DẪN NHẬP
Di dân không còn là một khái niệm trừu tượng hay xa lạ, nhưng là một thực tại phổ quát tác động quan trọng đến mọi khía cạnh đời sống con người. Trong các bài viết nhìn từ góc độ xã hội, kinh tế, giáo dục hay tôn giáo, chúng ta thấy di dân là một vấn đề nhức nhối, đặt ra rất nhiều thách đố trên bình diện quốc tế, cả các quốc gia nơi xuất cư và nhập cư, đặc biệt trong thời đại có nhiều biến động như hiện nay. Trên thực tế, vấn đề di dân vẫn còn nhiều góc khuất, thường bị lu mờ bởi những câu chuyện giật gân và còn phức tạp hơn nhiều so với những gì được đăng trên các trang báo.[1]
Theo ước tính hiện tại của Liên Hiệp Quốc, có khoảng 281 triệu người di cư quốc tế trên thế giới, tương đương với 3,6% dân số toàn cầu. Số người di dân mỗi ngày một gia tăng vì xung đột, bạo lực, bất ổn chính trị hoặc kinh tế, cũng như biến đổi khí hậu và các thảm hoạ khác. Riêng năm 2022, có 117 triệu người phải di dời trên thế giới và 71,2 triệu người phải di dời trong nước. Số lượng người xin tị nạn đã tăng từ 4,1 triệu vào năm 2020 lên 5,4 triệu vào năm 2022, tăng hơn 30%.[2] Con số này chưa có dấu hiệu dừng hay suy giảm.
Bên cạnh những con số thống kê chính thức, lượng người di cư quốc tế có thể chiếm tỷ lệ cao hơn nữa, do vấn đề di cư bất hợp pháp đang có chiều hướng gia tăng trong vài năm trở lại đây. Năm 2021, chỉ riêng số lượng người di cư bất hợp pháp đã đến các nước Liên minh Châu Âu (EU) là gần 200.000 người, tăng 57% so với năm 2020 và tăng 38% so với năm 2019.[3] Phần lớn người di cư bất hợp pháp đã bất chấp nguy hiểm, liều mình chạy trốn khỏi vòng xoáy xung đột chính trị và nghèo đói nơi quê nhà. Họ thường gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm, thậm chí phải đối mặt với các thảm kịch như chìm xuồng, đắm tàu… khi di chuyển bằng đường biển, hay phải sống trong cảnh “màn trời chiếu đất”, thiếu thốn thuốc men, lương thực và mắc kẹt dài ngày ở các khu vực biên giới. Bên cạnh đó, sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng di cư cũng được coi là nguyên nhân gây chia rẽ giữa các quốc gia một cách sâu sắc và dai dẳng.[4]
Trong lời giới thiệu của Huấn thị “Tình yêu Đức Ki-tô dành cho di dân”, thì hiện tượng di dân đang trở thành một vấn đề ngày càng phức tạp dưới các khía cạnh xã hội, văn hóa, chính trị, tôn giáo và quan điểm mục vụ.[5] Hiện tượng này đặt ra cho Giáo hội những thách đố. Do đó, Giáo hội không ngừng nỗ lực tìm hướng mục vụ phù hợp để có thể đồng hành với anh chị em di dân. “Giáo hội xem hiện tượng di dân hiện nay là một ‘dấu chỉ thời đại’ đầy ý nghĩa, là một thách đố cần khám phá và sử dụng trong việc canh tân nhân loại và loan báo Tin Mừng bình an.”[6]
Trong bài viết này, người viết muốn phân tích chân dung của Rút – người phụ nữ di dân ngoại bang, bất chấp những khó khăn nơi đất lạ vẫn một lòng trung thành, ở lại để đóng góp, yêu quý và xây dựng. Qua đó, phác thảo những định hướng, bài học, điểm tương đồng và thái độ cần có của người di dân hôm nay. Đồng thời, cho thấy những đóng góp của người di dân trong việc xây dựng Giáo hội và những nỗ lực đáp ứng cụ thể trong hoạt động mục vụ của Giáo hội dành cho người di dân. Liệu những khao khát, nỗ lực của người di dân trong việc mở ra, liên đới, cộng tác và hoà nhập có đủ để xây dựng Giáo hội và để trung thành với bổn phận là một Kitô hữu?
1. Di dân trong lịch sử Dân Thiên Chúa
Trong lịch sử nhân loại, dưới các góc độ khác nhau, dù muốn hay không tất cả chúng ta đều là những người di dân.[7] Trong các cuộc nội chiến, xung đột dai dẳng diễn ra, người dân buộc phải di dời đến những nơi an toàn hơn để bảo đảm sự sống. Vào thời cổ đại, hàng ngàn người buộc phải lưu vong vì bạo lực và xung đột. Cho đến thời bình, thì nạn đói đã khiến người dân phải di chuyển đến những vùng đất mới trên trái đất. Ngay cả trong thời hiện tại, do biến đổi khí hậu mà làn sóng những người di dân vẫn không ngừng gia tăng. Cho dù hoàn cảnh buộc phải di dời hay do ước muốn cá nhân, nhân loại đã định hình sự tồn tại của mình bằng những chuyến di cư lớn. Trong cuộc xuất hành được Kinh Thánh thuật lại, con người có khả năng di chuyển tuyệt vời trước mọi nghịch cảnh, có thể băng qua biển và bộ hành dài ngày trong sa mạc.
1.1 Cựu Ước
Trong Sáng Thế Ký, chúng ta có thể thấy rất nhiều cuộc di cư đáng để suy ngẫm và tái khám phá ý định và kế hoạch của Thiên Chúa cho từng cuộc đời và toàn dân của Chúa. Cuộc ra đi đầu tiên trong lịch sử dân Thiên Chúa là hành trình ông Áp-ra-ham đáp lại tiếng Chúa gọi: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi.Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành.”[8]
Đây là khởi điểm cho một giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ. Lời Thiên Chúa nói cho ông gồm một lệnh truyền và một lời hứa. Lệnh truyền là rời bỏ quê hương mà đi đến nơi Chúa đã định. Đối với người du mục, đó là một cắt đứt lớn lao và liều lĩnh. Còn lời hứa là Chúa sẽ cho ông một dòng dõi đông đúc, một người con trai và được một đất nước cho con cháu. Phúc lành đó không phải cho riêng ông và dòng dõi ông, nhưng nhờ ông mà tràn ra tất cả các dân. Áp-ra-ham đã vâng lệnh Chúa ra đi với tất cả sự tin tưởng.[9]
Hành trình của Gia-cóp
Tiếp sau Áp-ra-ham, chúng ta đọc được những cuộc di chuyển cá nhân và dòng họ. Những cuộc di chuyển này để lại vô số bài học thiêng liêng và nhân bản cho dân Chúa. Như trong trình thuật Gia-cóp và Ê-xau, Gia-cóp đã phải tháo chạy để tránh tai hoạ sau khi đoạt lời chúc phúc của Ê-xau anh trai mình “Giờ đây, con ơi, hãy nghe lời mẹ, đứng lên và trốn sang bên bác La-ban, anh của mẹ ở Kha-ran. Con sẽ ở với bác một thời gian, cho đến khi anh con nguôi giận.”[10] Mãi sau này, Gia-cóp mới hiểu được bài học mà Thiên Chúa muốn ông nhận ra rằng, lời chúc phúc ông có được là một món quà từ Thiên Chúa, không phải là do sự khôn ngoan, mưu mẹo của con người.
Hành trình của Giu-se
Một câu chuyện cảm động khác cũng được Kinh Thánh ghi lại đó là tình cảnh Giu-se bị các anh em ông bán sang Ai-cập làm nô lệ. “Họ kéo Giu-se lên khỏi giếng, rồi bán cậu cho người Ít-ma-ên 20 đồng bạc. Những người này đưa Giu-se sang Ai-cập.”[11] Giu-se là con thứ 11 trong 12 người con của Gia-cóp và là con đầu lòng của bà Ra-khen. Các anh em cùng cha khác mẹ của Giu-se không thiện cảm với ông nên đã bán ông sang Ai-cập để làm nô lệ. Cũng chính tại xứ này, Giu-se đã trở thành người đàn ông quyền uy thứ hai chỉ sau Pha-ra-ô. Khi nạn đói xảy ra ở xứ Ca-na-an, ông là người đã cứu dân Ai-cập và chính gia đình của mình.
Hành trình của Mô-sê
Còn đối với Mô-sê, ông sống như một người tị nạn ở vùng đất của Ma-di-an trong nhiều thập kỷ trước khi trở về Ai-cập. “Thiên Chúa cũng nói với Mô-sê rằng những kẻ muốn tìm giết ông nay đã chết hết rồi, và ông có thể an toàn trở lại Ai-cập. Thế là Mô-sê cầm theo cây gậy của Thiên Chúa, cùng với vợ con lên đường trở về xứ Ai-cập.”[12]
Trong suốt quãng đời còn lại của mình, Mô-sê đã dành trọn vẹn để phục vụ một đoàn dân di cư. Nhờ đó, sau nhiều thế kỷ sống trong cảnh nô lệ, lao động cưỡng bức ở Ai-cập, dân Ít-ra-en đã gói ghém hành lý và di cư trong bốn mươi năm, lang thang qua vùng sa mạc hoang dã trước khi họ đến miền đất đã được hứa ban cho tổ tiên của họ. Trải qua một hành trình đầy cay đắng và gian nan, cuối cùng ông Mô-sê cũng xác tín con đường đã đi qua và sứ vụ của mình: “Tôi không muốn một mình sống hạnh phúc bên cạnh Chúa, nếu ở đó tôi không có Dân của tôi!”[13]
Khởi đi từ một nhóm gồm 70 người của gia đình Gia-cóp sang định cư bên Ai-cập và trở thành một dân đông đúc, lớn mạnh và lan rộng khắp xứ sở, chúng ta có thể nói rằng từ một dân di cư, tị nạn, Ít-ra-en trở thành Dân của Thiên Chúa.
Những kinh nghiệm tuyệt vời đã xảy ra tại những vùng đất ngoại bang được Kinh Thánh kể lại như cuộc đoàn tụ của Giu-se và các anh của ông. Chính tại nơi đây việc hoà giải của gia đình ông được giải quyết. Sự chung thủy được tìm thấy trong câu chuyện gia đình của bà Na-o-mi và Rút, và hoa trái của lòng tín trung là Vua Đa-vít.[14] Những xung đột được giải quyết, gia đình Ít-ra-en lớn mạnh tại Ai-cập và trở thành một dân tộc hùng mạnh.[15] Tại vùng đất xa lạ, nơi lưu đày và phân tán, chúng ta thấy sự khôn ngoan của Đa-ni-en, sức mạnh của Ét-te và niềm tin tôn giáo của Tô-bi-a.
1.2 Tân Ước
Trong Tân Ước, Thánh Mát-thêu đã ghi lại câu chuyện di dân điển hình của Thánh gia. Khi Sứ thần Thiên Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se: “Dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi,”[16] Thánh Giu-se đã lập tức đưa Hài Nhi và mẹ Người sang Ai-cập ngay trong đêm khuya. Theo như thánh sử, gia đình Hài Nhi Giê-su đã sống đời ngoại kiều tại Ai-cập cho tới khi vua Hê-rô-đê băng hà.[17] Thiên Chúa là người khởi xướng cuộc di dân và là người bảo vệ Thánh gia trước âm mưu đen tối của vua Hê-rô-đê. Trong chương 25, thánh sử còn cho thấy hình ảnh của Đức Giê-su trong thân phận người nghèo, khách lạ. Mỗi khi chúng ta giúp đỡ những người này là chúng ta đang làm cho chính Chúa.
Một chuỗi các câu chuyện di dân khác nổi bật trong dòng lịch sử Tân Ước được ghi lại trong sách Công vụ Tông đồ. Trước khi Người về trời, theo như cả bốn thánh sử, Đức Giê-su Phục sinh truyền lệnh cho các môn đệ: “Hãy đi rao giảng Tin Mừng tới mọi loài thụ tạo”.[18] Theo lệnh truyền đó, Giáo hội trong suốt dòng lịch sử đã di dân tới bốn phương trời. Tin Mừng qua những bước chân rao giảng khắp nơi đã được giới thiệu tới nhiều sắc dân trên toàn thế giới.
2. Chân dung người di dân trong sách Rút: lòng trung thành, tham gia và thuộc về cộng đồng
Sách Rút, một phần của Kinh Thánh Cựu Ước, kể lại câu chuyện về một người phụ nữ Mô-áp tên là Rút và hành trình di cư đầy cảm động của cô cùng với gia đình chồng.
“Vào thời các thủ lãnh cai trị, một nạn đói xảy ra trong xứ. Có một người cùng với vợ và hai con trai bỏ Bê-lem miền Giu-đa mà đến ở trong cánh đồng Mô-áp. Tên người đàn ông là Ê-li-mê-léc, tên người vợ ấy là Na-o-mi và tên của hai con trai là Mác-lôn và Kin-giôn. Họ là người Ép-ra-tha thuộc xứ Bê-lem miền Giu-đa. Họ đến cánh đồng Mô-áp và ở lại đó. Rồi ông Ê-li-mê-léc, chồng bà Na-o-mi, chết đi, còn lại bà Na-o-mi và hai đứa con.Hai người này lấy vợ Mô-áp, một người tên là Óoc-pa, người kia tên là Rút. Họ ở lại đó chừng mười năm.”[19]
Câu chuyện của Rút mở ra với bối cảnh đói kém, chết chóc, chia ly. Đây là bức tranh quen thuộc của những gia đình buộc phải ra đi, bỏ lại quê hương để đến vùng đất mới, nuôi trong mình niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn. Rút – một người phụ nữ mạnh mẽ, giàu đức tin và phẩm hạnh “vậy, người lìa bỏ chỗ mình đã ở, … lên đường đặng trở về xứ Giu-đa.”[20]Khi quyết định lên đường, rời khỏi “chỗ mình đã ở”, Rút không chỉ lìa bỏ quê hương đến với đất Do thái mà còn bỏ lại niềm tin trước đây của mình. Đi theo con đường đúng đắn không phải lúc nào cũng dễ dàng. Rút sẵn sàng hy sinh và chịu đựng những khó khăn, thử thách để theo đuổi những gì cô ấy đã tin tưởng. Cùng với bà Na-o-mi bên cạnh, hai người đi đến Bê-lem, bước vào đất thánh và đã trở thành một phần của dân tộc mới này.
Rút đã đảm nhận số phận di dân ngoại bang của mình cách kiên cường, với tình yêu và lòng trung thành lớn lao vượt trên định kiến xã hội, vượt trên phân biệt tôn giáo. Rút nêu cao giá trị về lòng trung thành, sự tham gia, và sự thuộc về cộng đồng. Chính lòng trung thành và sự dấn thân vào cộng đồng mới của Rút là bài học cho người di dân trong thời đại hôm nay.
2.1 Lòng trung thành không lay chuyển
Rút nổi bật với lòng son sắt, thủy chung. Sau khi chồng qua đời, cô quyết định theo mẹ chồng Na-o-mi về Bê-lem thay vì trở về quê nhà Mô-áp. Rút thưa rằng: “Xin đừng nài ép con từ giã mẹ và quay trở về. Mẹ đi đâu, con sẽ đi đó; mẹ ở nơi nào, con sẽ ở nơi đó. Dân của mẹ là dân của con, và Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con. Mẹ chết ở đâu, con chết ở đó, và nơi đó con sẽ được chôn cất.”[21]
Rút quyết định ở lại với bà Na-o-mi mặc dù bà đã khuyên cô trở về với gia đình mình. Rút biết Đức Chúa Trời của mẹ chồng mình, nhưng bởi quyết tâm và lòng yêu mến, Rút đã tiếp nhận Chúa cho riêng bản thân mình.
Khi họ trở về Bê-lem, Rút làm việc chăm chỉ trên cánh đồng để kiếm lương thực cho bà Na-o-mi và bản thân. Rút thưa cùng bà Na-o-mi rằng: “Xin để cho con đi ra ngoài ruộng, đặng mót gié lúa theo sau kẻ sẵn lòng cho con mót. Na-o-mi đáp: Hỡi con, hãy đi đi.”[22] Rút sẽ chỉ đi khi được mẹ chồng cho phép, vì Rút coi bà Na-o-mi là một người hướng dẫn thiêng liêng, nên cô luôn nghe theo lời khuyên của bà. “Đoạn, nàng đứng dậy đặng mót.”[23] Không nghỉ ngơi, Rút đã làm việc chăm chỉ để tồn tại và phát triển.
Rút gặp ông Bô-át, người chủ của cánh đồng và cũng là một người họ hàng xa bên chồng bà Na-o-mi. Bô-át khen ngợi Rút vì lòng trung thành của cô: “Nguyện Đức Chúa thưởng công việc con đã làm và ban cho con một phần thưởng xứng đáng từ Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en, Đấng mà con đã đến trú ẩn dưới cánh của Người.”[24] Về đức hạnh của cô: “Mọi người trong thành của dân ta đều biết con là một người đàn bà đức hạnh.”[25]
Trong Tông huấn Amoris Laetitia – Niềm Vui Yêu Thương, Đức giáo hoàng Phanxicô đã ca ngợi con người và cuộc đời của Rút: “Câu chuyện của Rút cho chúng ta thấy sức mạnh của tình yêu và lòng trung thành. Khi chúng ta sống với tình yêu và lòng trung thành, chúng ta phản ánh tình yêu của Thiên Chúa và trở thành nhân chứng của lòng thương xót và ân sủng của Người.”[26]
Rút rời bỏ quê hương để theo bà Na-o-mi đến một nơi hoàn toàn xa lạ, tương tự như nhiều người di dân ngày nay rời bỏ quê hương, để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn nơi đất khách quê người. Hành động của Rút thể hiện lòng trung thành với gia đình, dòng tộc, một giá trị mà nhiều người di dân cũng thể hiện khi họ chấp nhận rủi ro để tìm kiếm cơ hội mới nơi miền đất lạ. Khi Rút đến Bê-lem, cô được cộng đồng của bà Na-o-mi chấp nhận và hỗ trợ, đặc biệt là từ ông Bô-át. Điều này tương tự với việc những người di dân ngày nay cần sự chấp nhận, hỗ trợ và lòng trắc ẩn từ cộng đồng để có thể hòa nhập và xây dựng cuộc sống mới. Thông điệp Fratelli Tutti – “Hỡi tất cả anh em” của Đức giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh “Những người di dân không phải là kẻ thù, mà là những con người đang tìm kiếm cơ hội cho một cuộc sống tốt đẹp hơn. Chúng ta được kêu gọi để chào đón họ với tình yêu và lòng nhân ái, giống như Rút đã được chào đón ở Bê-lem.”[27] Đức tin của Rút vào Thiên Chúa của bà Na-o-mi, và quyết tâm của cô để sống theo luật lệ và phong tục của một dân tộc mới, là một bài học về sự hy sinh và lòng can đảm. Người di dân hôm nay cũng cần thể hiện đức tin và lòng can đảm khi đối mặt với những thách thức trong cuộc sống mới.
Người di dân thời hiện đại thường đối mặt với nhiều thách thức hơn khi tìm cách tham gia vào thị trường lao động và xã hội của nước nhập cư. Họ phải đối mặt với nhiều khó khăn như rào cản ngôn ngữ, phân biệt đối xử và khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm. Tuy nhiên, sự nỗ lực và kiên trì của họ có thể dẫn đến những kết quả tích cực, không chỉ cho bản thân mà còn cho cộng đồng nơi họ định cư. Trong Thông điệp Caritas in Veritate – “Bác ái trong chân lý”, Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI viết: “Những người di dân cần được đối xử với lòng nhân ái và sự tôn trọng, như chúng ta thấy trong câu chuyện của Rút. Sự hội nhập và hỗ trợ người di dân không chỉ là một trách nhiệm xã hội mà còn là một hành động của tình yêu thương và lòng bác ái Kitô giáo.”[28]
2.2 Tham gia và thuộc về cộng đồng
Câu chuyện của Rút không chỉ là một câu chuyện về lòng trung thành và tình yêu gia đình, mà còn là một biểu tượng mạnh mẽ về sự thuộc về và hòa nhập vào một cộng đồng mới. Rút trở thành một thành viên của cộng đồng Bê-lem, được cộng đồng chấp nhận và tôn vinh. Sự chấp nhận của cộng đồng được thể hiện qua việc ông Bô-át kết hôn với cô và qua sự chúc phúc của dân làng. Cô từ một người phụ nữ Mô-áp trở thành tổ mẫu của vua Đa-vít và tổ tiên của Chúa Giê-su.
“Vậy Bô-át lấy Rút làm vợ và đi vào cùng nàng. Thiên Chúa cho nàng thụ thai và sinh một con trai. Các phụ nữ nói với bà Na-o-mi: Chúc tụng Thiên Chúa, Đấng hôm nay không để cho ngươi thiếu một người chuộc lại. Cầu người đó được nên nổi danh trong Ít-ra-en! … Đứa trẻ đó được gọi là Ô-vết; người ấy là cha của Gie-sê, là ông nội của vua Đa-vít.”[29]
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, câu chuyện này có thể được liên hệ đến trải nghiệm của người di dân, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tiếp nhận, hỗ trợ và xây dựng cộng đồng. Điều này cho thấy rằng, sự thuộc về cộng đồng không chỉ đơn thuần là sự hiện diện vật lý, sự cam kết và hòa nhập tâm linh và văn hóa, mà còn là sự tiếp nhận rộng mở của cộng đồng mới. Khi đến Bê-lem, Rút phải đối mặt với thách thức của việc là một người ngoại kiều trong một cộng đồng mới. Tuy nhiên, sự kiên nhẫn, thái độ làm việc chăm chỉ và phẩm hạnh của bà đã giành được sự tôn trọng và chấp nhận từ cộng đồng. Bô-át, một người trong họ hàng của bà Na-o-mi, đã nhận ra lòng trung thành và đức tính tốt đẹp của Rút và quyết định giúp đỡ bà.[30] Hành động này của Bô-át biểu thị tầm quan trọng của việc hỗ trợ và chấp nhận những người mới đến trong cộng đồng.
Người di dân thường phải rời bỏ quê hương của họ để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Họ cũng thể hiện lòng trung thành và cam kết với gia đình và cộng đồng mới của họ, giống như bà Rút. Điều này nhấn mạnh rằng, sự thuộc về không chỉ là một trạng thái đang tồn tại mà còn là một quá trình liên tục của việc xây dựng mối quan hệ và sự hòa nhập. Như trong Thông điệp Fratelli Tutti Đức giáo hoàng Phanxicô kêu gọi mọi người chào đón, bảo vệ, thăng tiến và hội nhập người di dân. Ngài nhấn mạnh rằng: “Không ai có thể sống tách biệt, cho dù họ sống ở đâu, tất cả chúng ta đều cần nhau.”[31] Việc hỗ trợ và tạo điều kiện cho người di dân hòa nhập vào cộng đồng, không chỉ là trách nhiệm xã hội mà còn là hành động thể hiện lòng bác ái và tình huynh đệ.
Người di dân ngày nay cũng mong muốn được chấp nhận và thuộc về cộng đồng mới. Sự hòa nhập và cảm thức thuộc về, không chỉ đòi hỏi nỗ lực từ phía người di dân mà còn từ phía cộng đồng tiếp nhận. Việc xây dựng một xã hội bao dung và đa dạng giúp người di dân cảm thấy được chấp nhận và có thể đóng góp vào sự phát triển chung. Trong Giáo hội, việc chào đón và tích cực hỗ trợ người di dân giúp họ cảm thấy mình là một phần của cộng đồng đức tin, tăng cường sự đoàn kết và đồng lòng trong Giáo hội. Vì thế, Tài liệu Hướng dẫn Mục vụ Di dân mời gọi “tạo mọi điều kiện để anh chị em di dân được lãnh nhận các Bí tích, được chăm sóc đời sống thiêng liêng và ý thức bổn phận của mình trong môi trường mới, nhanh chóng hội nhập vào đời sống Hội Thánh địa phương. Tất cả sẽ cùng nhau xây dựng cộng đoàn chứng nhân Tin Mừng trong hiệp nhất và yêu thương.”[32]
2.3 Tình yêu tái sinh niềm hy vọng
Đi vào trong bối cảnh, con người và xã hội lúc bấy giờ, chúng ta thường sẽ dừng lại trên góc độ của Rút – người di dân trong kế hoạch của Thiên Chúa. Những nỗ lực của bà được ghi nhận, có tác động mạnh mẽ trên đời sống của mẹ chồng là Na-o-mi, dân tộc và chính trong ơn gọi riêng của bà. Tuy nhiên, một khía cạnh chúng ta cần tìm hiểu và tái xác tín rằng, Rút trở nên tổ mẫu trong gia phả của Đức Giê-su, được nhìn nhận và biến đổi, không chỉ dựa trên những nỗ lực và nhân đức của bà mà trên tất cả đó là sự can thiệp trực tiếp với đầy lòng khoan dung của ông Bô-át. Ông đã đi bước trước, quan sát, tiếp cận, đề xuất, và can thiệp để biến đổi con người của Rút nên nhân tố của ơn cứu độ.
Trong sách Rút chương 4, ông Bô-át đã có những can thiệp cụ thể như mời các kỳ mục trong thành “mời các ông ngồi lại đây” để làm chứng cho những việc ông sẽ thực hiện. Ông tiếp cận với người họ hàng để thương lượng “Nếu ông muốn dùng quyền bảo tồn dòng dõi của ông, thì xin hãy dùng; bằng không thì xin tuyên bố cho tôi biết.”[33] và sử dụng số tiền lớn mua lại quyền được cưới Rút làm vợ.
Bô-át cho chúng ta liên tưởng đến hình ảnh Chúa Giê-su Ki-tô Đấng khao khát cứu độ con người. Vì yêu thương, Chúa Giê-su chấp nhận hy sinh chết trên thập giá để đem lại ơn cứu độ cho con người. Thánh Phao-lô viết trong thư gửi giáo đoàn Cô-lô-xê rằng Đức Ki-tô không chỉ chết vì chúng ta mà khi làm như vậy, Ngài cũng đã trả và xoá món nợ đời mà chúng ta mắc phải.[34]
Ông Bô-át cũng không hề nghĩ đến kế hoạch Thiên Chúa đã dùng ông cho sáng kiến cứu độ của Người. Ông đại diện cho những người công chính, lương thiện và ở góc độ rộng lớn, là hình ảnh của Giáo hội cưu mang, đón tiếp, can thiệp và giúp đỡ để mọi người cảm nhận mình có vai trò và vị trí quan trọng trong lịch sử cứu độ. Bô-át theo tinh thần của luật Chúa, tìm kiếm công bằng cho người nghèo và nuôi sống họ.[35]
Trong những thời khắc này, Rút dường như hoàn toàn im lặng, vì bà không có quyền quyết định tương lai hay số phận của mình. Mang thân phận của một người di dân, bà chịu nhiều thiệt thòi và chống chọi với những khắc nghiệt của cuộc sống. Nhưng dưới ánh nhìn đức tin, bà luôn mang trong mình niềm hy vọng, tín thác và ngoan ngùy trước mọi sự hướng dẫn. Ông Bô-át nói “Này con, đừng sợ, tất cả những điều con nói, Ta sẽ làm cho con.”[36] Điều này, một lần nữa, nhắc nhớ chúng ta về Đức Giê-su, Đấng luôn xác tín với chúng ta rằng: “Thầy sẽ trở lại với anh em.”[37] Như trong thư Rô-ma, thánh Phao-lô nói về sự khác biệt giữa A-đam cũ và A-đam mới là chính Đức Giê-su, Người vẫn nói với chúng ta rằng A-đam cũ mang đến sự chết, nhưng Người là A-đam mới sẽ mang lại sự sống, Người biết rõ những yếu hèn, tội lỗi của ta. Nhưng nhờ tình yêu của Ngài, chúng ta được hưởng ơn cứu độ.
Cuối cùng, Rút – người ban đầu là một kẻ xa lạ với dân Chúa, nay đã đảm nhận vị trí của mình trong dòng dõi trực tiếp của Con Chúa trên trần gian. Rút đã trải qua một hành trình dài trong đức tin. Khởi đi từ một người Mô-áp ngoại bang, không có di sản đức tin vào Chúa, bị Na-o-mi và những phụ nữ khác từ chối. Rút không có chồng và không có con. Giờ đây, theo lời của những người phụ nữ trong làng, cô “đáng giá hơn bảy người con trai.”[38] Cô đã có một đứa con của riêng mình và một di sản. Từ dòng dõi của cô, Đấng Mê-si-a sẽ đến. Khi chúng ta suy ngẫm về câu chuyện này, bắt đầu không có vua và kết thúc với thông báo rằng một vị Vua sẽ đến, chúng ta được nhắc nhở rằng Chúa không từ bỏ chúng ta. Ngài khôi phục cuộc sống của chúng ta và làm mới hy vọng của chúng ta.
Sách Rút chỉ với 4 chương nhưng cho chúng ta thấy một hành trình dài, đi từ đói kém đến được mùa, từ ngoại bang đến niềm tin vào Thiên Chúa, từ goá bụa đến một cuộc hôn nhân mới và một cuộc sống mới. Chỉ khi gắn bó với Thiên Chúa và đặt trọn đời mình trong tay của Ngài, niềm hy vọng của chúng ta mới được tái sinh.
3. Người di dân tham gia vào đời sống Giáo hội
Như Rút – một người di dân Mô-áp đã từ bỏ quê hương của mình, để theo mẹ chồng là bà Na-o-mi trở về Ít-ra-en, nơi cô đã chăm chỉ làm việc và tuân thủ các luật lệ của người Ít-ra-en. Tình yêu và lòng trung thành của Rút đã không chỉ mang lại phúc lành cho gia đình mà còn trở thành một phần quan trọng trong lịch sử cứu độ, là tổ tiên của Vua Đa-vít và do đó là tổ tiên của Chúa Giê-su. Chân dung của Rút giúp chúng ta dễ dàng liên tưởng đến số phận của người di dân hôm nay. Họ cũng ra đi với niềm hy vọng thay đổi, đóng góp và xây dựng cộng đồng nơi đến cũng như nơi xuất cư.
3.1 Những đóng góp tích cực của người di dân
Theo thống kê năm 2019, Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) có khoảng 9 triệu dân, trong đó khoảng 2-3 triệu là dân nhập cư từ các tỉnh thành khác. Con số này không ngừng gia tăng do TP.HCM là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước.[39] Trong đó, có khoảng 660.000 tín hữu Công giáo, chiếm khoảng 8% dân số toàn thành phố, một phần không nhỏ là người di dân từ các tỉnh miền Trung và miền Bắc.
Tại các khu đô thị lớn ở Việt Nam như Bình Dương, Sài Gòn, Đồng Nai, Hà Nội, v.v… số người di dân Công giáo từ các vùng quê về các thành phố lớn đã giúp tăng số lượng tín hữu tại các giáo xứ. Điều này giúp mở rộng quy mô và sức mạnh của cộng đoàn Công giáo tại địa phương. Họ tích cực tham gia vào các hội đoàn, nhóm giáo dân, các hoạt động mục vụ, truyền giáo và từ thiện trong giáo xứ. Họ không chỉ đóng góp về mặt số lượng mà còn mang đến nhiệt huyết và năng lượng cho các hoạt động của Giáo hội. Một số nơi đã hình thành các cộng đoàn Công giáo di dân riêng biệt, có tổ chức, để giúp người di dân dễ dàng hòa nhập vào sinh hoạt giáo xứ cũng như giữ vững đời sống đức tin. Các cộng đoàn này tổ chức thánh lễ, học giáo lý, và các sinh hoạt tôn giáo đặc biệt phù hợp với nhu cầu của họ.
Người di dân đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và làm phong phú thêm đời sống của Giáo hội. Họ mang theo những kinh nghiệm tôn giáo và văn hóa độc đáo, góp phần làm phong phú thêm các lễ nghi và nghi thức tôn giáo. Ngoài ra, người di dân còn thể hiện tinh thần kiên cường, hy sinh và lòng nhân ái, những giá trị cốt lõi của tôn giáo, qua những câu chuyện và kinh nghiệm sống của họ. Như cộng đồng Công giáo Việt Nam tại Seoul, Hàn Quốc cũng đã có nhiều đóng góp quan trọng. Được thành lập vào năm 2003, cộng đồng này hiện nay bao gồm chủ yếu là sinh viên quốc tế, công nhân di cư và người kết hôn di cư. Họ đã góp phần làm phong phú thêm đời sống tôn giáo tại đây qua các hoạt động như thánh lễ, cầu nguyện và các buổi họp mặt. Cộng đồng này đã giúp nhiều người Việt Nam hòa nhập vào xã hội Hàn Quốc và duy trì đức tin Công giáo trong một môi trường xa lạ.[40]
Theo tin tức của Ma-cao ghi nhận, người di dân Công giáo Việt Nam tại Ma-cao đã có những đóng góp đáng kể vào đời sống tôn giáo và xã hội tại đây. Từ năm 1975 đến 1995, Ma-cao đã tiếp nhận khoảng 7.100 người tị nạn Việt Nam, đa phần trong số họ là những “thuyền nhân” chạy trốn khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhiều người trong số họ, đã tìm thấy nơi an toàn tại các trại tị nạn do các tổ chức Công giáo điều hành như Catholic Relief Services và Caritas Ma-cao. Những người Việt Nam này, không chỉ duy trì đức tin của mình mà còn tích cực tham gia vào các hoạt động của cộng đồng Công giáo địa phương, góp phần tạo nên một cộng đồng đa dạng và đầy sức sống.[41]
Một trong những sự kiện nổi bật gần đây là ngày mừng lễ quan thầy của anh chị em di dân thuộc Gia đình Công giáo xa quê Hà Nội được tổ chức tại nhà thờ Thái Hà ngày 11 tháng 5 năm 2022, nơi thu hút khoảng 3.000 người di cư Công giáo tham gia. Sự kiện này không chỉ là dịp để cộng đồng gặp gỡ và củng cố đức tin, mà còn là cơ hội để họ chia sẻ những khó khăn và thách thức trong cuộc sống di dân xa quê. Đức Tổng Giám mục Giu-se Vũ Văn Thiên đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của người di cư trong việc mang lại sức sống mới cho giáo phận và kêu gọi tiếp tục hỗ trợ họ cả về mặt tinh thần lẫn vật chất.[42]
Nhiều người di dân Châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, hằng năm gửi về cho gia đình ở quê hương và Việt Nam những đồng tiền lương nhận được ở quốc gia nơi họ di cư tới. Từ những số tiền này, gia đình di dân tại quê nhà đã xây nhà mới, mua tivi, xe máy, cải thiện bữa ăn hằng ngày, gửi con cái theo học những trường có học phí cao. Giáo xứ gốc của di dân Việt Nam cũng được hưởng những lợi ích tài chánh từ những người di dân này. Khi được mời gọi đóng góp trùng tu những ngôi nhà thờ tại Việt Nam, di dân Việt Nam ở các nơi cũng sẵn sàng mở rộng đôi tay.[43]
Sự xuất hiện của di dân góp phần làm giàu thêm nền văn hoá địa phương qua những nét văn hoá riêng của mình. Ngoài văn hóa, không thể từ chối một điều rằng, di dân cũng góp thêm nhiều bàn tay lao động cho công cuộc phát triển của nền kinh tế địa phương. Người Việt Nam vốn mang sẵn nét tỉ mỉ, khéo tay, kiên nhẫn, siêng năng, và hiếu học đã góp một số lượng rất lớn nhân công và chất xám cho những đại công ty điện tử và các ngành công nghiệp khác.
Người di dân Công giáo đã có những đóng góp đáng kể trong việc xây dựng và phát triển cộng đồng Giáo hội tại các quốc gia Châu Á. Họ không chỉ tham gia vào các hoạt động tôn giáo, mà còn đóng góp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế và xã hội. Ví dụ, nhiều người di dân Công giáo làm việc trong các trường học, bệnh viện và các tổ chức từ thiện của Giáo hội, cung cấp dịch vụ cho hàng triệu người.[44] Các cộng đồng Công giáo tại Châu Á đang ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn nhờ vào sự đóng góp không ngừng của người di dân. Họ không chỉ mang lại nguồn lực kinh tế, mà còn góp phần xây dựng và phát triển Giáo hội theo nhiều góc cạnh khác nhau.
3.2 Những khó khăn của người di dân
Mặc dù người di dân Công giáo đóng góp nhiều giá trị quý báu để tham gia vào Giáo hội địa phương, nhưng họ cũng phải đối mặt với nhiều thách thức như sự khác biệt về ngôn ngữ, làm giảm khả năng tham gia và hiểu biết sâu sắc về các nghi thức và giáo lý. Rào cản ngôn ngữ là một trong những thách thức lớn nhất đối với người di dân khi tham gia các hoạt động tôn giáo. Bên cạnh đó, những khác biệt về văn hóa và phong tục có thể tạo ra sự hiểu lầm và khó khăn trong việc hòa nhập. Theo một nghiên cứu của Pew Research Center, sự khác biệt văn hóa có thể dẫn đến sự cô lập và giảm khả năng tham gia của người di dân vào cộng đồng tôn giáo mới. Người di dân thường thiếu đi sự hỗ trợ từ cộng đồng tôn giáo nơi họ định cư, điều này làm giảm khả năng tham gia và đóng góp của họ.[45] Báo cáo của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ (USCCB) cho thấy sự thiếu hụt các dịch vụ hỗ trợ cho người di dân trong các giáo xứ.[46]
Người di dân thường tập trung sống trong các khu công nghiệp, dãy nhà trọ tạm bợ, chật chội, thiếu thốn tiện nghi, điều kiện sống bấp bênh. Họ thường phải làm các công việc không ổn định với mức lương thấp trong các nhà máy, xí nghiệp tại các khu công nghiệp. Cuộc sống kinh tế khó khăn, thời gian làm việc theo ca bao gồm cả ca đêm và ca cuối tuần khiến nhiều người di dân không trung thành giữ lễ ngày Chúa Nhật, gây gián đoạn đời sống đức tin. Điều này cũng có ảnh hưởng đến giáo xứ nơi họ sinh hoạt. Vì người di dân không có điều kiện tham gia thường xuyên vào các hoạt động của giáo xứ do công việc và thời gian hạn hẹp làm giảm sự gắn kết với cộng đoàn Công giáo. Điều này khiến giáo xứ gặp khó khăn trong việc duy trì sinh hoạt và phục vụ số lượng lớn giáo dân, đặc biệt là các giáo xứ có đông người di dân như giáo xứ Thái Hoà, giáo xứ Lái Thiêu (Bình Dương), giáo xứ Tân Phước (TP.HCM), giáo xứ Khiết Tâm (Thủ Đức), và nhiều giáo xứ khác.
Bên cạnh đó, người di dân đến từ nhiều vùng miền khác nhau, mang theo các phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa đặc trưng của địa phương họ. Điều này tạo nên sự đa dạng nhưng cũng có thể gây khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đoàn Công giáo địa phương, nơi có thể có những khác biệt về cách tổ chức, thói quen sinh hoạt, và cách thực hành đức tin.
Một thực trạng khác của người di dân là con em của họ gặp khó khăn trong việc tiếp cận các chương trình giáo dục, giáo lý vì thiếu cơ sở vật chất, thiếu giáo viên, hoặc thời gian học giáo lý không phù hợp. Điều này khiến nhiều trẻ em Công giáo không được tiếp xúc và học hỏi về đức tin một cách đúng mức. Nếu không có sự giáo dục đạo đức và đức tin kịp thời, thế hệ trẻ di dân có thể xa rời Giáo hội hoặc mất đi nền tảng đức tin, điều này ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền vững của Giáo hội trong tương lai.
Để giải quyết các thách thức này, Giáo hội cần có các giải pháp linh hoạt hơn trong cách tổ chức và chăm sóc đời sống đức tin cho người di dân, đồng thời cần có sự hỗ trợ từ cộng đồng Công giáo rộng lớn hơn.
3.3 Những giải pháp mục vụ của Giáo hội
Với sự gia tăng ngày càng nhiều số người di dân trong nước lẫn quốc tế, Giáo hội nhận thấy tầm quan trọng của việc đánh giá vai trò, thách thức và cơ hội mà người di dân mang lại cho Giáo hội hôm nay. Cũng như nhìn ở góc độ mục vụ, Giáo hội cần có những định hướng cụ thể, cập nhật để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng đức tin, sản sinh hoa trái phong phú cho anh chị em di dân. Đức giáo hoàng Phanxicô đã kêu gọi: “Chúng ta hãy mở rộng vòng tay và trái tim để chào đón mọi người, đặc biệt là những người di dân và tị nạn, để họ cảm thấy được sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống của họ.”[47] Cách cụ thể, Giáo hội cần đảm bảo rằng người di dân nhận được hỗ trợ tinh thần và tâm linh thông qua các hoạt động tôn giáo như thánh lễ, cầu nguyện, và các buổi họp mặt cộng đồng. Với Đức Phanxicô, giải pháp tốt nhất cho thực trạng của người di dân không gì khác hơn là đức ái và hợp tác. Ngài nhắc lại nhiều lần: “Trước sự toàn cầu hóa của hiện tượng di dân, phải đáp lại bằng sự toàn cầu hóa của đức ái và hợp tác, hầu làm cho các điều kiện của những người di dân được nhân đạo hơn.”[48]
Các chương trình mục vụ đặc biệt có thể được thiết lập, để giúp người di dân cảm thấy được chào đón và được hỗ trợ trong đời sống đức tin của họ. Bên cạnh đó, người di dân thường gặp nhiều khó khăn về pháp lý và xã hội; Giáo hội có thể thiết lập các trung tâm hỗ trợ pháp lý để giúp họ giải quyết các vấn đề về di trú, làm việc, và quyền lợi. Các chương trình hỗ trợ xã hội như cung cấp thực phẩm, nhà ở, và chăm sóc sức khỏe cũng rất quan trọng để đảm bảo cho người di dân có một cuộc sống ổn định hơn.
Ngoài ra, việc cung cấp các chương trình giáo dục và đào tạo nghề là một cách quan trọng để giúp người di dân hòa nhập vào xã hội mới và cải thiện điều kiện sống. Giáo hội có thể tổ chức các lớp học ngôn ngữ, kỹ năng mềm, và các khóa đào tạo nghề nghiệp để giúp người di dân có thể tìm được việc làm và tự lập hơn. Xây dựng các cộng đồng di dân mạnh mẽ và đoàn kết là một yếu tố quan trọng để giúp người di dân cảm thấy họ không cô đơn.
Cụ thể, tại các nước Châu Á như Nhật Bản, Thái Lan, Đài Loan, Lào, và Hàn Quốc, các Dòng tu đã chia sẻ gánh nặng mục vụ với các vị lãnh đạo trong Giáo hội khi tham gia vào công việc mục vụ chăm sóc cho người di dân. Tại Nhật Bản, có các tu sĩ Dòng Tên, qua văn phòng xã hội đặt trụ sở tại Tokyo, đã tư vấn pháp luật cho các lao động người Việt qua chương trình “Solidarity Network with Migrants Japan” (SMJ) và các tu sĩ Dòng Salesian Don Bosco chăm sóc, phục vụ cho giới trẻ Việt Nam tại Nhật Bản. Từ tháng 7/2020, Tỉnh dòng Nhật Bản đã chính thức mở văn phòng và địa điểm sinh hoạt cho giới trẻ và người Việt, có 2 lớp tiếng Nhật, dạy giáo lý, hội cầu nguyện, thánh lễ và thể thao.[49] Ở Đài Loan, các Linh mục và tu sĩ Việt Nam đã trợ giúp cho cô dâu và công nhân người Việt về mặt pháp lý và mục vụ. Cho dù họ không phải là người Công giáo, nhưng đã được các linh mục tận tình giúp đỡ khi họ gặp khó khăn, đặc biệt về mặt pháp lý.[50]
Bên cạnh đó, Giáo hội có thể tổ chức các sự kiện, buổi họp mặt, chuyến đibác ái, và các nhóm hỗ trợ để người di dân có thể kết nối với nhau, chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn nhau trong cuộc sống. Giáo hội cũng cần làm việc để nâng cao nhận thức của cộng đồng về các vấn đề mà người di dân phải đối mặt. Các chiến dịch giáo dục và nâng cao nhận thức có thể giúp giảm thiểu sự phân biệt, đối xử và kỳ thị, đồng thời tạo điều kiện để người di dân được đón nhận và tôn trọng hơn trong cộng đồng mới. Ngoài ra, việc hợp tác với các tổ chức quốc tế và phi chính phủ có thể giúp Giáo hội cung cấp sự hỗ trợ toàn diện hơn cho người di dân. Các tổ chức này có thể cung cấp nguồn lực, chuyên môn và hỗ trợ tài chính để các chương trình mục vụ di dân của Giáo hội đạt hiệu quả cao hơn.
Sự tham gia của người di dân vào Giáo hội không chỉ làm phong phú thêm đời sống tôn giáo, mà còn là cơ hội để Giáo hội thể hiện tình yêu thương, lòng nhân ái và tinh thần liên đới. Bằng cách tạo ra một môi trường hòa nhập, hỗ trợ và tôn trọng sự đa dạng văn hóa, Giáo hội có thể thu hút và tận dụng tối đa sự đóng góp quý báu của người di dân. Qua đó, Giáo hội không chỉ trở nên mạnh mẽ hơn mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết và nhân ái trong xã hội đa dạng hôm nay. Đức giáo hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh: “Chúng ta hãy cùng nhau xây dựng một tương lai nơi mà mỗi người, bất kể nguồn gốc, đều có cơ hội để sống một cuộc sống xứng đáng và có ý nghĩa.”[51]
Mẫu gương của bà Rút nhắc nhở chúng ta rằng, sự trung thành, lòng tin và sự tận tụy của người di dân có thể mang lại sự thay đổi tích cực và phúc lành cho cộng đồng. Chính từ sự hy sinh và lòng kiên định của bà Rút, chúng ta học được giá trị của việc chào đón và tôn trọng người di dân trong Giáo hội và xã hội hôm nay.
KẾT LUẬN
Một màu sắc ảm đạm, khổ cực, đói kém trong những dòng đầu của sách Rút đã được kết thúc bằng một gam màu tươi sáng, một tương lai đầy hy vọng, một gia phả hướng chúng ta đến Chúa Giê-su, nguồn cứu độ đích thực. Sách Rút đem lại niềm xác tín mạnh mẽ về tình yêu Thiên Chúa luôn đợi chờ, mong mỏi, trao ban cho tất cả mọi người, cách riêng là những người bị xã hội coi thường, khinh miệt, ngay cả khi bản thân chúng ta bất toàn, vô dụng. Sách Rút nâng cao tiêu chuẩn cho tất cả chúng ta, và cuối cùng mời gọi chúng ta vươn lên sống niềm tin mạnh mẽ vào Chúa và thực sự yêu Ngài theo cách thức mới mẻ, cụ thể.
Câu chuyện mời gọi chúng ta suy gẫm về những tấm gương mạnh mẽ của Rút, Bô-át và Na-o-mi, cách Chúa biến đổi từng người trong số họ và cách cả ba người trở thành một liên minh ân phúc cho thế hệ tương lai.[52] Bên cạnh đó, sách Rút cũng mời gọi chúng ta nhìn xa hơn bộ ba đáng chú ý này đến với Chúa Giê-su, hình ảnh hoàn hảo của Thiên Chúa, để Ngài trở thành đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta và noi gương Ngài.
Nếu chúng ta đặt Chúa Giê-su làm trung tâm và bắt đầu đón nhận trái tim của Ngài dành cho thế giới này, chúng ta sẽ bắt đầu hành động theo Ngài trong các mối quan hệ gần gũi nhất của chúng ta, cách riêng đối với những người di dân, tị nạn. Giáo hội có thể học hỏi từ câu chuyện của Rút để tạo nên một cộng đồng đức tin bao dung, hỗ trợ và gắn kết. Đức giáo hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh: “Quyền của con người không có biên giới và không thể ai bị từ chối. Chúng ta phải nghĩ đến một nền nhân bản mới, là một nhân loại cởi mở, đón nhận người di cư, là những người tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn.”[53] Trên hết, chúng ta xác tín mỗi người là hình ảnh của Thiên Chúa và người di dân được Thiên Chúa yêu thương, quan phòng và che chở. Thực vậy, con người, cách riêng những người di dân và tị nạn, họ không chỉ được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa, nhưng còn được liên đới cách sâu xa với Đức Ki-tô, Đấng đã trở nên như những người “di dân” qua biến cố nhập thể.
Những đóng góp và nỗ lực từ phía người di dân sẽ không thể viết nên lịch sử trọn vẹn, nếu không có những con người như Bô-át hay có một Giáo hội dám “mang thương tích” sẵn sàng đón nhận, bảo vệ, thăng tiến, và giúp người di dân hội nhập vào cộng đồng. Vì thế, vấn đề cốt lõi mà chúng ta cần xác tín là “Người di cư phải được xem như những người anh em trong Chúa Ki-tô, được đối xử với lòng nhân ái và sự tôn trọng, vì họ mang trong mình hình ảnh của Thiên Chúa.”[54]
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 144 (Tháng 11 & 12 năm 2024)
[1] x. IOM, “World migration report 2024”, https://worldmigrationreport.iom.int/news/world-migration-report-2024-reveals-latest-global-trends-and-challenges-human-mobility, truy cập ngày 8/7/2024.
[2] x. Ibid.
[3] x. Safe communities Portugal, Migration: almost 200,000 migrants arrived in the EU in 2021,
https://www.safecommunitiesportugal.com/migration-almost-200000-migrants-arrived-in-eu-in-2021, truy cập ngày 20/8/2024.
[4] x. Minh Hà, Di cư quốc tế với tác động từ biến cố toàn cầu. https://consosukien.vn/di-cu-quoc-te-voi-tac-dong-tu-bie-n-co-toan-cau.htm, truy cập ngày 9/7/2024.
[5] x. Vatican (2004), Erga Migrantes Caritas Christi – Tình yêu Đức Kitô dành cho Di dân. https://www.vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/migrants/documents/rc_pc_migrants_doc_20040514_erga-migrantes-caritas-christi_en.html
[6] Ibid., số 14
[7] x. Dominik Markl, SJ, The Bible: A Library Written by Migrants https://www.laciviltacattolica.com/bible-library-written-migrants, truy cập ngày 20/7/2024.
[8] St 12,1-2.
[9] x. Nguyễn Hữu An, Tổ phụ Abraham. https://www.tonggiaophanhanoi.org/to-phu-abraham, truy cập ngày 8/7/2024.
[10] St 25,43- 44.
[11] Xh 37,8.
[12]Xh 4,19-20.
[13] Giuse Võ Đức Minh, Mose vị lãnh đạo của Dân Chúa: cô độc và liên đới. https://tgpsaigon.net/bai-viet/mosevi-lanh-dao-cua-dan-chua-co-doc-va-lien-doi-42745, truy cập ngày 27/7/2024.
[14] x. Rút 4,22.
[15] x. Xh 1,1-7.
[16] Mt 2,13.
[17] x. Ibid., 2,19-21.
[18] Mc 16,15.
[19] Rút 1,2-4.
[20] Ibid., 1,7.
[21] Ibid., 1,16-17.
[22]Ibid.,2,2.
[23]Ibid., 2,15.
[24] Ibid., 2,12.
[25] Ibid., 3,11.
[26] Đức giáo hoàng Phanxicô, Tông huấn Amoris Laetitia, 2016, số 27.
[27] Đức giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti, 2020, số 37.
[28] Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, Thông điệp Caritas in Veritate, 2009, số 62.
[29] Rút 4,13-17.
[30] x. Ibid., 2,11-12.
[31] Đức giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti, 2020, số 54.
[32] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Uỷ ban mục vụ di dân, Hướng dẫn mục vụ di dân, 2017.
[33] Rút, 4,4.
[34] x. Cô-lô-xê 2,14.
[35] x. Carolyn Custis James, Finding God in the margins – the book of Ruth, 2018, St. George’s Centre, Trang 69.
[36] Rút 3,11.
[37] Gioan 16,22.
[38] Rút 4,15.
[39] x. Tổng cục thống kê, https://www.gso.gov.vn/su-kien/2019/12/thong-cao-bao-chi-ket-qua-tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam-2019, truy cập ngày 5/10/2024.
[40] x. Sunday Examiner, Vietnamese Catholic Community in Seoul celebrate 20th year, https://www.examiner.org.hk/2023/05/05/vietnamese-catholic-community-in-seoul-celebrates-20th-year/news, truy cập ngày 14/8/2024.
[41] x. The Macao News, The Vietnamese: Inside Macao’s second biggest foreign community, https://macaonews.org/features/macau-ethnic-groups-foreign-community-vietnamese-macao/, Truy cập ngày 14/8/2024.
[42] x. World Catholic News, Huge celebration draws 3000 migrant Catholics, https://www.worldcatholicnews.com/huge-celebration-draws-3000-vietnamese-migrant-catholics, truy cập ngày 14/8/2024.
[43]x. Lm. Phêrô Nguyễn Hùng Hải,Ưu tư và thao thức mục vụ cho các gia đình trẻ di dân. http://giaophanthanhhoa.net/di-dan/uu-tu-va-thao-thuc-muc-vu-cho-cac-gia-dinh-tre-di-dan-38810.html, truy cập ngày 10/8/2024.
[44] x. CathNews Newzeland, Catholic Church growing in Asia, https://cathnews.co.nz/2023/11/13/catholic-churchs-global-landscape-shows-growth-in-asia, truy cập ngày 14/8/2024.
[45] x. Pew Research Center. “Cultural Differences and Social Integration Among Immigrants”, 2018, truy cập ngày 14/8/2024.
[46] x. USCCB. “Welcoming the Stranger Among Us: Unity in Diversity.” 2001, truy cập từ usccb.org, ngày 14/8/2024.
[47] Đức giáo hoàng Phanxicô, Sứ điệp Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/su-diep-ngay-the-gioi-nguoi-di-dan-va-ti-nan-lan-thu-107-nam-2021-huong-den-mot-chung-ta-rong-lon-hon-50866, truy cập 14/8/2024.
[48] Đức giáo hoàng Phanxicô, Sứ điệp Ngày Thế giới Di dân và Tị nạn năm 2015.
[49] x. Lm. Anthony Lê Đức & Lm. Đaminh Nguyễn Quốc Thuần, Di dân Việt Nam tại Á Châu, thực trạng và đường hướng mục vụ, 2020, trang 96-97.
[50] x. Ibid., trang 54.
[51] Đức giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp về Tương lai chung, 25.5.2023, https://press.vatican.va/content/salastampa/en/bollettino/pubblico/2023/05/25/230525a.html, truy cập ngày 14/8/2024.
[52] x. Carolyn Custis James, Finding God in the margins – the book of Ruth, 2018, St. George’s Centre, trang 81.
[53] Đức giáo hoàng Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti, 2020, số 139.
[54] Đức giáo hoàng Piô XII, Tông hiến Exsul Familia, 1952.