXIII, giáo hoàng

Lc 11,15-26

TRƯỚC NHỮNG NGƯỜI ĐỘC MIỆNG

“Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.” (Lc 11,20)

Suy niệm: Gán những phép lạ tốt lành Chúa Giê-su thực hiện cho chúng có nguồn gốc từ quỉ Bê-en-dê-bun, đó quả là một lời xuyên tạc hiểm độc. Đối lại, Chúa Giê-su cho thấy không có gì phải làm ầm ĩ. Một cách bình thản, Ngài đưa ra những lập luận lành mạnh và vững chắc để bẻ gãy những lời nguỵ biện kia: “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn… Nếu Xa-tan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?” Nhưng ở đây, phản bác những lời xuyên tạc kia chưa phải là mối bận tâm lớn nhất của Chúa, trọng tâm duy nhất của Ngài đó là loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa: “Nếu tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông.”

Mời Bạn: tự kiểm điểm chính mình: Tôi có cái nhìn đầy thành kiến “trông cò ra quạ”, nhìn những dấu chỉ của Nước Thiên Chúa mà lại kết luận là biểu hiện của quỷ Bê-en-dê-bun hay không? Tôi có xu hướng xét đoán ý xấu cho người khác không? Mặt khác, tôi đã phản ứng thế nào khi làm điều tốt mà lại bị người khác công kích, xuyên tạc?

Sống Lời Chúa: Nhìn ngắm thật kỹ mẫu gương của Chúa Giê-su hôm nay để cố gắng bắt chước Ngài. Mỗi khi tôi định nói xấu về ai hoặc tôi bị ai nói xấu hãy nhớ lại thái độ này của Chúa và xin ơn bắt chước Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã biến tội lỗi chúng con thành dịp để ban cho chúng con điều tốt đẹp nhất, đó là ơn cứu độ. Xin giúp con biết bắt chước Chúa để con có thể khám phá những điều tốt đẹp, những điểm tích cực nơi anh em con. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm

Nếu đời người là một cuộc chiến đấu không ngừng
thì Đức Giêsu khi sống ở đời, cũng không tránh khỏi cuộc chiến ấy.
Cha sai Ngài đến để khai mở Nước Thiên Chúa trên trần gian.
Để làm việc đó, Nước của Xatan cần bị triệt tiêu.
Cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và Xatan là điều không tránh khỏi.

Ngay trước khi bắt đầu sứ vụ,
Đức Giêsu đã phải đối diện với những mồi chài khôn khéo của Xatan.
Và Ngài đã thắng, đã bắt Xatan phải xéo đi cho khuất mắt (Mt 4, 10).
Khi làm việc Cha giao, khi gần gũi với con người,
Đức Giêsu thấy rất rõ sự hiện diện đầy quyền lực của tên tướng quỷ.
Xatan và Nước của nó chi phối và tác động trên con người.
Đức Giêsu là Đấng giải phóng con người khỏi nô lệ bởi Xatan.
Một công việc không ai chối cãi được của Ngài là trừ quỷ.

Nhưng có nhiều cách giải thích chuyện trừ quỷ của Ngài.
Có người coi Đức Giêsu đã trừ quỷ dựa vào thế lực của Bêendêbun.
Bêendêbun là một vị thần xứ Canaan, ở đây được coi là Xatan.
Không thể nào tướng quỷ lại giúp Ngài diệt các quỷ nhỏ của hắn.
Nếu thế Nước của Xatan chẳng thể nào tồn tại đến nay (c. 18).
Đức Giêsu khẳng định mình dùng ngón tay Thiên Chúa để trừ quỷ (c. 20).
Chỉ cần chút quyền năng Thiên Chúa cũng đủ để xua đuổi ác thần,
và khai mở Nước Thiên Chúa giữa lòng thế giới.

Chúng ta thường quên Xatan là nhân vật có thật và hùng mạnh,
có vũ trang đầy đủ để canh giữ lâu đài của hắn cho an toàn (c. 21).
Nhưng Đức Giêsu chính là người hùng mạnh hơn và thắng được hắn.
Ngài có khả năng tước vũ khí và phân chia chiến lợi phẩm (cc. 21-22).
Cuộc chiến của Đức Giêsu chống lại Ác thần vẫn còn kéo dài đến tận thế.
Có những lúc chúng ta tưởng Xatan là kẻ hùng mạnh hơn,
và dường như thế giới nằm dưới móng vuốt của hắn.
Nhưng chiến thắng cuối cùng thuộc về Đức Giêsu, khi Ngài quang lâm.

Chúng ta không đứng ngoài cuộc chiến giữa Đức Giêsu với Xatan.
Chúng ta cùng chiến đấu với Giêsu cho một thế giới không còn tội ác,
một thế giới không còn bạo lực, bất công, thất vọng, muộn phiền,
một thế giới không còn khổ đau, bệnh tật, đói nghèo, mất hướng.
Đứng hẳn về phía Giêsu, đi với Giêsu, thu góp với Giêsu:
đó là chọn lựa của người Kitô hữu (c. 23).
Ngay cả khi đã trục xuất được quỷ dữ khỏi đời mình,
và khi ngôi nhà đời mình đã được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi,
ta cũng phải hết sức cảnh giác, vì có nguy cơ quỷ trở lại.
Sự trở lại này có thể còn kinh khủng hơn trước (c. 26).
Có vẻ quỷ thích ở lại với con người hơn là lang thang nơi hoang mạc,
nên căn nhà tâm hồn của chúng ta cần được bảo vệ bằng lũy hào Lời Chúa.
Xin Đức Giêsu dạy chúng ta biết cách nhận diện kẻ thù,
biết cách đuổi Xatan ra khỏi đời mình và ngăn không cho nó trở lại.

Cầu nguyện

Lạy Cha từ ái,
đây là niềm tin của con.
Con tin Cha là Tình yêu,
và mọi sự Cha làm đều vì yêu chúng con.
Cả những khi Cha mạnh tay cắt tỉa,
cả những khi Cha thinh lặng hay vắng mặt,
cả những khi Cha như chịu thua sức mạnh của ác nhân,
con vẫn tin Cha là Cha toàn năng nhân ái.

Con tin Cha không chịu thua con về lòng quảng đại,
chẳng để con thiệt thòi khi dám sống cho Cha.

Con tin rằng nơi lòng những người cứng cỏi nhất
cũng có một đốm lửa của sự thiện,
được vùi sâu dưới những lớp tro.
Chỉ một ngọn gió của tình yêu chân thành
cũng đủ làm đốm lửa ấy bừng lên rạng rỡ.

Con tin rằng chẳng có giọt nước mắt nào vô ích,
thế giới vẫn tồn tại nhờ hy sinh thầm lặng của bao người.

Con tin rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về Ánh sáng.
Sự Sống và Tình yêu sẽ chiếm ngự địa cầu.

Con tin rằng dòng lịch sử của loài người và vũ trụ
đang chuyển mình tiến về với Cha,
qua trung gian tuyệt vời của Chúa Giêsu
và sức tác động mãnh liệt của Thánh Thần.

Con tin rằng dần dần mỗi người sẽ gặp nhau,
vượt qua mọi tranh chấp, bất đồng,
mọi dị biệt, thành kiến,
để cùng nắm tay nhau đi qua sa mạc cuộc đời
mà về nhà Cha là nơi hạnh phúc viên mãn.

Lạy Cha, đó là niềm tin của con.
Xin Cha cho con dám sống niềm tin ấy. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

11 THÁNG MƯỜI

Bài Sai Muôn Thuở

Lời Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta, vẫn luôn vang vọng: ”Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm Phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và này đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20).

Đó là những lời sau cùng của Chúa trước khi Ngài rời bỏ mặt đất cách hữu hình để trở về với Cha. Những lời ấy, trong sức mạnh và hiệu năng của nó, cho thấy rõ căn tính của Giáo Hội – đó là một Giáo Hội được ủy thác kho tàng sự thật và ơn cứu độ thần linh không phải để giữ cho riêng mình nhưng là để thông chia cho mọi người khác nữa. Những lời ấy của bản văn Tin Mừng theo Thánh Matthêu là hiến pháp của Giáo Hội, vì Giáo Hội, tự bản chất của mình, là một cơ chế truyền giáo.

Loan báo Tin Mừng, đó là công bố cho toàn thế giới ơn cứu độ trong Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chết và sống lại để làm Chúa của kẻ sống và người chết. Từ bối cảnh đó, chúng ta hiểu ý tưởng của Thánh Augustinô, như được Công Đồng Vatican II lặp lại: “Các Tông Đồ, là nền móng của Giáo Hội, bắt chước mẫu gương của Chúa Kitô, đã rao giảng lời chân lý và xây dựng các giáo đoàn” (AG, 1).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 11/10

Thánh Gioan XXIII Giáo hoàng

Gl 3, 7-14; Lc 11, 15-26.

Lời Suy Niệm: Bấy giờ Đức Giêsu trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi, thì người câm nói được. Đám đông lấy làm ngạc nhiên. Nhưng trong số đó có mấy người lại bảo: “Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-en-dê-bun mà trừ quỷ.” (Lc 11,14-15).

          Khi Chúa Giêsu trừ một tên quỷ, và nó là quỷ câm. Khi quỷ xuất rồi thì người câm nói được, đã làm cho đám đông ngạc nhiên, trong lúc đó lại có một số người cho là Chúa Giêsu dựa thế quỷ vương. Đó là những kẻ thường chống đối sự hiện diện và giáo huấn của Chúa Giêsu, nên họ đã xuyên tạc việc làm và quyền năng của Người.

          Lạy Chúa Giêsu, trong xã hội chúng con đang sống, cũng lắm điều chân lý, sự thật cũng bị xuyên tạc. Xin cho chúng con biết vâng nghe những giáo huấn của Giáo Hội để nhận ra mà trung thành với chân lý và sự thật. Amen.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 11/10: Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII

Lễ nhớ không buộc

Đức Gioan XXIII, sinh tại làng Sotto il Monte, thuộc tỉnh Bergamo, vào ngày 25.11.1881, con trai đầu của ông Giovanni Battista Roncalli và bà Marianna Mazzola.

Ngay buổi chiều hôm đó, trẻ sơ sinh được rửa tội, lấy tên là Angelo Giuseppe, người đỡ đầu là ông Zaverio Roncalli, một trong những người bác của ông bố Battista, rất đạo đức, ở độc thân, tự nhận lấy bổn phận dạy giáo lý cho nhiều đứa cháu. Sau này, Đức Gioan XXIII đã cảm động nhớ lại nhiều kỷ niệm và biết ơn về những lo lắng chăm sóc của ông.

Ngay từ thời thơ ấu, đã có một khuynh hướng nghiêm chỉnh về đời sống Giáo hội, nên sau khi học học bậc tiểu học, cậu chuẩn bị vào chủng viện giáo phận nhờ sự trợ giúp học thêm tiếng Ý và tiếng Latinh của một số linh mục trong khi theo học tại một trường có uy tín của Celana. Ngày 07.11.1892, cậu gia nhập chủng viện Bergamo, nơi đó cậu được xếp vào năm thứ ba của bậc trung học. Sau một khởi đầu khó khăn vì chưa được chuẩn bị đầy đủ, cậu tiến nhanh trong việc học tập và huấn luyện thiêng liêng, nhờ đó các bề trên đã chuẩn nhận trước khi kết thúc năm thứ mười bốn để thầy được lãnh nhận chức cắt tóc. Sau khi hoàn tất tốt đẹp năm thứ hai của thần học vào tháng Bảy năm 1900, thì vào tháng Giêng năm sau, thầy được gửi về Roma vào chủng viện Apollinare, nơi có một số học bổng cho hàng giáo sĩ thuộc giáo phận Bergamo. Tuy phải thi hành nghĩa vụ quân sự tại Bergamo từ ngày 30 Tháng 11/1901, việc huấn luyện chủng sinh cũng đặc biệt mang lại kết quả tốt đẹp.

Ngày 13 tháng 7 năm 1904, khi còn rất trẻ, mới hai mươi tuổi rưỡi, thầy đậu tiến sĩ thần học. Với sự nhận xét đặc biệt của các bề trên, ngày 10 tháng 8 năm 1904, thầy được thụ phong linh mục trong nhà thờ Đức Maria di Monte Santo; ngài cử hành Thánh Lễ đầu tiên vào ngày hôm sau trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô, dịp này ngài quyết tâm tận hiến hoàn toàn cho Chúa Kitô và hết lòng trung thành với Giáo hội. Sau một thời gian ngắn về nghỉ tại quê nhà, vào tháng Mười, ngài bắt đầu theo học giáo luật tại Rôma, và rồi phải nghỉ học vào tháng Hai năm 1905, khi ngài được chọn làm thư ký của Giám Mục mới của giáo phận Bergamo, Đức cha Giacomo Radini Tedeschi. Mười năm làm việc hết mình bên cạnh một giám mục có thẩm quyền, rất năng động và đầy sáng kiến, giúp cho giáo phận Bergamo trở nên một mô hình cho Giáo Hội Ý.

Ngoài nhiệm vụ thư ký, ngài còn kiêm nhiệm nhiều công việc khác. Từ năm 1906, ngài còn đảm nhiệm giảng dạy nhiều môn học trong chủng viện: lịch sử giáo hội, giáo phụ và biện giáo; từ 1910, ngài cũng phụ trách môn thần học cơ bản. Ngoại trừ khoảng thời gian ngắn ngưng nghỉ, ngài vẫn tiếp tục làm những công việc đó đến năm 1914. Việc học hỏi về lịch sử đã giúp ngài viết một số nghiên cứu lịch sử địa phương, như xuất bản những chuyến viếng thăm mục vụ của thánh Carlo Bergamo (1575), một nỗ lực trong nhiều thập kỷ dài và tiếp tục cho đến những ngày trước cuộc bầu cử Giáo hoàng. Ngài cũng là chủ nhiệm tờ báo định kỳ của giáo phận “La Vita Diocesana” và kể từ năm 1910, ngài làm trợ úy cho Liên hiệp những Phụ nữ Công giáo.

Cái chết bất ngờ của Đức Giám mục Radini năm 1914 chấm dứt một kinh nghiệm mục vụ tuyệt vời của ngài, mặc dù gặp một vài đau khổ chẳng hạn như những lời buộc tội vô căn cứ chống lại ngài từ chủ nghĩa hiện đại, vị Giáo hoàng tương lai Gioan XXIII luôn xem như điểm quy chiếu chính qua các công việc được trao phó theo từng giai đoạn. Chiến tranh bùng nổ vào năm 1915, ngài làm tuyên úy hơn ba năm với cấp bậc trung sĩ trong việc chăm sóc thương binh tại các bệnh viện ở Bergamo, và ngài đã có những việc làm rất anh hùng. Vào tháng Bảy năm 1918, ngài sẵn sàng phục vụ cho những người lính bị bệnh lao, dù biết rằng có nguy cơ bị lây nhiễm.

Hoàn toàn bất ngờ với lời mời của Đức Giáo hoàng về phụ trách công việc của Bộ Truyền giáo tại Ý, trong khi ở Bergamo. ngài mới bắt đầu kinh nghiệm Nhà sinh viên, một nơi vừa nội trú, vừa học viện, và đồng thời ngài cũng làm linh hướng trong chủng viện. Sau nhiều do dự, ngài đã nhận lời và bắt đầu công việc cách thận trọng và tế nhị đối với những liên hệ với các tổ chức truyền giáo đã có. Ngài đã thực hiện một chuyến đi lâu dài ra ngoại quốc để thi hành kế hoạch của Tòa Thánh nhằm mang về Roma những tổ chức khác nhau để hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo và viếng thăm một số giáo phận Ý để quyên góp nguồn tài trợ và giải thích về công việc mà ngài đang phụ trách.

Vào năm 1925, với sự bổ nhiệm làm Visitatore Apostolico tại Bulgaria, ngài đã bắt đầu giai đoạn phục vụ cho ngành ngoại giao của Tòa Thánh cho đến năm 1952. Sau lễ phong chức giám mục diễn ra tại Rome vào ngày 19 tháng 3 năm 1925, ngài khởi hành đi Bulgaria với nhiệm vụ giúp đỡ cho cộng đoàn Công giáo nhỏ bé và đang gặp nhiều khó khăn tại đó. Khởi đầu công việc và tiếp tục cả hàng chục năm, Đức cha Roncalli đã đặt nền móng cho việc thiết lập một Tông tòa mà ngài đã được bổ nhiệm làm vị đại diện đầu tiên vào năm 1931. Tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng ngài đã tái tổ chức được Giáo Hội Công giáo, phục hồi được mối quan hệ thân thiện với Chính phủ và Hoàng gia Bulgaria, mặc dù có đôi chút trở ngại vì đám cưới theo nghi lễ chính thống của vua Boris với công chúa Giovanna của hoàng gia Savoia, và đó cũng là dịp để khởi động những mối quan hệ đại kết đầu tiên với Giáo hội Chính thống Bulgaria. Vào ngày 27 tháng 11.1934, ngài được bổ nhiệm làm Khâm sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp, các nước này chưa có quan hệ ngoại giao với Vatican. Khác với Hy Lạp, nơi mà Đức Roncalli không mang lại một kết quả nào đáng kể, trái lại quan hệ với chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ dần dần có được một sự hiểu biết và sẵn sàng thể hiện được nhờ việc đón nhận những đường lối chính trị độc lập với tôn giáo của chính phủ. Với tính nhạy bén và năng động của mình, ngài đã tổ chức được một vài lần gặp gỡ chính thức với Đức Thượng phụ Constantinople, đó là những lần đầu tiên sau nhiều thế kỷ tách biệt với Giáo hội Công giáo.

Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, ngài đã giữ được một thái độ thận trọng của tính trung lập, nhờ vậy ngài mới thực hiện được một công việc thật hữu hiệu, là giúp cho cộng đoàn Do Thái, cả hàng ngàn người, khỏi bị diệt chủng, và giúp cho người Hy Lạp thoát khỏi nạn đói.

Thật bất ngờ với quyết định của Đức Piô XII, ngài được bổ nhiệm về làm Khâm sứ tại Paris, nơi ngài đặt chân đến với nhiều lo lắng vào 30 tháng 12 năm 1944. Một hoàn cảnh khá phức tạp đang chờ đợi ngài. Chính phủ lâm thời đòi phải thoái vị ba mươi giám mục, bị buộc tội hợp tác với chính phủ Vichy. Nhờ sự bình tĩnh và linh động của vị tân sứ thần, chỉ có ba vị bị bãi nhiệm. Phẩm chất con người của ngài đã mang lại sự kính nể trong bối cảnh ngoại giao và chính trị tại Paris, nơi mà Ngài đã thiết lập được những mối quan hệ thân thiện với một số chính khách của chính phủ Pháp. Hoạt động ngoại giao của ngài cũng mang một ý nghĩa mục vụ rõ ràng qua các lần viếng thăm tại nhiều giáo phận của nước Pháp, kể cả nước Algeria.

Tiếng vang và lòng nhiệt thành tông đồ của Giáo hội Pháp, qua kinh nghiệm của các linh mục thợ, làm cho Đức Roncalli phải chú ý như một nhà quan sát thận trọng và khôn ngoan, ngài cho rằng cần phải có một thời gian để xem xét trước khi có quyết định dứt khoát.

Với lối sống vâng phục của mình, ngài đã sẵn sàng vâng theo lời đề nghị thuyên chuyển về Venice, nơi ngài đã đến nhậm chức vào ngày 5 tháng 3 năm 1953, lúc mới được nâng lên tước vị Hồng y theo quyết định trong Công Nghị cuối cùng của Đức Piô XII. Thời gian làm giám mục của ngài được mọi người biết đến qua những nỗ lực làm việc và hoàn thành nhiệm vụ giám mục cách tốt đẹp như thăm viếng mục vụ và cử hành Công nghị giáo phận. Việc ôn lại lịch sử tôn giáo của Venezia giúp ngài thêm những sáng kiến mục vụ mới, chẳng hạn như kế hoạch làm cho các tín hữu gần gũi với Kinh Thánh, làm việc theo gương của vị giáo chủ kỳ cựu, thánh Lorenzo Giustiniani, mà ngài đã long trọng cử hành việc tưởng nhớ trong năm 1956.

Việc bầu một vị Giáo hoàng bảy mươi bảy tuổi vào ngày 28 tháng 10.1958, đó là Đức Hồng y Roncalli, kế vị Đức Piô XII, làm nhiều người nghĩ rằng đây chỉ là một triều đại chuyển tiếp. Nhưng ngay từ đầu, Đức Gioan XXIII đã chứng tỏ một lối sống đầy nhân bản và con người linh mục của mình đã chín muồi qua những kinh nghiệm ý nghĩa. Ngoài việc khôi phục lại các hoạt động đúng đắn trong các cơ quan của giáo triều, ngài còn hết lòng cho công việc mục vụ theo sứ mạng của mình, bằng cách nhấn mạnh đến bản chất giám mục với tư cách là Giám Mục Rôma. Xác tín rằng việc quan tâm trực tiếp đến giáo phận là một phần thiết yếu của sự vụ Giáo hoàng, nên ngài dành nhiều thời gian gặp gỡ các tín hữu qua việc viếng thăm các giáo xứ, bệnh viện và nhà tù. Qua việc triệu tập Công nghị giáo phận, ngài muốn bảo đảm chức năng hoạt động của các cơ cấu giáo phận bằng cách tăng cường các giáo hạt và bình thường hóa đời sống giáo xứ.

Sự đóng góp lớn nhất của Đức Gioan XXIII, chắc chắn là việc triệu tập Công đồng Vatican II, được loan báo trong Vương cung Thánh đường Thánh Phaolô vào ngày 25 tháng 01.1959. Đó là một quyết định mang tính cách cá nhân của Đức Giáo hoàng sau khi tham khảo ý kiến với một số vị thân cận và với vị Quốc vụ khanh, là Đức Hồng y Tardini. Các mục tiêu ban đầu của Công đồng được nêu rõ trong bài phát biểu vào lễ khai mạc ngày 11 tháng mười năm 1962: không phải là để xác định những chân lý mới, nhưng để xác định lại các học thuyết truyền thống phù hợp hơn với sự nhạy cảm hiện thời. Trong chiều hướng nhằm có được một sự cập nhật về tất cả đời sống của Giáo hội, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã mời gọi hướng về lòng thương xót và ủng hộ việc đối thoại với thế giới, hơn là lên án và phản đối trong một nhận thức mới về sứ mệnh của Giáo Hội, đón nhận tất cả mọi người. Trong tinh thần cởi mở phổ quát ấy, không thể loại trừ các giáo hội Kitô khác, họ cũng được mời tham dự vào Công đồng để khởi đầu một tiến trình xích lại gần nhau hơn. Trong giai đoạn đầu tiên, người ta có thể nhận thấy rằng Đức Gioan XXIII muốn một Công đồng có tranh luận thật sự, biết tôn trọng các quyết định sau khi mọi tiếng nói đã được trình bày và thảo luận.

Vào mùa xuân năm 1963, ngài được trao giải thưởng Balzan về hòa bình, chứng tỏ những việc làm của ngài đối với hòa bình qua việc ban hành Thông điệp Mater et Magistra (1961) và Pacem in Terris (1963), cũng như việc nhất quyết can thiệp của ngài nhân cuộc khủng hoảng tại Cuba vào mùa thu năm 1962. Uy tín và sự ngưỡng mộ chung, người ta có thể thấy được trong những tuần lễ cuối đời ngài khi cả thế giới đều lo lắng hướng về quanh ngài lúc hấp hối và đau buồn nhận tin ngài qua đời vào tối ngày 3 tháng 6 năm 1963.

Phòng Báo chí Tòa Thánh

Linh mục Augustinô chuyển ngữ

Nguồn: tonggiaophanhanoi.org

+++++++++++++++++

11 Tháng Mười

Một Cách Truyền Giáo

Tuần báo Midnight-Globe xuất bản tại Hoa Kỳ, gần đây có thuật lại một phương thức làm việc tông đồ của một tín hữu Kitô như sau: mỗi ngày, trừ ngày Chúa Nhật, ông Jewel Pierce đều ra bờ sông Coosa, gần chỗ ông ở, tại bang Alabama. Ông ném xuống sông hai chai không, trong đó ông để một mảnh giấy ghi lại một câu kinh thánh nói về tình thương, hay một sứ điệp tương tự, kèm theo đó là lời đề nghị sẵn sàng giúp đỡ tất cả những ai cần đến sự giúp đỡ của ông về tinh thần cũng như vật chất. Những chai không đó được bít kín lại và theo dòng sông chạy ra biển khơi cách đó 15 cây số.

Trong vòng 40 năm, ông Jewel Pierce đã gửi đi được 27,000 sứ điệp tình thương Kitô như thế, kèm theo địa chỉ của ông. Ðã có hơn 2,000 người thuộc 30 quốc gia khác nhau đã viết thư trả lời và rất nhiều người đã đọc được những lời đầy hy vọng của sứ điệp Kitô.

Một vị giám mục Việt Nam đã thuật lại chứng từ sau đây. Tại một làng nhỏ ở miền thượng du Bắc Việt, toàn dân làng là người Công Giáo, nhưng từ 20 năm qua, họ không có linh mục coi sóc. Dù vậy, các tín hữu vẫn tổ chức các buổi đọc kinh và hát thánh ca tại nhà thờ. Ðây cũng là nơi họ tổ chức các lễ cưới và rửa tội một cách trọng thể. Dù gặp nhiều khó khăn, nhưng dân làng vẫn sống trong an vui và bình thản.

Tiếng đồn về niềm vui của dân làng này đến tai một làng sơn cước. Do đó, dân làng sơn cước này yêu cầu những người Công Giáo cho người đến dạy họ các bài kinh và thánh ca để họ cũng tìm được niềm vui.

Nhưng dân làng Công Giáo không tìm được ai: người lớn thì phải đi làm việc đồng áng, trẻ em thì phải đi học, còn người già cả thì không đủ sức băng rừng leo núi để đến giúp người sơn cước. Chỉ có một người thuộc kinh bổn, thánh ca và biết các nghi thức tôn giáo. Người đó lại là một người mù.

Sau khi bàn bạc với nhau, dân làng sơn cước đã đồng ý sai người dẫn hai con ngựa đi rước người mù. Người tín hữu tàn tật này đã ở lại với dân làng 4 tháng. Cứ mỗi tối, sau khi làm việc trở về, dân làng tụ họp với nhau, nay nhà này, mai nhà khác, để tập đọc kinh và hát thánh ca. Sau một thời gian, người giảng viên giáo lý mù khảo sát và làm phép rửa cho người dân làng đầu tiên. Và người tân tòng này lại rửa tội cho những người khác và cứ như thế cho đến người cuối cùng.

Phương pháp làm việc tông đồ của làng Công Giáo trên đây là phương pháp đơn sơ, nhưng cốt yếu của Kitô giáo: đó là rao giảng bằng chính chứng từ của cuộc sống, nhất là cuộc sống an bình và vui tươi

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Sáu – Tuần 27 – TN2 – Năm Chẵn

Bài đọc: Gal 3:7-14; Lk 11:15-26.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Nên công chính nhờ đức tin

Làm sao con người có thể trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa là trọng tâm của Thư gởi tín hữu Galat. Đối phương của thánh Phaolô cho rằng con người có thể trở nên công chính bằng việc giữ trọn vẹn các Lề Luật. Thánh Phaolô cho rằng con người chỉ có thể trở nên công chính bằng đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Hiểu câu trả lời của thánh Phaolô rất cần cho sự đối thọai giữa Kitô Giáo và Do Thái Giáo cũng như Hồi Giáo.

Chỉ có Thiên Chúa và những ai Thiên Chúa ban cho mới có quyền trên quỷ. Chúa Giêsu trừ quỷ bằng ngón tay của Thiên Chúa. Điều này chứng minh cho mọi người thấy Ngài là Thiên Chúa; thế mà một số người lại cho Ngài nhờ thế của tướng quỷ Bêel-zebul mà trừ quỷ. Kẻ khác lại đòi thêm dấu lạ từ trời trước khi có thể tin vào Ngài.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Nên công chính nhờ đức tin

1.1/ Abraham nên công chính nhờ đức tin hay bằng thi hành những gì Thiên Chúa dạy? Đây là lý luận chính của của cả Phaolô và những người Do-Thái vì cả hai đều tin vào Abraham.

Cách tốt nhất để hiểu một nguyên tắc là xem nó áp dụng làm sao vào một người. Vì thế, thánh Phaolô hướng lòng các tín hữu Galat vào tổ phụ Abraham. Ông là người mà Thiên Chúa đã làm một lời hứa vĩ đại là qua ông tất cả các dân tộc trên địa cầu sẽ được chúc lành (Gen 12:3). Ông là người mà Thiên Chúa đã chọn cách đặc biệt là bạn tâm phúc của Ngài. Bằng cách nào Abraham đã làm hài lòng Thiên Chúa? Chắc chắn là không bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật vì ở thời gian đó chưa có Luật (Luật chỉ xuất hiện từ thời ông Môsê trở đi). Ông Abraham đã làm hài lòng Thiên Chúa bằng việc tin tưởng hòan tòan vào tất cả những gì Chúa nói với ông.

Ai là con cháu hay giòng dõi của Abraham? Người Do-Thái tin họ là giòng dõi đích thực của Abraham theo di truyền và hãnh diện vì điều này làm họ khác biệt với các Dân Ngọai. Phaolô không tin như thế, ngài tuyên bố: “Những ai dựa vào đức tin, những người ấy là con cái ông Áp-ra-ham. Đàng khác, Kinh Thánh thấy trước rằng Thiên Chúa sẽ làm cho Dân Ngoại nên công chính nhờ đức tin, nên đã tiên báo cho ông Áp-ra-ham tin mừng này: Nhờ ngươi, muôn dân sẽ được chúc phúc. Như vậy, những kẻ dựa vào đức tin thì được chúc phúc làm một với ông Áp-ra-ham, người có đức tin.” Vì thế, các tín hữu Galat là con cháu đích thực của tổ phụ Abraham vì họ đã tuyên xưng đức tin của họ vào Thiên Chúa; chứ không cần phải giữ Luật mới có thể trở thành con cháu của Abraham.

1.2/ Lề Luật đặt con người dưới lời nguyền rủa: Lý luận của Phaolô sau đây sẽ đưa đối phương vào góc tường và hết đường trốn thóat. Ngài nói: giả sử anh quyết định anh sẽ nên công chính trước mặt Thiên Chúa bằng việc giữ cẩn thận các Lề Luật của Ngài; đâu là hệ quả mà anh phải gánh chịu: Trước tiên, anh phải thực hành những gì Luật dạy; nếu không anh phải chịu các hậu quả của nó. Thứ đến, anh phải giữ tất cả những gì Luật dạy; và từ xưa tới giờ, chưa có ai dám vỗ ngực tự xưng mình đã giữ trọn vẹn tất cả mọi Lề Luật. Vì thế, “những ai dựa vào những việc Luật dạy phải làm thì đều chuốc lấy lời nguyền rủa, vì Kinh Thánh viết: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ không bền chí thi hành tất cả những gì chép trong sách Luật” (Dt 27:26).

Kinh Thánh có lời ngược lại: “Người nào mà trở nên công chính với Chúa bằng đức tin sẽ thực sự sống” (Hab 2:4). Vì thế, không ai được nên công chính trước mặt Thiên Chúa nhờ Lề Luật. Chỉ còn một cách nên công chính trước mặt Chúa là bằng con đường đức tin. Người công chính nhờ đức tin sẽ được sống. Dĩ nhiên, những ai thực hành trọn vẹn những điều Lề Luật dạy, thì nhờ đó sẽ được sống; nhưng thực tế cho thấy không ai có thể đi theo con đường ấy cả.

1.3/ Đức Ki-tô đã cứu chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa bởi Lề Luật: Vì mọi người đã vi phạm Luật, nên hậu quả là mọi người phải chết; nhưng ai có thể cứu con người khỏi chết? Đó chính là nguyên nhân tại sao Con Thiên Chúa nhập thể và chịu chết thay cho mọi người.

(1) Khi Ngài chịu treo trên Thập Giá: Đức Ki-tô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật, khi vì chúng ta chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa, vì có lời chép: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ bị treo trên cây gỗ! (Dt 21:23).

(2) Dân Ngoại cũng được hưởng phúc lành dành cho ông Abraham: Như thế, nhờ Đức Giêsu Kitô, các Dân Ngoại cũng được hưởng phúc lành dành cho tổ phụ Abraham; và để nhờ đức tin, mọi người nhận được ơn Thiên Chúa đã hứa tức là Thánh Thần.

2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu trừ quỷ bằng ngón tay Thiên Chúa.

Chứng kiến phép lạ Chúa Giêsu trừ quỷ, có 3 phản ứng của con người:

– Có mấy người vì ghen tương bảo: “Ông ấy dựa thế quỷ vương Bê-el-dê-bun mà trừ quỉ.” Đối với hạng người này, Chúa hỏi họ 2 câu: (1) Nếu Ta dựa thế quỉ vương Beelzebul mà trừ quỉ, thì con cháu các ngươi nhờ ai mà trừ quỉ; (2) Nếu Satan cũng tự chia rẽ chống lại chính mình, thì nước nó tồn tại sao được?

– Kẻ khác lại muốn thử Người, nên đã đòi Người một dấu lạ từ trời. Phép lạ Chúa làm là để khơi dậy niềm tin. Nếu đã chứng kiến phép lạ rồi mà vẫn chưa tin thì chẳng có gì bảo đảm sẽ tin khi chứng kiến phép lạ nữa. Hơn nữa, đức tin dựa trên phép lạ sẽ không bền vững.

– Đa số đám đông đều tin vào Ngài vì họ tin chỉ Thiên Chúa mới có thể làm được phép lạ như vậy.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Không một ai trong chúng ta có thể trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa bằng việc giữ cẩn thận các giới răn vì không ai có thể giữ tất cả mọi điều.

– Chúng ta chỉ có thể trở nên công chính bằng cách tin vào Chúa Giêsu Kitô, chính Ngài đã chịu chết thay cho chúng ta; và nhờ Ngài chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa và lãnh nhận mọi ơn cần thiết cho đời này và đời sau.

– Khi chứng kiến những việc kỳ diệu của người khác làm, chúng ta hãy thành thật khen ngợi tài năng của họ. Đừng để tính kiêu ngạo ghen tương làm mờ mắt khiến chúng ta khinh thường họ hay phủ nhận những gì họ đã làm.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************