Ngày thứ sáu (31-01-2020) – Trang suy niệm

30/01/2020

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Sáu Tuần III Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I: 2 Sm 11, 1-4a. 5-10b. 13-17

“Ngươi đã khinh dể Ta và đã cướp vợ Uria làm vợ mình”.

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Khi ấy, sang năm mới, là lúc các vua thường ra trận, thì Đavít sai Gioáp, các tôi tớ của vua và toàn dân Israel đi tiêu diệt dân Ammon và bao vây Rabba. Còn Đavít thì ở lại Giêrusalem. Khi chiến tranh đang diễn tiến, thì một bữa trưa nọ, Đavít ra khỏi giường ngủ, đi bách bộ trên sân thượng nhà vua, liền nhìn thấy một phụ nữ đang tắm trên sân thượng nhà bà. Bà rất xinh đẹp. Vậy vua sai dò hỏi người phụ nữ đó là ai. Người ta thưa đó là bà Bethsabê, con ông Êliam, vợ Uria người Hêthê. Đavít sai cận vệ đi tìm bà. Khi trở về nhà, bà mang thai, nên sai người báo tin cho Đavít mà rằng: “Tôi đã có thai”.

Vậy Đavít sai người đến nói với Gioáp rằng: “Hãy sai tướng Uria người Hêthê về đây cho trẫm”. Gioáp sai Uria về gặp Đavít, và Uria đến gặp Đavít. Đavít hỏi thăm tin tức về Gioáp, quân sĩ, và trận chiến diễn tiến thế nào. Rồi Đavít nói cùng Uria: “Ngươi hãy về nhà rửa chân đi”. Uria rời khỏi hoàng cung, và người ta mang cho ông một phần ăn của nhà vua, nhưng Uria cùng các cận vệ nằm ngủ ngay trước cửa nhà vua chứ không về nhà. Người ta đi báo tin cho Đavít hay “Uria không đi về nhà”. Đavít mời ông ăn uống trước mặt mình và ép uống rượu cho say. Đến chiều Uria đi ra cùng với các cận vệ ngủ trên chõng, chớ không về nhà. Sáng hôm sau, Đavít viết một lá thư gởi cho Gioáp và sai Uria mang đi. Trong thư, ngài viết như sau: “Hãy đặt Uria vào nơi giao tranh gay cấn nhất, rồi bỏ mặc hắn, để hắn bị đánh cho chết”. Vậy khi Gioáp bao vây thành, liền cử Uria đến địa điểm mà ông biết có những quân địch mạnh nhất. Quân trong thành kéo ra nghinh chiến với Gioáp, nhiều quân sĩ của Đavít ngã gục, và cả Uria người Hêthê cũng tử trận. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 50, 3-4. 5-6a. 6bc-7. 10-11

Đáp: Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, vì chúng con đã phạm tội (c. 3a).

Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. – Đáp.

2) Vì sự lỗi con, chính con đã biết, và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Chúa. – Đáp.

3) Con thi hành điều ác trước thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã chào đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con. – Đáp.

4) Xin cho con cảm thấy vui mừng hoan hỉ, cho xương bị Chúa đập hớn hở reo lên. Xin ngoảnh mặt đi, đừng nhìn tội lỗi, và tẩy xoá mọi điều gian ác của con. – Đáp.

ALLELUIA: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! – Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Mc 4, 26-34

“Người kia đã gieo hạt xuống đất, rồi đi ngủ, hạt giống mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: “Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất: người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Đất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt. Và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa”.

Người còn phán: “Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung nước Thiên Chúa? hay dùng dụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to, đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được”. Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng lời Chúa cho họ, tuỳ sức họ có thể hiểu được, và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

31/01/2020 – THỨ SÁU TUẦN 3 TN

Th. Gio-an Bốt-cô, linh mục

Mc 4,26-34

CHÚA GIÊ-SU LÀ DỤ NGÔN

Người dùng nhiều dụ ngôn tương tự mà rao giảng lời cho họ, tùy theo mức độ họ có thể nghe. (Mc 4,33)

Suy niệm: “Đức Giê-su kể dụ ngôn cho dân chúng vây quanh Ngài, sử dụng các câu chuyện liên hệ đến đời sống họ, rút ra sự thật thiên đàng và gói nó bằng một nội dung trần thế” (Nhà biên kịch S. Kendrick). Nghệ thuật rao giảng của Đức Giê-su là nói nhiều hơn bằng cách nói ngắn hơn, với ít từ ngữ nhất. Đa số các dụ ngôn của Ngài đều dưới 250 từ. Dụ ngôn gần gũi với người nghe vì là các câu chuyện đến từ cuộc sống thường ngày, ai cũng hiểu dễ dàng. Thế nhưng, qua câu chuyện đời thường ấy, dụ ngôn đưa ta đi vào thế giới huyền nhiệm của Thiên Chúa: kế hoạch cứu độ của Chúa, tương quan giữa Ngài với con người, giữa con người với nhau, nhất là sự hiện diện của Nước Trời trên trần thế.

Mời Bạn: “Việc giảng dạy của Đức Giê-su bắt đầu bằng câu chuyện và kết thúc bằng biểu tượng – câu chuyện bắt đầu bằng dụ ngôn và kết thúc nơi ta. Đây không phải là câu chuyện Kinh thánh ta học hỏi, nhưng là câu chuyện của ta” (L. Sweet). Bạn hãy đi vào thế giới kín ẩn của Chúa bằng cách tập tạo mối tương quan thân thiết với Ngài. Lúc đó, dụ ngôn mà bạn được nghe trở thành câu chuyện cuộc đời của bạn.

Sống Lời Chúa: Tôi thường xuyên nghiền ngẫm những lời dạy, dụ ngôn của Chúa Giê-su để cho mối tương quan giữa mình với Chúa Giê-su ngày càng thêm thân thiết đến mức có thể nói “Tôi sống là Chúa sống trong tôi.”

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Dụ ngôn, Câu chuyện Thiên Chúa nói với con người. Xin cho con cảm nhận dụ ngôn là chính câu chuyện đời con, giúp con đi vào thế giới huyền nhiệm của Chúa. Amen.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

31 THÁNG GIÊNG

Hợp Tác Và Liên Đới

Nếu như trong quá khứ có một khuynh hướng xem lao động như chuẩn mực duy nhất đo lường giá trị con người, thì trong thời đại chúng ta lại thấy xuất hiện một nhãn quan mới: đánh giá con người theo chức năng. Theo cách nhìn này, lao động chỉ có ý nghĩa thông qua thu nhập trong một nghề nghiệp nào đó. Trước một trào lưu như vậy, chúng ta càng phải khẩn cấp hơn bao giờ hết để nắm bắt lại niềm xác tín rằng “lao động là một chiều kích căn bản của hiện sinh con người trên trái đất” (Laborem exercens 4). Nhưng đồng thời cũng phải nhận thức rằng lao động không phải là cứu cánh cuối cùng. Vâng, lao động phải luôn luôn phụ thuộc vào con người – và chính con người mới là mục tiêu và là cứu cánh cuối cùng của lao động (Laborem exercens 6).

Xuất phát từ sự thật đó, một yêu cầu quan trọng đặt ra cho tất cả mọi người: yêu cầu phải cộng tác và liên đới với nhau. Người ta vốn phải luôn luôn cần sự giúp đỡ và cộng tác của nhau để có thể cùng nhau thăng tiến. Liên đới có luật của nó: không ai có thể áp đặt nó lên một người khác. Trái lại, mỗi bên đều sẵn lòng đón nhận sự cộng tác của bên kia trong một đường lối xây dựng. Điều này áp dụng cả cho những doanh nghiệp cá thể lẫn cho toàn bộ tiến trình sản xuất. Nó cũng áp dụng – theo một nghĩa rộng – cho tất cả đời sống xã hội.

Khi nhìn lao động và sản xuất trong tinh thần hợp tác và liên đới, chúng ta có thể nhận ra những vai trò thiết yếu của mỗi bên liên hệ. Các chủ xí nghiệp và các vị lãnh đạo đảm nhận vai trò đưa ra các quyết định để bảo vệ mối thống nhất, sự hợp tác và điều hành hoạt động của xí nghiệp.

Những người lao động độc lập thì tự nhận lấy các trách nhiệm, những mối ràng buộc và những rủi ro trong công việc. Họ đem lại sự uyển chuyển cho toàn tiến trình sản xuất và họ được đền bù thích đáng bởi nguyên tắc phụ trợ. Theo nguyên tắc này, cả nhà nước lẫn xã hội đều không thể hạn chế sáng kiến và sự lựa chọn tự do của của cá nhân (Huấn thị của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, Tự Do và Giải Phóng theo Kitô giáo, số 73).

Về phần mình, những công nhân trực thuộc các xí nghiệp không chỉ có quyền nhận được món tiền lương công bằng – tức bảo đảm mức sống cho bản thân họ và gia đình họ; nhưng một cách liên đới trách nhiệm, họ cũng tham gia vào các sáng kiến và các quyết định có ảnh hưởng đến đời sống của xí nghiệp, nghĩa là các quyết định có ảnh hưởng đến chính tương lai của họ. Hơn nữa, họ sẽ làm việc bằng một cung cách sao cho luôn luôn bảo đảm tôn trọng phẩm giá và khả năng sáng tạo của mình. Như vậy, họ có thể thực sự cảm nhận được vai trò làm chủ của mình trong môi trường lao động (Laborem exercens 14 – 15).

Chúng ta biết rằng mọi quyền đều gắn liền với bổn phận. Nguyên tắc công bằng và bình đẳng không chỉ chi phối đến các mối quan hệ giữa chúng ta với nhau, nhưng cũng chi phối cả đến sự đóng góp của mọi người vào thiện ích chung. Nếu chúng ta muốn một xã hội công bằng hơn và một cuộc sống có chất lượng hơn, mọi người chúng ta đều phải biết nhìn xa hơn những ích lợi nhất thời của riêng mình. Chúng ta phải sẵn lòng dự phần vào trách nhiệm chung, vì thiện ích của mọi người.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

Ngày 31/1

Thánh Gioan Boscô, linh mục

2Sm 11, 1-4.5-10.13-17; Mc 4 26-34.

Lời Suy Niệm: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm, và mọc lên.”

          Nước Thiên Chúa là nước Tình yêu, tình yêu là khát vọng của con người, và Thiên Chúa đã ghi khắc trong trái tim con người, và Ngài không ngừng lôi kéo con người đến với tinh yêu Ngài. Dù cho con người đang sống trong bất cứ hoàn cảnh nào, mầm mống của tình yêu thương luôn luôn đang sống và đang lớn lên.

          Lạy Chúa Giêsu. Chúa đến, để mang ơn cứu độ toàn diện – một sự cứu độ bao trùm mỗi con người và toàn thể nhân loại, đồng thời mở ra một triển vọng rất kỳ diệu. là tất cả nhân loại đều được nhận làm con Thiên Chúa.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

Ngày 31-01: Thánh GIOAN BOSCÔ

Linh mục (1815-1888)

Ngày 16 tháng 8 năm 1815, Gioan chào đời trong một túp lều tranh thuộc tỉnh Turinô. Cha Ngài qua đời lúc Ngài được hai tuổi. Mẹ Ngài là bà Magarita một mình nuôi nấng ba người con trai. Bà tập cho con quen với công việc nặng nhọc, với đời cầu nguyện. Bà thường lập lại với các con bà: – Chúa thấy hết, Chúa thấy hết.

Và con cái bà biết rằng chính nhờ tình yêu mà Người ta làm đẹp lòng Chúa, Gioan sau này sẽ nói: – Nếu tôi trở thành linh mục đó là nhờ mẹ tôi.

Cậu bé đã tỏ ra có ơn gọi làm tông đồ. Ngoài đồng cỏ, Ngài đã đổi phần bánh ngon miệng của mình lấy mẩu bánh đen của một mục đồng nghèo. Mẹ Ngài trách cứ Ngài vì đã làm bạn với những người xấu. Gioan đáp lại: – Khi con chơi với chúng nó, chúng nó bớt khùng hơn.

Lúc chín tuổi, Gioan đã có một giấc mơ lạ lùng: một đám đông trẻ con tinh nghịch vây quanh Ngài, chúng nó nói phạm thượng. Bất chợt chúng hiện hình thành bọn lang sói. Nhưng đức Trinh Nữ đã nói với Gioan: – Đừng dùng bạo lực, nhưng hãy ngọt ngào nếu con muốn chiếm được tình nghĩa với chúng.

Ngài còn nói: – Đó là môi trường làm việc cùng con. Sau này con sẽ làm cho con cái mẹ, điều Mẹ sắp làm cho những con thú này.

Và rồi những con vật dữ tợn trên biến thành chiên ngoan Gioan đã kẻ lại giấc mơ trên. Một người anh đã nói với Ngài: – Mầy sẽ là thằng chăn chiên. Và người anh khác nói tiếp: – Hay là tướng cướp.

Vì tình yêu Chúa, cậu bé tưởng tượng ra mình là một thằng múa rối. Ngày Chúa nhật bọn trẻ xếp vòng tán thưởng nhà nhào lộn và leo giây đại tài, cha mẹ chúng, cũng tới nữa, những lúc đổi trò, mọi người phải lần chuỗi. Nhà nhào lộn trở thành nhà giảng thuyết, lập lại bài giảng của cha sở.

Một linh mục già cho Gioan cuốn sách văn phạm latinh và dạy Gioan học. Một trong các anh ghen tỵ. Gioan ôm sách đi tìm việc làm trong một nông rại. Hai năm sau trở về nhà, Gioan phải chân không cuốc bộ hai mươi cây số ngàn để tới trường học mỗi ngày. Sau này ở trường Chieri, Ngài làm gia nhân khi có giờ rảnh để khỏi tốn tiền mẹ. Ngài thành lập một hội vui để lôi kéo bạn bè vào đường thiện hảo, lành mạnh.

Gioan được thụ phong linh mục. Theo phong tục Italia, người ta gọi Ngài là Don Boscô. Mẹ Ngài đã nhắn nhủ: – Đùng lo nghĩ tới mẹ nữa mà chỉ cầu nguyện cho mẹ thôi. Lo lắng duy nhất của con là phần rỗi các linh hồn.

Ngài theo học ở Turinô, viếng thăm các tù nhân và đã kinh ngạc khi thấy bao nhiêu là thanh thiếu niên ở đó, thấy trong các đường phố những đứa trẻ này bị bỏ mặc cho sự cùng khổ và tật xấu của chúng. Phương pháp cứu vớt tuổi trẻ này. Trong thánh đường, một ông quản xua đuổi đứa trẻ lêu lổng. Gioan nhắc nhở ông ta rằng: nó lại không muốn nhận biết Thiên Chúa tốt lành sao ?

Chính Don Boscô sẽ dạy nó đọc chữ và giải thích giáo lý cho nó. Hôm sau đứa trẻ trở lại với bạn bè của mình. Hội bảo trợ đầu tiên được thành lập. Trong hai tháng số trẻ lên tới cả trăm. Nhưng tụ họp chúng ở đâu ? Khắp nơi người ta đều xua đuổi chúng, và người ta lại không cho rằng Don Boscô điên rồi sao ? Ngài thuê một căn nhà trong khu phố nghèo đói nhất và phải trả tiển nửa tháng một lần, Mẹ Ngài lo lắng: – Con không có lấy một xu.

Thánh nhân trả lời: – Nếu mẹ có tiền lại chẳng cho con sao ? Mẹ có tin là Chúa quan phòng giầu có vô cùng lại không tốt bằng mẹ sao ?

Ngài tập họp những trẻ xấu nết lại và dọn cho chúng ruớc lễ vỡ lòng, khu vực đốn mạt sắp trở thành nơi có tinh thần Kitô giáo nhất thành phố. Ngài không hề mất tin tưởng. Không có gì làm Ngài nản chí được. Ngài dẫn về cho mẹ mình những đứa vô lại chiêu tập trong một hàng quán. Đêm về những đứa vô lại này biến mất, mang theo cả chăn nệm, Ngài đưa về một thàng nhãi bị trui đến tận xương tủy. Chẳng mấy chốc căn phòng đã có tới bảy đứa như vậy.

Don Boscô mua một căn nhà. Trẻ nội trú đông nhung nhúc. Một ngày sống bắt đầu với thánh lễ, sau đó là đi học hay tập nghề. Chính lúc này mà thánh nhân muốn giúp đỡ từ những người nghèo tới các công tử. Các nhà sắp được xây dựng khắp nơi, cả đến Mỹ Châu.

Đối với các trẻ em nam, Gioan đã thiết lập một dòng gồm các linh mục mang danh là Salésien, để kính thánh Phanxicô Salê mà Ngài đã lấy châm ngôn của thánh nhân làm của mình.

– Lạy Chúa xin cho các linh hồn vì phần còn lại có đang giá gì cho con đâu ?
Và thánh nhân khuyên nhủ hãy làm điều đó: – Trong vui tươi hoan hỉ không ngừng.

Cùng với chị thánh Maria Mazzarello, Ngài cũng thiết lập một dòng tu mang danh hiệu các nữ tu Đức Mẹ phù hộ. Công cuộc các chị cũng sẽ lan rộng trên khắp thế giới. Mệnh lệnh của Ngài là: – Hãy tin tưởng cầu nguyện và can đảm tiến tới không ngừng.

Don Boscô đi thực hiện các công trình tại Pháp. Các sự lạ xảy ra vô số trên đường Ngài đi qua. Ơ Marseille Ngài gặp một đứa trẻ bệnh hoạn, Ngài bảo nó đọc một kinh kính Mừng và chữa lành cho nó. Cả đứa trẻ lẫn mẹ nó khóc nức nở vì biết ơn. Dọc đường xe Ngài bị vây chặt đến độ người đánh xe đã phải kêu lên: – Kéo theo một con quỉ, còn hơn chở một vị thánh.

Ở Paris Ngài được tiếp đón tưng bừng. Đức Hồng y xin Ngài chúc lành. Thi sĩ Victor Hugô hai lần muốn gặp Ngài. Người ta ngạc nhiên khi thấy Ngài rất đơn sơ vui vẻ và hiền hậu. Ngài giảng dạy nhiều. Các viện mồ côi, trường huấn nghệ, hội bảo trợ mọc lên khắp nước Pháp. Người ta nói Ngài dừng lại một chút, Người trả lời rằng: lên thiên đàng ta sẽ ngừng, hoặc, ma quỉ không có ngừng. Don Boscô muốn đưa cả thế giới về với Chúa Kitô. Các giấc mơ cho Ngài biết rằng: ước muốn của Ngài sẽ được thực hiện. Trong một giấc mơ Ngài thấy những người hoang dại quỳ gối trước mặt các tu sĩ Salésiens. Suốt đời Ngài không dứt các giấc mơ, các lời tiê đoán và các thị kiến.

Gioan phải trả cho định mệnh siêu nhiên của Ngài bằng những dằn vặt mà chỉ mình Ngài biết được. Một vị Hồng y đã phải lo lắng thấy mặt Ngài xanh mét kiệt sức. Thánh nhân cho Ngài biết là ma quỉ quấy phá mình cả đêm. Nhưng những người thân cận không hề biết gì những đau khổ của Ngài. Ngài nói: – Vì hồn tôi đã uống những chén đắng, tôi có quyền thêm vào những lo âu của con cái tôi bằng một gợn sóng đau khổ không ?

Bọn ác nhân giận dữ vì việc lành Ngài đã làm, đã tìm cách sát hại Ngài. Nhưng sức mạnh của sự dữ không nghĩa lý gì. Vượt qua mọi trở ngại tưởng như không thể lướt thắng nổi, Don Boscô còn hoạt động nhiều hơn nữa. Y sĩ tuyên bố rằng: phép lạ lớn lao nhất là Don Boscô còn sống được.

Cuối cùng Gioan cảm thấy rằng: thân xác Ngài không còn chiến đấu nổi nữa. Ngài sắp qua đời. Ngài nói với các linh mục của mình khi họ tới thăm: – Hãy nói với các con cái của tôi rằng: tôi đợi chúng tất cả trên thiên đàng.

Ngài còn nói như lời dặn dò thân thiết nhất: – Hãy cổ võ việc siêng năng rước lễ và lòng tôn sùng Đức Trinh Nữ:

Người ta còn nghe thấy Ngài nói trong cơn mê sảng: – Mẹ, mẹ ơi, ngày mai… Mẹ hãy mở cửa thiên đàng cho con.

Thánh Don Boscô qua đời, đoàn con cái xếp hàng hôn bàn tay đã tận tình cứu giúp họ. Ngày 30 tháng giêng năm 1888.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

31 Tháng Giêng 

Kỳ Quan Của Thế Kỷ 19  

Ngày 31 tháng 1, cách đây đúng một thế kỷ, thế giới mất đi một người mà ông Rattazzi, thủ tướng nước Italia, thời bấy giờ nổi tiếng là người chống báng Giáo Hội, đã phải thốt lên: “Ngài là kỳ quan vĩ đại nhất của thế kỷ thứ 19. Cả nước Pháp đã suy tôn Ngài như một vị Thánh Vinh sơn đệ Phaolô của thế kỷ”. Con người đó chính là Thánh Don Bosco. 

Thánh nhân chào đời năm 1815 tại miền Piemonte, thuộc mạn bắc nước Italia. Mẹ Ngài là bà Magarita mong ước cho Ngài được làm linh mục. Nhưng bà đã dặn dò con mình: “Mẹ đã sinh ra trong nghèo khó, mẹ đã sống trong nghèo khó, mẹ cũng muốn chết trong nghèo khó. Nếu con muốn làm linh mục để giàu có, mẹ sẽ không bao giờ bén mảng đến với con”. 

Don Bosco đã thực hiện lời khuyên của mẹ. Không những Ngài đã sống nghèo, nhưng chỉ sống với người nghèo, nhất là trẻ em nghèo. Ngài đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm, thu nhặt những trẻ em lang thang đầu đường xó chợ. 

Nếu mãi đến năm 1848, Karl Marx mới đưa ra tuyên ngôn kêu gọi giới công nhân đứng lên, đoàn kết đấu tranh cho quyền lợi của họ, thì trước đó, Don Bosco cũng đã tranh đấu cho giới công nhân rồi. 

Thời của Thánh nhân, kỹ nghệ mới phát triển, nhiều vấn đề xã hội được đặt ra. Thánh nhân chủ trương không chỉ mang lại cho giới trẻ một nền giáo dục về mặt tinh thần hay tu đức, mà còn giúp cho giới trẻ một nghề nghiệp trong tay. Thánh Don Bosco đã được xem như là cha đẻ của những trường huấn nghệ ngsày nay. 

Phương pháp sư phạm được Thánh nhân đề ra nhắm đến sự đề phòng hơn là trừng phạt. Thay vì chữa trị những sai trái, tốt hơn là đề phòng để những sai trái không xảy ra. Trong tất cả mọi sự, tình thương và sự dịu dàng là cơ sở cho tất cả mọi cư xử của Thánh Don Bosco. 

Hiền lành và vui vẻ là hai nhân đức trội vượt trong sự thánh thiện của Thánh Don Bosco. Với sự hiền lành đầy cảm thông, Thánh nhân nhìn mọi người bằng chính cái nhìn của Chúa Giêsu. Cái nhìn đó muốn nói với tội nhân hay bất cứ một tâm hồn xấu xa nào rằng: “Bạn có một giá trị cao cả. Thiên Chúa vẫn tiếp tục yêu thương bạn. Bạn đừng ngã lòng”. 

Ði đôi với sự hiền lành chính là vui vẻ. Châm ngôn của Thánh Don Bosco chính là: Phụng sự Chúa trong vui tươi. Sự vui vẻ của Thánh Don Bosco là liều thuốc hữu hiệu nhất cho thời đại đầy ohiền muộn và chán nản của chúng ta. Niềm vui của Thánh nhân xuất phát từ một xác tín cơ bản trong Kitô giáo của chúng ta: Thiên Chúa là Tình Yêu. Do đó những người được Thiên Chúa yêu thương không thể nào buồn thảm được. 

Sứ điệp của Thánh Don Bosco vẫn luôn hợp thời, nhất là trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta. Giữa một xã hội mà tương quan con người được xây dựng trên thù hận, nghi kỵ, bon chen, giành giật, lừa đảo. Thánh Don Bosco nói với chúng ta rằng: Con người vẫn còn đáng thương yêu, vẫn còn đáng tôn trọng và tin tưởng. 

Giữa một xã hội mà sự buồn thảm đang ngự trị, Thánh nhân muốn đem lại cho chúng ta nụ cười của lạc quan. Nụ cười lạc quan đó chỉ có thể nở rộ khi con người còn tin tưởng ở Tình Yêu của Thiên Chúa. Giữa những mất mát từng ngày, Thánh Don Bosco mời gọi chúng ta hãy tìm kiếm lại mọi sự trong Tình thương của Chúa.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Sáu Tuần 3 TN2

Bài đọc: Heb 10:32-39; 2 Sam 11:1-4a, 5-10b, 13-17; Mk 4:26-34.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Người công chính sống bởi đức tin.

Trong cuộc đời, có nhiều điều xảy ra vượt quá khả năng hiểu biết của con người, chẳng hạn: chúng ta không cắt nghĩa được sự sống, chúng ta không giải thích nổi đức tin; vì những điều này đến từ Thiên Chúa.

Các Bài Đọc hôm nay cho thấy sự liên hệ giữa đức tin và sự sống. Con người phải trung thành giữ vững đức tin để đạt được sự sống muôn đời; cho dù phải chờ đợi lâu dài và chịu đựng đau khổ. Trong Bài Đọc I, năm lẻ, tác-giả Thư Do-thái khuyên các tín hữu phải giữ vững đức tin có được từ thuở ban đầu, và phải kiên trì sống đức tin đó cho tới khi đạt được sự sống muôn đời.

Trong Bài Đọc I, năm chẵn, Thiên Chúa vừa hứa sẽ ban cho David một dòng dõi làm vua trị vì muôn đời; thế mà David lại vừa phạm hai tội tày đình trong trình thuật hôm nay: tội lấy vợ của người và tội giết người. Hai tội này mở màn cho những tội kế tiếp trong dòng dõi David: loạn luân, giết người, thù địch giữa anh em, cha con… Con người tự hỏi làm sao lời hứa của Thiên Chúa được thực hiện qua những trang sử đen tối của nhà David! Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu so sánh Nước Thiên Chúa giống như hạt giống gieo xuống đất, con người có biết đến hay không thì hạt giống vẫn sống: nó nẩy mầm, bén rễ, mọc lên, sinh hoa kết trái, và sẵn sàng cho mùa gặt. Ngài cũng so sánh Nước Thiên Chúa như hạt cải, tuy nhỏ bé nhất trong các hạt giống, nhưng có tiềm năng trở thành cây lớn cho muôn chim kéo đến làm tổ.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I (năm lẻ): Đừng đánh mất lòng tin tưởng mạnh dạn của anh em vào một kho tàng cao quí.

1.1/ Phải giữ vững đức tin: Tác-giả Thư Do-thái nhắc nhở cho các tín hữu nhớ lại thuở ban đầu khi họ vừa lãnh nhận đức tin: “Xin anh em nhớ lại những ngày đầu, lúc vừa được chiếu sáng, anh em đã phải vật lộn với bao nỗi đau khổ: khi thì chính anh em bị sỉ nhục và hành hạ trước mặt mọi người, khi thì anh em cùng cảm thông với những người trong cảnh ngộ như thế. Quả thật, anh em đã thông phần đau khổ với những người bị tù tội và đã vui mừng để cho người ta tước đoạt của cải; vì biết rằng mình có những của vừa quý giá hơn lại vừa bền vững. Vậy, anh em đừng đánh mất lòng tin tưởng mạnh dạn của anh em; lòng tin tưởng đó sẽ mang lại một phần thưởng lớn lao.”

Con người dễ đương đầu với khó khăn hơn là với thịnh vượng giàu sang, vì khó khăn làm con người luôn phải cố gắng vươn lên, trong khi cuộc sống dễ dàng luôn kéo con người xuống. Ngoài ra, khi con người phải sống trong hòan cảnh nghèo khổ, con người dễ trông cậy nơi Thiên Chúa và sống bác ái với anh chị em, hơn là khi con người thành công và giàu có. Tục ngữ Việt Nam có lý do để nói: “giầu đổi bạn, sang đổi vợ.” Làm sao để con người luôn giữ đức tin và tình yêu có được thuở ban đầu?

1.2/ Phải kiên nhẫn chờ đợi những gì Thiên Chúa hứa: “Anh em cần phải kiên nhẫn, để sau khi thi hành ý Thiên Chúa, anh em được hưởng điều Người đã hứa. Vì chỉ còn ít lâu nữa, một ít thôi, Đấng phải đến sẽ đến, Người sẽ không trì hoãn. Người công chính của Ta nhờ lòng tin sẽ được sống; nhưng nếu người ấy bỏ cuộc, thì Ta không hài lòng về người ấy. Phần chúng ta, chúng ta không phải là những người bỏ cuộc để phải hư vong, nhưng là những người có lòng tin để bảo toàn sự sống.” Tác giả đưa ra 2 điều giúp con người giữ vững đức tin và tình yêu của mình:

(1) Ngày Chúa Quang Lâm sẽ đến: Trong Ngày này, Ngài sẽ thực thi những gì Ngài đã hứa cho những ai trung thành giữ những gì Ngài dạy.

(2) Phải luôn giữ vững niềm hy vọng vào Ngày này: Con người dễ mất kiên nhẫn và bị chia trí vào những cám dỗ ở đời này, mà quên đi giá trị “vừa quý giá hơn lại vừa bền vững” ở đời sau. Không gì đời này có thể so sánh với sự sống muôn đời và hạnh phúc con người sẽ lãnh nhận.

2/ Bài đọc I (năm chẵn): Vua David phạm hai tội nặng nề trước mặt Thiên Chúa.

2.1/ David phạm tội ngoại tình: Trình thuật kể: “Lúc xuân về… Vào một buổi chiều, vua David từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng nhan sắc tuyệt vời. Vua David sai người đi điều tra về người đàn bà, và người ta nói: “Đó chính là bà Bathsheba, con gái ông Eliam, vợ ông Uriah người Hittite.”

Vua David sai lính biệt phái đến đón nàng. Nàng đến với vua và vua nằm với nàng; Người đàn bà thụ thai. Nàng sai người đến báo tin cho vua David rằng: “Tôi có thai.””

Để chạy tội làm bà Bathsheba có thai, hai lần vua David dùng xảo kế để Uriah chồng bà về ăn nằm với Bà; nhưng cả hai lần vua đều thất bại, vì Uriah từ chối không về nhà gặp vợ.

2.2/ David phạm tội giết người: Để diệt trừ tai tiếng, vua David nghĩ cách để giết Uriah cách êm thắm. Vua viết thư cho ông Joab và gửi ông Uriah mang đi trong thư, với những lời lẽ như sau: “Hãy đặt Uriah ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết.” Ông Joab đang thám sát thành liền để ông Uriah ở chỗ ông biết là có quân hùng mạnh nhất. Người trong thành xông ra, giao chiến với ông Joab. Một số người trong quân binh, trong các bề tôi vua David đã ngã gục, và ông Uriah, người Hittite, cũng chết.

Vua David tưởng “chó chết hết chuyện;” nhưng vua có ngờ đâu hậu quả khốc liệt đang chờ đổ xuống trên nhà David trong những thời gian kế tiếp! Nhưng cũng chính vì những biến cố này mà David cảm nhận được tình thương Thiên Chúa qua những bài thánh vịnh nói lên tấm lòng ăn năn thống hối của ông. Thiên Chúa vẫn tiếp tục thực hiện những gì Ngài hứa với David ngang qua những lúc tăm tối nhất của cuộc đời. Điều quan trọng là David luôn tin tưởng và kiên trung vượt qua mọi thử thách, chứ không đánh mất niềm tin và hy vọng nơi Thiên Chúa.

3/ Phúc Âm: Đức tin, tiềm năng của sự sống, đến từ Thiên Chúa.

Nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu diễn giải qua 2 ví dụ. Mục đích của việc diễn giải là để nói lên: (1) Nước Thiên Chúa lớn mạnh là do Thiên Chúa, không do công sức của con người; và (2), Nước Thiên Chúa tuy bắt đầu bé nhỏ, nhưng có tiềm năng lan rộng khắp thế giới.

3.1/ Nước Thiên Chúa được ví như một hạt giống chứa đựng tiềm năng của sự sống: Chúa Giêsu nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẩy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Đất tự động sinh ra hoa màu: trước hết cây lúa mọc lên, rồi trổ đòng đòng, và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa.” Qua ví dụ này, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến 3 điều sau đây:

(1) Con người không phải là tác giả của sự sống: Sự sống đến từ Thiên Chúa và được trao ban cho muôn vật. Trong sự tạo dựng của Thiên Chúa, hạt giống tự nó đã có tiềm năng của sự sống. Con người không cho hạt giống sự sống, nhưng có thể giúp nó tăng trưởng và cho kết quả tốt hơn. Cũng vậy, Nước Thiên Chúa đến từ Thiên Chúa và đã có tiềm năng phát triển. Con người không tạo nên Nước Thiên Chúa, nhưng có thể giúp cho Nước Thiên Chúa mau đến.

(2) Đặc điểm của Nước Thiên Chúa:

* Sự tăng trưởng của nó không hiểu được: Con người có thể nhìn thấy sự tăng trưởng của hạt giống, nhưng không thể cắt nghĩa sự tăng trưởng của nó. Cũng vậy, con người có thể nhìn thấy Nước Thiên Chúa lớn mạnh dần, nhưng không thể cắt nghĩa lý do của sự lớn mạnh này.

* Sự tăng trưởng của nó cứ phát triển đều đặn: Không giống như sự tiến bộ của con người, có lúc tăng trưởng có lúc suy thoái. Sự tăng trưởng của hạt giống và của Nước Thiên Chúa cứ phát triển đều đặn và lớn mạnh dần.

(3) Mùa màng sẽ tới: Khi gieo giống xuống, con người chờ đợi mùa màng tới. Cũng vậy, khi Thiên Chúa bắt đầu triều đại của Ngài, là sẽ có ngày vinh quang. Con người cần kiên nhẫn và chuẩn bị xứng đáng cho Ngày đó.

3.2/ Tiềm năng của sự sống không lệ thuộc vào hình dạng bên ngoài: Hạt cải là hạt bé nhỏ nhất nhưng có tiềm năng trở thành cây lớn: Hạt cải của Palestine là hạt có thể trở thành cây, chứ không phải chỉ trở thành rau như của chúng ta. Trong thế giới thời đó, các đế quốc thường được ví như cây, và các nước chư hầu được ví như cành. Chúa Giêsu có ý muốn nói: Nước Thiên Chúa bắt đầu với một nhóm người Do-thái nhỏ; nhưng có tiềm năng trở thành cây lớn, và tất cả con người thuộc mọi quốc gia đến tìm chỗ nương tựa. Điều này đã được chứng minh bằng con số hơn một nửa dân số của thế giới đã tin vào Ngài.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Đức tin là quà tặng quí giá Thiên Chúa ban cho con người. Chúng ta phải trân quí, phát triển, và giữ vững đức tin.

– Con người sống là nhờ đức tin và hy vọng vào Đức Kitô. Nếu không đặt niềm tin nơi Đức Kitô, chúng ta sẽ không có hy vọng được sống muôn đời.

– Đức tin phải được thử thách như lửa thử vàng. Chúng ta cũng bị thử thách như trường hợp của vua David. Điều quan trọng là chúng ta cần phải can trường giữ vững đức tin và niềm hy vọng vào những gì Thiên Chúa hứa trong gian nan thử thách và chờ đợi lâu dài. Thiên Chúa sẽ ban sự sống đời đời cho những ai bền vững đến cùng.

– Đức tin có tiềm năng lớn mạnh và thực hiện những chuyện vượt quá sức con người. Vì thế, khi chúng ta chưa thực hiện được những gì Thiên Chúa đòi, đức tin của chúng ta còn non nớt, yếu kém. Chúng ta cần xin Ngài củng cố niềm tin cho chúng ta.

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************