Ngày thứ sáu (22-10-2021) – Trang suy niệm

21/10/2021

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Sáu Tuần XXIX Mùa Thường Niên Năm lẻ

BÀI ĐỌC I: Rm 7, 18-25a

“Ai sẽ cứu tôi thoát khỏi cái xác chết này?”

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi biết rằng sự lành không ở trong tôi, nghĩa là trong huyết nhục của tôi. Vì chưng ước muốn thì tôi vẫn có, nhưng làm cho sự lành nên hoàn hảo thì không sao được. Bởi vì sự lành tôi muốn thì tôi không làm, còn sự dữ tôi không muốn thì tôi lại làm. Thực ra nếu tôi làm điều tôi không muốn, thì bấy giờ không phải chính tôi làm điều đó, nhưng là sự tội ở trong mình tôi. Thành ra khi tôi muốn làm sự lành, tôi nhận thấy trong tôi có lề luật, vì sự dữ vẫn kèm bên tôi. Theo như con người bên trong, tôi cũng ưa thích lề luật Thiên Chúa: nhưng tôi thấy trong chi thể tôi có một lề luật khác đối địch với lề luật tâm thần tôi, và giam hãm tôi dưới ách lề luật sự tội trong chi thể tôi. Tôi là con người vô phúc! Ai sẽ cứu tôi khỏi cái xác chết này? Cảm tạ Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Như thế, chính tôi lấy tâm thần mà phục vụ lề luật Thiên Chúa; còn về xác thịt, thì vâng phục lề luật của sự tội. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 118, 66. 68. 76. 77. 93. 94

Đáp:  Lạy Chúa, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài (c. 68b).

Xướng: 1) Xin Chúa dạy con sự thông minh và lương tri, vì con tin cậy vào các chỉ thị của Ngài. – Đáp.  

2) Chúa là Đấng tốt lành và nhân hậu, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Ngài. – Đáp. 

3) Xin Chúa tỏ lòng thương hầu uỷ lạo con, theo như lời đã hứa cùng tôi tớ Chúa. – Đáp. 

4) Nguyện Chúa xót thương cho con được sống, vì luật pháp Ngài là sự sung sướng của con. – Đáp. 

5) Đời đời con không quên những huấn lệnh của Ngài, bởi lẽ đó mà Ngài đã ban cho con được sống. – Đáp. 

6) Con thuộc về Chúa, xin Chúa cứu độ con, vì con tìm kiếm huấn lệnh của Ngài. – Đáp. 

ALLELUIA: Ga 15, 15b

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết”. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 12, 54-59

“Các ngươi biết tìm hiểu diện mạo trời đất? Còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu?”

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán bảo dân chúng rằng: “Khi các ngươi xem thấy đám mây nổi lên ở phía tây, lập tức các ngươi nói rằng: Trời sắp mưa; và sự thật xảy ra như thế. Và khi gió nam thổi đến, thì các ngươi nói: Trời sắp nóng nực. Và việc đã xảy ra như thế. Hỡi những kẻ giả hình, các ngươi biết tìm hiểu diện mạo của trời đất, còn về thời đại này, sao các ngươi không tìm hiểu? Tại sao các ngươi không tự mình phê phán điều gì phải lẽ? Thế nên, khi ngươi cùng với kẻ đối phương ra trước mặt quan quyền, thì đang lúc đi dọc đường, ngươi hãy cố lo liệu cho ổn thoả với nó đi, kẻo nó lôi ngươi đến trước quan toà, và quan toà trao ngươi cho lý hình và lý hình tống ngươi vào ngục. Ta bảo cho ngươi hay, ngươi sẽ không thể ra khỏi đó cho đến khi nào trả xong đồng xu cuối cùng”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

22/10/2021 – THỨ SÁU TUẦN 29 TN

Th. Gio-an Phao-lô II, giáo hoàng

Lc 12,54-59

BIẾT XEM XÉT ĐIỀU GÌ LÀ PHẢI

“Cảnh sắc đất trời, thì các người biết nhận xét, còn thời đại này, sao các người lại không biết nhận xét? Sao các người không tự mình xét xem cái gì là phải?” (Lc 12,56-57)

Suy niệm: Dịch bệnh Covid-19 đã lấy đi sinh mạng nhiều người người Việt nam; có lúc hàng trăm người chết mỗi ngày. Đại dịch, đói khát, cái chết, đau khổ đánh thức suy nghĩ của ta về cuộc đời, phận người. Với trí tuệ, con người đã có thể làm nhiều điều kỳ diệu mà trước đây chỉ có trong truyện giả tưởng: con người đã có thể vượt ra khỏi trái đất để khám phá vũ trụ; dù cách nhau nửa vòng trái đất vẫn có thể giao tiếp như đang diện đối diện… Trí tuệ con người siêu phàm là thế; ấy vậy mà, con người vẫn vấp phải những giới hạn. Sinh vật có lý trí ấy đang phải vất vả chống đỡ một mất một còn với con virus tí hon, kích thước vỏn vẹn 125nm (1 nanomét = 1/tỷ mét). Ngẫm về con người như thế, “sao các người không tự mình xét xem cái gì là phải?” Có một Đấng đến cứu con người, “sao các người lại không biết nhận xét?” 

Mời Bạn: Với lý trí, con người kiêu ngạo muốn làm bá chủ vũ trụ, thay thế Thiên Chúa. Điều này có thể đạt được không, khi kẻ tưởng mình là bá chủ thế giới rộng lớn lại không làm chủ được sự sống của chính mình? Vì thế, sinh vật “người” nếu khôn ngoan, phải tìm đến Đấng là Chủ, là Tạo hóa của đất trời.

Sống Lời Chúa: Mỗi ngày dành thời gian để nghĩ về cùng đích cuộc đời, nhìn nhận có Thiên Chúa và sống khiêm tốn, khôn ngoan đúng thân phận mình.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, hôm nay lễ Thánh Gio-an Phao-lô II, xin cầu bầu cho con khôn ngoan, “đừng sợ” đón nhận Chúa là Đấng Cứu thế. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Tục ngữ ca dao nước ta không thiếu những câu nói về thời tiết.
Kinh nghiệm dân gian cho phép dự đoán những gì sắp xảy ra.
Có những dấu hiệu báo trước cơn mưa hay dông bão.
“Sấm đàng đông vừa trông vừa chạy, sấm đàng nam vừa làm vừa chơi.”

Người dân nước Paléttin cũng có những kinh nghiệm tương tự.
“Mây kéo lên ở phía tây” là mây đến từ biển Địa Trung Hải.
Khi thấy mây từ biển tiến vào, người ta đoán mưa đến nơi rồi (c. 54).
Khi thấy gió từ phương nam thổi đến,
luồng gió nóng từ vùng núi Ả-rập,
người ta biết ngay thời tiết sẽ hết sức oi bức (c. 55).
“Và xảy ra đúng như vậy”, Đức Giêsu nhắc lại câu này hai lần.
Ngài cho thấy dự đoán của dân chúng về thời tiết ít khi sai.
Họ khá bén nhạy trước những dấu hiệu thay đổi nhỏ của trời đất.

Tiếc là dân chúng thời Đức Giêsu lại không đủ bén nhạy
để có thể nhận biết được ý nghĩa của những dấu chỉ
đang diễn ra trước mắt họ.
Đức Giêsu ngạc nhiên vì những người cùng thời với Ngài
không thấy được cái độc nhất vô nhị của thời đại họ đang sống.
Họ không cảm thấy hạnh phúc khi được Thiên Chúa đến viếng thăm.
Chính vì thế ơn cứu độ của Thiên Chúa có thể bị quên lãng.
“Hỡi những kẻ đạo đức giả!” Đức Giêsu đã gọi họ như thế (c. 56).
Tại sao các anh nhạy bén trước điều này, mà lại thờ ơ trước điều kia?

Thiếu bén nhạy về mặt tôn giáo cũng là cơn bệnh của con người thời nay.
Thiên Chúa vẫn nói với con người hôm nay qua các dấu chỉ.
Vấn đề là làm sao đọc được ý nghĩa của những dấu chỉ đó.
Thiên Chúa không hiện ra để dạy con người biết tôn trọng trái đất.
Nhưng những hậu quả mà con người phải chịu là lời nhắc nhở của Ngài.
Khi trái đất ấm dần lên, khi băng tan ra và mực nước biển dâng cao,
một số phần đất của quê hương ta sẽ bị chìm dưới nước.
Khi người dân chặt phá rừng, thì lụt lội và hạn hán là chuyện dĩ nhiên.
Cơn bệnh của thế kỷ cũng có thể là một lời nhắc nhở.
Thiên Chúa mời gọi vợ chồng sống chung thủy trong hôn nhân,
và mời các bạn trẻ sống trong sạch trước khi lập hôn ước.
Ngay cả cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng là một dấu chỉ.
Con người được mời gọi tìm ra những cơ cấu kinh tế vững vàng hơn,
để không bị một số ít nhà tư bản hay nước tư bản thao túng.

Mở mắt to để thấy, mở tai to để nghe, đó phải là thái độ của Kitô hữu,
vì hôm nay Thiên Chúa vẫn nói, vẫn làm nơi Đức Kitô, Con của Ngài.
Ngài vẫn nói với chúng ta qua hơn 90% người Việt Nam chưa biết Chúa.
Ngài vẫn nói với ta khi có những bạn trẻ Kitô hữu nghiện ngập, hư hỏng.
Ngài vẫn mời chúng ta làm một điều gì đó cho bao người nghèo khó,
cho trẻ em thất học, cho những phụ nữ lỡ làng, cho những người neo đơn.
Chỉ xin cho ta cảm được chút gió nhẹ của Chúa trong đời ta.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này
là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.

Con mơ ước
không còn những Ladarô đói ngồi ngoài cổng,
bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.

Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp,
không còn những cô gái đứng đường
hay những người ăn xin.

Con mơ ước
những ngưòi thợ được hưởng lương xứng đáng,
các ông chủ coi công nhân như anh em.

Con mơ ước
tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình,
các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.

Lạy Chúa của con,
con ước mơ một thế giới đầy màu xanh,
xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển,
và xanh của bao niềm hy vọng
nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây.

Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ,
thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

22 THÁNG MƯỜI

Bảo Vệ Phẩm Giá Của Mọi Con Người

Có lần tôi đã nói trong sứ điệp nhân Ngày Quốc Tế Hòa Bình: “Con đường đúng đắn để xây dựng một thế giới hiệp thông huynh đệ, một thế giới mà công lý và hòa bình sẽ ngự trị khắp mọi nơi, cho mọi dân tộc … đó là con đường liên đới, con đường của đối thoại và của tình huynh đệ đại đồng. Chỉ có con đường đó mà thôi.”

Ý thức liên đới phải vượt thắng mọi cám dỗ khép kín lòng mình. Ý thức ấy thúc đẩy người ta biết kính trọng những truyền thống văn hóa và luân lý của mọi dân tộc. Nó giúp các truyền thống gặp gỡ nhau, cảm thông và trân trọng nhau. Sự liên đới mà xã hội hiện đại cần có chắc chắn không phải là những câu khẩu hiệu mơ hồ sáo rỗng, nhưng phải là sự liên đới cụ thể trong tinh thần tôn trọng giá trị của sự sống, của mọi sự sống. Bởi vì nơi mỗi hiện hữu con người đều có phản ảnh sự hiện hữu của chính Thiên Chúa. Vì thế, chỉ có lòng bao dung mà thôi thì không đủ, thái độ thuần túy cam chịu càng không đủ. Sự chấp nhận mọi sự như hiện trạng của nó cũng không đủ. Điều cần thiết là phải có một thái độ dấn thân tích cực để tôn trọng và bảo vệ phẩm giá và quyền của mọi con người, trong bối cảnh là chính căn tính văn hóa của họ.

Thái độ dấn thân tích cực ấy sẽ thúc đẩy chúng ta tìm kiếm những điều ích lợi cho người khác, xây dựng những mối liên hệ mới, đem lại niềm hy vọng mới, hăng say phụng sự cho hòa bình. Chỉ khi hiểu biết và thông cảm nhau, chúng ta mới có thể giải quyết các xung đột và điều chỉnh những bất công. Và chỉ khi đó chúng ta mới có thể mở ra triển vọng thật sự về mối liên đới trong tự do và hy vọng. Chỉ khi đó chúng ta mới có thể mở ra con đường hòa điệu giữa các dân tộc – sự hòa điệu này là điều kiện không thể thiếu cho một nền hòa bình đích thực.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 22/10

Thánh Gioan Phaolô II, giáo hoàng

Rm 7, 18-25a; Lc 12, 54-59.

LỜI SUY NIỆM: “Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các ngươi biết nhận xét, còn thời đại này, sao các ngươi lại không biết nhận xét?”

          Chúa Giêsu đang kiển trách đám đông đang hiện diện quanh Người; họ chỉ biết nhận xét cảnh vật thiên nhiên bên ngoài như: “Mây kéo lên phía tây” và “Gió nồm thổi”. Còn đối với sự hiện hữu của Người với họ, thì lại không biết nhận xét, để xem có đem lại cho đời sống của mình và nhân loại ra sao?

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con, luôn phải biết nhận ra ân sủng tình thương của Chúa đang hiện hữu và ban phát cho chúng con hằng ngày trong cuộc sống, để biết sống đúng với phẩm giá Kitô hữu của mình.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 22-10: THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

Ðức Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng thứ 264 (1978-2005) của Giáo hội Công Giáo. Ngài là giáo hoàng người Ba Lan duy nhất cho đến nay và là giáo hoàng đầu tiên không người dân Ý kể từ thế kỷ 16 (giáo hoàng Adrian VI 1522-1523 người Hòa Lan). Triều đại 26 năm của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II dài thứ nhì, chỉ sau Đức Giáo hoàng Piô IX giữa thế kỷ 19 (32 năm, 1846-1878).

  Đức Gioan Phaolô II là vị giáo hoàng có rất nhiều cái “đầu tiên” và “duy nhất”:

  – Ðến thăm 104 quốc gia, nhiều hơn bất cứ nhà lãnh đạo nào khác trên thế giới: đi qua 700,000 dặm, nghĩa là 28 lần đường vòng quanh Trái Ðất, hay 3 lần đến Mặt Trăng.

  – Là vị giáo hoàng đầu tiên: đến Anh Quốc, thăm ngôi đền Hồi Giáo ở Syria, thuyết giảng trong buổi lễ tại một nhà thờ Tin Lành ở Áo năm 1983, bước vào đại hội đường Do Thái tại Roma năm 1986, thăm Rumania năm 1999 (cuộc viếng thăm đầu tiên của một giáo hoàng Vatican tại một nước Chính Thống Giáo Ðông Phương kể từ thời kỳ ly giáo 1,000 năm trước), thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức giữa Vatican và Israel.

– Ðức Ðạt Lai Lạt Ma 8 lần gặp ngài, nhiều hơn với bất cứ nhà lãnh đạo nào khác.

– Sáng lập Ngày Giới Trẻ Thế Giới.

– Thoát chết trong vụ mưu sát năm 1981 như một phép lạ của Đức Mẹ Fatima; đến thăm và nói lời tha thứ với kẻ ám sát mình.

– Chính thức lên tiếng xin lỗi về những sai lầm của Giáo Hội trong quá khứ.

– Hơn 3 triệu người xếp hàng để được đi ngang viếng chào linh cữu của Ngài, quàn tại Thánh Ðường St. Peter cho đến ngày tang lễ 8 Tháng Tư, 2005.

– Và còn nhiều cái “đầu tiên” & “duy nhất” khác nữa… 

Vì thế, Đức Gioan-Phaolô II được coi là “Giáo Hoàng của những kỷ lục”: kỷ lục đi xa, kỷ lục phong thánh, kỷ lục gặp gỡ, kỷ lục diễn văn… Ngài nổi tiếng ngay từ đầu triều giáo hoàng với lời kêu gọi mang lại nhiều niềm vui và bình an cho mọi người; đó là hai chữ ngắn gọn: “Đừng sợ!”

Những kỷ lục trên trước hết là kết quả của lòng đạo đức, lòng yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và bí tích Giải tội. Trước mỗi chuyến công du, ngài cầu nguyện rất nhiều, xưng tội trước khi đi công du. Ngài vẫn giữ thói quen rất lành thánh là xưng tội hằng tuần. Ngài cổ võ mạnh mẽ cho việc tôn sùng Thánh Thể. Khi viết về những giáo huấn liên quan đến đức tin, ngài thường quỳ gối viết trước Thánh Thể, gần giống như Thánh Thomas Aquino dựa đầu vào Nhà Tạm trước khi nói về Thánh Thể. 

Đặc biệt Ngài là “Giáo hoàng của Đức Mẹ” với khẩu hiệu “Totus Tuus” (Tất cả của con là của Mẹ, con hoàn toàn thuộc về Mẹ). Đức Gioan-Phaolô II rất trung thành với Chuỗi Mân Côi, ngài lần hạt từng ngày. Vào mỗi thứ Bảy đầu tháng, ngài lần hạt chung với giáo dân tại Hội trường Phaolô VI. Dịp các Đức Giám Mục hành hương năm 2000, ngài mời chị Lucia đến đọc Kinh Mân Côi, chị đọc một bè bằng tiếng Bồ Đào Nha, ngài và các Giám mục đọc một bè bằng tiếng La Tinh. Ngài đã viết hai văn kiện lớn về Đức Mẹ: Thông điệp Redemptoris Mater (Mẹ Đấng Cứu Độ) và Tông thư Rosarium Vigilis Mariae (Kinh Rất Thánh Mân Côi). Chính ngài đã thêm vào Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng và công bố Năm Mân Côi (từ tháng 10.2002 đến tháng 10.2003). 

Sinh ngày 18.05.1920 tại Wadowice – một thành phố cách Kraków (Ba Lan) chừng 50 km – ngài là người con út trong 3 người con của ông Karol Wojtyła và bà Emilia Kaczorowska, qua đời vào năm 1929. Người anh cả của ngài là Edmund, bác sĩ, qua đời năm 1932 và thân sinh của Ngài, một sĩ qua quân đội qua đời vào năm 1941. Trong khi chị của Ngài, Olga, qua đời trước khi Ngài được sinh ra.

Được rửa tội vào ngày 20.06.1920 tại nhà thờ giáo xứ Wadowice do cha Franciszek Zak; rước lễ lần đầu lúc 9 tuổi và lãnh nhận bí tích Thêm sức lúc 18 tuổi. Sau khi học hết chương trình trung học tại Marcin Wadowita, Wadowice, năm 1938, cậu ghi danh vào Đại học Jagellónica, Cracovia.

Khi quân xâm lược Naziste đóng cửa trường đại học vào năm 1939, cậu Karol làm việc (1940-1944) trong một hầm mỏ, và sau đó, trong một nhà máy hóa chất Solvay để kiếm sống và tránh bị đưa vào các trại tập trung bên nước Đức.

Từ năm 1942, cảm thấy mình có ơn gọi làm linh mục, cậu bắt đầu theo học tại Đại Chủng viện chui tại Cracovia dưới sự hướng dẫn của chính Tổng Giám mục Cracovia, ĐHY Adam Stefan Sapieha. Trong thời gian đó, thầy cũng là một trong những người tổ chức “Kịch nghệ Rapsodico”, cũng dưới hình thức chui.

Sau khi chiến tranh kết thúc, thầy tiếp tục theo học trong Đại Chủng viện Cracovia mới được mở cửa lại, và tại Phân khoa Thần học của Viện Đại học Jagellónica, cho đến khi chịu chức linh mục tại Cracovia vào ngày 11.11.1946, do sự đặt tay của Đức Tổng Giám mục Sapieha.

Sau đó, ngài được gởi qua Roma để theo học dưới sự hướng dẫn của cha Dòng Đa Minh người Pháp, cha Garrigou-Lagrange, và vào năm 1948, ngài đậu tiến sĩ thần học với luận án: “Đức tin trong các tác phẩm của Thánh Gioan Thánh giá” (Doctrina de fide apud Sanctum Ioannem a Cruce). Trong thời gian này, vào các kỳ nghỉ hè, ngài thường làm việc mục vụ cho người Ba Lan tại Pháp, Bỉ và Hòa Lan.

Vào năm 1948, ngài trở về Ba Lan, lúc đầu làm phó xứ Niegowić, gần Cracovia, và sau đó, làm phó xứ Thánh Floriano, trong thành phố. Đồng thời, ngài cũng làm tuyên úy sinh viên cho đến năm 1951, vừa theo học triết học và thần học. Vào năm 1953, ngài trình luận án tại Đại học Công giáo Lublino với đề tài: “Thẩm định khả năng thiết lập một nền luân lý Kitô từ hệ thống luân lý của Max Scheler”. Sau đó, ngài trở thành giáo sư Thần học Luân lý trong Đại Chủng viện Cracovia và tại Phân khoa Thần học Lublino.

Ngày 04.07.1958, Đức Giáo hoàng Piô XII đặt ngài làm giám mục hiệu tòa Ombi và giám mục phụ tá Cracovia. Ngài được thụ phong giám mục vào ngày 28.09.1958 tại nhà thờ chánh tòa Wawel (Cracovia), do sự đặt tay của Đức Tổng Giám mục Eugeniusz Baziak.

Ngày 13.01.1964, Đức Giáo hoàng Phaolô VI đặt ngài làm Tổng Giám mục Cracovia và rồi đề cử ngài lên tước vị Hồng y vào ngày 26..06.1967.

Ngài tham dự Công đồng Vaticano II (1962-1965) với sự đóng góp quan trọng trong việc soạn thảo Hiến chế Gaudium et Spes. Với tư cách Hồng y, ngài cũng là thành viên trong 5 Thượng Hội đồng Giám mục trước khi trở thành Giáo hoàng vào ngày 16.10.1978  và long trọng khởi đầu tác vụ Thánh Phêrô vào ngày 22.10.1978.

Đức Gioan Phaolô II đã thi hành sứ vụ của mình với tinh thần truyền giáo không mệt mỏi, dồn mọi nỗ lực lo lắng việc mục vụ đối với mọi Giáo hội và đức ái mục tử mở ra cho toàn thể nhân loại. Ngài đã thực hiện 104 chuyến đi trên toàn thế giới và 146 cuộc viếng thăm mục vụ tại nước Ý. Với tư cách là giám mục Roma, ngài đã thăm 317 giáo xứ (trên 333 giáo xứ).

Lòng yêu mến đối với các bạn trẻ đã hối thúc ngài thành lập những Ngày Giới trẻ Thế giới kể từ năm 1985. 19 cuộc họp mặt Giới trẻ Thế giới – diễn ra trong triều đại của ngài – đã quy tụ hàng triệu bạn trẻ trên khắp thế giới. Ngài rất quan tâm đến gia đình và đã tổ chức những Đại hội Gia đình Thế giới từ năm 1994.

Đức Gioan Phaolô II phát huy thành công trong việc đối thoại với người Do Thái và đại diện của các tôn giáo, bằng việc mời gọi họ đến những cuộc gặp gỡ cầu nguyện cho hòa bình, cách đặc biệt tại Assisi.

Dưới sự hướng dẫn của ngài, Giáo hội tiến về ngàn năm thứ ba và đã cử hành Đại Năm Thánh 2000, theo những đường nét đã được trình bày trong Tông thư Tertio millennio adveniente. Và rồi Giáo hội đối đầu với thời đại mới, lại được lãnh nhận những chỉ dẫn trong Tông thư Novo millennio ineunte, trong đó, ngài cho các tín hữu thấy hành trình của thời tương lai.

Với các Năm Thánh Cứu độ, Năm Thánh mẫu, Năm Thánh Thể, Đức Gioan Phaolô II đã phát huy việc canh tân đời sống thiêng liêng của Giáo hội. Ngài cũng đã tiến hành nhiều cuộc phong thánh và chân phước để đưa ra nhiều tấm gương thánh thiện cho con người thời đại hôm nay: Ngài đã cử hành 147 buổi lễ phong chân phước, gồm 1338 vị và 51 cuộc lễ phong thánh, gồm 482 vị thánh. Ngài cũng đã tuyên phong Thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu làm Tiến sĩ Giáo hội.

Ngài đã mở rộng con số của Hồng y đoàn, tấn phong đến 231 vị trong 9 mật nghị (1 vị ẩn danh và cũng không được nêu lên trước khi ngài qua đời). Ngài cũng triệu tập 6 Công nghị của Hồng y đoàn.

Ngài đã chủ tọa 15 Thượng Hội đồng Giám mục: 6 thông thường (1980, 1983, 1987, 1990, 1994 và 2001), 1 Thượng Hội đồng bất thường (1985) và 8 Thượng Hội đồng đặc biệt (1980, 1991, 1994, 1995, 1997, 1998 [2] và 1999).

Ngài ban hành 14 Thông điệp, 15 Tông huấn, 11 Tông hiến và 45 Tông thư. Ngài cũng đã ban hành cuốn Giáo lý của Giáo hội Công giáo, dưới ánh sáng của truyền thống, đã được Công đồng Vaticano II giải thích cách có thẩm quyền. Ngài đã sửa đổi Bộ Giáo luật Tây phương và Đông phương, cũng như đã thiết lập thêm các cơ chế mới và cải tổ Giáo triều Roma.

Đức Gioan Phaolô II, như một Tiến sĩ, đã xuất bản 5 cuốn sách: “Bước qua ngưỡng cửa Hy vọng” (tháng 10.1994); “Hồng ân và Mầu nhiệm: kỷ niệm 50 linh mục” (tháng 11.1996); “Trittico romano” – những bài suy niệm dưới hình thức thơ văn (tháng 3.2003); “Hãy đứng dậy, chúng ta cùng đi!” (tháng 5.2004); “Ký ức và Căn tính” (tháng 2.2005).

Ngài qua đời tại Vatican ngày 02.04.2005, lúc 21:37 (gần hết ngày thứ Bảy, bước vào Ngày  Chúa nhật Lòng Chúa Thương Xót).

Từ chiều hôm ấy cho đến lễ an táng của ngài vào ngày 08.04, đã có hơn ba triệu khách hành hương đến Roma để kính viếng ngài, dù phải xếp hàng chờ đợi cả 24 giờ mới có thể vào được bên trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô.

Ngày 28.04 sau đó, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã miễn chuẩn thời gian chờ đợi 5 năm sau ngày qua đời để khởi sự thủ tục phong chân phước và phong thánh cho Đức Gioan Phaolô II. Thủ tục này đã được chính thức khai mở vào ngày 28.06.2005 do Đức Hồng y Camillo Ruini, Tổng Đại diện coi sóc giáo phận Roma. Và Thánh lễ phong Thánh cho ngài được cử hành vào lúc 10g hôm nay (3g chiều Việt Nam), ngày lễ Lòng Chúa Thương Xót 27.4.2014.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

22 Tháng Mười

Hòn Vọng Phu

Giữa Nha Trang và Tuy Hòa, khoảng xa lộ 21 và sông Hinh, gần quận Khánh Dương có một ngọn núi tên là Vọng Phu, có nghĩa là trông đợi chồng.

Theo tục truyền trong dân gian thì thuở xưa có một gia đình sống hạnh phúc ở gần chân núi. Khi giặc giã nổi lên ở biên thùy, người chồng theo lệnh vua, tòng quân ra ngoài biên ải để chống quân thù, để lại người vợ trẻ và đứa con đang còn bú mớm. Người vợ trẻ ở nhà chờ chồng, mỗi ngày bế con trèo lên ngọn núi ngóng về phía biên cương xem có dáng chồng trở về hay không. Thời gian trôi qua nhưng đoàn quân chưa thấy về, người vợ và đứa con chờ đợi mãi hóa thành đá. Người đời biết chuyện nên gọi đó là Hòn Vọng Phu.

Có lẽ đây chỉ là một ngọn núi được cấu tạo bởi nhiều loại đá khác nhau. Theo thời gian, mưa gió sói mòn loại đá mềm, để lại hình dạng mường tượng như một người bồng con ngồi trông ra phía biển. Người dân ta đa sầu đa cảm, lại thêm cảnh nước luôn loạn ly, đã mượn hình dạng của núi để diễn tả tâm sự trông đợi chồng của người thiếu phụ Việt Nam.

Ðiều làm cho xao xuyến cảm động ở đây là lòng chung thủy của một thiếu phụ, dù đói no, đau yếu hay mạnh khỏe, vẫn trước sau một lòng thương yêu chồng, xem chồng như là lẽ sống của cuộc đời.

Rung động trước dạ trung kiên của người thiếu phụ Việt Nam qua hình ảnh Hòn Vọng Phu, chúng ta không khỏi không cảm động trước Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Dù núi dời, dù đồi chuyển, dù con người có bội bạc phôi pha, Thiên Chúa vẫn luôn chung thủy trong Tình Yêu của Người. Càng thấm thía tình thương của Chúa, chúng ta càng cảm thấy Người là lẽ sống và là tất cả của cuộc sống.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Sáu – Tuần 29 – TN1 – Năm lẻ

Bài đọc: Rom 7:18-25a; Lk 12:54-59.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Phải biết suy xét cho chín chắn để tìm ra sự thật.

Trên hành trình đi tìm sự thật, con người có thể dùng nhiều cách khác nhau. Con người có thể dùng lý luận, dựa vào điều đã biết để tìm ra điều chưa biết. Con người có thể dùng kinh nghiệm, những gì đã xảy ra trong những hoàn cảnh tương tự, chắc chắn sẽ xảy ra cho lần tới. Con người có thể tin vào những gì Thiên Chúa dạy qua các nhà lãnh đạo và các tiên tri. Hay có thể dùng tổng hợp của tất cả các cách.

Các Bài Đọc hôm nay mời gọi con người hãy biết suy xét để tìm ra sự thật và tin theo. Trong Bài Đọc I, dựa vào lý luận và kinh nghiệm cá nhân, Phaolô muốn chứng minh cho người Do-thái biết Lề Luật không có sức mạnh để thúc đẩy con người làm điều thiện và giải thoát con người khỏi tội; đó là lý do họ phải tin Thiên Chúa gởi Đức Kitô đến để giải thoát con người khỏi tội, và giúp con người có sức mạnh vượt thắng tội lỗi. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói với các khán giả của Ngài: nếu trí khôn và kinh nghiệm có thể giúp họ nhận ra những hiện tượng trong trời đất; chúng cũng có thể giúp họ nhận ra những điều tốt xấu trong lãnh vực luân lý mà họ phải thi hành. Nếu họ không chịu suy xét để nhận ra và hành động, họ sẽ phải lãnh nhận mọi hậu quả của hành động của họ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Lề Luật giúp con người biết thiện, biết ác; nhưng không cho sức mạnh để làm.

1.1/ Con người có thể nhận ra đâu là thiện, ác: Để hiểu lý luận của Phaolô, chúng ta cần hiểu lý luận của người Do-thái. Đối với họ, Lề Luật của Thiên Chúa đủ để giải thoát và làm cho con người được cứu độ. Đối với thánh Phaolô, Lề Luật chỉ giúp con người phân biệt giữa thiện và ác, chứ không cung cấp cho con người sức mạnh để làm.

Phaolô dùng lý luận và kinh nghiệm để thuyết phục những người Do-thái như sau: “Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Bởi đó tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay.”

1.2/ Con người có thể muốn, nhưng không có khả năng làm điều thiện: Theo kinh nghiệm, từ chỗ biết đến chỗ làm là điều không dễ: có những người biết rất nhiều, nhưng không bao giờ chịu hành động theo những gì họ biết; nhiều khi còn hành động hoàn toàn ngược lại. Thánh Phaolô diễn tả sự giằng co này như sau: “Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi. Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này?” Chính Đức Kitô cũng đề phòng các môn đệ của Ngài về sự nguy hiểm của xác thịt và việc cần phải tỉnh thức: “Tinh thần thì mau mắn; nhưng xác thịt thì nặng nề.”

Để giúp con người làm lành tránh dữ, con người không chỉ dựa vào Lề Luật; nhưng phải tin vào Đức Kitô, Đấng Thiên Chúa Cha gởi tới để giúp con người thoát khỏi cuộc chiến nội tâm này. Với Đức Kitô, con người có thể làm lành tránh ác như Phaolô tuyên bố: “Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!” Phaolô không giải thích chi tiết làm sao Đức Kitô giúp con người tránh tội và sống công chính trong trình thuật hôm nay; nhưng trong chương 8 kế tiếp, Phaolô so sánh về cuộc sống theo xác thịt và cuộc sống theo ân sủng của Thánh Thần. Truyền thống của Giáo Hội cũng nhấn mạnh tới cuộc sống nhân đức có được do ân sủng của Thiên Chúa và sự chế ngự xác thịt của con người sẽ giúp các tín hữu tránh tội và sống công chính.

2/ Phúc Âm: Phải biết dùng trí khôn để tìm ra sự thật.

2.1/ Kiến thức về thời tiết: Cha ông chúng ta ngày xưa, tuy không có các dụng cụ dùng để tiên đoán thời tiết như chúng ta ngày nay, biết dùng kinh nghiệm để tiên đoán thời tiết; và lưu truyền cho con cháu bằng những câu thơ đơn giản, dễ hiểu, và dễ nhớ. Chẳng hạn: “Cơn đàng Đông vừa trông vừa chạy,Cơn đàng Nam vừa làm vừa chơi.” Ý nghĩa: Khi thấy mây đen kéo tới từ phía Đông của Việt Nam, nghĩa là từ Biển Nam Hải đi tới, là chắc chắn sẽ có mưa. Vì thế, phải chạy cho nhanh chóng kẻo bị ướt; nhưng khi thấy mây đen kéo tới từ phía Nam, thì sẽ không có mưa, cứ việc thong thả làm hay chơi.

Đức Giêsu cũng dùng kinh nghiệm như thế khi nói với đám đông rằng: “Khi các người thấy mây kéo lên ở phía Tây, các người nói ngay: “Mưa đến nơi rồi,” và xảy ra đúng như vậy. Khi thấy gió Nồm thổi, các người nói: “Trời sẽ oi bức,” và xảy ra đúng như vậy. Ý nghĩa: Khi mây đen kéo tới từ phía Tây của Do-Thái, nghĩa là từ Biển Mediterranean đưa tới, là chắc chắn sẽ có mưa; khi gió Nồm (gió từ phía Nam) thổi tới là trời sẽ oi bức, vì thổi qua sa mạc.

2.2/ Kiến thức về thời gian: Vào thời đại của Chúa Giêsu, mọi người đều trông đợi Đấng Thiên Sai tới để giải phóng dân tộc. Theo các Sách Tiên Tri, Thiên Chúa sẽ cho những dấu để dân nhận biết khi nào Đấng Thiên Sai tới; chẳng hạn, theo Sách Tiên tri Isaiah: “Đức Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích cho những tù nhân” (Isa 61:1). Nhưng khi Chúa Giêsu nhắc cho họ biết, chính Ngài là Đấng tiên tri Isaiah đã loan báo (Lc 4:21), họ vẫn không tin vào Ngài. Đó là lý do tại sao hôm nay Chúa trách họ: “Những kẻ đạo đức giả kia, cảnh sắc đất trời, thì các người biết nhận xét, còn thời đại này, sao các người lại không biết nhận xét?”

2.3/ Dùng kiến thức tâm lý để chuẩn bị cuộc sống tương lai: Để chuẩn bị đối diện với sự công bằng của Thiên Chúa trong Ngày Phán Xét, Chúa trưng dẫn một ví dụ về kiện cáo mà con người vẫn thường làm: “Thật vậy, khi anh đi cùng đối phương ra toà, thì dọc đường hãy cố gắng giải quyết với người ấy cho xong, kẻo người ấy lôi anh đến quan toà, quan toà lại nộp anh cho thừa phát lại, và thừa phát lại tống anh vào ngục. Tôi bảo cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.” Ý nghĩa: công bằng là phải trả cho người khác những gì thuộc về họ. Nếu đã đối xử bất công với người khác thì hãy đền trả họ càng sớm càng tốt; nếu không, sẽ phải đền trả nơi tòa án và sẽ phải chịu tù đày nữa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Con người là con vật biết suy xét: biết dùng kinh nghiệm quá khứ để rút ra kinh nghiệm sống cho hiện tại; đồng thời, biết dùng những gì xảy ra trong hiện tại để mưu ích cho tương lai. Chúng ta đừng vội tin những gì người khác nói khi chưa suy xét cẩn thận, và đừng để cho người khác hay thế gian điều khiển cuộc sống của chúng ta.

– Sau khi đã tìm ra sự thật, chúng ta phải có can đảm để sống theo và làm chứng cho sự thật, thì mới có thể sinh lợi ích cho chúng ta và cho mọi người.

– Chúng ta không thể tự mình tránh tội và sống công chính mà không có ơn thánh của Đức Kitô. Chúng ta phải năng lãnh nhận các bí-tích để có sức mạnh tránh tội và luyện tập nhân đức.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************