Ngày thứ sáu (19-10-2018) – Trang suy niệm

18/10/2018

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Sáu Tuần XXVIII Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: Ep 1, 11-14

“Chúng tôi trước kia đã trông cậy vào Đức Kitô, và anh em được ghi dấu Thánh Thần”.

Trích thư Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.

Anh em thân mến, trong Đức Kitô, chúng tôi được kêu gọi làm thừa tự, và anh em (là con cái Israel) cũng được tiền định theo ý định của Ngài là Đấng tác thành mọi sự theo thánh ý Ngài, để chúng tôi trở thành lời ca vinh quang của Ngài, chúng tôi là những kẻ trước kia đã trông cậy vào Đức Kitô. Trong Người, cả anh em nữa, sau khi anh em đã nghe lời chân thật là Tin Mừng cứu rỗi anh em, anh em đã tin và được ghi dấu Thánh Thần, như đã hứa. Người là bảo chứng phần gia nghiệp chúng ta, để chúng ta được ơn cứu chuộc, được ca ngợi vinh quang Ngài. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 32, 1-2. 4-5. 12-13

A+B=Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình! (c. 12b).

A=Người hiền đức, hãy hân hoan trong Chúa! Ca ngợi là việc của những kẻ lòng ngay. Hãy ngợi khen Chúa với cây đàn cầm, với đàn mười dây, hãy xướng ca mừng Chúa. .

B=Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực; địa cầu đầy ân sủng của Chúa.

A=Phúc thay quốc gia mà Chúa là chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Từ trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta.

A+B=Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình! (c. 12b).

ALLELUIA: Dt 4, 12

-Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, phân rẽ tư tưởng và ý muốn của tâm hồn. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 12, 1-7

“Mọi sợi tóc trên đều các con cũng đã được đếm cả rồi”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có nhiều đám đông dân chúng đứng chung quanh, đến nỗi chen đạp lẫn nhau, nên Chúa Giêsu bắt đầu dạy các môn đệ trước tiên rằng: “Các con hãy ý tứ giữ mình khỏi men biệt phái, nghĩa là sự giả hình. Không có gì che đậy mà không bị tiết lộ ra, và không có gì giấu kín mà chẳng biết được. Vì vậy, những điều các con nói trong nơi tối tăm, sẽ được nói ra nơi sáng sủa, và điều các con nói rỉ tai trong buồng kín, sẽ được rao giảng trên mái nhà.

“Thầy bảo các con là những bạn hữu của Thầy rằng: Các con đừng sợ chi những kẻ giết được thân xác, rồi sau đó không thể làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho các con biết phải sợ ai: Hãy sợ Đấng, sau khi đã giết chết, còn có quyền ném vào địa ngục. Phải, Thầy bảo các con hãy sợ Đấng ấy.

“Chớ thì năm con chim sẻ không bán được hai đồng tiền sao? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, mọi sợi tóc trên đầu các con cũng đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn trọng hơn nhiều con chim sẻ”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

19/10/2018 – THỨ SÁU TUẦN 28 TN

Th. Gio-an Brê-bớp, I-sa-ác Giô-gơ, linh mục, tử đạo

Lc 12,1-7

COI CHỪNG VI-RÚT “ĐẠO ĐỨC GIẢ”

“Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả. Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết.” (Lc 12,1-2)

Suy niệm: Chúa dạy ta phải coi chừng men Pha-ri-sêu, nghĩa là men đạo đức giả. Thứ men này rất nhỏ bé, được ví như một thứ vi-rút cực hiếm và cực lạ, khó có thuốc chữa trị. Vì sao? Vì những thứ giả khác như bằng cấp giả, thuốc giả, hàng hóa giả là sự vật có thể bị soi xét nhận diện, còn đạo đức giả ở trong tâm hồn và được ngụy trang khéo léo bằng những hình thức bên ngoài che giấu nhữngï bất chính bên trong tâm hồn rất khó phát hiện, nhằm đánh lừa người khác. ĐTC Phanxicô cho rằng, thứ vi-rút đạo đức giả này tựa như con rắn, cứ trườn bò luồn lách, không rõ ràng minh bạch, từ lừa dối này sang lừa dối khác qua lời đường mật và dáng mạo bên ngoài. Thứ vi-rút đạo đức giả này vừa tàn phá nhân cách của mọi người, kể cả Ki-tô hữu, vừa lây nhiễm rất nhanh sang nhiều người. Tuy nhiên, như vị lương y thần linh, Chúa Giê-su khuyên nhủ ta tránh xa thứ “men pha-ri-sêu” đó, ngăn ngừa lây nhiễm thứ vi-rút đạo đức giả đó, bằng cách tin tưởng và đối diện với Chúa hằng ngày.

Mời Bạn: đối diện với Chúa hằng ngày trong buổi xét mình mỗi khi đêm về để nhìn thấy tình trạng tâm hồn của mình; tin tưởng vào Chúa để Chúa chữa trị thứ vi-rút cực hiếm đó bằng lòng thương xót của Ngài. Việc xét mình hằng ngày còn quen thuộc với bạn không? Thiếu xét mình hằng ngày e rằng ta đang bị nhiễm nặng vi-rút đạo đức giả rồi đó, vì cứ ngỡ mình thập toàn.

Sống Lời Chúa: Từ tháng Mân Côi này, quyết tâm xét mình vào mỗi tối trong buổi cầu nguyện chung hoặc riêng

Cầu nguyện: Đọc kinh Ăn Năn Tội.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

19 THÁNG MƯỜI

Chứng Từ Của Tình Yêu Huynh Đệ

Sau khi ghi nhận những công việc xuất phát từ tình yêu lớn lao dành cho Chúa Kitô trong trái tim của người phụ nữ này – một tôi tớ nhỏ bé của Thiên Chúa – tôi liên tưởng đến giáo huấn mà Tông Đồ Phao-lô đã viết cho các tín hữu Philipphê: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau” (Pl 2,1-2).

Phải chăng những lời này của vị Tông Đồ Dân Ngoại chỉ dành cho giáo đoàn ở Philipphê? Hay chỉ gởi cho giáo hội ở Calcutta? Không! Đó là những lời được gởi cho toàn thể Giáo Hội ở mọi nơi trên thế giới, gởi cho mọi người Kitô hữu! Có thể nói, đó là những lời được gởi cho mọi tín đồ thuộc mọi niềm tin tôn giáo, cho tất cả những con người thiện chí. Đó là một chứng từ của tình yêu huynh đệ: “Xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được nên trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm gì vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình” (Pl 2,2-3).

Đừng! Chúng ta đừng bao giờ hành động theo hướng nuôi dưỡng hận thù, bất công, hoặc gây ra đau khổ! Đừng bao giờ hành động để chạy đua vũ trang! Đừng bao giờ hành động theo hướng áp bức các dân tộc yếu kém! Đừng bao giờ hành động theo những dạng trá hình của chủ nghĩa đế quốc và những ý thức hệ bất nhân chà đạp tinh thần người ta.

Cuối cùng, hãy cho phép những người thấp cổ bé miệng được lên tiếng nói! Hãy cho phép những người nghèo của Mẹ Têrêsa – cũng như mọi người nghèo trên thế giới – được lên tiếng nói! Bởi tiếng nói của họ chính là tiếng nói của Đức Kitô! Amen.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 19/10

Thánh Gioan Brêbeuf, linh mục

Thánh Isaac Jogues, linh mục và các bạn tử đạo

Ep 1, 11-14; Lc 12, 1-7.

LỜI SUY NIỆM: “Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.”

            Chúa Giêsu đang giới thiệu chúng ta về vị Thiên Chúa với tình yêu của Người. Một tình yêu bao trùm trên cuộc sống của mỗi con người trong nhân loại, cả khi con người không ý thức về sự hiện diện của Ngài, vì Ngài luôn hiện hữu giữa giữa những tạo vật mà Ngài đã tạo nên, đặc biệt với con người, vì đây là tạo vật mà Mgài ưng ý nhất, mang lấy hình ảnh của Ngài.

            Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người trong chúng con luôn ý thức sự hiện hữu của Chúa trong đời sống của chúng con với tình yêu thương của Chúa như Thánh Vịnh 139; để chúng con luôn phó thác đời sống của mình trong bàn tay quan phòng của Chúa.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 19-10

Thánh PHAOLÔ THÁNH GIÁ
(1694 – 1775)

Ít có biến cố đẹp mắt để ghi lại cuộc đời của Paul Prannes Daniel. Thường trọn đời Ngài dành cho cầu nguyện, sám hối và tôn sùng cụôc tử nạn của Chúa. Ngài là dụng cụ phổ biến lòng tôn sùng này với dòng tu Ngài thiết lập, dòng Thương khó. Ngài sinh tại miền Bắc Ý năm 1694 từ một gia đình trung lưu đạo đức. Dầu cuộc sống Ngài cho tới tuổi15 đã diễn ra như cuộc sống bình thường của người Kitô hữu, nhưng vào thời này, người đã trải qua một loạt trở lại khiến Ngài dâng trọn đời cho việc cầu nguyện hãm mình: Ngài quỳ gối lâu giờ, thực hành những việc phạt xác như ngủ trên đất và ăn chay liên tục, nhờ đó ảnh hưởng đối với những người đương thời, khiến nhiều người đi tu dòng hay là một linh mục triều.

Vào tuổi 20, việc gia nhập đạo quân Venise để bảo vệ Kitô giáo chống lại người Hồi cho thấy sau một thời lý tưởng Ngài đã khác. Nhưng Ngài đã trở lại đời sống cầu nguyện hãm mình.

Sáu năm qua đi và chỉ đến lúc 26 tuổi, Ngài mới thấy rõ hơn chuỗi ngày tương lai của mình trong một loạt các thị kiến. Ngài hiểu rằng: mình phải lập một dòng tu đặc biệt tôn sùng cuộc khổ nạn. Trước hết Ngài bắt đầu nếp sống mà tu sĩ dòng Thương khó sẽ phải sống, trong khi phát ra một qui luật gửi về Roma xin phê chuẩn. Sau một ít khó khăn, luật này đã được chuẩn nhận. Ngài và em mình là Gioan Tẩy giả đã lập dòng ở Mote Argentaro và nhận những tập sinh đầu tiên. Đức Bênêdictô XIV đã buộc giảm nhẹ đôi chút sự khắc khổ trong đời sống tu trì và đi rao giảng trong các miền lân cận.

Phaolô là một nhà truyền giáo nhiệt thành rao giảng cuộc Thương Khó khắp nơi và gây được nhiều cuộc trở lại. Những năm cuối đời, Ngài đã lập dòng các nữ tu thương khó. Bây giờ Ngài được dân chúng coi như một vị thánh và mỗi khi đi qua đâu, Ngài phải chịu đựng đám đông những người lo kiếm miếng vải áo Ngài làm thánh tích, họ chạm tới Ngài hay xin Ngài chữa bệnh hoặc một ân huệ nào khác. Ngài qua đời ngày 18 tháng 10 năm 1775 vào tuổi 80 và được tuyên thánh khoảng gần thế kỷ sau năm 1865.

Điều lạ lùng là vị thánh người Ý không hề rời xa quê hương mình sinh trưởng lại rất quan tâm tới việc trở lại của nước Anh mà Ngài biết đến rất ít. Ngài nói: “Nước Anh luôn ở trứơc mặt tôi và nếu nước Anh trở lại công giáo thì ích lợi cho Giáo hội vô kể”. Dầu bản thân Ngài đã không thể đi bước tích cực nào để cải tiến vấn đề, cũng cần ghi lại rằng 65 năm sau khi Ngài qua đời,một tu sĩ, dòng Thương Khó, anh Dominicô Barbeni đã tới nước Anh và trở thành dụng cụ đưa về hiệp thông với Giáo hội Jolm Hery Newman và nhiều người khác nữa, như thế là góp phần vào việc phục hồi đạo công giáo tại xứ sở này.

++++++++++++++++++++
Ngày 19-10

CÁC THÁNH TỬ ĐẠO MIỀN BẮC MỸ
(Thế kỷ XVII)

Rênê (+1642) Jean Lalande Và Isaac Jogues (+1644) Antoine Daniel (+1648) Jean De Brébeuf Và Gabriel Lalemant (+1649) Charles Garnier Và Noel Chabanel (+1649)

Ngay từ năm 1608, hai tu sĩ dòng Tên đã được gởi tới miền Nova Scotia, nhưng công cuộc sớm bị ảnh hưởng những cuộc chiến tranh với nước Anh và mãi tới năm 1632 khi Canada đi về với Pháp, trung tâm truyền giáo mới được các tu sĩ dòn Tên thiết lập thường xuyên ở Rucbee.

Năm 1633, bề trên Paul le Jeune kết hợp với Jean de Brébeuf, một nhà quí phái sinh tại Normandie, và Antoine Daniel với Ennemond Massé. Những khó khăn của các nhà thám hiểm này được biểu trưng bằng những kinh nghiệm của Le Jeune khi Ngài theo nhóm Algonquin đi săn bắn: những cố gắng rao giảng của Ngài bị phá hoại bởi những tiếng reo hò, chế giễu, bởi vì người da đỏ dạy người nói thổ ngữ để châm chọc đã dùng những chữ độc ác nhất đặt ngang với từ ngữ chỉ đức tin Kitô giáo. Le Jeune cũng bắt dầu cảm thấy bốn khía cạnh tệ hại nhất trong đời sống dân da đỏ là: lạnh, nóng, khói và chó. Trong căn lều chất đầy đàn ông, đàn bà và chó ngủ chung quanh đống lửa đến khi thường bị mù lòa. Một sự kiện khiến Le Jeune nhận định: “Những lương dân bất hạnh này trải qua cuộc sống đời tạm trong khói mờ và chôn vùi cuộc sống đời đời trong lửa cháy”.

Le Jeune quyết định rằng không có cuộc truyền giáo nào hy vọng thành công được nếu không hướng về những bộ lạc đã định cư. Dân Huron sống ở miền phía đông bờ biển Huron đã được chọn làm trung tâm truyền giáo. Năm 1634, Brébeuf Daniel và Davort đã thành công trong việc hoà đồng với dân tộc gồm hai chục ngàn dân sống trong ba mươi làng, mỗi làng có khoảng bảy trăm dân này.

Các nhà truyền giáo gặp được những người da đỏ lịch sự nhưng xa cách trẻ em và những người hấp hối hầu như không thể trở lại đạo được, vì họ chỉ coi đó là tôn giáo của người da trắng. Họ hỏi: “Các ông có săn bắn trên thiên đàng, đánh nhau hay mừng lễ không ?”. Được trả lời là không. Họ liền đáp lời: “Vậy chúng tôi không tới đó đâu. Nhàn cư vi bất thiện. Các nhà truyền giáo nhận thấy điều chống lại mình chính là cả nếp sống với những cưới hỏi phải tranh hùng, những hành hạ và những cuộc ăn thịt người. Các Ngài quyết định chính mình tập trung dân lại, không coi họ là đồng minh. Nhưng khích lệ và còn hy vọng những cuộc hôn nhân với dân cư gốc Pháp nưã.

Sự sáng suốt của quyết định này đã được củng cố với những kinh nghiệm thu lượm được trong cuộc thí nghiệm năm 1638, trùng hợp với việc đến góp mặt của năm nhà truyền giáo khác nữa trong đó có: Isaac-Joques, một học giả và nhà lực sĩ có thể qua mặt cả người da đỏ và Charles Garnier. Dân da đỏ bắt đầu thù nghịch với các tu sĩ dòng Tên như là những phù thủy nguyền rủa dân tộc họ, khi ấy bóng áo dài của các Ngài in trên nền tuyết trắng trên đường đi tới làng nào, trẻ con khóc thét tìm mẹ như là cơn đói và dịch tễ đã đến. Đó là lúc Jean de Brebeuf thấy thánh giá vĩ đại của mình tiến đến từ vùng đất dân Iroquois cư ngụ, kẻ thù của dân Huron. Khi được hỏi thánh giá ấy giống cái gì, Ngài trả lời: “Nó lớn đủ để đóng đinh tất cả chúng ta”.

Dân Iroquois nuôi dưỡng sự tức giận từ khi bị người Pháp đánh bại 30 năm về trước và mức độ tấn công của họ ngày càng lớn thêm. Vào tháng tám năm 1624 Jognes, Goupil (một giáo dân cộng tác vào việc truyền giáo) và một nhóm người da đỏ từ Quebu trở về với thực phẩm cần thiết cho nhóm truyền giáo và những người dân da đỏ đói khổ. Họ bị dân Iroquois tấn công và bắt giữ. Dân này gặm tay họ như chó dại, rút móng tay và bắt họ chạy giữa hai hàng người cho người ta đánh đập mỗi khi qua làng nào. Sự tinh chế hay là “Mơn trớn” (như người da đỏ nói) của cực hình họ chịu còn nhiều hơn nữa: than nóng, dao mác, cắt xẻo để diễu cợt và vui chơi. Cái chết trong bầu khí quỉ quái hơn là chỉ để vui chơi, thường bằng cách thiêu sống và rồi sau đó thân thể được phân phát làm của ăn.

Goupil tồi tệ nhất. Ngài bị giết ngày 29 tháng 9 năm 1642 bằng một nhát búa vì dám rửa tội một em bé nhưng Jognes bị giam giữ nhiều tuần với bản án tử hình vĩnh viễn. Cuối năm 1643, với sự trợ giúp của vài nhà buôn Hòa Lan, Ngài đã trốn thoát được về Pháp bằng tàu, nhưng lại trở lại truyền giáo năm 1644 và được chính quyền miền tân Pháp gửi tới dân Iroquois như một sứ giả trong một thời gian hưu chiến ngắn.

Được khích lệ bởi những kết quả của cuộc viếng thăm này, Jognes đã trở lại với một giáo hữu trợ tá khác là Jean Lalande. Nhưng thành công của họ không sống lâu: một vụ mất mùa, một cái hộp khả nghi của Jognes mà người da đỏ tin là có chứa một tai họa và cả hai bị bắt, bị hành hạ, bị giết ngày 18 tháng 10 năm 1644.

Hầu hết dân Huron đã bắt đầu đón nhận đức tin Kitô giáo, tinh thần của họ như một dân bị khổ cực với những cuộc tấn công liên lỉ của dân Iroquois. Cuộc tử đạo kế tiếp xảy ra vào ngày 4 tháng 7 năm 1648 khi pháo đài chính xứ thánh Giuse, một làng 26 ngàn người bị dân Iroquois phá hủy. Antoin Daniel thành công trong 4 năm liên tiếp vừa mới cử hành thánh lễ xong, khi thấy nhóm người bảo vệ bị vây khốn, Ngài giục họ trốn đi và nói: “Tôi sẽ ở lại đây, chúng ta sẽ gặp lại nhau trên thiên đàng”. Mặc nguyên áo, Ngài tiến ra gặp người Iroquois. Họ ngỡ ngàng nhìn lại một chút, rồi bắn một loạt tên. Sau đó bắt nạn nhân của mình, tắm mặt họ vào máu Ngài và ném xác Ngài vào ngôi nhà thờ đang bốc cháy.

Mùa Xuân tiếp sau, người Iroquois tăng gấp đôi nỗ lực nhằm hại người Huron và trong một cuộc tấn công của 1000 người vào làng thánh Lu-y, họ bắt thánh Jean de Brébeuf và Gabriel Lement, thánh Jean de Brebeuf bị hành hạ nghiêm khắc đến nỗi đã chết sau 4 tiếng đồng hồ. Một chiếc vòng bằng vàng những cái rìu nóng đỏ quấn quanh cổ Ngài và Ngài đã được một người Huron phản đạo rửa tội trong nước sôi. Nằm chết, đám đông uống máu Ngài và thủ lãnh họ được đặc ân ăn trái tim Ngài.

Lelemant ốm yếu đã sống sót được 17 giờ bị hành hạ trước khi tắt hơi ngày 17 tháng 3 năm 1649.

Hai vị tử đạo khác bị những người Thổ của Giáo hội người da đỏ kêu gào đòi mạng khi sự khủng khiếp trải rộng tới dân tộc Tobacco sống ở những thung lũng núi Blue. Trong cuộc tấn công vào xứ thánh Gioan tháng 12 năm 1644, Charles Garnier đã bị giết khi Ngài cố gắng giải tội cho một người da đỏ, đang hấp hối. Là con của một người dân thành Paris, Ngài đã sống bằng rễ cây và trái sồi và đi bộ 30 hay 40 dặm dứơi sức nóng của mùa hạ qua miền đất thủ hần để rửa tội một người da dỏ đang hấp hối. Bạn Ngài, Noel Chabanel ngán các điều kiện của việc truyền giáo đến nỗi tự buộc mình bằng lời khấn sẽ ở lại đó cho tới chết, đã bị giết chết bởi một người Huron phản đạo vì tin rằng: tôn giáo mới chịu trách nhiệm về số phận đau khổ của quê hương anh ta.

Cuộc truyền giáo cho người Huron như thế thật gian khổ chỉ thấy chán nản thất vọng và phân tán. Tuy vậy ảnh hưởng của cuộc truyền giáo đã thay đổi nếp sống những người da đỏ, dầu họ còn hoang dại nhưng hết độc ác.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

19 Tháng Mười

Ôi Giêsu, Ôi Giêsu! 

Jeanne D’Arc, một cô gái quê, đã nghe theo tiếng gọi từ trời cao để cầm quân đánh đuổi người Anh ra khỏi đất Pháp. Nhờ chiến thắng này, hoàng tử Charles đã được đăng quang làm vua nước Pháp.

Nhưng sau đó trong một trận chiến khác, Jeanne D’Arc bị bại trận, cô bị người Anh bắt giữ và kết án hỏa thiêu. Trong những giờ phút cuối cùng cô chỉ còn trơ trọi một mình: người mẹ thân yêu ở cách xa ngàn dặm, vua Charles không muốn bỏ tiền ra để chuộc cô, các tướng lãnh và binh lính đã từng sát cánh bên cô cũng đã bỏ chạy trốn hết. Chỉ còn lại âm thanh lúc nào cũng trung thành với cô: đó chính là tiếng kêu của cô.

Trong cơn đau đớn cùng cực, người thiếu nữ đã kêu lớn: “Ôi Giêsu, ôi Giêsu!”. Quả thật, dù lòng người có bội bạc phôi pha, Chúa Giêsu vẫn luôn ở với cô và luôn an ủi đỡ nâng cô.

Tin tưởng là tiếp tục yêu mến cho dù trong từng phút giây ta có bị người đời bỏ rơi, phản bội. Yêu là tin rằng ta có thể trung thành trước những bất trung của người khác và những thăng trầm của cuộc sống. Chúng ta đứng vững trong niềm tin vì cho dù xung quanh ta không còn một bóng người, Thiên Chúa vẫn luôn ở đó.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Sáu Tuần 28 TN2, Năm Chẵn

Bài đọc: Eph 1:11-14; Lk 12:1-7.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Tin vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa

Trong cuộc sống, chúng ta rất hoang mang sợ hãi và không dám hành động nếu chúng ta không biết những gì sẽ xảy đến trong tương lai. Nhưng nếu biết trước những gì sẽ xảy ra, chúng ta sẽ không sợ hãi và tự tin hơn để tiến tới. Ví dụ: nền kinh tế của thế giới ngày nay. Trong cuộc đời của con người cũng vậy, nếu không biết đích điểm cuộc đời và những gì sẽ xảy ra sau khi chết, con người sẽ dễ dàng hoang mang và sợ đủ mọi thứ; nhưng nếu biết đích điểm cuộc đời và những gì xảy ra sau khi chết, con người sẽ không còn hoang mang sợ hãi và sẵn sàng chấp nhận những gì xảy đến trong cuộc đời ngay cả chấp nhận cái chết. Các Bài đọc hôm nay chỉ cho chúng ta thấy sự Quan Phòng và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, để giúp chúng ta luôn tin tưởng nơi Thiên Chúa và biết cách hành động khi phải đương đầu với những thử thách của cuộc đời.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Tin vào Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa

Đọan văn chúng ta đang nghiên cứu vẫn thuộc Bài Thánh Ca chúng ta đã phân tích hôm qua (Eph 1:1-14). Vài điểm cần lưu ý khi chúng ta đọc đọan văn này: khi dùng chủ từ “chúng tôi,” Thánh Phaolô có ý ám chỉ người Do-Thái; khi dùng chủ từ “anh em,” thánh nhân muốn ám chỉ các tín hữu Dân Ngọai. Điểm chính trong đọan văn hôm nay là thánh Phaolô muốn chỉ cho mọi người thấy: trong Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa, Ngài không chọn tất cả mọi người một lúc, nhưng chọn người Do-Thái trước. Sau đó, Thiên Chúa mở rộng Kế Họach Cứu Độ đến tất cả mọi dân mọi nước.

1.1/ Thiên Chúa chọn người Do-Thái đầu tiên: Kinh nghiệm cho thấy hầu hết mọi kế họach, nếu muốn thành công, phải bắt đầu từ một số nhỏ, rồi mới lan rộng từ từ đến số lớn hơn. Lý do là vì huấn luyện số nhỏ dễ dàng hơn là huấn luyện đám đông; và số nhỏ này, sau khi được huấn luyện, sẽ trở thành những cán bộ nòng cốt giúp cho việc phát triển được dễ dàng hơn. Thiên Chúa cũng thế, Ngài đã chọn người Do-Thái làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người. Ngài đã huấn luyện và chuẩn bị cho họ là những người đầu tiên đặt hy vọng vào Đức Kitô. Tất cả các Tông Đồ và môn đệ của Chúa Giêsu đều là người Do-Thái.

1.2/ Thiên Chúa mở rộng sự lựa chọn đến các Dân Ngọai: Sau khi Chúa Giêsu đã chọn và huấn luyện họ, Ngài sai họ đi đến với các người Do-Thái khác và với các Dân Ngọai. Bổn phận của các Tông Đồ và các môn đệ là làm cho muôn dân nhận biết Thiên Chúa và Kế Họach Cứu Độ của Ngài qua 2 việc:

(1) Qua việc rao giảng Tin Mừng: Đây là cách duy nhất giúp cho muôn dân nhận biết Chúa. Tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với con người đã được Đức Kitô mặc khải cho các môn đệ của Ngài. Giờ đây họ truyền lại cho Dân Ngọai tất cả những gì họ đã học được nơi Đức Kitô như lời Thánh Phaolô loan báo: “Trong Đức Ki-tô, cả anh em nữa, anh em đã được nghe lời chân lý là Tin Mừng cứu độ anh em.”

(2) Qua việc đóng ấn Thánh Thần: Sau khi đã nghe và học biết về Thiên Chúa và về Kế Họach Cứu Độ của Ngài, Dân Ngọai có tự do chọn lựa để tin hay không tin. Nếu họ tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa và vào Đức Kitô, họ được đóng ấn Thánh Thần qua Phép Rửa Tội và chính thức trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa. Ấn tín Thánh Thần chứng minh 2 điều: Chúa muốn con người tin nơi Ngài và con người có thể làm được với sự trợ giúp của Thánh Thần (Không ai có thể tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa mà không do Thánh Thần thúc đẩy).

Một khi đã tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô và được đóng Ấn Tín Thánh Thần, con người được bảo đảm để hưởng mọi đặc ân và gia nghiệp của Thiên Chúa. Thánh Phaolô nói: “Thánh Thần như bảo chứng (arrabon) phần gia nghiệp của chúng ta, chờ ngày dân riêng của Thiên Chúa được cứu chuộc.” Bảo chứng này giống như món tiền cọc đặt khi đi mua nhà; một khi đã đặt tiền cọc, căn nhà đó thuộc quyền sở hữu của người mua dù chưa trả hết tiền.

2/ Phúc Âm: Tin vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa

2.1/ Tránh cuộc sống gỉa hình như các Kinh-sư: Mặc dù các Kinh-sư là những người hiểu biết và tuyên xưng đức tin của họ nơi Thiên Chúa, nhưng cuộc sống giả hình của họ đã không chứng minh sự hiểu biết và niềm tin của họ vào Ngài. Nếu họ hiểu biết Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự thì làm sao họ có thể giấu Ngài lối sống gỉa hình của họ. Vì thế, Chúa Giêsu dặn các môn đệ phải đề phòng: “Anh em phải coi chừng men Pharisêu, tức là thói đạo đức giả. Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết. Vì thế, tất cả những gì anh em nói lúc đêm hôm, sẽ được nghe giữa ban ngày; và điều anh em rỉ tai trong buồng kín, sẽ được công bố trên mái nhà.”

2.2/ Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác: Khuynh hướng của con người là ham sống và sợ chết; nhưng nếu con người hiểu những gì sẽ xảy ra sau khi chết, con người sẽ dễ dàng chấp nhận cái chết hơn. Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ biết những điều này: “Thầy nói cho anh em là bạn hữu của Thầy được biết: Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác, mà sau đó không làm gì hơn được nữa. Thầy sẽ chỉ cho anh em biết phải sợ ai: hãy sợ Đấng đã giết rồi, lại có quyền ném vào hoả ngục. Thật vậy, Thầy nói cho anh em biết: anh em hãy sợ Đấng ấy.” Vì thế, nếu phải chấp nhận cái chết để làm chứng cho Chúa, thì con người cũng phải làm vì biết họ sẽ nhận lại cuộc sống trong Vương Quốc đời sau.

2.3/ Tin vào sự Quan Phòng của Thiên Chúa: Ngòai cái chết, con người còn lo sợ về những nhu cầu sinh sống hay bệnh tật. Chúa Giêsu dạy các môn đệ cũng phải vứt đi những lo sợ này và tin tưởng hòan tòan nơi tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa. Ngài bảo các ông: “Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế mà không một con nào bị bỏ quên trước mặt Thiên Chúa. Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.”

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Không hiểu biết, thiếu hiểu biết, hay hiểu biết sai là những nguyên nhân làm cho đức tin con người lung lạc và hay lo sợ viển vông. Chúng ta cần học hỏi để hiểu biết sự Quan Phòng và Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa.

– Có những điều xảy ra trong cuộc đời trong sự Quan Phòng của Thiên Chúa, nhưng ngòai sự kiểm sóat của con người: bệnh tật, già yếu, sự chết… Con người có lo sợ cũng chẳng thóat khỏi, chi bằng phó thác hòan tòan vào tình yêu Thiên Chúa và Kế Họach Cứu Độ của Ngài. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************