Ngày 22.05: Thánh Tử đạo Micae Hồ Đình Hy (Quan Thái bộc)

21/05/2025

THÁNH MICAE HỒ ĐÌNH HY

Quan Thái bộc, Tử đạo (1808–1857)

Micae Hồ Đình Hy sinh năm 1808 tại làng Nhu Lâm, tỉnh Thừa Thiên, trong một gia đình quan chức nhỏ, bố tên là Giuse Hồ Đình Duyệt. Cậu là con út trong số 12 anh chị em. Từ nhỏ, cậu đã theo học các thầy đồ nho. Hình như cậu cũng biết đôi chút sinh ngữ Anh, Pháp. Năm 20 tuổi, anh kết hôn với cô Luxia Tân (gốc Sơn Công), sinh hạ được năm người con. Người con cả sau này đi tu, học tại chủng viện Pénang (Malaysia) rồi thụ phong linh mục là cha Giuse Hồ Đình Tính (qua đời tại Giáo xứ Ngọc Hồ năm 1891).

Trung thần của vua.

Khi tham gia quan trường lúc mới 19 tuổi, anh là thơ lại của bộ Công, hàng cửu phẩm. Dần dần vì thực hiện tốt mọi công tác trên giao, anh được thăng chức lên Tham tá, hàm Lục phẩm. Dưới triều vua Tự Đức, ông lên tới chức Thái bộc, hàm Tam phẩm, đặc trách ngành dệt tơ lụa vải vóc trong cả nước và đứng đầu mọi thợ dệt lụa của hoàng cung. Uy tín ông ngày càng lớn và được vua tín cẩn. Nhưng vì kiêm thêm việc lo các đền miếu, lăng mộ, địa điểm nơi vua đến dâng hy lễ, ông sợ mình dính vào các nghi thức dị đoan, nên đã có lần nhờ bạn tâu vua cho mình từ chức. Tự Đức trả lời: “Không thể cho ông ta nghỉ việc tơ lụa được, vì ông đã chu toàn trách nhiệm theo lương tâm. Trước đây chưa ai giữ chức ấy được hai năm cả. Cho đến nay, ta chưa có gì phải khiển trách ông ta. Có lẽ ta sẽ tăng lương cho xứng với việc của ông ấy nữa là khác.”

Dù làm quan dưới những triều vua bách hại đạo, quan Thái bộc không ngại tỏ ra mình là người Công giáo. Trong nhà (tại Thành nội, khu vực Cầu Kho [cầu gần kho lúa], Giáo xứ Tây Linh hiện thời), ông đặt bàn thờ Chúa nơi xứng đáng, thắp đèn trưng hoa mỗi ngày. Thế nhưng vì giao dịch với giới quan lại, ông chịu nhiều ảnh hưởng xấu và đã sa ngã một thời gian : quan hệ với một thiếu nữ trẻ, và sinh được ba đứa con ngoài giá thú. Để chuộc lại lỗi lầm, ông đã rửa tội và đưa chúng về nuôi nấng tử tế như con chính thức của mình. Ông cố gắng làm nhiều việc thiện để đền bù tội lỗi, xin Chúa tha thứ. Một hôm, ông tâm sự với bạn bè: “Tôi nghĩ dù lấy nước của các con sông trên địa cầu cũng không thể rửa sạch tội của mình được. Có lẽ chỉ có thể rửa sạch chúng bằng chính máu của tôi thôi.”

Nhân đây ta có thể nêu lại vài mẫu gương sống đạo và sám hối của ông trong đời:

– Có 12 người bị tố cáo lấy trộm kho lẫm nhà vua, đáng bị chém đầu theo luật. Quan Thái bộc can thiệp xin vua Tự Đức ân xá. Đến tạ ơn vị cứu tinh, những kẻ này đã dâng ông một số tiền kếch sù. Nhưng ông bảo họ: “Cầm tiền và đi ngay, bằng không tôi sẽ xin vua giao các anh cho đao phủ.” Nhiều người nghe chuyện phải thốt lên: “Chưa bao giờ chúng tôi thấy ai tốt như thế.” Những kẻ được ân xá không ngờ mình đã chạm đến đức thanh liêm của vị ân nhân.

– Một người khác nghiện thuốc phiện bị bệnh trầm trọng, và được giới thiệu đến nhà quan Thái bộc. Quan đón tiếp bệnh nhân rất thân tình, thu xếp cho ở trong căn lều phía sau nhà. Rồi mỗi ngày trước khi tới nhiệm sở và sau lúc trở về, quan Thái bộc đều ghé thăm hỏi và chăm sóc bệnh nhân. Khi có người trách, ông trả lời họ : “Phải làm nhiều việc thiện để đền bù tội lỗi chúng ta. Mà đã làm thì đừng máy móc qua lần chiếu lệ, phải làm với thiện ý, có thế mới lập được nhiều công phúc.” Và ông cứ tiếp tục săn sóc suốt 15 hôm, cho đến khi bệnh nhân qua đời. Ông còn tổ chức lễ an táng đương sự cách cẩn thận, chu đáo.

– Một người bà con quá nghèo, đành bán hai con gái nhỏ cho một kẻ ngoại đạo. Nghe biết chuyện, quan Hồ Đình Hy bỏ tiền ra chuộc lại hai cháu đem về nuôi nấng cho đến khi trưởng thành. Sau đó, với tất cả lòng quảng đại, ông đã đáp ứng ước nguyện của hai cô : một người xin đi tu, một người lập gia đình.

– Đức Cha François Pellerin Phan, Đại diện Tông tòa tiên khởi (1850-1860) của Giáo phận Bắc Đàng Trong (tức Giáo phận Huế hiện giờ)ueHueê, tỏ ra tín nhiệm ông và trao cho ông trọng trách hỗ trợ các Thầy giảng ở tỉnh Thừa Thiên ; sau đó lại ủy thác cho ông việc coi sóc mọi tài sản và cơ sở truyền giáo trong Giáo phận (1851). Với trách vụ mới (trùm hạt Giáo hạt Thừa Thiên[1]) ông đã quảng đại đóng góp nhiều tiền của, công sức cho Giáo Hội. Trước đó (khoảng năm 1848), một lần kia, Đức cha (khi ấy còn là phó của ĐGM Cuénot Thể) bí mật đi thăm các giáo hữu họ đạo Dương Sơn, có ông Hy tháp tùng, thuyền của ngài va chạm với một thuyền khác. Chủ thuyền lạ này đòi bồi thường. Vì không mang theo tiền, ông Hy liền cởi chiếc áo quý đang mặc, trao cho chủ thuyền đó, chỉ vì muốn bảo đảm an toàn cho vị chủ chăn.

Chứng nhân của Chúa.

Cuối tháng 9 năm 1856, khi tàu Catinat của Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng do bất thành trong sứ mạng được Napoléon III ủy thác là tới Việt Nam xin giao thương buôn bán và tự do cho đạo, thì hai tháng sau, quan Thái bộc Hồ Đình Hy bị bắt. Nguyên là có mấy viên quan xin loại lụa vượt quá phẩm hàm của mình và bị ông từ chối, nên ngày 8-11-1856 đã cùng nhau viết đơn tố cáo ông theo tả đạo, trái lệnh vua, đã gửi con theo cố đạo sang học ở Pénang, nghĩa là có giao thiệp với nước ngoài. Ông bị giam tại nhà tù Trấn Phủ (gần cửa Đông Ba).

Vua Tự Đức ra lệnh cho các quan tòa bằng mọi cách bắt ông nhận tội, đạp lên Thập giá và khai tên các linh mục thừa sai hoặc bản địa, và cả quan quân có đạo. Ông cương quyết không chối bỏ đức tin, nhưng vì bị tra tấn quá khốc liệt, ông lỡ lời nói tên một số tín hữu, do nghĩ rằng những người này đã trốn đi nơi khác. Nào ngờ “bứt dây động rừng”, dựa vào lời ông, triều đình bắt được 29 người. Trong đó 8 người xuất giáo, còn 21 người kiên trung với đức tin, dù bị khắc trên má chữ “Tả đạo” và phải lưu đầy. Cho rằng tất cả bị bắt là bởi mình, ông khóc lóc hối hận, xin Chúa tha tội, cầu họ thứ lỗi, và kiên quyết dùng chính máu mình để rửa sạch lỗi lầm đó.

Chính vua Tự Đức, sau nhiều phen sai bạn bè của quan Thái bộc đến dụ dỗ, cũng đã tự mình xét xử và khuyên ông giả bộ bước qua Thập giá. Ông thẳng thắn từ chối: “Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng hết lòng yêu nước và một dạ tôi trung. Hạ thần quyết cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô, đền bù tội lỗi và chết thánh thiện.” Trở về ngục, ông nói với bạn tù: “Tôi thấy đời tôi sắp chấm tận rồi, chỉ mong sao giữ vững được đức tin đến giờ phút cuối.”

Nên giống Thầy Chí Thánh.

Ngày 30-04-1857, vua kết án quan Hồ Đình Hy : “Khinh luật nước, theo tả đạo, lại gửi con đi học tại Tân Gia Ba (Singapore), thăm đạo trưởng Oai[2] và bàn chuyện với y về các tầu Pháp. Rõ ràng là đứa vô ơn, hai lòng, đáng chết nghìn lần. Ta truyền phải chém đầu làm gương.”

Vua còn ghi chi tiết phải xử thế nào : “Ta hạ lệnh cho 5 quan và 15 lính dẫn y đi vòng quanh Thành Nội 3 lần trong 3 ngày, đến mọi khu chợ và mọi quảng trường. Tại các nơi ấy, phải rao tội y lên cho dân biết : Hồ Đình Hy, kẻ theo tả đạo, phản bội hoàng thượng, bất hiếu với cha mẹ, chống lại luật vương quốc, vì thế y phải bị kết án tử hình. Bọn Gia-tô tin rằng chết như thế sẽ lên Thiên đàng. Điều đó đúng hay sai không ai biết. Giêsu của Hồ Đình Hy đâu rồi, sao thấy y chịu khổ mà không đến cứu?… Hơn nữa tại mỗi ngã tư, phải đánh y 30 trượng. Sau ba ngày như thế thì chém đầu y. Có thế bọn Gia-tô sẽ lấy làm tủi nhục mà lo sửa mình.”

Tháng 5 năm đó, vào những ngày 15, 18 và 21, quân lính đã thi hành lệnh vua: dẫn quan Thái bộc qua các nẻo đường Thành Nội, dừng lại đánh đòn ở hai nơi, tổng số 60 trượng mỗi ngày.

Sáng ngày 22-05, ông bị đưa ra pháp trường Cống Chém. Dân chúng tuốn đến xem rất đông. Dù lương hay giáo, họ bùi ngùi thương tiếc vị quan thanh liêm tốt bụng. Lúc qua khỏi cầu An Hòa, ông nói với quan quân: “Đi xa làm chi, ở đây tôi có nhiều bà con bạn hữu.” Thế là thay vì đến Cống Chém làng Đốc Sơ (như thánh Ximon Phan Đắc Hòa ngày 12-12-1840), ông được xử ngay tại chợ An Hòa, có Cha Anrê Nguyễn Văn Lành (gốc Da Môn, 1822-1851-1885) đi với mấy giáo dân Đốc Sơ đến cách kín đáo để giải tội cho ông.

Vì là một quan nổi tiếng, ông được dành cho chút đặc ân cuối cùng: Ông thong thả rửa chân tay, rồi ngồi xếp bằng trên chiếu, bình tĩnh hút hết một điếu thuốc. Sau đó, đứng lên, bình thản sửa soạn lại đầu tóc, y phục cho chỉnh tề rồi sốt sắng quỳ xuống cầu nguyện… Cuối cùng ông đưa đầu cho lý hình thi hành phận sự. Nước Trời đã mở sẵn cửa để đón linh hồn vị chứng nhân anh dũng.

Các Thánh Tử đạo đổ máu trên đất Đốc Sơ. Từ trái sang: Thánh Simon HoàThánh Anrê Trông, Thánh Phanxicô Trung, Thánh Giuse Thị và Thánh Micae Hy (Tượng tại Nhà thờ Đốc Sơ)

Thánh Giáo hoàng Piô X suy tôn quan Thái bộc Micae Hồ Đình Hy lên bậc Chân phước ngày 02-05-1909 và Thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II tôn phong lên Hiển thánh ngày 19-06-1988.

[1] Trùm hạt Giáo hạt Quảng Bình là ông Mát thêu Nguyễn Văn Phượng và Trùm hạt Giáo hạt Quảng Trị là ông PX Lê Thiện Thìn.

[2] Tên thật là Phaolô Trần Hữu Ninh, gốc Da Môn. Chịu chức xong, ngài đi hoạt động tại Thừa Thiên. Thỉnh thoảng ở Phủ Cam, nhiều nhất ở An Vân trong các nhà có đạo. Tháng 11-1856, ngài bị Thánh Micae Hồ Đình Hy vô ý khai với quan: cha Ninh có gởi thư cho vua Pháp. Thành ra ngài phải đổi tên Oai. Từ đó trốn ra Quảng Bình và ở luôn ngoài ấy đến khi qua đời.

Ban Biên tập Lịch sử và Ban Truyền thông TGP Huế