Ngày thứ tư (30-09-2020) – Trang suy niệm

29/09/2020

Lời Chúa Hôm Nay

Thứ Tư Tuần XXVI Mùa Thường Niên Năm chẵn

BÀI ĐỌC I:    G 9, 1-12. 14-16

“Con người so sánh với Thiên Chúa đâu đáng được kể là người công chính”.

Trích sách ông Gióp.

Ông Gióp trả lời cùng các bạn hữu rằng: “Tôi biết thật như vậy, và biết thật con người so sánh với Thiên Chúa đâu đáng được kể là người công chính. Nếu con người muốn cãi lẽ với Chúa, thì một nghìn điều, nó không thể đáp lại một. Chúa thượng trí và quyền năng, ai đối địch với Chúa mà được bằng yên? Chúa xê dịch các núi đồi, và trong cơn thịnh nộ Người đánh đổ những kẻ không biết điều. Chúa khiến địa cầu chuyển động khỏi chỗ của nó, và các cột đất đều phải lung lay. Chúa truyền khiến mặt trời, thì nó không mọc lên, và Người cũng phong niêm các ngôi sao tinh tú. Chỉ một mình Chúa trải các tầng trời và bước đi trên sóng biển. Chúa tạo dựng sao bắc đẩu, sao sâm, sao mão và cung kín phương nam. Chúa tác tạo những điều trọng đại, mầu nhiệm và kỳ diệu không kể xiết.

Nếu Chúa đến cùng tôi, thì tôi không trông thấy Người, và nếu Người ra đi, tôi cũng chẳng hay biết. Nếu Chúa bất chợt hỏi han, thì ai trả lời Người cho được? Hoặc ai có thể hỏi rằng: “Tại sao Chúa làm như thế?” Vậy tôi là gì mà dám trả lời với Chúa và dùng lời mà nói với Người? Dù tôi có lẽ công chính, tôi cũng không dám trả lời, một van nài cùng Đấng phán xét tôi. Khi Chúa nhậm lời tôi kêu cầu, tôi cũng không chắc Người nghe lời tôi”. Đó là lời Chúa.

ĐÁP CA: Tv 87, 10bc-11. 12-13. 14-15

Đáp: Lạy Chúa, nguyện cho lời con cầu thấu đến tai Chúa (c. 3a).

Xướng:

1) Lạy Chúa, con kêu lên Chúa mọi ngày, và con giang tay hướng về phía Chúa. Phải chăng Chúa còn làm những điều kỳ diệu cho người đã thác, hoặc giả những người chết sẽ sống lại và ngợi khen Ngài? – Đáp.

2) Phải chăng người ta còn kể lại lòng nhân hậu Chúa trong mồ, và lòng trung thành Ngài trong nơi âm phủ? Những việc kỳ diệu của Chúa còn thấy được trong chỗ tối tăm, và ân sủng của Ngài trong nơi quên lãng? – Đáp.

3) Phần con, lạy Chúa, con kêu lên Chúa, và tự bình minh lời nguyện của con sẽ tới tai Ngài. Lạy Chúa, nhân sao Chúa ghét bỏ linh hồn con, nhân sao Chúa ẩn mặt xa khuất khỏi con? – Đáp.

ALLELUIA: Tv 118, 8ab

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, những giới răn Chúa được lập ra cho tới muôn đời, được ban hành một cách chân thành và đoan chính. – Alleluia. 

PHÚC ÂM: Lc 9, 57-62

“Dù Thầy đi đâu, tôi cũng theo Thầy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, đang lúc Chúa Giêsu và các môn đệ đi đường, thì có kẻ thưa người rằng: “Dù Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy”. Chúa Giêsu bảo người ấy rằng: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu”. Người bảo một kẻ khác rằng: “Hãy theo Ta”. Người ấy thưa: “Xin cho phép tôi đi chôn cha tôi trước đã”. Nhưng Người đáp: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa”. Một người khác thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép tôi về từ giã gia đình trước đã”. Nhưng Chúa Giêsu đáp: “Ai đã tra tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa”. Đó là lời Chúa.

(thanhlinh.net)

++++++++++++++++++

30/09/2020 – THỨ TƯ TUẦN 26 TN

Th. Giê-rô-ni-mô, linh mục, tiến sĩ HT

Lc 9,57-62

CÁI GIÁ CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ

“Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”  (Lc 9,62)

Suy niệm: “Môn đệ tính là quá trình trở thành con người Đức Giê-su sẽ là nếu Ngài là bạn” (Triết gia D. Willard). Đi theo Đức Giê-su, chấp nhận làm môn đệ Ngài, ta phải xác tín rằng giá trị cao nhất trong đời ta là môn đệ tính, nghĩa là trở thành giống Thầy mình: Đức Giê-su. Không lạ gì môn đệ tính ấy đáng cho ta phải trả giá bằng tất cả những gì mình có trong đời sống trần thế này. Đức Giê-su cho thấy việc phải trả giá rất đắt nếu muốn làm môn đệ Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay. Với người thứ nhất, Ngài nói rõ muốn theo Ngài phải chấp nhận đời môn đệ là một hành trình, một cuộc phiêu lưu bấp bênh, bất định, chứ không phải là một địa vị ổn định để ngồi hưởng thụ. Với người thứ hai, Ngài minh định làm môn đệ phải đặt ưu tiên việc loan báo Tin Mừng Nước Trời trong đời mình trên mọi sự khác. Với người thứ ba, Ngài xác quyết đời người môn đệ là “con đường một chiều,” chiều trở nên con người mới, triệt để theo cung cách của Ngài, không có chỗ cho luyến tiếc quá khứ hay mưu cầu cá nhân.

Mời Bạn: “Quyết định lớn lên nào cũng luôn kéo theo sự lựa chọn giữa rủi ro và thoải mái. Nghĩa là muốn là môn đệ Chúa Giê-su, bạn phải từ bỏ sự thoải mái như giá trị cao nhất đời mình” (J. Ortberg). Làm môn đệ Chúa, bạn xác tín sẵn sàng từ bỏ sự thoải mái, an nhàn, an toàn bản thân, để có thể theo Chúa trọn vẹn, chấp nhận phiêu lưu sống theo ý Ngài mỗi ngày. Đó cũng là quyết tâm Sống Lời Chúa của bạn.

Cầu nguyện: Đọc kinh Lạy Cha, lời kinh chỉ người môn đệ đọc mới cảm nhận hết ý nghĩa từng câu từng chữ.

(5 Phút Lời Chúa)

++++++++++++++++++

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa,
Đấng dựng nên muôn vật hữu hình cùng vô hình.
Các thụ tạo vô hình ở đây chính là chư vị thiên thần.
Chư vị này sống gần bên Thiên Chúa để phục vụ Ngài và nhân loại.

Hơn nữa, các thiên thần là những người đã phục vụ Đức Giêsu Kitô,
từ khi Ngài chào đời đến khi Ngài quang lâm.
Sứ thần Gabrien được Thiên Chúa sai đến với trinh nữ Maria
để loan báo về sự hạ sinh của Đấng Cứu Độ (Lc 1, 26).
Ta nghe tiếng ngợi khen của muôn vàn thiên binh cùng với sứ thần
trong đêm Con Thiên Chúa giáng sinh trên trái đất (Lc 2, 13).
Ta cũng thấy các thiên thần hiện ra để phục vụ Đức Giêsu (Mt 4, 11),
sau khi Ngài chiến thắng những cám dỗ của quỷ dữ nơi hoang địa.
Khi Đức Giêsu bị xao xuyến trước cái chết sắp đến,
một thiên thần từ trời đã đến tăng sức cho Ngài (Lc 22, 43).
Ngài đã không tránh né cái chết
bằng cách xin Cha cấp cho mình mười hai đạo binh thiên thần (Mt 26, 53).
Tin Vui Phục sinh được loan báo bởi các thiên thần từ mộ trống (Lc 24, 6).
Vào ngày tận thế, các thiên thần của Đức Giêsu sẽ đi theo Ngài
khi Ngài trở lại trong vinh quang để phán xét cả thế giới (Mt 16, 27).
Đức Giêsu nay ngự bên hữu Thiên Chúa trên trời,
trổi vượt trên các thiên thần và được các thiên thần thờ lạy (Dt 1, 4. 6).

Câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay
cũng nói đến tương quan giữa Đức Giêsu và các thiên thần.
Trong lần gặp gỡ với Nathanaen và các bạn của ông
Đức Giêsu đã long trọng hứa là họ sẽ thấy trời rộng mở,
và “các thiên thần lên lên xuống xuống trên Con Người” (c. 51).
Trong một giấc mộng, Giacóp đã chiêm bao thấy
“một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời,
trên đó có các thiên thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống” (St 28, 12).
Đức Giêsu nhận mình chính là chiếc thang đó, là Đấng Trung Gian
nối đất với trời, nối Thiên Chúa với nhân loại.
Các thiên thần cũng phải qua Ngài mà đến phục vụ con người.
Các thiên thần cũng là những đấng trung gian được sai đi,
nhưng họ phải qua Đấng Trung Gian duy nhất và đích thực,
vì Đấng đó vừa trọn vẹn là người, vừa trọn vẹn là Thiên Chúa.

Lên lên xuống xuống trên thang Giêsu là việc của các thiên thần.
Lên với Thiên Chúa để dâng cho Ngài nỗi thống khổ của nhân loại.
Xuống với nhân loại để mang cho họ ân lộc và sứ điệp từ trời.
Thiên thần vừa gần với con người, vừa gần với Thiên Chúa,
vừa tựa trên đất, vừa đụng tới trời, nên kéo trời xuống đất và đưa đất lên trời.
Xin được quyền năng của Sứ thần Micae: Ai bằng Thiên Chúa.
Xin được sức mạnh của Sứ thần Gabrien: Thiên Chúa hùng dũng.
Xin được ơn lành mạnh của Sứ thần Raphaen: Thiên Chúa chữa lành.
Kitô hữu là người hạnh phúc vì biết mình được nâng đỡ chở che.

Cầu nguyện:
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng con tôn thờ,
xin giúp con quên mình hoàn toàn
để ở lại trong Chúa.
lặng lẽ và an bình
như thể hồn con đã sống trong vĩnh cửu.

Lạy Đấng thường hằng bất biến,
mong sao không gì có thể khuấy động
sự bình an của con,
hay làm cho con ra khỏi Chúa ;
nhưng ước chi mỗi phút lại đưa con
tiến xa hơn vào chiều sâu của mầu nhiệm Chúa !

Xin làm cho hồn con bình an thanh thản,
xin biến hồn con thành chốn trời cao,
thành nơi cư ngụ dấu yêu của Chúa,
nơi Chúa nghỉ ngơi.

Ước chi
con không bao giờ để Chúa ở đó một mình
nhưng con luôn có mặt, với trọn cả con người,
với thái độ nhạy bén trong đức tin,
cung kính tôn thờ
và phó mình cho Chúa sáng tạo.
(Lời nguyện của chân phước Elisabeth de Trinité)

Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.

(phutcaunguyen.net)

++++++++++++++++++

Hãy Nâng Tâm Hồn Lên

30 THÁNG CHÍN

Chúng Ta Vẫn Ở Lại Với Chúa Giêsu Trong Thánh Thể

“Thầy là cây nho … ai ơ ûlại trong Thầy thì sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Đức Kitô ở lại trong chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể. Chúa Giêsu mời gọi ta ở lại trong Ngài, lời mời gọi này nhắc chúng ta nhớ một chân lý khác mà Ngài đã đề cập trong bối cảnh diễn từ về Bánh Hằng Sống. “Ai ăn Thịt Ta và uống Máu Ta, sẽ được sống đời đời” (Ga 6,56). Đức Giêsu đã nói như thế với đám đông.

Bản văn song song này cho chúng ta thấy rằng trong biểu tượng cây nho có chứa đựng ý nghĩa của Bí Tích Thánh Thể. Chúng ta hiểu ra cách thế để mình ở lại trong Đức Giêsu, Cây Nho Thật: đó là đón nhận Ngài làm của ăn của uống cho mình. Thánh Thể chính là Chúa Giêsu ở lại giữa chúng ta một cách thực sự. Ngài thực sự hiện diện với chúng ta, ngay cả dù chúng ta thấy có vẻ như Ngài hiện diện qua các dấu chỉ bí tích là bánh và rượu.

Thực ra những dấu chỉ ấy không đem lại cho chúng ta niềm vui được cảm giác Ngài, nhưng chúng bảo đảm với chúng ta rằng Ngài đang hiện diện trọn vẹn giữa chúng ta. Qua bí tích này, Chúa Giêsu trở thành lương thực mọi nơi và mọi thời cho linh hồn người ta. Và chúng ta là những người được hưởng dụng. Chúng ta hãy tiến tới với bàn tiệc của Chúa để lãnh nhận thứ lương thực quí giá này.

– suy tư 366 ngày của Đức Gioan Phaolô II –

Lm. Lê Công Đức dịch từ nguyên tác

LIFT UP YOUR HEARTS

Daily Meditations by Pope John Paul II

+++++++++++++++++

Lời Chúa Trong Gia Đình

NGÀY 30/9

Thánh Giêrônimô,

linh mục, tiến sĩ Hội Thánh

G 9, 1-12. 14-16; Lc 9, 57-62.

LỜI SUY NIỆM: Đức Giêsu bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.”

          Những ai đã đáp lời mời gọi của Chúa Giêsu, cần phải có thái độ dứt khoát, phải từ bỏ tất cả, đặc biệt với tiền tài và danh vọng; để chu toàn bổn phận, hướng thẳng về phía trước, đi đến cùng đích mà sứ vụ đã được giao phó.

          Lạy Chúa Giêsu. Chúa rất yêu thương chúng con, Chúa căn dặn chúng con rất nhièu điều để chúng con chu toàn bổn phận trên đường hành hương về Nước Trời. Xin cho chúng con biết nâng đỡ và dìu nhau đi đến trọn con đường Chúa muốn, để chúng con đến được cùng đích là Nước Trời.

Mạnh Phương

+++++++++++++++++

Gương Thánh Nhân

NGÀY 30-09 THÁNH HIÊRÔNIMÔ – LINH MỤC, TIẾN SĨ HỘI THÁNH (340 – 420)

Thánh Hiêrônimô chào đời khoảng năm 340 tại Stridon gần Aquila, miền tam biên giữa Dalmatia, Pannonia và Italia. Tên đầy đủ của Ngài là Eusêbiô Hiêrônimô Sôphrôniô. Dường như Ngài thuộc một gia đình giàu có và được giáo dục đầy đủ về văn chương, theo thường lệ dành cho các thiếu niên thượng lưu thời đó. Trước hết Ngài đã theo học tại Stridon rồi sau đó tại Roma với nhà văn phạm thời danh Donatô, Ngài đã học để viết văn Latin cho tuyệt diệu tinh ròng và chính xác. Bởi đó Ngài say mê các tác phẩm cổ, dầu sau này Ngài coi chúng như một thứ cám dỗ.

Trong một bức thư gởi cho Eustochium, Ngài có kể lại một giấc mơ khi nằm tại bệnh viện Antiochia. Trong giấc mơ Ngài thấy mình phải đến trước vị quan án. Ngài tự xưng mình là Kitô hữu, nhưng quan án trả lời : – Ngươi không phải là Kitô hữu. Ngươi là đồ đệ Cicêrô. Kho tàng ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó. Mà kho tàng của ngươi là các thứ tác phẩm của Cicêrô.

Sau đó Ngài bị đánh đòn và hứa sẽ từ bỏ các tác phẩm trần tục này.

Thánh Hiêrônimô được giáo dục để trở thành Kitô hữu và luôn coi trọng tôn giáo. Dầu vậy 19 tuổi Ngài mới lãnh bí tích rửa tội ở Roma vào ngày Phục sinh năm 366. Khi viếng thăm Trier, sau khi hoàn tất việc học ở Roma, Ngài hiểu biết ít nhiều về lối sống khổ hạnh, có lẽ do thánh Athanasiô bị lưu đày tới và đã quyết rằng đó là ơn gọi của Ngài. Ngài gia nhập một cộng đoàn linh mục và giáo dân tại Aquileia năm 370. Cộng đoàn bị tan vỡ vì một cuộc tranh chấp nào đó.

Năm 375, Hiêrônimô đi về hướng đông với mấy người bạn, tới miền tổ đời khổ hạnh Kitô giáo. Sau khi dừng lại ở Antiochia ít lâu, Ngài đến sống trong sa mạc Chalcis như một ẩn sĩ, nơi dây Ngài “không có bè bạn nào khác ngoài bò cạp và hoang thú”. Ngài khổ cực vì bệnh tật mà nhất là các cơn cám dỗ. “Trong đầu óc tôi thường thấy mình giữa đám gái nhảy”. Và Ngài khóc thương rằng: “Một người chết yểu trong xác thịt như vậy mà ngọn lửa thèm muốn còn cháy lên dữ dội”.

Để kiềm chế óc tưởng tượng, sau khi đã xử phạt xác mà không được, Ngài chú tâm học tiếng Do thái. Như vậy Ngài đã khởi đầu công trình chính yếu trong đời làm học giả nhiệt thành giải thích thánh kinh.

Năm 378, Ngài trở lại Antiochia và đến với Constantinople để học thánh kinh với nhà thần học lừng danh là thánh Gregôriô thành Nazian. Năm 382, Ngài đến Roma và trở thành thư ký của Đức giáo hoàng Đamasô. Tại đây Ngài bắt đâu công trình hệ trọng về thánh kinh. Ngài hiệu đính các bản dịch Latinh về Phúc âm và thánh vịnh. Ngoài ra Ngài cũng hăng hái khích lệ phong trào sống khổ hạnh giữa các phụ nữ Roma.

Nỗ lực này đã gây nên một số chống đối của một số giáo sĩ Roma. Chống lại, Ngài đã viết những dòng sống dộng: – “Cái gì sơn phết lên khuôn mặt người Kitô hữu. Các miếng cao dán đầy tham vọng này là dấu chỉ của đầu óc thiếu trong sạch. Làm sao có thể nói được rằng một phụ nữ khóc than tội mình mà nước mắt họ cầy luống trên cặp má tô vẽ của họ. Hạnh phúc trông đợi gì từ thiên đàng khi mà cầu khẩn Chúa, họ lại chường mặt ra cho đấng tạo thành không còn nhận diện được họ nữa ?”

Do những lời quở trách này mà Ngài trở nên xa lạ với dân gian. Sau cái chết của thánh Damasô, Ngài lại lui về phương đông (năm 348).

Một nhóm phụ nữ đã sống dưới sự hướng dẫn của Ngài đã theo Ngài, đứng đầu là thánh nữ Paula với con Ngài là thánh nữ Eustochium. Họ lập thành một nhóm các tu viện gần đại giáo đường Giáng sinh tại Bêlem, tại đây thánh Hiêrônimô đã trải qua những ngày an bình hạnh phúc cuối đời, Ngài cũng dự phần vào nhiều cuộc tranh luận dữ dội. Một trong các cuộc tranh luận ấy là cuộc tranh luận giáo thuyết của Origen. Nhưng công cuộc lớn lao nhất của đời Ngài … chính là công cuộc Ngài đã chuẩn bị từ sa mạc Chalcis, đã khởi sự từ Roma, công cuộc phiên dịch thánh kinh ra tiếng Latinh. Dựa vào công trình này mà thế giá Ngài tồn tại mãi trong Giáo hội công giáo, cũng như sự thánh thiện của Ngài có được một bằng chứng hùng hồn.

Toàn bộ thánh kinh bằng tiếng Latinh, gọi là bản phổ thông đều được thánh Hiêrônimô phiên dịch hay nhuận đính trừ các sách: Khôn ngoan, Huấn ca, Baruch và hai sách Macabê. Ngài thực hiện bản dịch thứ nhất đã làm tại Roma, chính bản dịch thứ hai này nằm trong bản dịch thánh kinh phổ thông và được Giáo hội dùng trong phụng vụ giờ kinh.

Thánh Hiêrônimô qua đời bình an tại Belem ngày 30 tháng 9 năm 420. Thánh Paula và Eustochium đã chết trước Ngài. Thi thể Ngài được chôn cất với họ trong nhà thờ Giáng sinh, nhưng sau này được đưa về Roma và nay đang được chôn cât tại đề thờ Đức bà Cả.

(daminhvn.net)

+++++++++++++++++

30 Tháng Chín

Tình Thương Ðáp Trả Hận Thù

Bà Coretta King, vợ của cố mục sư Martin Luther King, đã ghi lại trong quyển hồi ký của bà như sau:

Martin ra trước cửa nhà. Một cách nào đó, đây là giờ phút quan trọng nhất của cuộc đời của anh.

Trước đó vài hôm, một quả bom đã được quăng vào nhà. Vợ và con anh suýt bị sát hại. Ðây là thử thách đầu tiên nặng nề nhất mà anh phải chịu đựng. Ðồng thời nó cũng là trắc nghiệm để xem anh có thể sống nguyên tắc Kitô và thuyết bạo động mà anh hằng rao giảng không. Anh xuất hiện một cách bình thản trước đám đông người da đen đang sôi sục hận thù.

Khi anh vừa giơ tay lên làm hiệu thì mọi tiếng động bỗng như dừng lại. Anh đã chiếm lĩnh được tâm hồn mọi người, từ những người đứng tuổi đến các bạn trẻ bốc đồng nhất, từ các cảnh sát viên cho đến những người sợ hãi đang đứng nép bên các bậc thang trước cổng nhà.

Với một giọng nói bình tĩnh, nhẹ nhàng, anh khuyên nhủ mọi người như sau:

“Vợ tôi và con gái tôi vẫn bình an. Tôi xin anh em hãy trở về nhà và hãy buông khí giới. Chúng ta không thể giải quyết vấn đề bằng bạo động. Chúng ta phải yêu thương những người da trắng anh em của chúng ta, dù họ có làm gì cho chúng ta đi nữa. Chúng ta phải làm cho họ hiểu rằng chúng ta yêu thương họ thật sự. Chúng ta phải sống như thế đó: nghĩa là lấy tình thương đáp trả hận thù”.

Lời kêu gọi trên đây của mục sư Luther King và cái chết của ông là một bản sao trung thành nhất của Tin Mừng: đó là Tin Mừng của Ðấng yêu thương và yêu thương cho đến chết trên thập giá…

Vào tù ra khám, bị đòn vọt, trải qua trăm nghìn gian lao khốn khổ do những người không tiếp nhận Tin Mừng gây ra, thánh Phaolô vẫn có thể khuyên nhủ các tín hữu Roma như sau:

“Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ. Hãy vui với kẻvui, hãy khóc với kẻ khóc. Cùng nhau tâm đầu ý hợp. Ðừng qúa cao vọng về mình. Trái lại, hãy biết bỏ mình, chuộng phần yếu kém… Ðừng lấy ác báo ác: điều thiện trước mắt mọi người, hãy cố quan tâm. Hãy sống an hòa với mọi người… Anh em thân mến, hãy sống an hòa với hết thảy mọi người. Ðừng báo oán. Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ”.

Ước gì những lời khuyên nhủ trên đây trở thành khuôn vàng thước ngọc trong mọi giao tiếp và gặp gỡ của chúng ta với mọi người.

(Lẽ Sống)

++++++++++++++++++

Lời Chúa Mỗi Ngày

Thứ Tư Tuần 26 TN2, Năm Chẵn

Bài đọc: Job 9:1-12, 14-16; Lk 9:57-62.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sự quan phòng của Thiên Chúa

            Cơn bão Ike rơi xuống Houston, Texas, ngày 5 tháng 9 năm 2008 vừa qua là một ví dụ cho chúng ta thấy uy quyền của Thiên Chúa và sự mỏng giòn của con người. Mặc dù đã biết trước thời gian khi nào xảy ra, tốc độ của gió, chiều rộng của bão, và đã chuẩn bị để đón bão; thế mà cả một thành phố lớn thứ tư trên nước Mỹ đã không ngăn cản được bão và hòan tòan bị tê liệt vì hậu quả của cơn bão này. Tất cả các sinh họat của thành phố bị hủy bỏ, cây cối gẫy đổ khắp nơi, truyền thông và giao thông hầu như tê liệt hòan tòan, hầu hết thành phố chìm trong bóng đêm khi mặt trời lặn xuống. Đấy chỉ là bão cấp 2 và nước không vào thành phố nhiều; nếu là bão cấp 5 thì hậu quả còn tai hại biết chừng nào. Nếu nước cứ tiếp tục dâng như Nạn Hồng Thủy thì còn ai sống sót trên thế gian? Các Bài đọc hôm nay dạy con người biết khả năng hạn hẹp của mình và tin tưởng nơi quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Đức công chính của Thiên Chúa vượt trên tất cả.           

1.1/ Sự khôn ngoan của Thiên Chúa vượt quá sự khôn ngoan của con người: Ông Gióp không tìm ra được lý do thỏa đáng tại sao ông phải chịu đau khổ. Các bạn ông tố cáo lý do tại sao ông phải đau khổ là vì tội lỗi ông đã phạm đến Thiên Chúa. Ông cực lực phản đối các bạn đã tố cáo ông; vì ông biết ông không bao giờ xúc phạm đến Thiên Chúa. Tuy vậy, ông cũng không dám nhận mình là người công chính. Ông nói: “Quả thật, tôi biết rõ thế này: Trước nhan Thiên Chúa, phàm nhân cho mình là công chính thế nào được? … Có ai lòng trí khôn ngoan, sức lực dũng mãnh, đương đầu với Người mà vẫn còn nguyên vẹn?” Ông biết khi ông tự nhận mình là công chính là ông đã ám chỉ Thiên Chúa bất công vì Ngài đã bắt người công chính chịu đau khổ. Vì thế, ông khiêm nhường nhìn nhận là mình không biết những gì xảy ra nơi Thiên Chúa.           

1.2/ Uy quyền của Thiên Chúa và sự mỏng giòn yếu đuối của con người: Con người chỉ là một phần tử rất nhỏ khi so sánh với các phần tử khác của vũ trụ. Nếu các phần tử to lớn khác như núi non, biển cả, mặt trời, các tinh tú còn phải chịu sự điều khiển của Thiên Chúa, thì con người là ai mà dám mong được thóat ra ngòai sự điều khiển của Thiên Chúa. Ông Gióp thú nhận thân phận mỏng giòn của con người và nhìn nhận uy quyền của Thiên Chúa trong vũ trụ: “Người làm nên những điều vĩ đại khôn dò và những điều kỳ diệu không đếm xuể. Này, Người có đi qua tôi, tôi cũng chẳng thấy, Người có lướt tới, tôi cũng chẳng nhận ra. Này Người bắt đi, ai giành lại được? Ai dám hỏi Người: “Ngài làm gì thế?””           

1.3/ Thái độ thích ứng của con người trước Thiên Chúa: Con người không thể cãi lý với Thiên Chúa vì không có khôn ngoan đủ để hiểu biết hết tất cả các điều kỳ diệu Chúa đã làm. Nếu cái bình không thể cãi lý với người thợ gốm tại sao để nó là nguyên vẹn là đất sét mà lại nặn lên nó thành hình dạng cái bình, thì con người cũng không thể chất vấn Thiên Chúa tại sao cho con người có mặt trong cuộc đời hay tại sao cho làm người này mà không cho làm người khác. Thái độ thích ứng nhất của con người không phải là tranh cãi mà chỉ biết vâng lời và trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa. Sau khi đã than thân trách phận và nguyền rủa ngày sinh của mình, ông Gióp hối hận và thốt lên: “Chẳng lẽ tôi lại tranh cãi, hay tìm lý để chống đối Người sao? Cho dù tôi có lý, tôi cũng không tranh cãi, nhưng sẽ xin Đấng xét xử tôi thương xót. Tôi có kêu cầu và Người đáp lại, tôi cũng chẳng tin là Người nghe tiếng tôi.” 

2/ Phúc Âm: Con người sống bằng tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa.           

2.1/ Người môn đệ phải có thái độ sống như Chúa Giêsu: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.” Con người có khuynh hướng tìm an tòan và tích trữ của cải cho tương lai, Chúa Giêsu thách đố các môn đệ từ bỏ khuynh hướng này và dạy con người phải hòan tòan tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Ai không có can đảm theo lời Chúa dạy thì không thể làm môn đệ của Chúa, như chàng thanh niên giàu có đã buồn rầu bỏ đi vì anh có quá nhiều của cải.           

2.2/ Mục đích trên hết và trước nhất của người môn đệ là loan báo Tin Mừng. Đức Giêsu nói với một người khác: “Anh hãy theo tôi!” Người ấy thưa: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã.” Đức Giê-su bảo: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa.” Nhiều người cho rằng Chúa Giêsu khuyến khích việc bất hiếu với cha mẹ vì dưới mắt con người không chôn cất cha mẹ là mang tội bất hiếu. Chắc chắn Chúa dạy phải thảo kính cha mẹ, nhưng đồng thời Chúa cũng dạy phải tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Nếu việc chôn cất cha mẹ làm cản trở cho việc rao giảng Tin Mừng thì “hãy để kẻ chết chôn kẻ chết.” Làm sao kẻ chết có thể chôn kẻ chết? Điều Chúa muốn nói ở đây là hãy để con người phải chết chôn kẻ chết. Chúa sẽ quan phòng lo liệu để có người chôn cha mẹ mà không cần đến sự hiện diện của người con đã tận hiến cuộc đời cho Thiên Chúa.           

2.3/ Người môn đệ không nuối tiếc những gì đã từ bỏ: Khi một người xin phép về từ biệt gia đình, Chúa Giêsu bảo người đó: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” Trong thực tế, lời khuyên này rất đúng cho kẻ cầm cày: để cày đất thẳng hàng, kẻ cầm cày không được ngóai lại đàng sau để nhìn; nếu làm như thế luống cày sẽ không thẳng. Trong cuộc đời tận hiến cũng vậy, nếu không dứt khóat từ bỏ, người tận hiến sẽ từ từ bị cám dỗ để lấy lại hết những gì mình đã từ bỏ: của cải vật chất, gia đình, ý riêng … nhiều khi còn lấy lại nhiều hơn những gì mình đã từ bỏ trước. Một khi đã quay trở về đường cũ, con người còn đâu nghị lực để làm chứng cho Tin Mừng?

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

            – Chúng ta phải luôn tin tưởng vào sự khôn ngoan, uy quyền, và sự quan phòng của Thiên Chúa. Cám dỗ muôn đời của quỉ dữ là làm cho con người tin tưởng vào chính mình. Một khi con người nghĩ mình có thể làm chủ cuộc đời của mình, Thiên Chúa sẽ không còn chỗ đứng trong cuộc đời con người.

            – Khi không hiểu được lý do của những việc xảy ra trong cuộc đời, chúng ta đừng vội trách Thiên Chúa bất công. Thái độ thích ứng nhất là chúng ta phải vững tin vào lòng thương xót Chúa và cầu xin để Ngài thêm sức chịu đựng hay cất khỏi nếu đẹp ý Ngài.

            – Mục đích của con người khi còn sống trong cuộc trần này là làm vinh danh Thiên Chúa chứ không phải để lo thu tích của cải cho mình và gia đình. Tất cả những gì ngăn cản việc làm vinh danh Chúa, chúng ta phải có can đảm để khước từ chúng. 

Linh mục Anthony Đinh Minh Tiên, OP

****************