Ngày thứ sáu (14-07-2023) – Trang suy niệm

13/07/2023

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Sáu tuần 14 Thường Niên – Năm A

BÀI ĐỌC I: St 46, 1-7. 28-30

“Cha chết cũng vui lòng, vì Cha đã trông thấy mặt con”.

Bài trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, ông Israel ra đi, đem theo tất cả những gì ông có và đến Giếng Thề; tại đây ông dâng hy tế lên Thiên Chúa của Isaac, cha của ông. Ban đêm trong một thị kiến, ông nghe Chúa gọi ông và nói với ông rằng: “Hỡi Giacóp, Giacóp!” Ông liền thưa: “Này con đây”. Thiên Chúa nói tiếp: “Ta là Thiên Chúa rất hùng mạnh của cha ngươi, nên ngươi đừng sợ, hãy xuống xứ Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc vĩ đại. Ta sẽ xuống đó với ngươi. Cũng chính Ta sẽ đưa ngươi trở về, (sau khi) tay Giuse đã vuốt mắt cho ngươi”. Bấy giờ Giacóp bỏ Giếng Thề mà đi: các con cái đưa ông và vợ con lên các xe Pharaon đã phái đến rước cha già và tất cả những gì ông có ở Canaan; ông sang Ai-cập với tất cả dòng dõi ông, gồm con trai, con gái và cháu chắt. Bấy giờ Giacóp sai Giuđa đi trước báo tin cho Giuse biết mà đón rước cha tại Ghêsen. Khi ông đến đó, thì Giuse thắng xe đi đón cha tại Ghêsen. Vừa thấy cha, ông ôm cổ cha mà khóc. Giacóp nói với Giuse rằng: “Cha chết cũng vui lòng, vì cha đã trông thấy mặt con và biết con còn sống”.

Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 36, 3-4. 18-19. 27-28. 39-40

Đáp: Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ (c. 39a).

1) Hãy trông cậy Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu. (2) Chúa chăm lo cho mạng sống người nhân đức, và phần gia nghiệp họ còn mãi muôn đời. Ngày tai hoạ, những người đó không tủi hổ, và trong nạn đói, họ sẽ được ăn no. (3) Hãy tránh ác và hãy làm lành, hầu được an cư tới ngàn thu, bởi vì Chúa yêu điều chân lý, và không bỏ rơi những tôi tớ trung thành. (4) Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ: trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân, Chúa bang trợ và giải thoát họ. Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người.

ALLELUIA: Tv 129, 5

All. All. – Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy vào Chúa. – All.

PHÚC ÂM: Mt 10, 16-23

“Không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con. “Anh sẽ đem nộp giết em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại với cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel cho đến khi Con Người đến”.

Đó là lời Chúa.

(Nguồn: UBPV/HĐGMVN, ấn bản 1973)

++++++++++++++++++

14/07/2023 – THỨ SÁU TUẦN 14 TN

Th. Ca-mi-lô Len-li, linh mục

Mt 10,16-23

ỨNG PHÓ NHỜ THẦN KHÍ

“Không phải anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.” (Mt 10,20)

Suy niệm: Khi xảy ra thiên tai, người dân được kêu gọi tận dụng những phương tiện tại chỗ để ứng phó hầu hạn chế thiệt hại, trong khi chờ đợi các nguồn cứu trợ từ xa. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su báo trước thân phận của các môn đệ sẽ phải đương đầu với nhiều gian nan nguy hiểm: sống giữa thế gian họ như “chiên giữa bầy sói”, họ sẽ bị bắt, bị nộp, bị đánh đập, ghét bỏ, giết chết… Chúa Giê-su dạy trong cơn bách hại, không được lo lắng, sợ sệt nhưng luôn tin tưởng vào nguồn trợ lực siêu nhiên là Chúa Thánh Thần hiện diện trong tâm hồn: “Anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, thật vậy, không phải chính anh em nói mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.” Trong cơn nguy khốn, tưởng chừng vắng bóng Thiên Chúa, nhưng chính Chúa Thánh Thần hiện diện kề bên để giúp ta ứng phó.

Mời Bạn: Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Đấng Bảo trợ là Thánh Thần ngự xuống trên các tông đồ như lời Chúa Giê-su đã hứa. Ngài đến gìn giữ, hướng dẫn, thánh hoá và canh tân Hội Thánh. Ngài cũng hoạt động nơi mỗi người chúng ta như chân phước Elena Guerra nói: “Mỗi tín hữu có thể nói: Chúa Ki-tô hứa ban Thánh Thần của Người cho tôi, thật vậy cho tôi cách riêng. Vì vậy, bao lâu tôi mong ước Chúa Thánh Thần, tôi sẽ nhận được Người. Người sẽ đến với tôi. Người sẽ ban Người cho tôi. Người sẽ ở lại với tôi.”

Sống Lời Chúa: Dừng lại giây lát trước khi làm bất cứ việc gì để cầu xin ơn Chúa Thánh Thần.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Thánh Thần, Xin biến đổi và thánh hoá con trong tình yêu và sức mạnh diệu kỳ của Chúa để con sống cho vinh quang Thiên Chúa. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm

Tháng 8 năm 2008, tại vùng Orissa ở đông bắc Ấn độ,
có một người theo chủ nghĩa dân tộc thuộc Ấn giáo, bị bắn chết.
Một tờ báo địa phương đã qui tội cho các kitô hữu.
Lập tức một làn sóng bạo động nổi lên từ những người Ấn giáo cực đoan.
Kết quả là hàng chục người chết, hàng ngàn người bị thương,
50 nhà thờ bị đốt, 4000 nhà người kitô hữu bị phá hủy,
hàng chục ngàn người không cửa không nhà, phải sống trong các trại cứu trợ.
Nhiều kitô hữu thuộc giai cấp thấp nhất trong xã hội Ấn độ,
giai cấp của những người Dalit, những kẻ bị coi là tiện dân.
Người Dalit đã bỏ Ấn giáo để theo Kitô giáo,
và họ đã lấy lại được nhân phẩm, cùng những quyền lợi về kinh tế xã hội.
Họ được giáo dục tử tế, nên giai cấp thống trị không lợi dụng họ được nữa.
Chính vì thế mà họ bị phân biệt đối xử và bị bách hại.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tiên báo về các bách hại đó.
Những gì Ngài phải chịu thì các môn đệ cũng sẽ phải chịu,
vì tôi tớ không hơn chủ, môn đệ không hơn thầy.
Hãy để ý đến những động từ nói lên nỗi thống khổ của các kitô hữu :
bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra nơi hội đường và trước mặt vua quan,
bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối cùng là bị giết, có khi bởi người nhà (c. 21).
Những điều này Đức Giêsu đều đã trải qua.
Mọi sự họ chịu đều “vì Đức Giêsu”, “vì Danh Đức Giêsu” (cc. 18. 22).
Nơi tòa án, có sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa Ba Ngôi.
“Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ nói trong anh em” (c. 20),
để giúp anh em can đảm tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, Con Cha.
Bởi đó người kitô hữu ra tòa mà lòng rất bình an, chẳng lo gì (c. 19).
Họ được Thiên Chúa dạy điều phải nói và Thần Khí nói qua miệng họ.
Với sự nâng đỡ đặc biệt ấy, họ có thể bền chí đến cùng và sẽ được cứu độ.

Các kitô hữu sẽ còn bị bách hại đến tận thế.
Họ không phải là những người thích tỏ ra mình anh hùng, đòi tử đạo.
Nhưng họ là những người khiêm tốn, khôn ngoan,
biết trốn đi thành khác khi bị bắt bớ ở thành này (c. 23).
Chịu bách hại là điều nằm trong ơn gọi của người kitô hữu,
là cái giá phải trả để sống mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô.
Ngay cả ở những quốc gia tây phương tự hào là có tự do tôn giáo,
vẫn có những kiểu bách hại ngấm ngầm và tinh vi,
khác với kiểu đòi bước qua thánh giá thời vua Minh Mạng, Tự Đức.

Sống là kitô hữu như Đức Kitô muốn đòi ta phải lội ngược dòng.
Lội ngược dòng bao giờ cũng khó và làm người khác bực bội, sợ hãi.
Làm sao để các bạn trẻ Công Giáo dám sống theo những giá trị của Giêsu ?
Làm sao để các gia đình Công Giáo không bị thói đời lôi cuốn ?

Cầu nguyện

Giữa một thế giới mê đắm bạc tiền,
xin được sống nhẹ nhàng thanh thoát.
Giữa một thế giới lọc lừa dối trá,
xin được sống chân thật đơn sơ.
Giữa một thế giới trụy lạc đam mê,
xin được sống hồn nhiên thanh khiết.
Giữa một thế giới hận thù, tuyệt vọng, dửng dưng,
xin được chia sẻ yêu thương, an bình và hy vọng.

Lạy Chúa Giêsu mến thương,
xin dạy chúng con biết cách làm chứng cho Chúa giữa cuộc đời.
Xin giúp chúng con tìm ra những cách mới để người ta tin và yêu Chúa.
Ước gì hơn hai tỷ người kitô hữu
vẫn giữ được vị mặn của muối và sức biến đổi của men,
để chúng con làm cho thế giới này mặn mà tình người,
và làm cho trần gian trở thành tấm bánh thơm ngon.
Xin cho Thiên Chúa Cha được tôn vinh
qua những việc tốt đẹp chúng con làm cho những người bé nhỏ.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

14 THÁNG BẢY

Được Trao Ban Những Ân Sủng Đặc Biệt

Được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài, con người là tạo vật hữu hình duy nhất mà Đấng Tạo Hóa “nhắm đến vì chính nó” (MV 24). Thiên Chúa – Đấng cai quản thế giới với sự khôn ngoan và quyền lực siêu việt của Ngài – trao cho con người mục tiêu để đạt đến trong cuộc sống này. Nhưng con người cũng là một cứu cánh nơi tự thân mình, không giống như các tạo vật khác. Con người cần đạt đến sự thành toàn trong tư cách là một nhân vị được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và giống như Ngài.

Được làm cho phong phú với một ân huệ đặc biệt – và cũng là một trách nhiệm – con người có quan hệ mật thiết với mầu nhiệm quan phòng thần linh. Chẳng hạn, chúng ta đọc thấy trong Sách Huấn Ca: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người… Ngài mặc cho nó sức mạnh… để chúng thống trị muông chim cầm thú. Ngài ban cho chúng trí khôn, lưỡi, mắt, tai, và trái tim để chúng suy nghĩ. Ngài làm cho chúng đầy kiến thức thông minh, tỏ cho chúng biết điều tốt điều xấu. Ngài đặt con mắt mình vào tâm hồn chúng, để chúng nhận ra các công trình vĩ đại của Ngài… Ngài còn ban kiến thức cho chúng, và cho thừa hưởng luật đem lại sự sống” (Hc 17,1.3.5-7.9).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 14-7

Thánh Camillô Lellis, linh mục

St 46, 1-7.28-30; Mt 10, 16-23.

Lời suy niệm: “Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu.”

          Mỗi Kitô hữu cần phải đặt niềm tin của mình vào sự quang phòng của Thiên Chúa. Nơi mình sinh sống và gầy dựng tương lai là do Thiên Chúa đã an bài, để giúp chúng ta nên thánh và làm chứng nhân tình thương yêu của Người với nhân loại và các tạo vật khác. Mỗi người cần phải biết mình đang ở trong thế gian, đầy những cám dỗ cần phải đề phòng và tránh xa những gì đang muốn nhận chìm chúng ta xuống bùn nhơ.

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người trong chúng con luôn được ơn khôn ngoan và hiền lành của Chúa để chúng con ngày càng được trở nên người con của Chúa ở giữa trần gian này. Amen

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 14-07: Thánh CAMILLÔ LELLIS

Linh Mục – (1550 – 1614)

Thánh Camillô Lellis là con của ông Gioan Laliis, một hiệp sĩ danh giá trong quân đội của Chales-Quint. Mẹ Ngài thuộc vào một gia đình thời danh nhất ở Neples. Từ những năm đầu thời hôn nhân, họ có được một người con, nhưng lại bị cất đi ngay, khi đứa bé còn ở trong nôi. Lúc bà Lellis 60 tuổi, sau bao lời cầu hôn khẩn thiết, bà đã sinh ra Camillô vào ngày 25 tháng 5 năm 1550. Khi đang mang thai, bà đã thấy mộng con trẻ mang trên ngực một hình thánh giá, có vô số trẻ em theo sau. Mộng thấy vậy, bà lo sợ rằng mình sẽ sinh hạ một người con làm đầu bọn cướp, Camillô mới sinh ra ít lâu thì mồ côi mẹ. Chưa được 6 tuổi, Ngài lại mồ côi cha. Do những tai họa này, việc giáo dục Camillô bi bỏ mặc.

Những buổi đầu đời của con trẻ đã chứng thực điều lo sợ của người mẹ là đúng. Camillô biếng nhác và phóng túng, lao mình vào cuộc chơi. Đến tuổi 19, Ngài theo đuổi binh nghiệp và năm năm sau Ngài xuất ngũ.

Người thanh niên này phung phí hết tài sản và lâm cảnh cùng quẫn, phải làm phụ hồ cho công trình xây cất nhà cho các cha Phanxicô. Tại Fermô, Ngài gặp hai thầy dòng và mến phục nết đạo đức khiêm tốn của hai vị. Tự đáy lòng, Camillô nguyện một ngày kia sẽ nhập dòng. Bỏ binh nghiệp, Ngài đến nhà dòng Phanxicô ở Aquila. Một người cậu của Camillô giữ cổng nhà dòng này. Camillô kể lại cho ông nghe tất cả những gì đã qua và xin được mặc áo dòng. Cha giữ cửa biết rõ quá khứ đau lòng của cháu, muốn thử thách ơn kêu gọi bất ngờ này đã từ khước trong một thời gian.

Camillô lại rơi vào cơn rối loạn. Ngài trở nên bất hạnh đến nỗi phải đi ăn xin cùng với một người lính cùng khốn khổ như Ngài. Ngày lễ thánh Anrê năm 1574, Ngài ăn xin ở cửa nhà thờ Manfredonia. Một lãnh chúa đi qua. Ong thương tình đề nghị Camillô làm việc cho nhà dòng. Camillô nhận lời, ngày kia trước lời khuyên nhủ của một cha dòng, Ngài động lòng và bật tiếng khóc.

– Lạy Chúa, thật là khốn cho con. Tại sao con biết Chúa trễ quá ? Sao con có thể giả điếc làm ngơ trước bao nhiêu lời mời gọi của Chúa như vậy được. Xin Chúa tha thứ cho con là đứa tội lỗi khốn nạn. Xin hãy cho con đủ thời gian đền bù tội lỗi của con.

Lúc đó Camillô 25 tuổi. Ngài xin nhập dòng ngày hôm đó và được nhận vào tập viện. Nhưng một mụn nhọt ở chân mở miệng, Ngài phải đi chữa trị. Lành bệnh Ngài trở lại dòng, nhưng mụn nhọt lại mở miệng. Các bác sĩ cho rằng ung nhọt này vô phương chữa trị. Ngài được nhận vào một bệnh viện nan y ở Roma. Nơi đây Camillô nhận ra ơn gọi của mình. Ngài thấy các nhân viên được trả lương như vô tâm trước nỗi đau đớn của các bệnh nhân. Ngài tận tụy phục vụ các bệh nhân ngày đêm. Ngài còn qui tụ các bạn thành một để thực hành đức ái nữa. Trên ngực họ đeo một thánh giá đỏ. Công việc nặng nề và các bạn Ngài thường tỏ ra lo lắng. Camillô nhắc cho họ lời của thánh Catarina thành Siêna:
– Hãy lo cho ta và ta sẽ lo lắng cho con.

Camillô được đặt cai quản nhà thương, lệnh Ngài đưa ra là:

– Hãy phục vụ bệnh nhân như phục vụ chính Chúa Giêsu vậy.

Để phục vụ hữu ích hơn, Ngài đã theo lời khuyên của Đức Hồng Y Taragi để tiến tới chức linh mục. Nhưng trở ngại quá lớn, vì học thức Ngài còn quá kém. Một thị kiến đã giúp Ngài can đảm thắng vượt mọi khó khăn. Ngài thấy Chúa Kitô đưa tay ra nói:
– Camillô, con đừng sợ chi, cha sẽ giúp đỡ con và ở cùng con.

32 tuổi, Ngài không mắc cỡ khi ngồi với các em nhỏ để học vần Latinh. Sự kiên trì đã giúp người kinh viện này vượt qua mọi khó khăn. Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 1584, Camillô thụ phong linh mục và dâng thánh lễ đầu tiên tại nhà thờ thánh Giacôbê. Vài tháng sau, Ngài được trao phó cho cai quản nhà thờ Đức Bà hay làm phép lạ.

Tại đây, Ngài thiết lập một tu hội. Anh em qui tụ quanh Ngài dấn thân phục vụ những người hấp hối ở bất cứ nơi nào. Họ luôn trung thành với lời khuyên của Ngài: – Hãy hồi tâm để dâng lên những lời kinh nguyện tắt và các bạn sẽ được nâng đỡ đặc biệt bên cạnh các bệnh nhân. Chớ gì họ biết cầu xin ơn tha thứ, biết dâng cái chết của họ hợp với sự chết của Chúa Giêsu Kitô và xin Người đón nhận linh hồn họ vào lòng nhân từ Người.

Năm 1586, Đức giáo hoàng Sixtô V chấp thuận chương trình của Ngài. Năm 1588, Ngài được gọi đến lập tu viện ở Nappples. Nơi đây Ngài đã thực hiện những hành vi đức ái kỳ diệu đối với các nạn nhân của một cơn dịch hạch.

Năm 1591, Đức giáo hoàng Grêgôriô XV đã nâng tu hội của Ngài thành dòng tu, ngoài ba lời khấn còn có lời khấn thứ tư là hiến thân phục vụ nhân loại đau khổ, dầu bởi bất cứ bệnh tật nào. Dòng thánh Camillô phổ biến khắp nước Ý và còn phổ biến sang cả Pháp, Tây Ban Nha.

Con người số tu sĩ và nhà dòng ngày một nhiều. Tuy nhiên, lòng tin tưởng của Camillô vào Chúa quan phòng thật vô bờ. Các chủ nợ lo âu hỏi Ngài: – Bao giờ cha mới trả hết nợ cho chúng tôi ?

Ngài trả lời: – Đừng sợ gì Thiên Chúa quyền năng không gởi cho chúng ta món tiền nào sáng mai sao ?

Các chủ nợ cười nói: – Thời phép lạ đã qua rồi.

Nhưng rồi vài ngày sau, Ngài được những túi tiền lớn đủ để trả nợ. Sự quan phòng cho thấy rằng các phép lạ có mãi cho những ai phó thác cho Chúa.

Khi tuổi cao, Camillô vẫn không giảm bớt những phục vụ bên cạnh các người đau khổ. Thấy vậy, các bệnh nhân nói: – Cha nghỉ đi kẻo té ngã mất.

Nhưng các Ngài trả lời: – Này các con, cha là nô lệ của các con, cha phải làm mọi sự có thể làm được để phục vụ các con.

Đi từ giường này tới giường khác, Ngài tự nhủ:

– Hạnh phúc tôi mong đợi lớn lao đến nỗi mọi đau khổ đều thành niềm vui của tôi.

Kiệt sức vì công việc và đau đớn, Camillô Lellis chỉ còn là một bộ xương. Khi thấy giờ chết tới gần, Ngài vui sướng:

– Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: nào ta đi về nhà Chúa.

Được đưa về phòng, Ngài còn nói trong nước mắt: – Lạy Chúa, con biết con là một tội nhân ghê gớm. Nhưng xin hãy cứu con nhờ lòng nhân lành Chúa.

Ngày 14 tháng 7 năm 1614 Camillô Lellis qua đời. Năm 1746, Đức giáo hoàng Bênêdictô đã suy tôn Ngài lên bậc hiển thánh.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

14 Tháng Bảy

Tự Do Ðích Thực 

Trong tập thơ mang tựa đề Gitanjali, thi hào Tagore đã có bài thơ về tù nhân như sau:

“Hỡi tù nhân, hãy nói cho ta hay ai đã xiềng xích ngươi. Tù nhân đáp, thưa chính là chủ tôi. Tôi đã muốn thắng vượt mọi người, bằng của cải và quyền lực, cho nên tôi đã vơ vét vào kho tàng của tôi tất cả tiền bạc của chủ. Mệt mỏi vì cuộc chạy đua theo tiền của tôi, cuối cùng tôi đã thiếp ngủ ngay trên chính giường của chủ tôi. Khi thức dậy, tôi thấy mình đã bị giam hãm ngay trên kho tàng của tôi.

Hỡi tù nhân, hãy nói cho ta hay ai đã rèn chiếc xích sắt này cho ngươi. Tù nhân đáp: tôi đã muốn giam hãm tất cả thế giới, vì như thế tôi sẽ được tự do và không còn ai quấy rầy. Ngày đêm, tôi đã dùng lửa, búa và chiếc dũa để rèn sợi xích này. Khi nó được hoàn thành, và chiếc mốc cuối cùng được nối lại, tôi đã để cho sợi xích giam hãm cả cuộc đời của tôi, khiến không có gì bẻ gãy được”.

Năm 1989, nước Pháp đã mừng kỷ niệm 200 năm cuộc cách mạng 1789. Cùng với việc lật đổ chế độ quân chủ, bản tuyên ngôn nhân quyền được công bố ngày 04 tháng 8 năm 1789 đã đánh dấu một bước dài của nhân loại tiến đến tự do, dân chủ.

Nhưng oái oăm thay, người ta đã nhân danh tự do để chống lại tự do và phạm không biết bao nhiêu tội ác đối với con người. Nhân danh tự do, Robespierre đã giết hại 25 ngàn người cũng như cấm chế nhiều quyền tự do trong đó cơ bản nhất là quyền tự do tôn giáo.

Lịch sử cũng đã được lập lại trong rất nhiều cuộc cách mạng sau này. Mới đây tại Trung Quốc, người ta đã nhân danh tự do dân chủ để đạp đổ Nữ Thần Tự Do và sát hại không biết bao nhiêu người đòi tự do.

Nhân danh tự do để chối bỏ tự do của người khác, nhân danh quyền con người để chà đạp quyền sống của người khác: đó là thảm trạng của không biết bao nhiêu cuộc cách mạng trong thời đại ngày nay. Chính khi con người chối bỏ tự do và chà đạp quyền sống của người khác là cũng chính lúc con người tự giam hãm mình trong nô lệ, nô lệ cho quyền lực, nô lệ cho tiền bạc, nô lệ cho bất an… Lắm khi con người tự rèn lấy cho mình xích xiềng để tự chói lấy mình. Nhà tù ấy, sợi xích ấy chính là lòng tham lam nơi con người: tham lam tiền của, tham lam quyền lực, tham lam danh vọng.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Sáu – Tuần 14 – TN1 – Năm lẻ

Bài đọc: Gen 46:1-7, 28-30; Mt 10:16-23.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải trung kiên tới cùng mới được cứu thoát.

Con người sợ gian khổ và thích nhìn thấy kết quả ngay; Thiên Chúa muốn con người chịu đựng gian khổ và phải chờ đợi. Kinh nghiệm dạy con người nếu muốn thành công, họ phải kiên trì vượt qua mọi thử thách; nếu không kiên trì vượt gian khổ, họ sẽ gẫy cánh giữa đường, và không bao giờ nhìn thấy kết quả như lòng họ mong ước.

Các Bài Đọc hôm nay dạy chúng ta phải trung thành chờ đợi để có thể đạt được kết quả mong muốn. Trong Bài Đọc I, hai cha con ông Jacob và Giuse đã phải trải qua bao biến cố thăng trầm và đau khổ, trước khi họ được gặp lại nhau và chung sống hạnh phúc. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ khi Ngài sai các ông đi: Anh em sẽ bị người đời ghen ghét, bắt bớ, và đánh đập, và tù đày; nhưng ai bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Chính Ta sẽ xuống Ai-cập với ngươi và chính Ta cũng sẽ đưa ngươi lên.

1.1/ Ông Jacob lên đường đi gặp Giuse, con ông: Nếu chúng ta nhìn lại cuộc đời của hai cha con, chúng ta sẽ hiểu được sự quan phòng của Thiên Chúa và ý nghĩa của đau khổ mà hai cha con ông phải trải qua.

(1) Cuộc đời gian khổ của Jacob: Ông tranh chấp với anh là Esau ngay từ trong bụng mẹ để chui ra trước, nhưng không thành công. Trong sự quan phòng của Thiên Chúa, bà mẹ Rebekah đã âm mưu một kế hoạch để tước quyền trưởng nam của Esau và lời chúc lành của Isaac. Hai anh em tranh chấp với nhau kể từ đó. Khi được cha sai tới để ở với Laban, người đồng hương, Jacob đã bị Laban lợi dụng trong việc kết hôn và phân chia tài sản. Vì thế, Jacob phải lìa bỏ Laban và trở về quê hương của cha mình. Jacob lại phải đương đầu với sự ghen ghét và chia rẽ ngay trong gia đình: Các con ông ghét Giuse, và đã đánh lừa ông để ông tin Giuse đã bị thú dữ ăn thịt. Rồi ông phải sai các con qua Ai-cập để mua thực phẩm cho gia đình, và phải bằng lòng để Benjamin, đứa con út của ông rời xa mình, mà không biết có trở về với mình không!

Nhưng trong mọi hoàn cảnh, ông vẫn luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa. Bàn tay của Thiên Chúa luôn ở với ông, và Ngài luôn phù trợ ông mọi ngày trong cuộc sống. Trình thuật hôm nay tường thuật thị kiến ông gặp Thiên Chúa tại Beer Sheba. Thiên Chúa phán với ông trong thị kiến ban đêm, Người phán: “Ta là El, Thiên Chúa của cha ngươi. Đừng sợ xuống Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn. Chính Ta sẽ xuống Ai-cập với ngươi và chính Ta cũng sẽ đưa ngươi lên. Giuse sẽ vuốt mắt cho ngươi.”

(2) Cuộc đời gian khổ của Giuse: Giống như cha, Giuse cũng phải chịu gian khổ ngay từ lúc còn thơ ấu: Cậu bị các anh ghen ghét vì sự quí mến của cha dành cho cậu và tài giải thích điềm chiêm bao mà Thiên Chúa đã ban cho cậu. Hậu quả của sự ghen ghét là cậu bị các anh bán cho lái buôn, và những lái buôn bán cho một viên quan Ai-cập. Cuộc đời chưa hết khổ, cậu lại bị vào tù vì đã không chịu phạm tội với bà chủ; và bà này đã tức giận đổ thừa cho Giuse, để chồng bà tống giam cậu vào ngục thất. Sau cùng, nhờ tài giải thích điềm chiêm bao, cậu đã được triệu vào cung để giải thích điềm chiêm bao cho vua Pharao và được nhà vua thăng chức Tể Tướng trong triều đình.

Cũng như cha mình, Giuse luôn tin tưởng nơi sự quan phòng của Thiên Chúa và cố gắng sống một cuộc đời công chính. Ông không oán ghét và tìm cách trả thù các anh và bà vợ viên quan Ai-cập; nhưng sẵn sàng tha thứ cho họ và làm nhiều lợi ích cho gia đình.

1.2/ Cuộc hạnh ngộ của hai cha con: Trời cao có mắt. Thiên Chúa luôn theo dõi và chúc lành cho hai cha con là những người kính sợ Thiên Chúa và yêu mến tha nhân. Hai cha con phải xa cách nhau một thơi gian lâu dài, và phải chịu bao nhiêu những hiểu lầm, buồn phiền, gian khổ, tủi nhục … Cuối cùng, Jacob đã được gặp lại con, đứa con ông đinh ninh đã không còn có mặt trên thế gian nữa. Con ông vẫn khỏe mạnh; không những thế, còn đang làm quan Tể Tướng trong triều đình của Pharao, và có quyền ban phát các lợi nhuận vật chất cho gia đình.

Cuộc hạnh ngộ giữa hai cha con được tường thuật như sau: “Ông Jacob đã sai ông Judah đi trước, đến với ông Giuse, để ông Giuse tới Goshen gặp ông. Khi họ đến đất Goshen, thì ông Giuse cho thắng xe riêng và lên Goshen đón ông Israel, cha ông. Khi hai cha con vừa thấy nhau, thì ông Giuse bá cổ cha và gục đầu vào cổ cha mà khóc hồi lâu. Ông Jacob nói với ông Giuse: “Phen này, cha chết cũng được, sau khi đã thấy mặt con, và thấy con còn sống.””

2/ Phúc Âm: Ai bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.

2.1/ Gian khổ luôn sẵn sàng chờ đợi người môn đệ của Đức Kitô:

(1) Chúa Giêsu không dấu diếm các môn đệ sẽ phải đương đầu với đau khổ khi Ngài tuyên bố với các ông: “Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu.” Chiên đi vào giữa bầy sói, chắc chắn sẽ gặp nguy hiểm; nhưng với sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa, chiên có thể vượt qua mọi nguy hiểm.

(2) Các môn đệ sẽ phải đương đầu với các hạng người khác nhau:

+ Với giáo quyền: “Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ.” Giáo quyền không luôn luôn chấp nhận và bênh vực sự thật.

+ Với thế quyền: “Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết.” Điều này dễ hiểu vì các môn đệ Đức Kitô sống và làm chứng cho giá trị Nước Trời, nhiều khi hoàn toàn đối nghịch với giá trị thế gian.

+ Với gia quyền: “Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.” Sự thật mất lòng, người trong gia đình không luôn nhìn ra, định giá đúng, và chấp nhận sự thật.

2.2/ Thiên Chúa luôn đồng hành với các môn đệ: Đối diện với các quyền lực của thế gian và ma quỉ, người môn đệ cần có sự trợ giúp của Thiên Chúa.

(1) Ngài ban ơn khôn ngoan để môn đệ biết đối đáp: “Khi người ta nộp anh em, thì anh em đừng lo phải nói làm sao hay phải nói gì, vì trong giờ đó, Thiên Chúa sẽ cho anh em biết phải nói gì. Thật vậy, không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói trong anh em.”

(2) Ngài ban sức mạnh để vượt qua mọi gian khổ: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát. Khi người ta bách hại anh em trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật anh em: anh em chưa đi hết các thành của Israel, thì Con Người đã đến.” Người môn đệ phải tin sức mạnh của Thiên Chúa sẽ giúp mình vượt qua mọi gian khổ và sau cùng sẽ chiến thắng.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Đau khổ không thể thiếu trong cuộc đời. Thiên Chúa dùng đau khổ như phương tiện, để chúng ta có thể chứng minh niềm tin yêu của chúng ta dành cho Ngài.

– Nếu chúng ta luôn biết trung kiên với Thiên Chúa và sống ngay lành tốt đẹp trong mọi gian khổ của cuộc đời, chúng ta chắc chắn sẽ được Thiên Chúa bảo vệ và chúc lành.

– Hiểu vai trò của đau khổ như thế, chúng ta sẽ không than thân, trách Thiên Chúa, hay ghét người gây đau khổ; nhưng biết dùng đau khổ để thánh hóa bản thân, vững tin nơi Thiên Chúa, trung thành yêu mến và làm ích cho tha nhân.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************