Trong khuôn khổ của buổi tĩnh tâm tháng 06.2025 của linh mục Hạt Thành Phố (TGP Huế), Linh mục Giacôbê Nguyễn Xuân Lành (Đặc trách Đào tạo và Trưởng ban Kinh Thánh TGP Huế, Giám đốc Tiền Chủng viện Huế) đã phân tích nghĩa ngữ của từ ḥesed ( חֶסֶד ) của tiếng Hibri và thử đem áp dụng vào đời sống mục tử, được xem là người mang vác trái tim của Chúa Giêsu.
1. Khía cạnh giao ước của tình yêu Thiên Chúa
Trái tim là “biểu tượng của tình cảm”[1]. Theo quan niệm đạo đức, hình ảnh trái tim gắn liền với tình yêu của Chúa Giêsu, đặc biệt gắn kết với mặc khải của thánh nữ Margarita Alacoque về trái tim nhân hậu của Chúa.
Tuy nhiên, trong Cựu ước, danh từ trái tim – “lev” ( לֵב ) xuất hiện ~850 lần, “kardia” (καρδία) trong Tân ước xuất hiện ~160 lần – rất ít áp dụng cho Thiên Chúa, nhưng tuyệt đại đa số cho con người, gắn liền với suy nghĩ và tình cảm của con người.
Trong tư tưởng Do Thái, trái tim là trung tâm của ý thức và nhân cách con người, nơi con người đưa ra quyết định đạo đức, tâm linh, và tương tác với Thiên Chúa. Do đó, “lev” được dùng chủ yếu để mô tả đời sống nội tâm của con người, vốn dễ thay đổi, yếu đuối, và cần được Thiên Chúa hướng dẫn hoặc đổi mới (Ez 36,26). Trong khi đó, Thiên Chúa trong Cựu ước được mô tả là Đấng siêu việt, toàn tri, và không bị giới hạn bởi những đặc điểm của con người như trái tim (nơi có thể dao động hoặc tội lỗi). Nếu thi thoảng việc Cựu ước sử dụng từ “lev” để áp dụng cho Thiên Chúa, thì đó chỉ là một cách diễn đạt Thiên Chúa theo kiểu nhân hình học để con người hiểu được ý định của Ngài, chứ không phải để định nghĩa bản chất của Ngài.
Tuy nhiên, vì trái tim trong ngôn ngữ hiện đại đã trở nên quy ước diễn tả tình yêu, mà Thiên Chúa được định nghĩa là tình yêu, nên chúng ta thường chiêm ngắm hình ảnh trái tim của Chúa Giêsu để suy gẫm về lòng nhân hậu bền vững của Ngài đối với con người.
Bên cạnh đó, danh từ “ḥesed” ( חֶסֶד ) trong Cựu ước – thường được dịch là “tình thương”, “lòng thương xót”, “nhân từ”, hoặc “tình yêu (giao ước)” – là đặc tính cốt lõi của Thiên Chúa, đặc biệt trong giao ước với dân Israel[2]. Danh từ này tuyệt đa số áp dụng cho Thiên Chúa, hiếm khi cho con người.
Chúa là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương – חֶסֶד ḥesed
Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm. (Tv 103,8.10)[3].
Ḥesed là từ đa nghĩa, tuỳ vào ngữ cảnh mà được dịch là lòng thương xót, lòng nhân từ, ân nghĩa, sự trung thành, trung tín, hoặc ân sủng. Dù có nhiều nghĩa, nhưng khi áp dụng cho Thiên Chúa, ḥesed chủ yếu diễn tả tính bền vững không lay chuyển trong tình yêu giao ước giữa Thiên Chúa với dân Israel và có thể giữa con người với nhau.
Không có trường hợp nào trong bản dịch Kinh Thánh Latinh (Vulgata và Nova Vulgata) mà ḥesed được dịch trực tiếp thành amor, philia (tình yêu) như một từ độc lập. Vì chưng, amor hay philia thường ám chỉ tình yêu cảm xúc, lãng mạn, hoặc tình bạn (như trong văn học Rôma), không phù hợp với ý nghĩa sâu xa của ḥesed.
Mặc dù ḥesed bao hàm khía cạnh “tình yêu”, từ này luôn mang sắc thái của tình yêu giao ước – một tình yêu gắn bó với sự chung thủy, trách nhiệm và lòng thương xót, hơn là cảm xúc hay lãng mạn. Các cách dịch như “tình thương” hay “ân nghĩa” rất thích hợp để diễn tả tình yêu từ Đấng bề trên (Thiên Chúa) dành cho người bề dưới (con người), đặc biệt là ân sủng của Thiên Chúa đối với con người, thể hiện rõ mối tương quan đầy yêu thương mà ḥesed chuyển tải. Tuy nhiên, “tình nghĩa” có lẽ nhấn mạnh rõ hơn tính chất giao ước và sự trung thành trong tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Trong văn hoá đạo lý Việt Nam, người Việt chúng ta thường dùng hạn từ “tình nghĩa” để diễn tả thái độ chân thật, tốt đẹp và cao quý nhưng bền vững giữa người với người.
Tình là cái chạm đến trái tim; Nghĩa là cái chạm đến lẽ phải[4]. Khi ghép lại thành “tình nghĩa”, người Việt không chỉ nói đến cảm xúc, mà nói đến mối liên kết bền vững giữa người với người, vượt qua cả thời gian, hoàn cảnh, thậm chí cả sự sống chết.
Sống cho nhau vì một chữ tình
Chết cho nhau vì một chữ nghĩa.
Một nhà sum họp trúc mai;
Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
Tình nghĩa là thước đo nhân cách con người: người sống vô tình vô nghĩa bị coi là “bất nhân bất nghĩa”. Trong ứng xử, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, đó là những tục ngữ nhắc nhở người sống có tình, có nghĩa.
Dựa vào ý nghĩa trong Kinh Thánh, chúng ta có thể hiểu rằng, đặc tính của Thiên Chúa là Đấng giàu tình nghĩa “ḥesed”, tức là Ngài yêu thương con người với một tình yêu chung thuỷ, bền vững, tình yêu giao ước.
2. Sống hy vọng vào Đấng trung tín là Thiên Chúa
Vì tình yêu của Thiên Chúa là tình yêu bền vững (= tình nghĩa), nên Ngài là nơi đáng để chúng ta hy vọng vào. Chính sự trung tín của Thiên Chúa là nền tảng vững chắc cho hy vọng. Chúng ta không hy vọng vào khả năng bản thân – vốn giới hạn và yếu đuối –, không hy vọng vào người đời hay thế gian – vì người đời và thế gian hay thay đổi – mà là hy vọng vào Thiên Chúa nhân hậu, trung tín, không bao giờ thay đổi tương quan của Ngài với chúng ta. Đó là Thiên Chúa giàu tình nghĩa.
Năm Thánh mời gọi chúng ta sống hy vọng không phải vào một cái gì đó của thế gian, nhưng vào chính Thiên Chúa vì Ngài là Đấng tình nghĩa, trung tín: “Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Hb 10,23).
Hình ảnh tảng đá được sử dụng nhiều lần trong Kinh Thánh diễn tả sự chung thuỷ tình nghĩa ấy của Thiên Chúa:
– Tảng đá tại Bêthel: Giacob mộng thấy cái thang lên trời và Thiên Chúa hứa ban đất và dòng dõi. Ông thức dậy, lấytảng đá làm gối kê đầu, dựng lên làm trụ đá và xức dầu trên đó như dấu chỉ giao ước và thưa với Chúa: “Tảng đá mà con đã dựng làm trụ, sẽ là nhà của Thiên Chúa…” (St 28,22). Tảng đá tại Bêthel là hình ảnh Giao ước của Giacob với Thiên Chúa (St 28,18-22).
– Tảng đá tại Sikhem: Sau khi nhắc lại lịch sử và lòng trung tín của Thiên Chúa, Giôsuê lập giao ước. Một tảng đá lớn được dựng lên làm chứngcho giao ước: “Này tảng đá này sẽ là chứng nhân chống lại chúng ta, vì chính nó đã nghe mọi lời Đức Chúa đã phán với chúng ta” (Gs 24,27). Tảng đá tại Sikhem làm chứng giao ước giữa Thiên Chúa và dân (Gs 24,25-27).
– Tảng đá trong sa mạc: Trong sa mạc, dân than trách vì thiếu nước. Thiên Chúa truyền cho Môsê đập vàotảng đá để nước chảy ra. Nước vọt ra từ tảng đá diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa bất chấp sự bất trung của dân (Xh 17,6; Ds 20,8-11).
Hy vọng Kitô giáo khác biệt với hy vọng thế gian. Người ta có thể sống theo tâm lý lạc quan (Positive thinking) xem ra có vẻ tích cực, không chán nản vì luôn nghĩ rằng “mọi chuyện rồi sẽ ổn”. Nhưng thật ra, người ấy chỉ dựa trên cảm xúc hoặc ngoại cảnh, chứ không dựa trên lời hứa và lòng trung tín của Thiên Chúa.
Khi con người không đặt niềm hy vọng vào một nền tảng bền vững và chắc chắn – như lòng trung tín của Thiên Chúa – thì trước những thử thách, họ dễ rơi vào lo âu, hoang mang, và cuối cùng là trầm cảm. “Hy vọng không làm ta thất vọng, vì tình yêu của Thiên Chúa đã được đổ vào lòng ta nhờ Thánh Thần.” (Rm 5,5). Hy vọng không làm ta thất vọng (spes non confundit) vì chúng ta không dựa vào điều mong manh, mà dựa vào lòng trung tín bền bỉ của Thiên Chúa. Thiên Chúa không rút lại tình thương của Ngài dành cho chúng ta. Vậy nên chúng ta, dù hạn chế và đầy tội lỗi, vẫn không ngã lòng, vì biết mình được yêu và tình yêu ấy không bao giờ cạn.
3. Sống tình yêu bền vững (ḥesed) của Thiên Chúa trong đời mục tử
Người mang trái tim của Chúa là người trước hết cảm nhận được sự chung thuỷ của Thiên Chúa dành cho chính mình.
Cảm nhận tình yêu bền vững (tình nghĩa) của Thiên Chúa dành cho chúng ta
Giá trị không thể giảm trừ của đời tu/mục tử là sống tính bền vững của Giao ước với Thiên Chúa, tức là sự trung thành. Đôi khi chúng ta mệt mỏi vì không thấy kết quả (đôi khi cảm nhận sự vô ơn, mau quên), không được nhìn nhận, hoặc vì cảm giác “không còn làm được gì nhiều”. Nhưng khi đặt lại ánh mắt nơi Lòng Chúa xót thương, chúng ta được nâng đỡ và an ủi từ bên trong:
14Sion từng nói: “Đức Chúa đã bỏ tôi,
Chúa Thượng tôi đã quên tôi rồi!”
15Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình,
hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau?
Cho dù nó có quên đi nữa,
thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.
16Hãy xem, Ta đã ghi khắc ngươi trong lòng bàn tay Ta,
thành luỹ ngươi, Ta luôn thấy trước mặt. (Is 49,14-16)
Không gì vui và hạnh phúc cho bằng mình có những người để chúng ta tin với. Đấng cao cả nhất đáng tin, đó chính là Thiên Chúa.
Thể hiện tình nghĩa của Thiên Chúa
Cảm nhận được Chúa vẫn trung thành với chúng ta bất chấp chúng ta như thế nào đó là nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa. Dù mình yếu và bất xứng, Chúa vẫn kiên trì dẫn dắt và không ngừng yêu mình: “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Từ đó, chúng ta dễ dàng thông cảm và đón nhận những thiếu sót hạn chế của người được trao phó cho chúng ta, kể cả những bất nhân bất nghĩa. Noi gương ḥesed của Thiên Chúa, Đấng “chậm giận và giàu tình nghĩa” (Xh 34,6), chúng ta được mời gọi kiên nhẫn với những người yếu đuối, cứng lòng[5].
Người khiêm tốn biết mình có lỗi thì dễ thông cảm người khác. Người không bao giờ nghĩ rằng mình có tội, mình sai, thì sẽ khó tha thứ cho người khác và sẽ đòi hỏi nhiều nơi người khác. Phêrô nhận rằng mình có lỗi, ĐGH Phanxicô thú nhận rằng “tôi là người có tội”. Người Pharisêu lên Đền thờ với thái độ kiêu căng; ông ta hay kết án người.
Kinh Đền tạ Trái tim cực thánh Đức Giêsu có câu:
Lạy Đức Chúa Giêsu rất nhân lành, Chúa đã yêu dấu loài người quá bội, mà loài người vô tình tệ bạc, lại còn khinh mạn dể duôi; nay chúng con sấp mình xuống trước bàn thờ Chúa, hết lòng thờ phượng cung kính, cho được đền vì những sự vô nhân bất nghĩa khắp thiên hạ hằng làm sỉ nhục Trái tim Chúa hay thương dường ấy.
Song le chúng con nhớ lại, xưa nay chúng con cũng đã lỗi nghĩa cùng Chúa như vậy, thì chúng con hết lòng ăn năn đau đớn, xin Chúa thương xót thứ tha…
Mục tử là nhân chứng của lòng thương xót (tình nghĩa): hiện diện giữa đời như dấu chỉ rằng Thiên Chúa không bỏ rơi ai. Ngày chịu chức thánh, chúng ta đã cam kết đặt hy vọng vào Thiên Chúa trung tín vĩnh cửu. Mừng kỷ niệm ngày chịu chức Linh mục không phải trước hết là vui mừng vì chúng ta đã trung thành với Chúa, nhưng đúng hơn là chúng ta xác tín vào sự bền vững của Thiên Chúa đối với chúng ta, bất chấp chúng ta như thế nào.
Tv 136 diễn tả tình nghĩa của Thiên Chúa dành cho dân Israel:
Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương/tình nghĩa (חֶסֶד ḥesed )
2Hãy tạ ơn Thần các thần,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
3Hãy tạ ơn Chúa các chúa,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. (…)
Tv 89 có điệp khúc: “Tình thương (ḥesed) Chúa đời đời con ca tụng” (Tv 89,2).
Đức cố Giáo hoàng Phanxicô đã giảng dạy: “Trung thành với Thiên Chúa sẽ không bao giờ làm con thất vọng.” [6] Cũng thế, nếu chúng ta sống trung tín, tình nghĩa … là chúng ta đã chạm đến được Thiên Chúa, vì bản chất Ngài là Trung tín.
Đức Hồng y Timothy Dolan đã chia sẻ trong buổi huấn giáo dành cho các linh mục: “Giáo dân không gọi chúng ta là ‘linh mục’, ‘kinh sư’, ‘thầy’, mà gọi là ‘cha’, và “cha” là một căn tính dựa trên bản chất, chứ không phải trên chức năng. (…). Chúng ta không chỉ trung thành với một công việc, một thừa tác vụ, một nghề nghiệp, một chức năng. Trung thành phát sinh từ một ý thức khiêm nhường, biết ơn, tin tưởng về căn tính linh mục của chúng ta. Chúng ta trung thành với một Ngôi Thiên Chúa, trung thành với Chúa Giêsu và Hiền thê của Ngài là Giáo hội. (…). Chức linh mục là một ơn gọi, chứ không phải là một nghề nghiệp; một tái xác định về chính mình, chứ không chỉ là một thừa tác vụ mới; một lối sống, chứ không phải một công việc; một tình trạng về bản chất, chứ không phải một chức năng; một sự dấn thân vĩnh viễn, suốt đời, chứ không phải một kiểu phục vụ tạm thời; một căn tính, chứ không chỉ là một vai trò…”[7]
Lm. Giacôbê Nguyễn Xuân Lành
—————————————
[1] Vietlex, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2011, tr. 1587.
[2] Song song với từ ḥesed, Cựu ước có từ emet (אֱמֶת). Hai từ này thường đi đôi với nhau và áp dụng cho Thiên Chúa. Từ thứ hai có nghĩa là sự thật, sự chính trực, thành tín.
[3] Bản dịch của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng vụ.
[4] Danh từ “nghĩa” (義): đạo đức, nguyên tắc hay lý tưởng mà một người phải tuân theo.
[5] Đó là cách thể hiện ḥesed cho những người bị gạt ra ngoài lề (nghèo khó, tội lỗi), như Thiên Chúa “đoái nhìn kẻ thấp hèn” (Tv 136,23). Khái niệm “người bị gạt ra ngoài lề” cũng nên được hiểu trong nghĩa văn hoá giáo dục, đó là những người thiếu tử tế với ta…
[6] Bài giảng trong Thánh lễ tại nhà nguyện Marta, ngày 22/11/2016.
[7] Timothy M. Dolan, Linh mục cho ngàn năm thứ ba, dịch bởi: Trần Đình Quảng, Nxb Tôn Giáo, 2009, tr.88-89.304.