Ngày thứ sáu (17-01-2020) – Trang suy niệm

16/01/2020

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Sáu Tuần I Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: 1 Sm 8, 4-7. 10-22a

“Các ngươi sẽ ca thán vì nhà vua, nhưng Chúa sẽ không nhậm lời các ngươi, vì các ngươi đã xin ban cho các ngươi một nhà vua”.

Trích sách Samuel quyển thứ nhất.

Trong những ngày ấy, tất cả các kỳ lão Israel tập họp lại và đến cùng Samuel ở Ramtha, và nói với người rằng: “Nay ông đã già rồi và con cái ông không đi trong đường lối của ông; vậy ông hãy đặt lên cho chúng tôi một nhà vua, để xét xử chúng tôi, như tất cả các dân tộc khác”.

Lời ấy làm cho Samuel phật lòng, vì họ đã nói: “Ông hãy cho chúng tôi một nhà vua, để xét xử chúng tôi”. Samuel cầu nguyện cùng Chúa. Và Chúa phán cùng ông rằng: “Ngươi cứ nghe theo dân trong những gì họ sẽ nói với ngươi, vì không phải họ khinh bỉ ngươi, mà là khinh bỉ Ta, để Ta không còn cai trị họ nữa”.

Vậy Samuel đã nói tất cả những lời Chúa cho dân nghe khi họ xin một nhà vua. Người nói: “Đây là quyền bính của vua sẽ cai trị các ngươi: Ông sẽ bắt con trai các ngươi xung vào đoàn chiến xa và đoàn kỵ binh, và họ sẽ chạy trước xa giá của ông. Ông cắt đặt người thì chỉ huy một ngàn, người thì chỉ huy năm mươi binh lính, kẻ thì cày ruộng gặt lúa, người thì chế tạo quân cụ và chiến xa. Còn con gái các ngươi, ông sẽ bắt làm thợ sản xuất dầu thơm, nấu ăn và làm bánh. Còn đồng ruộng các ngươi, vườn nho, vườn ô liu tốt nhất của các ngươi, ông sẽ tịch thu và ban cho các đầy tớ của ông. Ông sẽ đánh thuế một phần mười vào mùa màng và vườn nho các ngươi, để nuôi các vị thái giám và đầy tớ của ông. Ông sẽ bắt tôi tớ trai gái, các thanh niên cường tráng và cả lừa của các ngươi mà xung vào công việc của ông. Ông sẽ đánh thuế một phần mười vào đoàn vật của các ngươi, và chính các ngươi sẽ trở thành nô lệ của ông. Trong ngày đó, các ngươi sẽ ca thán vì nhà vua mà các ngươi tuyển chọn, nhưng Chúa sẽ không nhậm lời các ngươi, vì các ngươi đã xin ban cho các ngươi một nhà vua!”

Nhưng dân không muốn nghe lời Samuel, và nói với người rằng: “Không, chúng tôi phải có vua, chúng tôi phải giống như mọi dân tộc khác; nhà vua sẽ xét xử chúng tôi, sẽ đi trước chúng tôi, và sẽ đánh giặc cho chúng tôi”. Samuel nghe tất cả những lời dân nói, và thưa lại cùng Chúa. Nhưng Chúa nói cùng Samuel rằng: “Ngươi cứ nghe họ và thiết lập cho họ một nhà vua”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 88, 16-17. 18-19

A+B:Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).

  1. A) Phúc thay dân tộc biết hân hoan, lạy Chúa, họ tiến thân trong ánh sáng nhan Ngài. Họ luôn luôn mừng rỡ vì danh Chúa, và tự hào vì đức công minh Ngài. – Đáp.
  2. B) Vì Chúa là vinh quang, quyền năng của họ, nhờ ân huệ Chúa, uy quyền của chúng tôi được suy tôn. Bởi chưng khiên thuẫn chúng tôi là của Chúa, và vua chúng tôi thuộc về Đấng Thánh của Israel. – Đáp.

A+B: Tôi sẽ ca ngợi tình thương của Chúa tới muôn đời (c. 2a).

ALLELUIA: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! – Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mc 2, 1-12

“Con Người có quyền tha tội dưới đất”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Sau ít ngày, Chúa Giêsu lại trở về Capharnaum; nghe tin Người đang ở trong nhà, nhiều người tuôn đến đông đảo, đến nỗi ngoài cửa cũng không còn chỗ đứng, và Người giảng dạy họ. Người ta mang đến cho Người một kẻ bất toại do bốn người khiêng. Vì dân chúng quá đông, không thể khiêng đến gần Người được, nên họ dỡ mái nhà trên chỗ Người ngồi một lỗ to, rồi thòng chiếc chõng với người bất toại xuống. Thấy lòng tin của họ, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: “Hỡi con, tội lỗi con được tha”. Lúc ấy, có một ít luật sĩ ngồi đó, họ thầm nghĩ rằng: “Sao ông này lại nói thế? Ông nói phạm thượng. Ai có quyền tha tội, nếu không phải là một mình Thiên Chúa”. Chúa Giêsu biết tâm trí họ nghĩ như vậy, liền nói với họ: “Tại sao các ông nghĩ như thế? Nói với người bất toại này: ‘Tội lỗi con được tha’ hay nói: ‘Hãy chỗi dậy vác chõng mà đi’, đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ông biết Con Người có quyền tha tội dưới đất”. – Người nói với kẻ bất toại: “Ta truyền cho con hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà”. Lập tức người ấy đứng dậy, vác chõng ra đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy sửng sốt và ngợi khen Thiên Chúa rằng: “Chúng tôi chưa từng thấy như thế bao giờ”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

17/01/2020 – THỨ SÁU TUẦN 1 TN

Th. An-tôn, viện phụ

Mc 2,1-12

TÌNH BẠN NƠI KI-TÔ HỮU

Họ dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Chúa ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống. (Mc 2,4)

Suy niệm: Thế giới hôm nay có nhiều con người bị thương tích trong tâm hồn và thể xác, nhiều người chán chường, muốn bỏ cuộc trước đau khổ, thế mà trong nhà thờ vẫn còn nhiều chỗ trống! Có phải vì họ e ngại Giáo Hội hay vì không có Ki-tô hữu nào đưa họ đến nhà thờ gặp Chúa? Dù trả lời thế nào đi nữa, chúng ta vẫn cần học bài học tình huynh đệ nơi những người bạn khiêng người bại liệt đến với Chúa Giê-su. Tình bạn nơi họ không chỉ thể hiện qua sự vất vả vượt đám đông cản lối, mà còn trong sáng kiến táo bạo mở mái nhà đưa người bạn đến trước mặt Chúa Giê-su để Ngài ban ơn chữa lành và tha tội. Tình bạn buộc họ phải hành động, đức tin thúc bách họ xăn tay phục vụ. Một tình bạn như thế gây ngạc nhiên cho thế giới đang cạn kiệt tình yêu và đức tin.

Mời Bạn: Nhìn những chỗ trống trong nhà thờ, gương mặt của những người bạn chúng ta được gợi lên: bạn đời hay bạn đạo, bạn đồng nghiệp hay đồng liêu, cả những người thân thích nữa. Chỗ trống trong nhà thờ là chỗ của họ bên Chúa. Ngạn ngữ Phi châu có câu: “Muốn đi nhanh hãy đi một mình; còn nếu muốn đi xa, bạn hãy đi vơi người khác.” Một mình không thể “khiêng” người bạn đến với Chúa, thì mời gọi thêm nhiều người cùng khiêng. Chỉ tình yêu chân thật mới có khả năng liên đới, chỉ đức tin đích thực mới có sức thúc đẩy ta sáng kiến phục vụ tha nhân. Chỗ trống trong nhà thờ là chỗ của họ.

Sống Lời Chúa: Rủ thêm người tìm đưa một người bạn đến nhà thờ.

Cầu nguyện: Xin cho con biết yêu quý linh hồn con và linh hồn mọi người.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

17 THÁNG GIÊNG

Xây Dựng Một Bầu Khí Sống Hoạt Yêu Thương

Nhiều khía cạnh khác của đời sống gia đình cũng cần được quan tâm. Chẳng hạn, chúng ta không được phép quên quyền lợi của phụ nữ, trẻ em và người già lão. Và cũng có những quyền lợi của gia đình xét như một toàn thể – tôi đã đề cập đến những quyền này trong Tông Huấn Familiaris consortio. Tòa Thánh đã đúc kết những quyền này trong bản “Hiến Chương Quyền Của Gia Đình”.

Tất cả các quyền ấy đều rất quan trọng; nhưng ở đây tôi muốân đề cập một cách đặc biệt đến quyền được giáo dục của con cái. Trách nhiệm giáo dục con cái mình là một trách nhiệm rất quan trọng của cha mẹ – qua đó họ giúp con cái mình đạt đến mức trưởng thành đầy đủ trong tất cả các giá trị căn bản nhất của đời sống. Công Đồng Vatican II nêu rõ: “Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi nếu thiếu sót thì khó lòng bổ khuyết được. Thực vậy, chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân, để giúp cho việc giáo dục toàn diện con cái trong đời sống cá nhân và xã hội trở nên dễ dàng. Do đó, gia đình là trường học đầu tiên dạy các đức tính xã hội cần thiết cho mọi đoàn thể.” (GD 3).

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 17/1

Thánh Antôn Viện Phụ

1Sm 8,4-7.10-2; Mc 2, 1-12.

Lời Suy Niệm: “Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giêsu một kẻ bại liệt có bốn người khiên… Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, con đã được tha tội rồi.”

          Chúa Giêsu không những có quyền chữa lành mà còn có quyền tha tội. Người đến để chữa lành con người toàn diện, cả xác lẫn hôn. Người là Thầy thuốc mà các bệnh nhân cần đến.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con đang sống trong thời đại kính: “Lòng Chúa Thương Xót”. Xin cho tất cả chúng con có được một quả tim bằng thịt, để thể hiện tình yêu. Tình yêu này làm phát sinh những cố gắng không mệt mõi để nâng đỡ những người đau khổ đang sống chung quanh chúng con.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 17-01: Thánh ANTÔN

Viện Phụ (Thế kỷ IV)

Thánh Antôn chào đời năm 250 tại Corma, gần Hieraclens, miền thượng Ai cập. Cha mẹ Ngài nổi danh giàu có lẫn đạo đức, đã lo lắng dạy dỗ Ngài sống đạo ngay từ nhỏ.

Khi được 18 tuổi thì cha mẹ Ngài qua đời. Sáu tháng sau ngày mất cha mất mẹ, tại một giáo đường, thánh nhân đã nghe đọc lời sách thánh: “Nếu con muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải và đem phân phát cho kẻ nghèo khó rồi theo Ta” (Mt 19,21). Tưởng như Thiên Chúa nói riêng với mình đã về bán hết của cải và đem phân phát cho người nghèo khó.

Sau khi lo lắng gửi gấm em gái của mình cho một nữ tu viện, Ngài lui vào sa mạc để làm việc và cầu nguyện, Ngài theo đuổi một cuộc sống rất khắc khổ, chỉ ăn bánh với muối và uống nước ngày một lần sau khi mặt trời lặn. Để giữ được sự cô tịch trọn vẹn, Ngài còn ẩn thân vào một ngôi mộ bỏ trống. Thỉnh thoảng một người bạn mang bánh đến cho Ngài bánh đến cho Ngài nhưng ma quỉ đã tìm cách quấy phá để trục Ngài ra khỏi “căn phòng” và cuộc sống khắc khổ, chúng thường hay la hét và hiện hình kỳ quái. Phản ứng lại, thánh nhân thường cầu nguyện nhiều hơn và tăng gấp những việc hãm mình. Giận dữ vì các mưu mô bị thất bại, ma quỉ còn công khai hành hạ Ngài nữa.

Một ngày kia người bạn mang bánh đến, bỗng thấy thánh nhân nửa sống nửa chết, mình đầy thương tích. Nhưng khi vừa bừng tỉnh, thánh nhân liền chỗi dậy và la lớn: – Tôi còn sẵn sàng chiến đấu. Lạy Chúa, không, không gì có thể tách lìa con khỏi lòng yêu mến Chúa được.

Giữa những đau đớn vì các cuộc tấn công của ma quỉ, Ngài khinh bỉ trả lời: – Ồn ào vô ích. Dấu thánh giá và lòng tin tưởng vào Chúa là những thành trì kiên cố.

Thánh nhân luôn tin tưởng nơi Chúa. Ngày kia, được an ủi trong tâm hồn và cảm thấy là ma quỉ đã lùi bước, Ngài cầu nguyện: – Oi, lạy Chúa, Chúa ở đâu ? Sao Chúa không ở đây lau sạch nước mắt và thoa dịu những dày vò của con ?

Tiếng Chúa trả lờ i: – Cha ở gần con, cha giúp con chiến đấu. Bởi vì con đã chống trả lại ma quỉ, cha sẽ bảo vệ quãng đời còn lại của con. Cha sẽ làm cho tên con rạng rỡ trên trời.

Tràn đầy nghị lực, thánh nhân chỗi dậy tạ ơn Chúa. Muốn xa mọi người hơn nữa, Ngài vượt sông Nil đến trú ngụ trong một pháo đài hoang phế đầy những rắn rết. Nhưng sự thánh thiện của Ngài như một sức nam châm, vẫn thu hút nhiều người đến xin làm môn đệ. Thế là một phong trào ẩn tu nổi lên mạnh mẽ. Sa mạc mọc lên những mái tranh, từ đó không ngừng vang lên những lời kinh ca khen Chúa. Thánh nhân trở nên vị thủ lãnh của nếp sống ẩn tu.

Dầu vậy, thánh An tôn đã hai lần từ giã sa mạc. Vào năm 311 khi có cuộc bách hại của Alaximiô, Ngài nói: – Nào ta cùng đi chiến đấu với anh em ta.

Ngài lên đường đi Alexandria. Người ta thấy thánh nhân khích lệ các tù nhân nơi các trại giam, theo họ tới trước quan tòa và khuyên nhủ họ can đảm chết vì đạo, Ngài còn xuống hầm trú để an ủi các linh mục. Ngài thoát chết là một điều lạ lùng.

Cuộc bách hại chấm đứt được một năm, thánh nhân lại tìm về sa mạc. Số các môn sinh ngày càng tăng thêm đông. Sợ bị cám dỗ thành kiêu căng, và thấy gương các thánh tử đạo, thánh Antôn khao khát sống khắc khổ để đền tội. Ngài tiến sâu hơn nữa vào sa mạc. Sau ba ngày đi theo đoàn người buôn bán, Ngài dừng lại gần biển Đỏ, dưới chân núi Kolzim và dựng một căn lều vừa đủ để nằm để ở. Dân Bê-đu-anh (Bédouins) cho Ngài bánh ăn. Về sau các môn sinh tìm tới và mang cho Ngài một cái xuổng với một ít hạt giống, đây là nguồn gốc của tu viện thánh Antôn hay là Deir-el-Arat, một tu viện theo nghi lễ Cốp (Copte) ngày nay vẫn còn.

Lần thứ hai, thánh nhân trở lại Alexandria theo lời mời của đức giám mục Athanasiô, để chống lại lạc giáo. Dân chúng cả thành chen lấn nhau đi đón Ngài. Các lương dân cũng bảo nhau: – Chúng ta đi gặp người của Thiên Chúa.

Nhiều người cảm động vì những bài diễn thuyết và những phép lạ Ngài làm, đã xin lãnh bí tích rửa tội, người ta tưởng sẽ gặp một lão già tám mươi hoang dại, nhưng đã ngạc nhiên khi thấy Ngài rất lịch thiệp, xử dụng ngôn ngữ văn hóa và diễn tả tư tưởng rất uyên thâm. Các triết gia ngoại giáo ngạc nhiên hỏi Ngài:

– Ngài làm gì được trong sa mạc không có sách vở chi hết ? Thánh nhân trả lời:

– Thiên nhiên đối với tôi là một cuốn sách mở rộng.

Và người ta ngỡ ngàng về những điều thánh nhân đã khám phá được trong cuốn sách vĩ đại này của Đấng Tạo hóa.

Điều đáng kể dường như không phải những nhiệm nhặt Ngài theo đuổi, mà là tâm hồn trong trắng Ngài kết hiệp mật thiết với Chúa, Ngài nói: – Hư danh là kẻ thù nguy hiểm nhứt của chúng ta.

Danh tiếng của thánh Antôn lan rộng đến nỗi vua Constantinô và con cái ông đã viết thư tham khảo ý kiến Ngài, Môn sinh của Ngài hãnh diện lắm. Nhưng Ngài bảo họ:

– Đừng ngạc nhiên lắm khi thấy nhà vua là một con người viết thư cho một con người. Đáng ngạc nhiên là chính Thiên Chúa đã muốn viết luật cho loài người, và đã nói với chúng ta qua đức Giêsu Kitô .

Và trả lời cho lớp người vương giả ấy, Ngài dùng những lời cao thượng để khuyên họ biết khinh chê danh vọng mà nhớ tới cuộc chung thẩm.

Khi Ngài đã quá 90 tuổi, Thiên Chúa qua một thị kiến đưa ngài đến thăm thánh Phaolô ẩn tu trong sa mạc. Ngài còn được cho biết là sẽ sống tới tuổi 105.

Biết sắp tới giờ từ giã trần gian, Ngài đi thăm anh em Ngài lần chót. Ngài nói với họ về sự chết với niềm vui của người hồi hương. Họ đã khóc ròng, nhưng Ngài khuyên nhủ họ: – Hãy sống như phải chết mỗi ngày. Hãy cố gắng noi gương các thánh.

Thánh nhân trở lại núi với hai môn sinh. Trong căn phòng nghèo nàn của mình, Ngài đã phó linh hồn trong tay Chúa lúc 105 tuổi. Chúng ta biết được ân sủng giai thoại quý báu của đời thánh An tôn là nhờ thánh Athanasiô kể lại.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

17 Tháng Giêng

 Cứ Ðể Yên Như Thế  

Trong một tác phẩm có tựa đề “Quyển Phúc Aâm thứ 5”, một tác giả người Italia là ông Mario Pomilio có tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Sau thời kỳ bách hại tại Roma, các tín hữu bắt đầu xây cất nhà thờ. Ðâu đâu người ta cũng thấy mọc lên nhà thờ. Tên của Ðức Mẹ và các Thánh được đặt cho các nhà thờ. Nhưng người ta vẫn chưa thấy có nhà thờ nào mang tên của Ngôi Lời. Thấy thế thánh Gioan mới đến báo cáo với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bèn ra lệnh cho thánh Phêrô khởi công xây cất một nhà thờ dâng kính cho Ngôi Lời.

 Con người đã có một thời được mệnh danh là người xây dựng vĩ đại của Giáo Hội mới đi rảo khắp nơi để thu tập vật tư. Thánh Mathêô đã cung cấp đá. Thánh Marcô mang vôi đến. Thánh Luca tặng những cây trụ lớn. Còn Thánh Gioan thì cúng đá cẩm thạch để làm bàn thờ và vàng để làm nhà tạm..

 Với tất cả những vật liệu cần thiết, Thánh Phêrô hớn hở bắt tay vào việc xây cất. Nhưng thời gian trôi qua, công sức đã tiêu hao quá nhiều mà người thợ xây Phêrô mới chỉ hoàn tất được việc đặt nền móng cho ngôi nhà thờ. Thấm mệt, vị thủ lãnh các tông đồ mới cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, xin ban thêm cho con đủ sức để hoàn thành ngôi Nhà Thờ”.

 Chúa Giêsu mới trả lời: “Cứ để yên như thế. Ngươi hãy nhớ rằng cứ mỗi người đi ngang qua công trình này đều có thể mang đến một viên gạch, một ít vôi để xây tường và thế hệ này qua thế hệ khác, những cột trụ Ðền Thờ sẽ được dựng lên”.

 Có hai sự kiện xem ra tương phản nhau: tại Tây Phương, nhiều nhà thờ bị đóng cửa hoặc đem ra bán đấu giá, vì giáo dân không đủ cấp số hoặc không còn người lui tới nhà thờ. Trong khi đó thì tại Việt Nam, nhu cầu sửa chữa hoặc xây nhà thờ mới mỗi ngày một gia tăng.

 Có thể có hai quan niệm sống đạo đằng sau hai sự kiện ấy. Nhiều người Tây Phương cho rằng sống đạo là sống Công Bình và Bác Aùi, chứ không nhất thiết phải đến nhà thờ. Trong khi đó thì có người lại trách cứ rằng nhiều người Việt Nam chỉ giữ đạo hình thức, họ thích biểu dương tôn giáo, họ thích rước sách, họ đọc kinh làu làu, họ siêng năng đến nhà thờ, nhưng họ xem thường những đòi hỏi của Công Bình và Bác Aùi.

 Kỳ thực, giữ đạo trong nhà thờ mà không sống đạo bên ngoài nhà thờ là một thiếu sót, nếu không muốn nói là một thái độ giả hình mà Chúa Giêsu đã lên án gắt gao. Nhưng sống Công Bình và Bác Aùi mà không múc lấy sức sống từ việc gặp gỡ Chúa nơi nhà thờ cũng là một thiếu sót. Người Kitô đích thực múc lấy sức sống từ Ðức Kitô và diễn đạt sức sống ấy qua cuộc sống thường ngày. Có nhà thờ để cầu nguyện nhưng cũng có chợ đời để gặp gỡ Chúa. Người Kitô hướng về Trời cao, nhưng vẫn còn bám lấy cõi Ðất. Người Kitô đến nhà thờ, mà để quay trở lại cuộc sống. Và cuộc sống cũng sẽ trở nên cằn cỗi, nếu nó không được nuôi dưỡng bằng lương thực Thần Linh.

 “Hãy trở nên những viên đá sống động”. Ðó là ơn gọi của người Kitô chúng ta. Hãy trở thành những viên đá sống động không chỉ để xây dựng ngôi nhà thờ bằng gỗ đá, nhưng là để xây ngôi Ðền Thờ của cuộc sống. Cuộc sống có trở thành Ðền Thờ để gặp gỡ Chúa qua những gặp gỡ với tha nhân, qua những xây dựng Hòa Bình và yêu Thương, thì Ðền Thờ gỗ đá mới sống động.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Sáu Tuần I TN2

Bài đọc: I Sam 8:4-7, 10-22a; Mk 2:1-12.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải lắng nghe, hiểu thấu, và thực hành Lời Chúa.

Thiên Chúa luôn dạy dỗ và hướng dẫn con người trong mọi sự, ngày xưa cũng như thời nay; nhưng rất ít người chịu lắng nghe, tìm hiểu, và mang ra thực hành. Vì thế, không lạ gì mà con người vẫn tiếp tục cuộc sống triền miên đau khổ trong tội lỗi của mình.

Các Bài Đọc hôm nay tập trung trong việc con người cần lắng nghe và đáp trả Lời Chúa. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-Thái nhấn mạnh đến việc: nếu con người không chịu tuân giữ Lời Chúa dạy, họ sẽ không được vào chốn yên nghỉ của Người. Trong Bài Đọc I, năm chẵn, con cái Israel xin ngôn-sứ Samuel chọn cho họ một vị vua như bao quốc gia khác để cai trị họ, vì họ đã mất tin tưởng nơi ông, và không còn muốn nghe lời hướng dẫn của Thiên Chúa qua ông nữa. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dùng uy quyền chữa lành để chứng minh Ngài có quyền tha tội; và như một hậu quả, Ngài đến từ Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I (năm chẵn): “Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một vua cai trị chúng.”

1.1/ Con người không thấu hiểu điều mình xin: “Đứng núi này trông núi kia” luôn là ảo tưởng của con người. Họ thường không bao giờ bằng lòng với hoàn cảnh hiện tại và cảm nhận được hạnh phúc trong những gì họ đang có; nhưng luôn mong muốn, tìm tòi, và cầu xin cho được những gì họ nghĩ phải có thì mới hạnh phúc. Kết quả là họ chẳng bao giờ có được bình an và hạnh phúc như lòng mong muốn. Trình thuật hôm nay là một ví dụ điển hình.

(1) Dân chúng không muốn nghe lời ông Samuel, ngôn sứ của Thiên Chúa: Toàn thể các kỳ mục tập hợp lại và đến với ông Samuel ở Ramah. Họ nói với ông: “Ông coi, ông già rồi, và các con ông lại không đi theo đường lối của ông. Vậy bây giờ, xin ông lập cho chúng tôi một vua để vua xét xử chúng tôi, như trong tất cả các dân tộc.”

(2) Dân chúng không muốn Thiên Chúa làm vua cai trị họ: Ông Samuel rất bực mình với lời yêu cầu và ông cầu nguyện với Đức Chúa cho biết phải giải quyết cách nào. Đức Chúa phán với ông Samuel: “Ngươi cứ nghe theo tiếng của dân trong mọi điều chúng nói với ngươi, vì không phải chúng gạt bỏ ngươi, mà là chúng gạt bỏ Ta, không chịu để Ta làm vua của chúng.”

1.2/ Con người phải lãnh nhận hậu quả của những gì mình mong muốn.

(1) Thiên Chúa báo trước hậu quả: Dân chúng không đủ khôn ngoan để tiên liệu trước những gì sẽ xảy ra do việc có vua cai trị; vì thế, Thiên Chúa phải báo trước những hậu quả do việc có vua: “Đây là quyền hành của nhà vua sẽ cai trị anh em: Các con trai anh em, ông sẽ bắt mà cắt đặt vào việc trông coi xe và ngựa của ông, và chúng sẽ chạy đàng trước xe của ông… Các con gái anh em, ông sẽ bắt vào làm thợ chế nước hoa, nấu ăn và làm bánh. Đồng ruộng, vườn nho, vườn cây ô-liu tốt nhất của anh em, ông sẽ lấy mà cho bề tôi của ông… Các tôi tớ nam nữ, các người trai tráng khá nhất của anh em, các con lừa của anh em, ông sẽ bắt mà dùng vào việc của ông. Chiên dê của anh em, ông sẽ đánh thuế thập phân. Còn chính anh em sẽ làm nô lệ cho ông. Ngày ấy, anh em sẽ kêu than vì vua của anh em mà anh em đã chọn cho mình, nhưng ngày ấy Đức Chúa sẽ không đáp lời anh em.”

(2) Dân chúng chấp nhận hậu quả: Nếu những người có khôn ngoan đủ, họ sẽ nhận ra điều các kỳ mục xin là rồ dại, vì những lý do sau: Thứ nhất, làm sao kiếm được một vị vua nào cai trị dân khôn ngoan hơn Thiên Chúa? Thứ hai, họ được tự do khi Thiên Chúa cai trị; nhưng họ và con cháu họ phải làm nô lệ khi có vua. Thứ ba, họ phải đóng đủ mọi thứ thuế để có tiền trang trải cho những nhu cầu của nhà vua. Sau cùng, nếu họ đã lựa chọn có vua, họ sẽ phải lãnh nhận mọi hậu quả; lúc đó, họ có kêu trách, cũng đã quá muộn.

Nhưng dân vẫn cứng đầu, không chịu nghe theo những lời cắt nghĩa của ông Samuel. Họ nói: “Không! Phải có một vua cai trị chúng tôi! Cả chúng tôi cũng sẽ giống như mọi dân tộc. Vua chúng tôi sẽ xét xử chúng tôi, sẽ dẫn đầu chúng tôi và sẽ lãnh đạo các cuộc chiến của chúng tôi.” Ông Samuel nghe tất cả những lời của dân và nói lại những lời ấy cho Đức Chúa nghe. Đức Chúa phán với ông Samuel: “Hãy nghe theo tiếng chúng, và hãy đặt một vua cai trị chúng.”

2/ Phúc Âm: Chúa Giêsu là Thiên Chúa vì Ngài làm được những việc Thiên Chúa làm.

2.1/ Chúa Giêsu có uy quyền chữa bệnh: Trình thuật kể: “Đang khi Người giảng dạy cho họ, người ta đem đến cho Đức Giêsu một kẻ bại liệt, có bốn người khiêng. Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ Người ngồi, làm thành một lỗ hổng, rồi thả người bại liệt nằm trên chõng xuống.” Mái nhà của người Do-Thái không xuôi ra hai bên như mái nhà chúng ta, mà phẳng như hình chữ nhật để người ta có thể dùng làm sân thượng để hóng mát. Vì thế, việc dỡ mái nhà xuống cũng đơn giản và ít gây thiệt hại. Khi thấy cách biểu lộ niềm tin của họ, Chúa Giêsu bảo người bại liệt: “Này con, con đã được tha tội rồi.” Tội này có thể là tội dỡ mái nhà hay tội của người bại liệt.

2.2/ Chúa Giêsu có quyền tha tội:

(1) Tội lỗi và hình phạt: Theo truyền thống Do-Thái, hình phạt là hậu quả của tội lỗi: có thể của cá nhân hay của cha mẹ (Job 4:7, Jn 9:2). Các Rabbi có câu: “Không người bệnh nào được lành bệnh cho tới khi tất cả tội lỗi của anh được tha thứ.”

(2) Lý luận của Chúa Giêsu: Khi Ta tha hình phạt qua việc chữa lành, là Ta tha tội, nguyên nhân của hình phạt.

(3) Lý luận của các Kinh-sư: Trong đám đông, có nhiều các Kinh-sư đến không phải để nghe Thiên Chúa giảng, nhưng để bới lá tìm sâu để có thể kết án Chúa, và họ nghĩ họ đã tìm ra lý do để kết án Chúa phạm thượng: ” Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ai có quyền tha tội, ngoài một mình Thiên Chúa?”

(4) Chúa Giêsu dùng lý luận của các Kinh-sư và việc chữa lành để chứng minh cho họ biết Ngài là Thiên Chúa: “Tâm trí Đức Giêsu thấu biết ngay họ đang thầm nghĩ như thế, Người mới bảo họ: “Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy? Trong hai điều: một là bảo người bại liệt: “Con đã được tha tội rồi,” hai là bảo: “Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi,” điều nào dễ hơn?” Dĩ nhiên điều dễ làm hơn là bảo “Con đã được tha tội rồi;” vì không ai có thể kiểm chứng được, còn điều khó làm là bảo “Đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi;” phải là người có uy quyền mới làm được và mọi người đều kiểm chứng.

“Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội, Đức Giêsu bảo người bại liệt, Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!” Người bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau: “Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Nghe giảng là để dẫn tới đức tin hay làm cho đức tin tăng trưởng hơn, chứ không phải nghe cho qua lần chiếu lệ. Cả người rao giảng lẫn các tín hữu, chúng ta phải tôn trọng lúc lắng nghe và chia sẻ Lời Chúa.

– Nếu chúng ta khinh thường hay không chịu chuẩn bị, chúng ta đã hoang phí thời giờ của người rao giảng cũng như người nghe; và nhất là không đạt được mục đích của cuộc đời: được sống với Thiên Chúa muôn đời.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************