Ngày thứ sáu (28-01-2022) – Trang suy niệm

27/01/2022

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Sáu Tuần III Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: 2 Sm 11, 1-4a. 5-10b. 13-17

“Ngươi đã khinh dể Ta và đã cướp vợ Uria làm vợ mình”.

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Khi ấy, sang năm mới, là lúc các vua thường ra trận, thì Đavít sai Gioáp, các tôi tớ của vua và toàn dân Israel đi tiêu diệt dân Ammon và bao vây Rabba. Còn Đavít thì ở lại Giêrusalem. Khi chiến tranh đang diễn tiến, thì một bữa trưa nọ, Đavít ra khỏi giường ngủ, đi bách bộ trên sân thượng nhà vua, liền nhìn thấy một phụ nữ đang tắm trên sân thượng nhà bà. Bà rất xinh đẹp. Vậy vua sai dò hỏi người phụ nữ đó là ai. Người ta thưa đó là bà Bethsabê, con ông Êliam, vợ Uria người Hêthê. Đavít sai cận vệ đi tìm bà. Khi trở về nhà, bà mang thai, nên sai người báo tin cho Đavít mà rằng: “Tôi đã có thai”.

Vậy Đavít sai người đến nói với Gioáp rằng: “Hãy sai tướng Uria người Hêthê về đây cho trẫm”. Gioáp sai Uria về gặp Đavít, và Uria đến gặp Đavít. Đavít hỏi thăm tin tức về Gioáp, quân sĩ, và trận chiến diễn tiến thế nào. Rồi Đavít nói cùng Uria: “Ngươi hãy về nhà rửa chân đi”. Uria rời khỏi hoàng cung, và người ta mang cho ông một phần ăn của nhà vua, nhưng Uria cùng các cận vệ nằm ngủ ngay trước cửa nhà vua chứ không về nhà. Người ta đi báo tin cho Đavít hay “Uria không đi về nhà”. Đavít mời ông ăn uống trước mặt mình và ép uống rượu cho say. Đến chiều Uria đi ra cùng với các cận vệ ngủ trên chõng, chớ không về nhà. Sáng hôm sau, Đavít viết một lá thư gởi cho Gioáp và sai Uria mang đi. Trong thư, ngài viết như sau: “Hãy đặt Uria vào nơi giao tranh gay cấn nhất, rồi bỏ mặc hắn, để hắn bị đánh cho chết”. Vậy khi Gioáp bao vây thành, liền cử Uria đến địa điểm mà ông biết có những quân địch mạnh nhất. Quân trong thành kéo ra nghinh chiến với Gioáp, nhiều quân sĩ của Đavít ngã gục, và cả Uria người Hêthê cũng tử trận. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 50, 3-4. 5-6a. 6bc-7. 10-11

Đáp: Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, vì chúng con đã phạm tội (c. 3a).

Xướng:

1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. – Đáp.

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. – Đáp.

3) Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con. – Đáp.

4) Xin cho con cảm thấy vui mừng hoan hỉ, cho xương bị Chúa đập hớn hở reo lên. Xin ngoảnh mặt đi, đừng nhìn tội lỗi, và tẩy xoá mọi điều gian ác của con. – Đáp.

ALLELUIA: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! – Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mc 4, 26-34

“Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Đất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa”.

Người còn phán: “Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được”. Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng lời Chúa cho họ, tuỳ sức họ có thể hiểu được, và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

28/01/2022 – THỨ SÁU TUẦN 3 TN

Th. Tô-ma A-qui-nô, linh mục, tiến sĩ HT

Mc 4,26-34

CHUYỆN NƯỚC THIÊN CHÚA

“Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất.”(Mt 4,26)

Suy niệm: Cả ba dụ ngôn – người gieo giống, hạt giống, hạt cải – đều truyền tải một sứ điệp: sức mạnh của Nước Thiên Chúa. Những khởi đầu xem ra không mấy sáng sủa, khả thi và đáng tin cậy: sự từ chối, sự vắng mặt của Thiên Chúa, sự bé nhỏ mỏng manh. Triều đại của Thiên Chúa đến không phải trong chớp nhoáng, dùng sức mạnh để thúc ép; nhưng là một tiến trình kiên nhẫn, tiệm tiến. Bởi vì, một khi hạt giống-Lời đã được gieo trồng vào mảnh đất tâm hồn của người đón nhận, sẽ dần dần đi sâu vào trí óc, con tim và biến đổi người ấy. Đây chính là sức mạnh của hạt giống–Lời. Đức Giê-su đã xây dựng Hội thánh khởi đi từ một nhóm nhỏ. Nhóm nhỏ này đã kín múc giáo huấn, “cùng ăn cùng uống” với Người, cùng được chuyển trao sứ mạng làm cho Triều đại Thiên Chúa hiện diện, phát triển ở những nơi Tin mừng được rao truyền.

Mời bạn: Toàn thể Giáo hội đã khởi động Thượng hội đồng giám mục cấp địa phương. Đây là thời gian để mỗi người, cộng đoàn, giáo xứ, giáo phận làm nảy sinh hạt giống-Lời. “Chuyện Nước Thiên Chúa” không của riêng tôi, riêng bạn, nhưng là chuyện chúng ta hiệp hành cùng nhau bước đi trong hiệp thông, tham gia và sứ vụ. Chúng ta chỉ có một việc phải làm, đó là gieo Lời trên mảnh đất được giao cho chúng ta.

Sống Lời Chúa: Tích cực tham gia các hoạt động trong giáo xứ và cộng đoàn bạn đang hiện diện, với ý thức làm cho hạt giống-Lời được biết đến và lớn lên.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con khiêm tốn cộng tác với hạt giống-Lời và kiên nhẫn làm chứng cho Nước Chúa trị đến. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:  

Một người có cái nhìn bi quan về Hội Thánh 
chắc sẽ tìm được nhiều dữ kiện để chứng minh. 
Tại một số nước phương Tây, có nhiều nhà thờ vắng người, 
chủng viện thiếu chủng sinh, tập viện tạm đóng cửa. 
Kitô hữu càng lúc càng chiếm tỉ lệ nhỏ 
trong tổng số dân trên thế giới. 
Có những khủng hoảng đức tin trong giới trẻ. 
Người ta tự hỏi Hội Thánh đã lỗi thời chưa. 
Có cần phải tin vào Ðức Kitô nữa không? 
Vào thời thánh Máccô viết sách Tin Mừng, 
cũng có những Kitô hữu bi quan về Hội Thánh. 
Hội Thánh ở Rôma chỉ là một thiểu số nhỏ nhoi 
chịu bách hại dưới ách của bạo chúa Nêrô. 
Liệu Hội Thánh có tồn tại và phát triển không 
dưới sức mạnh hùng hậu của đế quốc?

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta niềm lạc quan. 
Ðó là hai dụ ngôn về Nước Thiên Chúa, 
cũng là hai dụ ngôn về hạt giống. 
Trong dụ ngôn thứ nhất, hạt giống được gieo xuống đất 
là bắt đầu nảy mầm và lớn lên, 
theo một tiến trình không gì ngăn cản nổi. 
Trước hết mọc lên thành cây lúa, rồi trổ đòng đòng 
và sau cùng thành bông lúa trĩu hạt. 
Tự nó, hạt giống mang một sức sống mạnh mẽ. 
Nó lớn lên cả đêm lẫn ngày, 
chẳng cần con người can thiệp. 
Có cái gì mầu nhiệm trong sự tăng trưởng này 
khiến chính người gieo cũng không sao hiểu nổi. 
Một cách âm thầm, chậm rãi nhưng vững vàng, 
hạt lúa đạt đến kết quả mỹ mãn.

Dụ ngôn thứ hai lại cho thấy một sự tương phản. 
Nước Thiên Chúa như một hạt cải nhỏ xíu, 
vậy mà theo thời gian, nó mọc lên thành cây, 
và cây này lớn hơn mọi thứ cây cỏ khác. 
Hạt bé nhất lại cho cây lớn nhất. 
Nước Trời khởi đầu bằng Ðức Giêsu 
và một nhóm nhỏ môn đệ làm nghề chài lưới. 
Sau hai mươi thế kỷ, 
Kitô giáo đã lan khắp thế giới, đến với mọi dân tộc. 
Tuy nhiên, Nước Trời chỉ đến trọn vẹn vào ngày cánh chung.

Thái độ ta phải có là kiên nhẫn chờ đợi. 
Hạt giống nào cũng phải vùi sâu dưới đất, 
và phải đương đầu với những khó khăn khi thành cây. 
Có lúc ta thấy nó như bị chững lại hay suy thoái. 
Có lúc ta sợ nó không đứng vững trước bão bùng. 
Ðây là lúc ta phải sống niềm tin: 
tin rằng Thiên Chúa sẽ đưa Nước Ngài đến thành tựu, 
bất chấp những khiếm khuyết và cản trở của con người. 
Ðừng nản chí mà ngừng gieo vãi hạt giống Lời Chúa, 
dù nhiều khi chúng ta không thấy hạt giống lớn lên.

Cầu nguyện:  

Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa giữa một thế giới đầy chia rẽ.

Xin cho Hội Thánh không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.

Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.

Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

28 THÁNG GIÊNG

Làm Việc Là Một Quyền Căn Bản

Tầm mức toàn cầu của vấn đề lao động đang thúc bách chúng ta phải khẩn trương làm một cái gì đó. Không thể chần chừ thêm nữa. Đó là một trong những quan điểm của Thông Điệp Laborem exercens, cũng đồng nhịp với nhu cầu cần phải có những sự cộng tác quốc tế thông qua những hiệp ước và những bản thỏa thuận. “Căn bản của những hiệp ước này phải nhắm đến việc liệu sao cho có thêm việc làm cho người ta. Quyền làm việc là quyền căn bản của mọi người, và những người cùng làm việc như nhau phải được hưởng thù lao tương ứng với nhau. Phải liệu sao cho mức sống của người lao động trong mọi xã hội có thể bớt bộc lộ những sự chênh lệch khủng khiếp về mức lương bổng – là điều vốn bất công và thậm chí có thể châm ngòi cho những phản ứng bạo động” (Số 18). Vì thế, ở đây các nhà lãnh đạo quốc gia phải đứng trước một công cuộc có qui mô rất lớn.

Bản thân người lao động cũng có thể đóng góp vào công cuộc lớn lao này, bằng cách hiện diện trong những tổ chức quốc tế nơi mà họ có một tiếng nói đầy sức tác động, chẳng hạn Tổ Chức Lao Động Quốc Tế.

Trong phạm vi quốc gia mình, người lao động được kỳ vọng tác động vào công luận. Tại những nước dân chủ, điều đó có thể góp phần tạo ra những chính sách đặt nền tảng không phải trên sự phân biệt đối xử nhưng là trên cơ sở rằng người ta có quyền được nuôi sống chính mình và gia đình mình một cách thích đáng. Chúng ta phải nắm vững nhãn quan này về thiện ích của toàn thể gia đình nhân loại, một nhãn quan đòi hỏi chúng ta phải vượt qua những sự chênh lệch quá lớn giữa các quốc gia – về vấn đề việc làm và về tiềm lực kinh tế.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 28/01

Thánh Tôma Aquinô, Lmts

2Sm 11, 1- 4a. 5-10a. 13-17; Mc 4, 26-34.

Lời Suy Niệm: “Người không bao giờ rao giảng cho họ mà không dùng dụ ngôn. Nhưng khi chỉ có Thầy trò với nhau, thì Người giải nghĩa hết.”

          Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn mà giảng dạy, đặc biệt về Nước Trời, Người đưa ra những hình ảnh và những sự kiện thực tế, để gợi nhớ cho họ một sự liên tưởng, giúp họ nhận ra lời Người giảng dạy. Nhưng với các người môn đệ của Người, thì Người giải thích cặn kẻ, để giúp họ hiểu rõ hơn.

          Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mỗi người chúng con khi đọc Lời Chúa biết nhận ra điều Chúa muốn dạy bảo với chúng con, những điều Chúa muốn chúng con thực hiện trong ngày sống của mình.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 28-01: Thánh TÔMA AQUINÔ

Linh mục Tiến sĩ (1225-1274)

Tại vương quốc Naples, người vợ quí phái của lãnh chúa Aquinô được vị tu sĩ Thánh thiện cho biết, là bà sẽ rất đỗi vui mừng vì con trẻ bà mong đợi sẽ sáng chói với sự hiểu biết khôn sánh, Người con ấy là Tôma. Ngài sẽ là một vị thánh trong hàng ngũ các thánh. Toma sinh tại lâu đài Roccasecca, gần Naples khoảng năm 1225.

Được sáu tuổi cha nàng dẫn tới tu viện Montê Cassinô. Con trẻ được dâng hiến đã hỏi: – Thiên Chúa là gì ?

Và các tu sĩ ngạc nhiên vì thấy chìm đắm trong các suy ngắm (quá sớm và sáng suốt) ấy.

Lúc mười tuổi, Ngài được gửi tới đại học Naples. Các giáo sự đã khám phá ra dưới dáng vẻ nhút nhát của Ngài, một trí khôn thượng thặng và một đời sống siêu nhiên sáng ngời với các đức tính hiền hòa, trong trắng và đức ái của Ngài. Trong những kỳ nghỉ tại lâu đài cùng cha mẹ, Ngài gắng sức trợ giúp người nghèo. Điều này làm cho chủ lâu đài phiền trách Ngài. Tình yêu của Ngài đối với người mẹ thật bao la và đã tạo nên mối dày vò suốt đời.

Khi chưa tốt nghiệp đại học, Ngài đã quyết định vào dòng Đa-minh. Lúc ấy dòng thành lập chưa được ba năm. Gia đình Ngài rúng động với ý tưởng một con người quý phái như vậy lại trở thành một tu sĩ dòng ăn xin. Ngoài ra họ còn mong mỏi rằng: một ngày kia, Ngài sẽ còn làm điều gì đó, để phục hồi vận mệnh của họ bằng việc trở lại làm tu viện trưởng Montê Cassinô. Nghe được tin, các anh của Ngài đang là sĩ quan trong quân đội, đã giận dữ. Họ bắt Ngài trên đường đi Roma và giam Ngài dưới chân tháp của lâu đài. Gia đình gắng công vô ích khi nài nỉ, đe dọa và quyến rũ Tôma đổi ý.

Các anh Ngài còn dùng tới một cô gái làng chơi để hại người nữa. Nhưng cương quyết, Tôma đã dùng cây củi cháy để xua đuổi nàng, rồi dùng than củi này vẽ lên tường hình thánh giá. Quỳ xuống trước hình thánh giá, Toma với nhiệt tâm mạnh mẽ hơn bao giờ hết, lập lại lời hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa. Được hai năm, các chị Ngài đã cảm động trước sư cương nghị và những khổ cực của Ngài, đã giúp Ngài trốn qua cửa sổ bằng một cái thúng. Các tu sĩ Đaminh đợi Ngài dưới chân tháp.

Tôma khấn dòng ở Naples, rồi đi bộ từ Roma tới đại học Colonia.

Trong môi trường học thức ưu việt này, Ngài cố dấu kín các bước tiến khác thường của mình như Ngài đã che kín vinh dự gia đình. Không khi nào Ngài đã để cho người ta ngờ rằng mình là cháu của hoàng đế Barberoussa và là bà con của vua Frêdêric II cả. Khiêm tốn là bà hoàng của lòng Ngài. Ngày kia một bạn học giảng bài cho Ngài. Toma phải là bậc thầy của anh, đã tiếp nhận bài học với lòng biết ơn. Đó là thói câm lặng của Toma. Vì bình dị nên Ngài bị coi là đần độn. Người ta gọi chàng trai to con này là con bò câm.

Nhưng thày Albertô đã coi Ngài như một thiên tài và tuyên bố: – Con bò nầy sẽ rống lớn, đến nỗi những tiếng rống của nó sẽ vang dội khắp thế giới.

Người sinh viên tài ba này đã tỏ ra dễ dạy như một trẻ em. Tại phòng ăn, vị chủ chăn lầm lẫn, đã bắt Ngài sửa lại cách phát âm đã chính xác. Lập tức Toma sửa lại liền. Sau bữa ăn các bạn Ngài bày tỏ sự ngạc nhiên, nhưng thánh nhân trả lời: – Điều quan trọng không phải là cách phát âm của một từ ngữ, nhưng là biết khiêm tốn vâng phục hay không.

Lúc hai mươi tuổi, Tôma đã được gọi làm giáo sư tại Côlônia, Ngài xuất bản một tác phẩm danh tiếng, rồi đi Paris mở trường dạy triết học ở đường thánh Giacôbê và thụ phong linh mục. Các nhà trí thức tới hỏi ý Ngài. Vua Lu-y IX xin ý kiến Ngài trong những việc hệ trọng và mời Ngài đồng ban dự tiệc.

Nhưng không hoàn cảnh nào đã làm cho Tôma chia trí khỏi những suy tư sâu xa. Chẳng hạn tại bàn ăn của nhà vua, người ta thấy Ngài bất chợt ra khỏi sự yên lặng của mình, đập mạnh lên bàn và kêu lên:- Đây rồi, một luận chứng quyết liệt chống lại những người theo phái Manicheô.

Bối rối vì quên rằng mình đang ở trước mặt vua, Ngài muốn xin lỗi, nhưng vua thánh đã truyền cho Ngài đọc ngay cho thơ ký chép lại những suy tư có giá trị siêu việt đó.

Kinh nguyện, làm việc và ý chí là những yếu tố tạo nên sức mạnh của Tôma, Ngài nói: – Ai không cầu nguyện thì cũng giống như người lính chiến đấu mà không có khí giới.

Ngài định nghĩa sự nhàn rỗi như là: – Cái búa mà quân thù bửa xuống.

Ngài trả lời cho bà chị hỏi làm sao để được cứu rỗi: – Phải muốn.

Dầu bận việc rao giảng, dạy học và đi tới những nơi Đức Thánh Cha sai tới Thánh Toma vẫn viết nhiều tác phẩm thành công rực rỡ. Trong một lần hiện ra, Ngài nghe thấy thầy chí thánh nói với mình: – Hỡi con, con đã viết cách xứng đáng về ta, con muốn được thưởng gì ?

Tôma trả lời: – Oi lạy Chúa, con không muốn gì ngoài Chúa cả.

Người ta quả quyết rằng: Ngài đã nói chuyện với Đức Trinh Nữ, các thiên thần và các thánh. Và khi cầu nguyện tâm hồn Ngài như lìa khỏi xác. Ngài còn được mệnh danh mãi là “Tiến sĩ thiên thần” Ngài có một tâm hồn vui tươi, nhã nhặn với anh em, đến nỗi có người nói: – Mỗi lần thấy và nói chuyện với Ngài, tôi thấy như tràn ngập niềm vui thiêng liêng.

Thánh nhân đã qua mười năm tại Italia. Một phần trong thời gian nầy ở trong giáo triều, Đức Thánh cha Urbanô đã trao phó cho Ngài nhiều trọng trách, rõ ràng nhất là lo cải hóa người Do thái. Đức thánh cha còn muốn gọi Ngài lên chức giám mục nhưng Ngài đã từ chối. Năm 1269 Ngài trở lại Paris để dạy thần học. Năm 1272 Ngài được gọi về Naples để lo việc cho nhà mẹ dòng Daminh. Được năm cuối đời Ngài cống hiến để hoàn tất một tác phẩm vĩ đại, bộ “Tổng luận thần học”.

Nhưng cuối năm 1273 đột nhiên Ngài ngừng viết. Khi dâng thánh lễ, Ngài bỗng có linh nghiệm rằng mình không thể viết thêm được nữa. Réginald, thơ ký của Ngài thúc giục viết thêm, thánh nhân đã trả lời rằng: theo điều đã hiển hiện cho Ngài thì tất cả chẳng ra gì: – “Vì mọi điều tôi đã viết đối với tôi chỉ là rơm rác so với điều đã được mạc khải cho tôi thấy”.

Đức Grêgôriô cho mời thày dòng danh tiếng đến dự công đồng Lyon. Dầu bệnh hoạn, thánh Toma đã tuân phục và đi bộ với hai anh em để tới dự công đồng. Đi đường lên cơn sốt. Sức khỏe đã chận Người lại tu viện Fossa Nova.

Cảm thấy sắp chết, Ngài tuyên xưng đức tin và khi rước lễ, Ngài nói: – Tôi tin vững rằng: Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật và là người thật trong bí tích này, con thờ lạy Chúa, ôi Thiên Chúa, đấng cứu chuộc con”.

Ngài qua đời đơn sơ và dịu hiền của một trẻ em không ngừng chiêm ngưỡng Thiên Chúa.

Năm 1323 Ngài được phong thánh và được tuyên bố làm tiến sĩ Hội Thánh năm 1567, Đức Lêo XIII đã đặt Ngài làm Đấng bảo trợ các nhà thần học và các trường công giáo.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

28 Tháng Giêng 

 Nhân Vô Thập Toàn 

Theo một cổ truyện của người Hồi Giáo, thì Nasruddin là hiện thân của những người độc thân khó tính. Trong một buổi trà dư tửu hậu, khi được hỏi về lý do tại sao ông không bao giờ lập gia đình, Nasruddin đã giải thích như sau: “Suốt cả tuổi thanh niên, tôi đã dành trọn thời giờ để tìm kiếm người đàn bà hoàn hảo. Tại Cairo, thủ đo của Ai Cập, tôi đã gặp một người đàn bà vừa đẹp vừa thông minh, với đôi mắt đen ngời như hạt oliu. Ðẹp và thông minh, nhưng người đàn bà này không có vẻ dịu hiền chút nào. Tôi đành bỏ Cairo để đi Baghdad, thủ đô Iraq, để may tìm ra người đàn bà lý tưởng tôi hằng mơ ước. Tại đây, tôi đã tìm thấy một người đàn bà hoang hảo như tôi mong muốn, nghĩa là nàng vừa đẹp, vừa thông minh và cũng có tấm lòng quảng đại nữa. Nhưng chỉ có điều là hao chúng ta không bao giờ có đồng quan điểm với nhau về bât cứ điều gì. 

Hết người đàn bà này đến người đàn bà khác: người được điều này, người thiếu điều kia. Tôi tưởng mình sẽ không bao giờ tìm được người đàn bà lý tưởng cho cuộc đời. Thế rồi, một hôm tôi gặp được nàng, người đàn bà cuối cùng trong cuộc tìm kiếm của tôi. Nàng kết hợp tất cả những đức tính mà tôi hằng mong muốn, nghĩa là nàng vừa đẹp, vừa thông minh, vừa quảng đại tử tế. Nàng đúng là người đàn bà hoàn hảo. 

Nhưng cuối cùng, tôi đành phải quyết ở độc thân suốt đời. Các bạn có biết tại sao không? Nàng cũng đang đi tìm một người đàn ông hoàn hảo. Và tôi đã được nàng chấm như một người đàn ông còn quá nhiều thiếu sót.

Người đàn ông suốt đời độc thân trong câu chuyện trên đây đã quên một trong những quy luật cơ bản nhất của cuộc sống: đó là luật thích nghi. Thay vì bắt người khác và cuộc sống phải thích nghi với chúng ta, chính chúng ta phải là người thích nghi với người khác và cuộc sống. người đàn ông trong câu chuyện đã tìm được người đàn bà lý tưởng, nhưng chỉ tiếc rằng ông chưa biết trở thành một người đàn ông lý tưởng để có thể ăn đời ở kiếp với người đàn bà ấy. 

Tâm lý thông thường của con người là thích đòi hỏi người khác hơn là đòi hỏi chính mình. Chúng ta đòi hỏi người khác phải thế này thế nọ với chúng ta, nhưng chúng ta quên rằng chúng ta chưa làm những gì người khác cũng trông chờ nơi chúng ta. 

Chúa Giêsu đã đề ra cho chúng ta khuôn vàng thước ngọc để xử sự trong cuộc sống: “Những gì ngươi không muốn người khác làm cho ngươi, thì ngươi cũng đừng làm điều đó cho người khác”. Nếu chúng ta không muốn ai đối xử bất công với chúng ta, chúng ta hãy sống công bình. Nếu chúng ta không muốn ai cư xử hẹp hòi ích kỷ với chúng ta, chúng ta hãy sống quảng đại, độ lượng. Nếu chúng ta không muốn người khác cau có với chúng ta, chúng ta hãy luôn mang bộ mặt của tươi vui, phấn khởi đến với người.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thánh Thomas Aquinas Tiến Sĩ

Bài đọc: Wis 7:7-10; 15-16; Jn 17:11b-19.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự quí trọng của Đức Khôn Ngoan

Nếu một người muốn biết thánh sư Thomas Aquinas khôn ngoan dường nào, người đó cứ đọc bộ Tổng Luận Thần Học (Summa Theologiae) là sẽ biết ngay. Để thưởng công cho thánh nhân, một ngày kia Đức Kitô hiện ra với ngài và nói: “Thomas! Con viết rất hay về cha. Con cứ việc xin bất cứ sự gì Cha sẽ ban cho con.” Không một chút do dự, thánh nhân nói với Đức Kitô: “Không điều gì khác ngoại trừ chính Cha.”

Để có thể viết về Chúa hay đến thế, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh tất cả cho việc tìm kiếm khôn ngoan. Ngài thuộc dòng họ quí tộc, Landulph, cha của ngài là Quận Công (Count) của Aquino; mẹ của ngài là Theodora, Quận Chúa (Countess) của Teano. Gia đình của ngài có họ hàng với hoàng-đế Henry VI và Frederick II. Khi quyết định trở thành một tu sĩ Đa-minh, ngài đã gặp nhiều chống cự gay gắt từ phía gia đình đến nỗi cha và các anh chặn đường bắt giam ngài vào trong cây tháp San Giovanni ở Rocca Secca. Họ còn cho cả gái làng chơi vào để quyến dũ ngài bỏ ý định trở thành một tu sĩ nghèo hèn. Sau cùng, Thomas Aquinas đã vượt qua tất cả để tận hiến cuộc đời cho việc cầu nguyện và tìm kiếm sự khôn ngoan.

Hai bài đọc trong ngày lễ kính ngài hôm nay muốn nêu bật sự quan trọng và ích lợi của khôn ngoan. Trong bài đọc I, trình thuật hôm nay là hậu quả của cuộc đàm thoại giữa Thiên Chúa và vua Solomon. Vua Solomon đã xin cho được khôn ngoan và Thiên Chúa đã ban cho Nhà Vua khôn ngoan đến nỗi trước và sau Vua, không ai được khôn ngoan đến thế. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu trước khi chịu chết và về trời đã không xin Chúa Cha điều gì khác hơn là xin thánh hiến các môn đệ của Ngài trong Sự Thật. Ngài cầu nguyện để xin Cha ban cho các môn đệ hiểu biết và sống theo Lời của Thiên Chúa, để có thể hoàn thành nhiệm vụ Ngài trao và đạt đến quê Trời.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi.

1.1/ Hiểu biết khôn ngoan đáng quí trọng hơn mọi sự: Theo truyền thống Do-thái, vua Solomon là “tác giả” của các Sách Khôn Ngoan; vì vua Solomon được coi là người khôn ngoan nhất trong lịch sử của nhân loại. Truyền thống kể lại truyện khi Thiên Chúa hỏi nhà vua muốn xin bất cứ gì, thì Thiên Chúa cũng ban cho. Vua Solomon không xin cho có uy quyền, cũng chẳng xin cho được giầu có, sức khỏe, sống lâu, hay bất cứ điều gì khác; nhưng chỉ xin cho được khôn ngoan để biết sống và cai trị dân. Thiên Chúa rất hài lòng với điều nhà vua xin; nên Ngài hứa sẽ ban cho vua Solomon được khôn ngoan đến độ không có ai trước và sau vua được khôn ngoan như thế.

+ Khôn ngoan quí trọng hơn vương quyền: Nắm giữ vương trượng, ngai vàng, mà không biết cách cai trị dân chúng; sớm muộn gì rồi vương quyền cũng vào tay người khác. Nếu có Đức Khôn Ngoan, vua sẽ biết lòng dân mong ước gì, và cai trị họ theo những điều họ mong ước, thì vương quyền sẽ tồn tại lâu dài, và vua không phải chịu trách nhiệm trước tòa phán xét.

+ Khôn ngoan quí trọng hơn của cải: Vua Solomon thú nhận: ”Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất.” Có giàu có đến đâu chăng nữa, mà không biết cách sống sao để được bình an và hạnh phúc, có lợi gì cho người sở hữu nó đâu. Thực tế chứng minh: nhiều người giàu có, nhưng vẫn không muốn sống, và có người còn tìm cách kết liễu đời mình nữa.

+ Khôn ngoan quí trọng hơn sức khỏe và sắc đẹp: Đây phải là bài học khôn ngoan cho nhiều người trong xã hội chúng ta, quá chú trọng đến việc tập luyện và nhịn ăn uống để có một thân thể cân đối đẹp đẽ và khỏe mạnh. Dĩ nhiên chúng ta không đả kích những điều đó không quan trọng; nhưng không đủ để mưu cầu hạnh phúc cho con người. Có đẹp đẽ khỏe mạnh đến đâu chăng nữa, rồi cũng úa tàn theo thời gian. Vua Solomon cho biết lý do ông quí trọng Đức Khôn Ngoan hơn: ”Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi.”

Nói tóm, vua Solomon đã suy nghĩ rất nhiều khi xin cho được Đức Khôn Ngoan, vì khi có Đức Khôn Ngoan là có tất cả: ”Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể.”

1.2/ Làm sao để có Đức Khôn Ngoan? Khác với khôn ngoan của thế gian, ai muốn có phải cố gắng luyện tập; Đức Khôn Ngoan mà vua Solomon có được là do Thiên Chúa ban: “Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi.”

2/ Phúc Âm: Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.

2.1/ Chúa Giêsu biết sự nguy hiểm cho các môn đệ khi sống trong thế gian: Chúa Giêsu biết đã đến giờ Ngài phải bỏ thế gian, nên Ngài tâm sự với Chúa Cha: “Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha.” Giờ Chúa Giêsu phải rời bỏ các môn đệ, cũng là giờ mà các ông phải đương đầu với quyền lực của thế gian một mình. Ngài biết hậu quả sẽ nghiêm trọng chừng nào, như Ngài đã từng nói với các môn đệ: “Họ sẽ tiêu diệt chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác.” Nhìn lại kết quả việc chăn chiên của mình, Chúa Giêsu hãnh diện nói với Chúa Cha: “Khi còn ở với họ, con đã gìn giữ họ trong danh Cha mà Cha đã ban cho con. Con đã canh giữ, và không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư hỏng, để ứng nghiệm lời Kinh Thánh.”

Thế gian sẽ ghét bỏ và truy tố các môn đệ như họ sắp ghét bỏ và truy tố Chúa Giêsu. Lý do là vì cả Chúa Giêsu và các môn đệ không thuộc về thế gian. Ngài muốn cho các ông biết rõ điều này; để các ông không ngạc nhiên khi điều đó xảy đến.

2.2/ Chúa Giêsu cầu xin cho các môn đệ: Biết những nguy hiểm sẽ xảy đến cho các môn đệ như thế, Ngài cầu xin Chúa Cha ban cho các ông những điều quan trọng sau:

(1) Xin Chúa Cha bảo vệ các môn đệ khỏi ác thần: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian cũng như con đây không thuộc về thế gian.” Chúa Giêsu không xin “cất các môn đệ khỏi thế gian;” nhưng Ngài xin “gìn giữ họ khỏi ác thần.” Các ông phải ở lại thế gian để tiếp tục sứ vụ rao giảng của Ngài.

(2) Xin Chúa Cha thánh hiến các môn đệ trong sự thật: Giống như Phaolô, Chúa Giêsu biết nguy hiểm của sự sai lạc: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.” Sự thật đây là Lời Kinh Thánh và những lời tâm huyết Chúa Giêsu vừa dạy dỗ họ. Ngài biết mọi hành động sai bắt đầu từ sự hiểu biết sai; vì thế, hiểu biết sự thật là điều không thể thiếu cho các môn đệ của Chúa.

Cả hai điều cầu xin này đều được Chúa Cha ban cho các môn đệ qua việc ban Thánh Thần. Ngài là thần sự thật, Ngài sẽ giúp các ông nhận ra sự thật và sẽ hướng dẫn các ông tới tất cả sự thật. Ngài cũng là người bảo vệ và giúp các ông có sức mạnh làm chứng nhân cho Chúa.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúa Giêsu đã xin với Chúa Cha để Ngài gởi tới cho chúng ta Chúa Thánh Thần, Ngài là Thần Sự Thật, Ngài sẽ giúp chúng ta hiểu sự thật và dẫn chúng ta tới chân lý toàn vẹn.

– Chúng ta phải biết quí trọng sự thật và cầu xin Chúa Thánh Thần cho chúng ta thấu hiểu những lời dạy dỗ của Thiên Chúa, và có can đảm sống theo những gì Thiên Chúa dạy.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************